Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

CƠ sở lý LUẬN và THỰC TIỄN về kỹ NĂNG SỐNG của TRẺ KHUYẾT tật vận ĐỘNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.31 KB, 35 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
KỸ NĂNG SỐNG CỦA TRẺ KHUYẾT
TẬT VẬN ĐỘNG


Cơ sở lý luận
Trên thế giới.
Trên Thế giới, hiện có 650 triệu người đang phải sống
chung với nhiều dạng khuyết tật, người khuyết tật “nhóm
thiểu số lớn nhất trên thế giới”, thường phải đối mặt với
những rào cản khi tham gia vào mọi phương diện của xã hội.
Rào cản có thể được tạo dựng với rất nhiều hình thức, trong
đó có rào cản do pháp luật hoặc chính sách, hay từ thái độ
hoặc sự phân biệt đối xử của xã hội. Kết quả là người khuyết
tật gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với xã hội hoặc các
dịch vụ một cách bình đẳng, bao gồm giáo dục, việc làm,
chăm sóc y tế, giao thông, tham gia chính trị hay công lý,
ngăn cản sự phát triển kỹ năng sống cơ bản của mình. Công
ước Quốc tế về Quyền của người khuyết tật ghi nhận sự tồn
tại các rào cản đã tạo nên một bộ phận cấu thành chủ yếu của
sự khuyết tật. Chính vì thế đã có nhiều công trình nghiên cứu
và tìm hiểu về người khuyết tật và vấn đề kỹ năng sống.
Chương trình giáo dục kỹ năng sống được đề cập cứu từ
nững năm 90 của thế kỷ XX. Trước tiên là chương trình “giáo
dục những giái trị sống” của UNICEF, trong chương trình này


thuật ngữ “kỹ năng sống” đã xuất hiện. Những nghiên cứu về
kỹ năng sống trong giai đoạn này mong muốn thống nhất
được quan niệm chung về kỹ năng sống và đã đưa ra được
một bảng danh mục gồm 12 giá trị cơ bản cần giáo dục cho


thế hệ trẻ, đó là hợp tác tự do, hạnh phúc, trung thực, khiêm
tốn, tình yêu, hòa bình, tôn trọng, trách nhiệm, giản dị, khoan
dung và đoàn kết.
Caroline Haddad và Pongsuda Vongsingha biên soạn
cuốn sách“Giảng dạy cho trẻ khuyết tật trong môi trường hòa
nhập” để giúp độc giả có thể xác định và loại bỏ thành công
các rào cản đối với việc học tập, phát triển, và sự tham gia mà
nhiều trẻ em khuyết tật đang phải đối mặt. Cuốn sách không
bỏ qua những khả năng của trẻ em khuyết tật; tuy nhiên, trọng
tâm chính của nhóm tác giả trong tập sách này là cung cấp
thông tin toàn diện về một số những dạng khuyết tật khác
nhau, cũng như cách thức làm thế nào để cha mẹ, giáo viên và
các nhà quản lý giáo dục có thể đáp ứng nhu cầu của trẻ em
khuyết tật một cách hiệu quả. Sau các nội dung về chuyên
môn, nhóm tác giả sẽ liệt kê một số lời khuyên thiết thực để
giảng dạy trẻ em với những khuyết tật khác nhau trong môi
trường giáo dục hòa nhập. Trẻ em khuyết tật không phải là


một nhóm đồng nhất mà “một giải pháp sẽ phù hợp với tất
cả”. Do đó, điều quan trọng là chúng ta phải tìm kiếm các
chiến lược khác nhau để tìm ra những phương pháp phù hợp
nhất cho mình, và cho những học sinh trong lớp học của
mình. [3;43]
Hội thảo diễn đàn khuyết tật Asean với chủ đề "khuyết
tật hòa nhập phát triển bền vững, hòa bình và dân chủ" tại
Yangon, Myanmar, Hội nghị đã đưa ra những vấn đề về các
quan điểm nhân quyền của người khuyết tật trong ASEAN,
các chiến lược phát triển phù hợp với ưu tiên bao gồm cả thập
kỷ của người khuyết tật liên quan đến kinh tế, giao thông vận

tải, cơ sở hạ tầng, dịch vụ và cơ hội bình đẳng trong giáo dục,
y tế và việc làm. Các nội dung trên được thảo luận rất chi tiết
dựa trên Công ước về Quyền của Người khuyết tật (CRPD) và
Chương trình Phát triển (SDGS). (Nguồn: công ước về quyền
của người khuyết tật - Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua
ngày 13/3/2007)
Tại Việt Nam.
Ở Việt Nam vấn đề về trẻ khuyết tật nói chung và việc
phát triển kỹ năng sống cho trẻ khuyết tật vận động nói riêng


đã thu hút nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu như
tâm lý học, giáo dục học, y học… Vấn đề giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ trở thành một nhiệm vụ quan trọng trong giáo
dục. Có nhiều các trung tâm nuôi dạy trẻ khuyết tật ra đời, các
bệnh viện được mở ra nhằm can thiệp cho trẻ khuyết tật, đội
ngũ nhân viên công tác xã hội dày dặn kinh nghiệm, nhiệt
huyết với nghề. Ngoài ra, các trường học được mở ra có các
lớp học chăm sóc - giáo dục trẻ khuyết tật là những điều kiện
thuận lợi cho các nghiên cứu này.
Tiến sĩ Đàm Hữu Đắc (Thứ trưởng Bộ LĐ - TB & XH)
với bài viết “Người khuyết tật Việt Nam ngày càng hòa nhập
cộng đồng” đã nêu rõ: nhờ sự hỗ trợ vật chất và nhiều văn bản,
quy định, hướng dẫn ưu tiên, NKT luôn vươn lên, vượt lên tật
nguyền để sống bình đẳng, độc lập, đóng góp trên nhiều lĩnh
vực kinh tế, xã hội, văn hóa nghệ thuật, thể thao trong nước và
quốc tế. [5]
“Chuyên đề Giáo dục kỹ năng sống” của TS. Nguyễn
Thanh Bình cùng đã đề cập tới các kĩ năng sống, việc giáo
dục kỹ năng giáo dục kỹ năng sống, tiếp cận kỹ năng sống

trong giáo dục của mỗi người. [1]


Nhìn chung, tại Việt Nam đã có một số công trình nghiên
cứu về chăm sóc, giáo dục cho TKT theo dạng cung cấp các
cơ sở vật chất, dạy học hòa nhập mà chưa có đề cập sâu sắc
đến vấn đề KNS và hỗ trợ KNS cho TKT. Chưa có công trình
nghiên cứu nào hỗ trợ theo hướng CTXH để nâng cao KNS
cho TKT. Vì vậy, có thể nói đề tài mà tôi đang nghiên cứu có
những hướng đi mới so với các đề tài trước đó. Đây cũng sẽ là
tài liệu hữu ích cho các sinh viên khóa sau tiếp tục phát triển
nghiên cứu thêm về các đối tượng yếu thế khác.
Lý luận về kỹ năng sống cho trẻ khuyết tật.
Khái niệm khuyết tật.
Định nghĩa người khuyết tật theo Luật:
Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc
nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu
hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp
khó khăn. [25]
Đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 định
nghĩa người khuyết tật là người có sự suy yếu về thể chất hay
tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt
động quan trọng trong cuộc sống. Cũng theo ADA những ví
dụ cụ thể về khuyết tật bao gồm khiếm khuyết về vận động,


thị giác, nói và nghe, chậm phát triển tinh thần, bệnh cảm xúc
và những khiếm khuyết cụ thể về học tập, bại não, động kinh,
teo cơ, ung thư, bệnh tim, tiểu đường, các bệnh lây và không
lây như bệnh lao và bệnh do HIV (có triệu chứng hoặc không

có triệu chứng).
Tổ chức Y tế Thế giới, chia ra 3 cấp độ:
Khiếm khuyết:chỉ tình trạng bị mất hoặc tình trạng bất
bình thường một hay các bộ phân cơ thể hoặc chức năng tâm
sinh lý.
Giảm khả năng:là tình trạng giảm hoặc mất khả năng lao
động do khiếm khuyết gây ra; hạn chế hoặc mất chức năng
(vận động, nghe, nhìn, nói hoặc giao tiếp).
Tàn tật: là những thiệt thòi mà một người phải chịu do bị
khuyết tật. Hậu quả của sự tương tác giữa một cá nhân bị
khiếm khuyết hoặc giảm khả năng với những rào cản trong
môi trường xã hội, văn hóa hoặc vật chất, làm cho cá nhân
này không thể tham gia một cách bình đẳng vào cuộc sống
cộng đồng chung hoặc hoàn thành một vai trò bình thường.
Theo Luật người khuyết tật Việt Nam do Quốc hội ban
hành năm 2010 thì: người khuyết tật là người bị khiếm khuyết
một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng


được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt,
học tập gặp khó khăn.
Trong đề tài này tôi hiểu một cách đơn giản người
khuyết tật là những người đã được cấp giấy chứng nhận
khuyết tật và được hưởng trợ cấp hàng tháng theo quy định
của Chính phủ.
Các mức độ và dạng tật
Luật Người khuyết tật Việt Nam do Quốc hội ban hành
năm 2010 quy định các mức độ và dạng tật như sau:
Người khuyết tật được chia theo 3 mức độ khuyết tật:
Người khuyết tật đặc biệt nặng.

Người khuyết tật nặng.
Người khuyết tật nhẹ.
Khái niệm khuyết tật vận động.
Định nghĩa về người khuyết tật vận động.
Khuyết tật vận động là tình trạng giảm hoặc mất chức
năng cử động đầu, cổ, chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế
trong vận động, di chuyển.
Khuyết tật vận động bao gồm một loạt các dạng khuyết
tật như mất chi, liệt nửa người, rối loạn thần thần kinh cơ, teo


cơ.
Những người mang dạng tật này thường phải sử dụng
các thiết bị trợ giúp như xe lăn, nạng, gậy, chân tay giả để có
thể di chuyển và thực hiện các họat động thường ngày.
Khuyết tật vận động có thể là bẩm sinh, hoặc cũng có thể là
do hậu quả của biến chứng một số bệnh như tai biến mạch
máu não, đa sơ cứng, bại não hoặc do phải cắt cụt chi bởi tai
nạn. (Khái niệm khuyết tật vận động của Trường ĐH Bang
California ở Northridge, nước Mỹ. Được đưa ra trong cuốn “
People with disablilities in the workplace”)
Nguyên nhân dẫn đến khuyết tật vận động:
Những nguyên nhân do môi trường sống như:
Đói nghèo, suy dinh dưỡng, bệnh tật không được phát
hiện và chữa trị, phục hồi chức năng kịp thời.
Ô nhiễm và suy thoái môi trường, thiên tai.
Chấn thương do tai nạn, rủi ro ( khi tham gia giao thông,
trong lao động, trong sinh hoạt hay hoạt động thể thao)
Hậu quả của chiến tranh, bạo lực.
Những nguyên nhân do xã hội:

Mù chữ và thiếu thông tin, thiếu hiểu biết về các dịch vụ
y tế sẵn có,do không theo dõi hoặc không có tiếp cận với
thông tin sự bất lực của y học và khoa học kĩ thuật.
Đô thị hóa, dân số tăng, di cư.
Kết hôn trực hệ.


Những nguyên nhân do bẩm sinh và trong khi sinh:
Di truyền: lỗi nhiễm sắc thể, lỗi gen gây dị tật bẩm sinh
hoặc rối loạn do nhiều yếu tố.
Nguyên nhân trong khi sinh: thiếu oxy, vấn đề này xuất
hiện do nhau thai, thời gian sinh quá lâu, trẻ không thở hoặc
không khóc ngay sau khi sinh, lây nhiễm trong khi sinh và đẻ
non.
Khái niệm kỹ năng và kỹ năng sống.
Khái niệm kỹ năng.
Có nhiều tác giả trong nước và ngoài nước đã đưa ra
những quan niệm khác nhau về kỹ năng. Với mỗi quan niệm,
với mỗi cách nhìn khác nhau, các tác giả đã cố gắng minh
chứng một cách sinh động nhất về khái niệm kỹ năng.
Tác giả Trần Trọng Thùy quan niệm kỹ năng là mặt kỹ
thuật của hành động, con người nắm được cách hành động tức
là có kỹ thuật hành động, có kỹ năng. [16; 49]
Tác giả Huỳnh Văn Sơn cho rằng là khả năng thực hiện
có kết quả của một hành động nào đó bằng cách vận dụng
những tri thức, những kinh nghiệm đã có để hành động phù
hợp với những điều kiện cho phép. [14; 6]
Khái niệm kỹ năng sống:



Quan niệm của “Tổ chức văn hóa - khoa học và giáo dục
của Liên hợp quốc” (UNESCO) cho rằng: kỹ năng sống là
năng lực cá nhân giúp cho việc thực hiện đầy đủ các chức
năng và tham gia cuộc sống hằng ngày.
Quan niệm của “Tổ chức Y tế thế giới” (WHO) coi kỹ
năng sống là những kỹ năng tâm lý xã hội và kỹ năng giao
tiếp được vận dụng trong những tình huống hằng ngày để giải
quyết có hiệu quả với người khác.
Trên cơ sở những quan điểm trên của các tác giả về kỹ
năng sống, cá nhân tôi cho rằng: kỹ năng sống là những hành
vi mà con người thể hiện để ứng phó với những tình huống
diễn ra trong đời sống dựa trên những phẩm chất tâm lý cơ
bản của nhân cách và kinh nghiệm của cá nhân.
Một số kỹ năng sống cần thiết cho trẻ khuyết tật.
Phần đông TKT yếu kém về các KNS như: kỹ năng tự
phục vụ, kỹ năng tự nhận thức bản thân, kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng chia sẻ hợp tác, kỹ năng kết bạn, kỹ năng thể
hiện sự tự tin, kỹ năng quản lý cảm xúc. Đưới đây là 4 kỹ
năng sống cấp thiết mà các em khuyết tật cần được rèn luyện


nhằm phục vụ bản thân và các sinh hoạt thường ngày mà tác
giả trọng tâm nghiên cứu:
Kỹ năng tự phục vụ.
Kỹ năng tự phục vụ là một trong số kỹ năng quan trọng
nhất mà mỗi cá nhân cần phải học. Kỹ năng tự phục vụ gồm
có mặc quần áo, chải đầu, vệ sinh, ăn uống và tắm - đó là
những kỹ năng sớm, những kỹ năng tuy cơ bản nhưng rất
quan trọng trong cuộc sống của mỗi người.
Trẻ khuyết tật vận động là một đối tượng của công tác xã
hội mà tôi cho rằng cần phải trang bị cho các em kỹ năng tự

phục vụ càng sớm càng tốt. Có những em tùy thuộc vào dạng
khuyết tật và mức độ khuyết tật mà kỹ năng tự phục vụ bản
thân thực hiện được ở mức độ khác nhau. Kỹ năng tự phục vụ
giúp cho các em khuyết tật biết cách tự phục vụ, chăm sóc
cho bản thân. Trên cơ sở vận dụng những kiến thức đã được
học, kỹ năng tự phục vụ giúp các em không còn tính ỉ lại,
trông chờ vào sự giúp đỡ của người khác, bước đầu rèn luyện
cho các em khả năng tự lập để sau này dễ thích nghi với môi
trường sống mới.
Kỹ năng tự nhận thức bản thân.


Tự nhận thức là tự mình nhìn nhận, tự đánh giá về bản
thân.Kĩ năng tự nhận thức là khả năng con người hiểu về
chính bản thân mình, như cơ thể, tư tưởng, các mối quan hệ
xã hội của bản thân; biết nhìn nhận, đánh giá đúng về tiềm
năng, tình cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm yếu,…
của bản thân mình; quan tâm và luôn ý thức được mình đang
làm gì, kể cả nhận ra lúc bản thân đang cảm thấy căng thẳng.
Tự nhận thức là một KNS rất cơ bản của con người, là
nền tảng để con người giao tiếp, ứng xử phù hợp và hiệu quả
với người khác cũng như để có thể cảm thông được với người
khác. Ngoài ra, có hiểu đúng về mình, con người mới có thể
cớ những quyết định, những sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp
với khả năng của bản thân, với điều kiện thực tế và yêu cầu xã
hội. Ngược lại, đánh giá không đúng về bản thân có thể dẫn
con người đến những hạn chế, sai lầm, thất bại trong cuộc
sống và trong giao tiếp với người khác.
Để tự nhận thức đúng về bản thân cần phải được trải
nghiệm qua thực tế, đặc biệt là giao tiếp với người khác. Trẻ

khuyết tật vận động cần được nâng cao rèn luyện về kỹ năng
tự nhận thức bản thân để các em có thể nhìn nhận, đánh giá


đúng những năng lực của mình, phát huy các điểm mạnh của
bản thân và tự tin vươn lên trong cuộc sống, tránh tình trạng
các em tự ti vào khiếm khuyết của bản thân.
Kỹ năng kết bạn.
Bao gồm việc làm quen, nói lời cám ơn, đưa ra lời bình
phẩm, tiếp nhận lời khen, tiếp nhận lời bình phẩm, tham gia
vào hoạt động của nhóm, bắt tay vào làm việc với mọi người
và giúp đỡ người khác
Nâng cao kỹ năng kết bạn cho trẻ khuyết tật lứa tuổi 10
đến 12 mang ý nghĩa rất thực tế. Đây là lứa tuổi mà các em
đang phát triển các mối quan hệ bạn bè. Việc nâng cao kỹ
năng sống cho các em không chỉ góp phần mở rộng thêm mối
quan hệ tình bạn mà còn giúp các em học hỏi lẫn nhau, chia
sẻ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống. Ở lứa tuổi
này,thay vì chia sẻ với cha mẹ thì các em lại có những mối
quan hệ bạn bè thân thiết chia sẻ với nhau những thắc mắc,
thầm kín hơn. Chính vì thế, nâng cao kỹ năng kết bạn giúp
các em vượt qua được hàng rào mặc cảm, lựa chọn cho mình
những tình bạn để giao lưu để học hỏi.


Kỹ năng giao tiếp - ứng xử.
Là những kỹ năng giúp bản thân trẻ có thể cư xử một
cách đúng đắn nhất trước những sự việc diễn ra xung quanh
trẻ, có thể là bố mẹ, bạn bè, thầy cô giáo hoặc người lạ, cũng
có thể là một hiện tượng hay một sự vật nào đó. Các kỹ năng

thuộc nội dung ứng xử trong một số tình huống khó xử bao
gồm: đưa ra lời khen, đưa ra lời phê phán, chấp nhận lời từ
chối, tiếp nhận sự phê phán, làm theo chỉ dẫn, ứng xử trước
sự trêu trọc, phản đối lại việc gây sức ép từ phía bạn bè và
biết xin lỗi.
Như vậy, hoạt động nhận thức của trẻ khuyết tật nói
chung và ở các dạng khuyết tật khác của trẻ nói riêng là một
trong những yếu tố hết sức quan trọng trong quá trình dạy kỹ
năng sống cho đối tượng. Quá trình dạy cần tính đến những
đặc điểm hết sức đặc trưng của từng dạng trẻ khuyết tật để từ
đó có những nội dung, phương pháp, hình thức nâng cao kỹ
năng sống nhằm đạt hiệu quả tối ưu. Hướng tiếp cận đa giác
quan, điều chỉnh nội dung dạy học phù hợp với trình độ nhận
thức của trẻ, tổ chức hoạt động nhận thức theo các hình thức
đa dạng đang là xu thế và yêu cầu trong quá trình dạy kỹ năng


sống nói chung cũng như dạy kỹ năng sống cho trẻ khuyết tật
hiện nay.
Lý luận về công tác xã hội.
Khái niệm công tác xã hội.
Đã có rất nhiều cá nhân hay tổ chức nêu lên khái niệm
về công tác xã hội, dưới đây là một vài khái niệm chính:
Theo Hiệp hội Quốc gia Nhân viên Công tác xã hội
(NASW) Công tác xã hội là hoạt động nghề nghiệp giúp đỡ
các cá nhân, nhóm hay cộng đồng nhằm nâng cao hay khôi
phục tiềm năng của họ đề giúp họ thực hiện chức năng xã hội
và tạo ra các điều kiện xã hội phù hợp với các mục tiêu của
họ. Công tác xã hội tồn tại để cung cấp các dịch vụ xã hội
mang tính hiệu quả và nhân đạo cho cá nhân, gia đình, nhóm,

cộng đồng và xã hội giúp họ tăng năng lực và cải thiện cuộc
sống.
Theo từ điển Bách khoa ngành công tác xã hội : công tác
xã hội là một khoa học ứng dụng nhằm tăng cường hiệu quả
hoạt động của con người, tạo ra những chuyển biến xã hội và
đem lại nền an sinh cho người dân trong xã hội.


Từ việc nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của
công tác xã hội trên cả phương diện lý thuyết và thực hành,
khoa học nghề nghiệp chuyên môn, tiếp thu các giá trị , phân
tích các định nghĩa, các quan niệm của các học giả, các tổ
chức, hiệp hội chuyên ngành ở trong và ngoài nước, có thể
đưa ra một định nghĩa chung và khía quát về công tác xã hội
dưới đây:
Công tác xã hội là hoạt động chuyên nghiệp được thực
hiện dựa trên nền tảng khoa học chuyên ngành nhằm hôc trợ
đối tượng có vấn đề xã hội(cá nhân, nhóm, cộng đồng) giải
quyết vấn đề gặp phải, cải thiện hoàn cảnh, vươn lên hòa
nhập xã hội theo hướng tích cực, bền vững.[9; 5]
Khái niệm nhân viên công tác xã hội.
Ở Việt Nam, người làm CTXH được biết đến phổ biến
muộn hơn (từ sau năm 2000) nhưng tương đối thống nhất với
tên gọi NV CTXH và được gọi tắt là Nhân viên xã hội.
Nhân viên xã hội là những người có trình độ chuyên
môn, được trang bị kiến thức, kĩ năng về công tác xã hội
chuyên nghiệp và sử dụng kiến thức, kĩ năng đó trong quá
trình tác nghiệp trợ giúp đối tượng (cá nhân, gia đình, nhóm,



cộng đồng) có vấn đề xã hội giải quyết vấn đề gặp phải, vươn
lên trong cuộc sống.[10; 102].
Vai trò của nhân viên công tác xã hội.
Vai trò của CTXH là can thiệp vào cuộc sống của cá
nhân, gia đình, nhóm người có cùng vấn đề, cộng đồng và các
hệ thống xã hội nhằm hỗ trợ thân chủ đạt được sự thay đổi về
mặt xã hội, giải quyết các vấn đề trong các mối quan hệ với
con người và để nâng cao an sinh xã hội. Để đạt được các
điều này, ngành CTXH phải thực hiện các nhiệm vụ tham vấn,
trị liệu, giáo dục, thương lượng, hòa giải, hỗ trợ, hoạch định
và nghiên cứu. Tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, mà
NVCTXH sẽ phối hợp thực hiện các nhiệm vụ trên cũng như
chọn phương pháp thực hiện phù hợp.
Theo quan điểm của Feyerico (1973) người NV CTXH
có những vai trò sau đây:
Vai trò là người vận động nguồn lực: là người trợ giúp
thân chủ (cá nhân, gia đình, cộng đồng) tìm kiếm nguồn lực
(nội lực, ngoại lực) cho giải quyết vấn đề. Nguồn lực có thể
bao gồm về con người, về cơ sở vật chất, về tài chính, kỹ


thụật, thông tin, sự ủng hộ về chính sách, chính trị và quan
điểm...
Vai trò là người kết nối: NVCTXH là người có được
những thông tin về các dịch vụ, chính sách và giới thiệu cho
thân chủ các chính sách, dịch vụ, nguồn tài nguyên đang sẵn
có từ các cá nhân, cơ quan tổ chức để họ tiếp cận với những
nguồn lực, chính sách, tài chính, kỹ thuật để có thêm sức
mạnh trong giải quyết vấn đề.
Vai trò là người biện hộ: là người bảo vệ quyền lợi cho

thân chủ để họ được hưởng những dịch vụ, chính sách, quyền
lợi của họ đặc biệt trong những trường hợp họ bị từ chối những
dịch vụ, chính sách lẽ ra họ được hưởng.
Vai trò là người giáo dục: là người cung cấp kiến thức kỹ
năng liên quan tới vấn đề họ cần giải quyết, nâng cao năng lực
cho cá nhân, gia đình, nhóm hay cộng đồng qua tập huấn,
giáo dục cộng đồng để họ có hiểu biết, tự tin và tự mình nhìn
nhận vấn đề đánh giá vấn đề phân tích và tìm kiếm nguồn lực
cho vấn đề cần giải quyết.
Vai trò người tạo sự thay đổi: người NVCTXH được
xem như người tạo ra sự thay đổi cho cá nhân, giúp họ thay
đổi suy nghĩ, thay đổi hành vi tiêu cực hướng tới những suy
nghĩ và hành vi tốt đẹp hơn.


Vai trò là người tham vấn: NVCTXH trợ giúp gia đình và
cá nhân tự mình xem xét vấn đề, và tự thay đổi. Ví dụ như
NVCTXH tham gia tham vấn giúp trẻ em bị xâm hại tình dục
hay phụ nữ bị bạo hành vượt qua khủng hoảng.
Vai trò là người chăm sóc, người trợ giúp: NVCTXHcòn
được xem như người cung cấp các dịch vụ trợ giúp cho những
cá nhân, gia đình không có khả năng tự đáp ứng được đầy đủ
nhu cầu của mình và giải quyết vấn đề.
Người tìm hiểu, khám phá cộng đồng: NVCTXH đi vào
cộng đồng để xác định vấn đề của cộng đồng để đưa ra những
kế hoạch trợ giúp,theo dõi, giới thiệu chuyển giao những dịch
vụ cần thiết cho các nhóm thân chủ trong cộng đồng.
- Các lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu.
- Lý thuyết hệ thống
Nội dung.

Đại biểu của lý thuyết này là Talcott Parsons (Mỹ 1902-1979).
Đây là một thuyết sinh học cho rằng, mọi tổ chức hữu cơ
đều là những hệ thống, được tạo nên từ các tiểu hệ thống và
ngược lại cũng là một phần của hệ thống lớn hơn. Từ đây, các


nguyên tắc của lý thuyết này được chuyển sang việc giải
quyết những vấn đề của những chuyên ngành khác, trong đó
có các ngành khoa học xã hội. Tiểu hệ thống trong hệ thống là
hệ thống thứ cấp hoặc hệ thống hỗ trợ. Có thể coi đó là những
hình thức nhỏ hơn trong hệ thống lớn. Một cá nhân được xem
là một hệ thống vi mô. Hệ thống vi mô có ba tiểu hệ thống: hệ
thống tâm lý, hệ thống sinh học và hệ thống hành vi.
Về cách tiếp cận, chủ yếu lý thuyết được tiếp cận ở hai
góc độ: Hệ thống rộng và hệ thống hẹp:
Lý thuyết hệ thống rộng: Parsons cho rằng, trong thế
giới chúng ta đang sống có một số lượng lớn các xã hội, mỗi
xã hội lại có tính độc lập riêng; nhưng chúng nằm cạnh nhau,
tương tác lẫn nhau tạo thành một hệ thống xã hội rộng lớn.
Lý thuyết hệ thống hẹp: Theo Parsons, khi xem xét hệ
thống lớn cần tìm hiểu xem nó có bao nhiêu hệ thống con cơ
bản. Hệ thống con bao gồm hệ thống con vật chất và hệ thống
con chức năng. Hệ thống con vật chất là hệ thống tự nhiên
mang tính sơ cấp. Hệ thống con chức năng là những tổ chức
chính trị, xã hội được lập ra để giải quyết các mục tiêu nhất
định của xã hội.
Vận dụng.


Hệ thống sinh thái cung cấp cho chúng ta những kiến

thức quan trọng về sự đa dạng của con người cũng như mối
quan hệ giữa con người và môi trường của họ. Hệ thống con
người được coi như là thực thể văn hóa tâm lý … đưa ra
những khả năng vô tận trong việc xây dựng những hiểu biết
và sự thay đổi. Đó là những yếu tố tác động đến khả năng tiếp
nhận và thực hành kỹ năng sống của trẻ những yếu tố đó có
thể là giáo viên, gia đình và bạn bè.
Mặt khác giữa trẻ khuyết tật và những phương pháp
giảng dạy kỹ năng sống của người làm xã hội tại trung tâm có
mối quan hệ với nhau trong quá trình dạy và học. Trẻ học tập
tại trung tâm và từ đó, tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm, kỹ
năng từ các giáo viên. Và chính cách giảng dạy này hay rộng
hơn là môi trường xã hội sẽ là nơi giúp trẻ khuyết tật vận
dụng những kiến thức tiếp thu được vào thực tiễn. Nếu có quá
trình học tập, nhận thức tốt tại trung tâm thì trẻ sẽ gặp thuận
lợi hay đạt kết quả tốt trong quá trình thực hành và ngược lại.
Các phương pháp giảng dạy giúp trẻ có sự so sánh, học tập
được sự khác biệt giữa lý thuyết và thực tế.
- Lý thuyết nhu cầu


Nội dung.
Để tồn tại, con người cần phải được đáp ứng các nhu cầu
thiết yếu cơ bản cần cho sự sống như: ăn, mặc, nhà ở và chăm
sóc y tế,….Để phát triển, con người cần được đáp ứng các
nhu cầu cao hơn như: nhu cầu được an toàn, được học hành,
được yêu thương, được tôn trọng và khẳng định. Sự vận động
và phát triển của xã hội loài người nhằm mục đích đáp ứng
ngày càng cao các nhu cầu của con người. Việc đáp ứng các
nhu cầu con người chính là động cơ thúc đẩy con người tham

gia hoạt động sản xuất, hoạt động xã hội.
Theo Maslow, ông chia nhu cầu con người (Nhu cầu sinh
học và nhu cầu xã hội) thành 5 thang bậc từ thấp đến cao:


- Tháp nhu cầu Maslow
Nhu cầu sinh lý: Đây là nhu cầu cơ bản để duy trì cuộc
sống của con người như nhu cầu ăn uống, ngủ, nhà ở, sưởi ấm
và thoả mãn về tình dục.
Nhu cầu về an toàn hoặc an ninh:
An toàn sinh mạng là nhu cầu cơ bản nhất, là tiền đề cho
các nội dung khác như an toàn lao động, an toàn môi trường,
an toàn nghề nghiệp, an toàn kinh tế, an toàn ở và đi lại, an
toàn tâm lý, an toàn nhân sự,…
Nhu cầu được thừa nhận và yêu thương:
Nhu cầu này bắt nguồn từ những tình cảm của con người
đối với sự lo sợ bị cô độc, bị coi thường, bị buồn chán, mong
muốn được hòa nhập, lòng tin, lòng trung thành giữa con
người với nhau.
Nhu cầu được tôn trọng:
Nội dung của nhu cầu này gồm hai loại: Lòng tự trọng
và được người khác tôn trọng.


Lòng tự trọng bao gồm nguyện vọng muồn giành được
lòng tin, có năng lực, có bản lĩnh, có thành tích, độc lập, tự
tin, tự do, tự trưởng thành, tự biểu hiện và tự hoàn thiện.
Nhu cầu được người khác tôn trọng gồm khả năng giành
được uy tín, được thừa nhận, được tiếp nhận, có địa vị, có
danh dự,… Tôn trọng là được người khác coi trọng, ngưỡng

mộ. Khi được người khác tôn trọng cá nhân sẽ tìm mọi cách
để làm tốt công việc được giao. Do đó nhu cầu được tôn trọng
là điều không thể thiếu đối với mỗi con người.
Nhu cầu phát huy bản ngã:
Maslow xem đây là nhu cầu cao nhất trong cách phân
cấp về nhu cầu của ông. Đó là sự mong muốn để đạt tới, làm
cho tiềm năng của một cá nhân đạt tới mức độ tối đa và hoàn
thành được mục tiêu nào đó.
Nội dung nhu cầu bao gồm nhu cầu về nhận thức (học
hỏi, hiểu biết, nghiên cứu,…) nhu cầu thẩm mỹ (cái đẹp, cái
bi, cái hài,…), nhu cầu thực hiện mục đích của mình bằng khả
năng của cá nhân. [19; 20]
Vận dụng.


×