Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

tiểu luận đường lối cách mạng đảng cs việt nam 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.34 KB, 28 trang )

Lời mở đầu:
- Nền kinh tế ở nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế đó có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân. Đảng và
Nhà nước chủ trương khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển. Tuy nhiên, trên thực
tế kinh tế tư nhân chưa phát triển hết tiềm năng của nó. Điều này có nhiều nguyên
nhân, trong đó có nguyên nhân ở chỗ, nhiều người chưa nhận thức và vận dụng
đúng quan điểm của Đảng về vai trò động lực của kinh tế tư nhân; họ quan niệm
sai lầm rằng về bản chất các doanh nghiệp tư nhân hoạt động chỉ vì lợi nhuận của
mình. Từ nhận thức như vậy, họ đã đặt ra những rào cản đối với kinh tế tư nhân.
Đương nhiên thực tiễn sẽ tự vạch đường đi cho mình, kinh tế tư nhân sẽ vượt qua
những những rào cản đó, nhưng để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ
hơn với tất cả tiềm năng của nó thì về lý luận chúng ta cần làm rõ vai trò động lực
của kinh tế tư nhân, làm cho những người còn kỳ thị với kinh tế tư nhân phải thay
đổi

quan

điểm



thái

độ

ứng

xử

với


kinh

tế



nhân.

- Kinh tế tư nhân không chỉ có tiếng nói quyết định đến sức mạnh kinh tế của hầu
hết các quốc gia mà còn trở thành 1 lực lượng kinh tế có ý nghĩa chính trị toàn cầu.
Ở Việt Nam kinh tế tư nhân càng có vai trò quan trọng trong việc hình thành kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa . Phát triển kinh tế cũng có nghĩa là bảo
tồn tính đa dạng phong phú của đời sống kinh tế, xem nó như nguồn gốc của sự
phát

triển.

- Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa
vấn đề phát triển kinh tế nhiều thành phần được đặt ra như 1 yêu cầu tất yếu đối
với nền kinh tế Việt Nam. Kinh tế tư nhân ở Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn
phát triển khác nhau nhưng nó có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của
nước ta. Cùng với chủ trương chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị
trường, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương chính sách để


phát triển các thành phần kinh tế trong đó có nền kinh tế. Đối với nước ta, kinh tế
là thành phần non trẻ đang phải đối diện với nhiều thách thức, khó khăn. Có nhiều
khó khăn, chính sách, môi trường đầu tư và cách thức tổ chức quản lý của nhà
nước và xã hội đang là trở ngại cho sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế.
- Thành phần kinh tế ở Việt Nam từ khi hình thành và phát triển đến nay đã có rất

nhiều đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước
thời cơ của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa phấn đấu trở thành 1 nước có
nền kinh tế phát triển trong khu vực và trên thế giới, vì thế chúng ta đang xây dựng
nền kinh tế nhiều thành phần , coi kinh tế như 1 động lực phát triển cơ bản, là 1
hướng đi đúng đắn. Kinh tế tư nhân Việt Nam đã phát triển và có vai trò quan trọng
trong kinh tế nước ta nhưng vẫn còn nhiều hạn chế chưa được phát triển xứng với
tiềm năng vốn có của nó . Chính vì vậy nhóm em đã chọn đề tài : xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường gắn với kinh tế tư nhân.

I.Lý luận chung
* Quan niệm về kinh tế:
- Một trong những nội dung có tầm quan trọng hàng đầu trong đường lối
đổi mới của Đảng là phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó có kinh tế.
Đại hội IX đã khẳng định kinh tế tư bản tư nhân là một trong sáu thành plhần
kinh tế của nước ta. Đây cũng là đặc trưng quan trọng của cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì không có kinh tế nhà nước sẽ không có
định hướng xã hội chủ nghĩa, không có nền kinh tế sẽ không có nền kinh tế
thị trường.
- Tuy nhiên cho đến nay, chưa có một cơ quan chính trị nào, một cơ quan
chức năng nào xác định như thế nào là tư bản tư nhân. Ngay cả Tổng cục thống
kê- một cơ quan chức năng “ lượng hoá” các khái niệm, các chỉ tiêu, tính
toán- cũng chỉ được gửi đến các đơn vị trong nghành khi phân loại thành


phần kinh tế trong thống kê. theo quy định này : kinh tế bao gồm các doanh
nghiệp kinh tế, công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân, công ty cổ phần( mà tư
nhân chiếm 51%số vốn trở lên), công ty hợp danh tư nhân.
- Các thành phần kinh tế ở nước ta là thành phần kinh tế cá thể , tiểu chủ
và thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế dựa
trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và khả năng lao động của người lao động.

Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà xuất kinh doanh dựa trên cơ
sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột người
làm thuê.
Các loại hình tổ chức kinh doanh cơ bản.
- Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp có không quá 50 thành viên góp
vốn thành lập công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài
sản của mình.
- Công ty cổ phần là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, vốn của công
ty được chia thành nhiều thành phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu
cổ phần gọi là cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến
hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu. Phần góp vốn của các thành viên trong công ty
được thể hiện bằng hình thức cổ phiếu.
- Công ty hợp danh được pháp luật ghi nhận là một hình thức của công ty
đối nhân, trong đó ít nhất 2 thành viên đều là cá nhân hay thương nhân cùng
tiến hành hoạt động thương mại dưới một hãng chung hay hội danh và cùng liên
đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ti.

II. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường


- Thị trường là nơi mua bán trao đổi các loại hàng hoá; nói cách khác đây là nơi
gặp gỡ giữa cung và cầu. Thị trường cũng là nơi tập trung nhiều nhất các mâu
thuẫn của nền kinh tế, là nơi khởi điểm và kết thúc của quá trình kinh doanh.
- Trong thị trường, giá cả là phạm trù trung tâm, là bàn tay vô hình điều tiết và kích
thích nền sản xuất của xã hội. Thông qua giá cả thị trường, thị trường thực hiện các
chức năng điều tiết và kích thích của mình trong đó cung- cầu là hai phạm trù kinh
tế lớn bao trùm lên thị trường, quan hệ cung- cầu trên thị trường đã quyết định giá

cả trên thị trường.
1. Kinh tế thị trường.
1.1 Khái niệm kinh tế thị trường.
- Cùng với lịch sử phát triển của loài người thì kinh tế xã hội cũng có bước tiến
phù hợp. Hình thái kinh tế chuyển từ kinh tế tự nhiên lên hình thái kinh tế cao hơn
đó là kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá ra đời đánh dấu sự phát triển của nền kinh
tế xã hội, tới nay nó đã phát triển và đạt tới trình độ cao đó là nền kinh tế thị
trường.
- Kinh tế thị trường là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó các quan hệ kinh tế,
phân phối sản phẩm , lợi ích đều do các quy luật của thị trường điều tiết, chi phối.
- Kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường mà cơ chế
thị trường là tổng thể các nhân tố quan hệ cơ bản, vận động dưới sự chi phối của
quy luật thị trường trong môi trường cạnh tranh nhằm mục đích sinh lợi.
1.2 Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường.
- Thị trường và cơ chế thị trường là yếu tố khách quan, từng doanh nghiệp không
thể làm thay đổi thị trường mà họ phải tiếp cận và tuân theo thị trường. Qua thị
trường doanh nghiệp có thể tự đánh giá lại mình và biết được mình làm ăn hiệu quả
không.
- Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp
biểu hiện qua việc mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Thái độ cư xử của


từng thành viên tham gia thị trường là hướng tìm kiếm lợi ích của mình theo sự
dẫn dắt của giá cả thị trường.
- Trong cơ chế thị trường, những vấn đề có liên quan đến việc phân bổ và sử dụng
nguồn tài nguyên sản xuất khan hiếm như lao động, vốn,…về cơ bản được giải
quyết khách quan thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế đặc biệt là quy
luật cung cầu.
- Khách hàng giữ vị trí trung tâm trong nền kinh tế thị trường; quyết định sự tồn tại
và phát triển của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tìm mọi cách để thu hút

thoả mãn nhu cầu của khách hàng với phương trâm “khách hàng là thượng đế”.
- Tất cả các mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế được tiền tệ hoá. Tiền tệ trở thành
thước đo hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Lợi nhuận là yếu tố trung tâm, là động lực thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng năng
suất lao động và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Thông qua các quy luật kinh tế đặc biệt là sự linh hoạt trong giá cả nền kinh tế thị
trường luôn duy trì sự cân bằng giữa cung- cầu của các loại hàng hoá, dịch vụ, hạn
chế xảy ra khan hiếm hàng hoá.
1.3 Vai trò của kinh tế thị trường.
- Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, mối quan hệ giữa mục tiêu tăng
cường tự do cá nhân và mục tiêu công bằng xã hội, giữa đẩy mạnh tăng trưởng
kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống. Thị trường có vai trò trực tiếp hướng
dẫn các đơn vị kinh tế, các doanh nghiệp và người tiêu dùng lựa chọn lĩnh vực hoạt
động, định ra các phương án kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao.
- Trong nền kinh tế thị trường, mỗi cá nhân, mỗi đơn vị kinh tế được tự do lựa
chọn sản xuất kinh doanh nằm trong khuôn khổ pháp luật quy định.
- Qua đó ta thấy nền kinh tế thị trường có khả năng tập hợp được các loại hoạt
động, trí tuệ và tiềm lực của hàng loạt con người nhằm hướng tới lợi ích chung của
xã hội đó là: thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng năng xuất lao động, tăng hiệu quả


kinh tế. Nhưng nền kinh tế thị trường không phải là một hệ thống được tổ chức hài
hoà mà trong hệ thống đó cũng chứa đựng đầy mâu thuẫn phức tạp. Vì vậy, để
khắc phục được và hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường cần thiết
phải có sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế thị trường.
1.4 Sự phát triển của nền kinh tế thị trường
a) Từ nền kinh tế tự nhiên chuyển sang nền kinh tế hàng hoá giản đơn
- Mặc dù có những đặc điểm riêng, nhưng tất cả các phương thức sản xuất tiền tư
bản chủ nghĩa đều có nét chung là nền kinh tế tự nhiên. Trong nền kinh tế tự nhiên,
sản xuất nhỏ chiếm ưu thế. Nền kinh tế tự nhiên do nhiều đơn vị kinh tế thuần nhất

hợp thành và mỗi đơn vị kinh tế ấy làm đủ việc để tạo ra những sản phẩm cuối
cùng.
- Trong các nền kinh tế tự nhiên, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu, nông nghiệp
là ngành sản xuất cơ bản, công cụ và kỹ thuật canh tác lạc hậu, dựa vào lao động
chân tay là chủ yếu, chỉ có trong một số trang trại của địa chủ hoặc phường hội
mới có hiệp tác lao động giản đơn. Trong nền kinh tế dưới chế độ phong kiến, phân
công lao động kém phát triển, cơ cấu ngành đơn điệu, mới chỉ có một số ngành
nghề thủ công tách khỏi nông nghiệp, sản xuất chủ yếu hướng vào giá trị sử dụng,
có tính chất tự cung, tự cấp.
- Bước đi tất yếu của sản xuất tự cung, tự cấp là tiến lên sản xuất hàng giản đơn.
điều kiện cho quá trình chuyển hoá này là sự phát triển của phân công xã hội. Phân
công xã hội là cơ sở của kinh tế hàng hoá. Xu hướng phát triển của phân công xã
hội là biến việc sản xuất không những từng sản phẩm riêng biệt, mà việc sản xuất
từng bộ phận của sản phẩm, từng thao tác trong chế biến sản phẩm thành những
ngành công nghiệp riêng biệt. Công nghiệp chế biến tách khỏi công nghiệp khai
thác và mỗi ngành công nghiệp đó lại chia thành nhiều loại và phân loại nhỏ.
Chúng sản xuất ra dưới hình thức hàng hoá - những sản phẩm riêng biệt và đem


trao đổi với những sản phẩm của các ngành sản xuất khác. Chính sự phát triển
ngày càng sâu rộng đó của phân công xã hội là nhân tố chủ yếu dẫn đến hình thành
thị trường trong nước. Hình thành nên những khu vực nhà nước chuyên môn hoá
và dẫn đến sự trao đổi không những giữa sản phẩm với sản phẩm công nghệ, mà cả
giữa các sản phẩm nhà nước với nhau.
- Sự phát triển của công nghiệp và nông nghiệp, sự hình thành trung tâm công
nghiệp, sức hút của chúng đối với dân cư ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống nông
thôn, thúc đẩy nông nghiệp hàng hoá phát triển.
- Những người sản xuất ở những vùng khác nhau có những điều kiện tự nhiên khác
nhau, có khả năng và ưu thế trong sản xuất những sản phẩm khác nhau có hiệu quả
hơn. ngay trong một vùng, một địa phương, những người sản xuất cũng có những

khả năng, điều kiện và kinh nghiệm sản xuất khác nhau. Mỗi người sản xuất chỉ
tập trung sản xuất sản phẩm nào mà mình có ưu thế, đem sản phẩm của mình trao
đổi (mua và bán) lấy những sản phẩm cần thiết cho sản xuất và đời sống của mình.
Họ trở thành những người sản xuất hàng hoá. Trao đổi, mua bán, thị trường, tiền tệ
ra đời và phát triển .
- Sản xuất hàng hoá ra đời, lúc đầu dưới hình thức sản xuất hàng hoá nhỏ, giản
đơn, nhưng là một bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của nhân loại.
b) Từ nền kinh tế hàng hoá giản đơn chuyển sang nền kinh tế tự do cổ điển
- Quá trình chuyển từ nền kinh tế giản đơn sang nền kinh tế tự do cổ điển được
thực hiện qua ba giai đoạn phát triển cả về lực lượng sản xuất, cả về quan hệ sản
xuất mới thích ứng với từng bước phát triển của lực lượng sản xuất .
- Kỹ thuật thủ công dựa trên lao động hiệp tác giản đơn:
+ Hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở kỹ thuật thủ công, với quy mô
lớn hơn so với tổ chức sản xuất phường hội và sản xuất nhỏ cá thể. Trong giai đoạn
hiệp tác giản đơn, công nhân phụ thuộc vào nhà tư bản về kinh tế nhưng vẫn còn
độc lập về mặt kỹ thuật. Để tổ chức hiệp tác lao động, bước đầu tiên phải tập trung


tư liệu sản xuất, trên cơ sở đó tập trung sức lao động.Tập trung hiệp tác lao động
đòi hỏi phải có sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân, bảo đảm sự nhịp
nhàng trong hoạt động sản xuất đạt đến mục đích chung. Với sản xuất quy mô lớn,
trong hiệp tác giản đơn, phải mua cả đống nguyên liệu và buôn bán hàng hoá, do
đó đã làm xuất hiện một mạng lưới mua gom nguyên liệu và bán lẻ hàng hoá, từ đó
thúc đẩy việc sản xuất và trao đổi sâu rộng trong xã hội. Hiệp tác giản đơn đã bước
đầu làm xuất hiện sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa, nâng cao năng suất lao động xã
hội lên rất nhiều. Việc hiệp tác giản đơn làm xuất hiện sản xuất lớn về mặt quy mô
là một bước ngoặt rất quan trọng từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn.
- Phân công công trường thủ công Tư bản chủ nghĩa:
+ Sự phát triển của hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa tất yếu dẫn tới hiệp tác có
phân công, làm xuất hiện các công trường thủ công tư bản chủ nghĩa. Công trường

thủ công là hình thức xí nghiệp tư bản thực hiện sự hiệp tác có phân công dựa trên
cơ sở kỹ thuật thủ công. Công trường thủ công hình thành bằng cách tập hợp
những thợ thủ công khác nghề, hoặc những thợ thủ công cùng nghề vào trong một
xưởng để cùng sản xuất ra một loại hàng hoá.
+ Đặc điểm về tổ chức và kỹ thuật của công trường thủ công là: Quá trình sản xuất
được phân chia thành những giai đoạn, những công việc bộ phận để có sản phẩm
hoàn chỉnh, trên cơ sở đó mỗi công nhân chỉ chuyên làm một công việc bộ phận.
Đặc điểm của sự phân công này là chuyên môn hoá hẹp.
+ Cơ sở kỹ thuật vẫn là thủ công với công cụ chuyên dùng, phân phối sản xuất theo
kinh nghiệm cổ truyền nên chủ yếu dựa vào tay nghề khéo léo của công nhân. Cơ
cấu tổ chức của công trường thủ công là những người lao động bộ phận, sử dụng
công cụ chuyên dùng thích ứng, hợp thành lao động tập thể.
- Đại công nghiệp cơ khí:
+ Trên cơ sở kỹ thuật thủ công, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không thể
được xác lập một cách hoàn chỉnh và phát triển vững chắc. Do đó, trong quá trình


phát triển, chủ nghĩa tư bản tự tạo cho nó một cơ sở kỹ thuật tương ứng là máy
móc, đưa chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn công trường thủ công lên giai đoạn đại
công nghiệp cơ khí. Máy móc được sử dụng phổ biến trong xã hội thông qua cuộc
cách mạng công nghiệp. Đó là cuộc các mạng kỹ thuật thay thế lao động thủ công
bằng lao động sử dụng máy móc. Công cuộc cơ khí hoá ở một ngành dẫn đến việc
thúc đẩy quá trình cơ khí hoá ở một ngành có liên quan. Cơ khí hoá trong các
ngành công nghiệp, nông nghiệp thúc đẩy cơ khí hoá ở các ngành liên quan. Cơ khí
hoá trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp thúc đẩy cơ khí hoá ngành giao
thông vận tải… cơ khí hoá bắt đầu từ ngành công nghiệp nhẹ đến các ngành công
nghiệp nặng. Máy móc và đại công nghiệp có tác dụng chủ yếu làm năng suất lao
động xã hội tăng vọt, xã hội hoá lao động và sản xuất ngày càng cao, mở rộng thị
trường, thúc đẩy sự ra đời của các trung tâm công nghiệp và những thành thị lớn;
đồng thời, tạo ra những tiền đề vật chất kỹ thuật .

c) Từ nền kinh tế thị trường tự do chuyển sang nền kinh tế thị trường hỗn hợp
- Xuất phát từ những khuyết tật của cơ chế thị trường:
+ Do chạy theo lợi nhuận cho nên các doanh nghiệp thường gây ô nhiễm môi
trường, thường khai thác tài nguyên một cách bừa bãi dẫn tới làm mất cân bằng
sinh thái mà doanh nghiệp không phải đền bù một khoản thiệt hại nào.
+ Cơ chế thị trường dễ làm xuất hiện căn bệnh: khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp,
lạm phát và suy thoái.
+ Cơ chế thị trường dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo, dễ phát sinh những tiêu cực xã
hội .
+ Kinh tế thị trường là một bước phát triển sau của kinh tế tự nhiên và khi kinh tế
hàng hoá phát triển tới trình độ cao thì đó chính là kinh tế thị trường. Trong cơ chế
thị trường thì do những khuyết tật của nó dẫn đến phá vỡ cân đối của nền kinh tế,
gây lãng phí nhiều nguồn lực: tư liệu sản xuất, lao động, tạo ra sự phân hóa xã hội.
Vì vậy nhà nước phải có vai trò nhất định để khắc phục những nhược điểm trên.


+ Trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản thời kì tự do cạnh tranh thì kinh tế
thị trường phát triển theo tư tưởng lý thuyết bàn tay vô hình thì nhà nước không
can thiệp kinh tế. điều đó dẫn đến việc khủng hoảng kinh tế sau này (1929 - 1933).
Vì vậy đã xuất hiện lý thuyết kinh tế của Keyes yêu cầu nhà nước phải can thiệp
kinh tế và đến năm 1948 đã xuất hiện lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp trong đó có
sự kết hợp của hai nhân tố: sự điều tiết của thị trường (Bàn tay vô hình) và sự can
thiệp của chính phủ (Bàn tay hữu hình) và cả hai nhân tố này đều tác động vào nền
kinh tế.
- Nhà nước có chức năng:
+ Định hướng sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật .
+ Thiết lập về một khuôn khổ về pháp luật, xây dựng hệ thống cơ sở nhất quán tạo
môi trường ổn định và thuận lợi cho kinh tế phát triển .
+ Hạn chế và khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường .

+ Trực tiếp đầu tư một số lĩnh vực của nền kinh tế: những ngành kinh tế công cộng,
năng lượng, cầu nhiều vốn….
+ Quản lý và bảo vệ tài sản công, kiểm kê, kiểm soát hoạt động kinh tế - xã hội
+ Phân phối hợp lý các nguồn lực sản xuất .
1.5 Cơ chế của sự phát triển thị trường
a) Khái quát
- Cơ chế thị trường là quá trình tương tác lẫn nhau giữa các chủ thể (hoạt động)
kinh tế trong việc hình thành giá cả, phân phối tài nguyên, xác định khối lượng và
cơ cấu sản xuất. Sự tương tác của các chủ thể tạo nên những điều kiện nhất định để
nhà sản xuất, với hành vi tối đa hóa lợi nhuận, sẽ căn cứ vào giá cả thị trường để
quyết định ba vấn đề: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai. Ngược
lại, hoạt động của các chủ thể tạo nên sự tương tác nói trên. Như vậy, cơ chế thị


trường là hình thức tổ chức kinh tế, trong đó các quan hệ kinh tế tác động lên mọi
hoạt động của nhà sản xuất và người tiêu dùng trong quá trình trao đổi.
+ Theo lý thuyết của các nhà kinh tế học phúc lợi thì cơ chế thị trường là cách thức
tự động phân bổ tối ưu các nguồn lực của nền kinh tế. Đó là vì, khi mỗi nhà sản
xuất đều căn cứ vào giá cả thị trường để có quyết định về sản xuất, sẽ không có sản
xuất thừa, cũng sẽ không có sản xuất thiếu. Phúc lợi kinh tế được đảm bảo do
không có tổn thất xã hội.
+ Tuy nhiên, để cơ chế thị trường thực hiện tốt được chức năng của mình, thì các
điều kiện sau đây phải được thỏa mãn: thị trường phải có cạnh tranh hoàn hảo,
thông tin đối xứng, không có các ảnh hưởng ngoại lai, v.v... Nếu không, cơ chế thị
trường sẽ không thể phân bổ tối ưu các nguồn lực kinh tế. Khi đó có thất bại thị
trường.
+ Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hóa giữa
người sản xuất và người tiêu dùng được vận hành do sự điều tiết của quan hệ cung
cầu.
+ Đặc trưng cơ bản nhất của cơ chế thị trường là động lực lợi nhuận, nó chỉ huy

hoạt động của các chủ thể. Trong kinh tế thị trường, đặc điểm tự do lựa chọn hình
thức sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm: 'lãi hưởng lỗ chịu', chấp nhận cạnh
tranh, là những điều kiện hoạt động của cơ chế thị trường. Sự tuân theo cơ chế thị
trường là điều không thể tránh khỏi đối với các doanh nghiệp, nếu không sẽ bị đào
thải.
b) Hình thức
- Làm thế nào để giải quyết ba vấn đề cơ bản của Kinh tế học là sản xuất cái gì?
sản xuất như thế nào? và phân phối cho ai? Có ba cách cơ bản là: Cơ chế chỉ huy
tập trung, cơ chế thị trường tự do và cơ chế hỗn hợp.
c) Cơ chế chỉ huy tập trung


- Thực chất là cơ chế mệnh lệnh, là một xã hội Chính phủ đề ra mọi quyết định về
sản xuất và tiêu dùng. Cơ quan quản lý nhà nước sẽ quyết định sẽ sản xuất cái gì,
sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai. Sau đó các hướng dẫn cụ thể sẽ được phổ
biến tới các hộ sản xuất gia đình, các doanh nghiệp.
- Quá trình như vậy là một nhiệm vụ rất phức tạp và không tồn tại một nền kinh tế
mệnh lệnh hoàn chỉnh, trong đó tất cả các quyết định về phân bổ nguồn lực được
tiến hành theo phương pháp này. Tất nhiên việc xây dựng một kế hoạch như vậy,
trong đó không chỉ xác định chính xác số lượng từng loại sản phẩm phải sản xuất
mà còn ấn định cả giá cả, theo đó các sản phẩm này được bán cho người tiêu dùng
là một công việc khổng lồ. Chỉ cần nhà quản lý phạm sai lầm là có thể dẫn đến tình
trạng dư thừa hay thiếu hụt to lớn một loại sản phẩm nào đó. Trước năm 1986,
Chính phủ Việt Nam đã áp dụng cơ chế này.
d) Cơ chế thị trường tự do
- Cơ chế thị trường tự do, các đơn vị cá biệt được tự do tác động lẫn nhau trên thị
trường. Nó có thể mua sản phẩm từ các đơn vị kinh tế này hoặc bán sản phẩm cho
các đơn vị kinh tế khác. Trong một thị trường, các giao dịch có thể thông qua trao
đổi bằng tiền hay trao đổi bằng hiện vật (hàng đổi hàng). Việc hàng đổi hàng gặp
không ít phức tạp, đôi khi không có hàng cần để trao đổi lẫn cho nhau; ví dụ, có

khi khó tìm ra người đổi xe máy lấy một cây đàn. Do đó việc đưa tiền tệ vào làm
vật trung gian cho sự trao đổi đã làm thuận lợi rất nhiều cho những cuộc giao dịch.
Trong một nền kinh tế thị trường hiện đại, người ta mua hoặc bán các sản phẩm và
dịch vụ thông qua tiền tệ.
- Trong cơ chế thị trường, vấn đề giá cả đã quyết định việc mua cái và bán cái gì.
Việc phân bổ nguồn lực thông qua hệ thống giá cả. Quá trình điều chỉnh giá cả sẽ
khuyến khích xã hội phân bố lại các nguồn lực để phản ánh được sự khan hiếm đã
tăng lên của một loại hàng hóa nào đó.


- Thị trường mà nhà nước không can thiệp vào gọi là thị trường tự do. Các cá nhân
trên thị trường tự do theo đuổi quyền lợi của riêng mình bằng cách cố gắng làm
càng nhiều cho mình càng tốt tùy theo khả năng của mình, không có ai trợ giúp
hoặc can thiệp của Chính phủ. Với những động cơ cá nhân như vậy, nhưng chính
điều đó đã làm cho xã hội khá giả lên bằng cách tạo ra những việc làm và những cơ
hội mới. Chính vì vậy, mà đường giới hạn khả năng sản xuất dịch ra xa hơn.
e) Cơ chế hỗn hợp
- Thị trường tự do cho phép các cá nhân theo đuổi lợi ích riêng của mình mà không
có sự can thiệp khống chế nào của Chính phủ. Kinh tế mệnh lệnh để cho tự do cá
nhân về kinh tế một phạm vi rất hẹp, vì hầu hết các quyết định đều do Chính phủ
đưa ra. Giữa hai thái cực đó là khu vực kinh tế hỗn hợp.
- Trong một nền kinh tế hỗn hợp, khu vực nhà nước và khu vực tư nhân tương tác
với nhau trong việc giải quyết các vấn đề cơ bản của nền kinh tế. Chính phủ kiểm
soát một phần đáng kể của sản lượng thông qua việc đánh thuế, thanh toán chuyển
giao cung cấp các hàng hóa và dịch vụ như lực lượng vũ trang, cảnh sát. Chính phủ
cũng điều tiết mức độ theo đuổi lợi ích cá nhân.
- Trong cơ chế hỗn hợp, Chính phủ cũng có thể đóng vai trò là nhà sản xuất các
hàng hóa tư nhân thông qua các doanh nghiệp có vốn chi phối của nhà nước.
1.6) Đặc trưng của kinh tế thị trường
* Việc phân bố sử dụng các nguồn tài nguyên, nguyên liệu đầu vào về cơ bản được

giải quyết theo quy luật của kinh tế thị trường mà cốt lõi là quy luật cung cầu.
* Các mối quan hệ kinh tế thị trường đều được tiền tệ hoá.
* Động lực chính phát triển kinh tế là lợi nhuận thu được.
* Việc sản xuất kinh doanh và tiêu dùng sản phẩm do hai phía cung và cầu quyết
định.
* Môi trường, động lực, phương tiện thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển là
cạnh tranh.


* Nhà sản xuất là nhân vật trung tâm và khách hàng chi phối người bán trên thị
trường.
* Có sự chênh lệch giàu nghèo trong xã hội.
* Có bất cập cần có sự điều tiết của nhà nước như môi trường, khủng khoảng và
nhiều vấn đề xã hội.
* Có xu hướng phát triển kinh tế mang tính hội nhập khu vực và quốc tế.
1.7) Các yếu tố cấu thành nền kinh tế thị trường
 Giá cả thị trường
 Cầu hàng hóa
 Cung hàng hóa
 Sự cạnh tranh.

III. Kinh tế tư nhân.
1. Đặc điểm của nền kinh tế tư nhân
- Một là, kinh tế tư nhân gắn liền với lợi ích cá nhân, động lực thúc đẩy xã
hội phát triến. Sự tồn tại của loài người từ trước tới nay đã chứng minh rằng
lợi ích của mỗi cá nhân là động lực trước hết và chủ yếu thúc đẩy xã họi phát
triển. Nền kinh tế thị trường tồn tại chủ yếu dựa trên lợi ích cá nhân, tôn trọng
lợi ích cá nhân. sự hội sinh và phát triển của nền kinh tế tư nhân trong những
năm đổi mới vừa qua chính là nhờ đã kết hợp đúng lợi ích cá nhân và lợi ích
xã hội trong quá trình sản xuất , do đó đã tạo ra động lực quan trọng thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Hai là, kinh tế tư nhân mà tiêu biểu là doanh nghiệp của tư nhân là mô
hình tổ chức kinh doanh của nền sản xuất hàng hoá ở giai đoạn cao. Kinh tế
thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Trong đó cơ chế
thị trường chủ yếu là dựa trên quy mô hình tổ chức doanh nghiệp có mục tiêu
cao nhất và cuối cùng tạo ra giá trị thặng dư.


- Ba là, kinh tế tư nhân là nền tảng của kinh tế thị trường. Kinh tế thị
trường là cách thức tốt nhất và duy nhất để một nền kinh tế thị trường vận
hành có hiệu quả cao.
- Tóm lại sự tự do tham gia kinh doanh của kinh tế tư nhân mà chủ yếu là
các doanh nghiệp vào bất kỳ lĩnh vực sản xuất nào cũng là cơ sở của kinh té
thị trường ở đó có sự cạnh tranh của những người bán và những người mua.
Đó chính là động lực thúc đẩy kinh tế tăng trưởng.
2.Kinh tế tư nhân ở nước ta đang tồn tại và phát triển trong những
điều kiện chủ yếu sau:
- Kinh tế tư nhân được phục hồi và phát triển nhờ công cuộc đổi mới do
Đảng khởi xướngvà lãnh đạo.
- Kinh tế tư nhân hình thành và phát ttiển có nhà nước xã hội chủ nghĩa
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
- Kinh tế tư nhân ở nướ ta ra đời trong điều kiện quan hệ sản xuất thống trị
trong xã hội không phải là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Kinh tế tư nhân ở nước ta ra đời và phát triển ở một nước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội từ một nền kinh tế chậm phát triển, trong bối cảnh thực hiện
công nghiệp hoá hiện đại hóa, giải phóng sức lao động.
3. Những đột phá trong quan điểm phát triển kinh tế tư nhân của Đảng ta
- Quan niệm kinh tế tư nhân (KTTN) là “một động lực quan trọng của nền kinh tế”
tại Đại hội XII cho thấy bước đột phá về nhận thức của Đảng ta so với giai đoạn
trước, khi chúng ta chỉ coi KTTN là một trong những động lực của nền kinh tế(2).

Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII tiếp tục yêu cầu phải phát
triển mạnh khu vực KTTN cả về số lượng và chất lượng, để thực sự trở thành một
động lực quan trọng của nền kinh tế. Trong những năm qua, khu vực KTTN đã làm
nên sự phát triển năng động của nền kinh tế, góp phần quan trọng trong tạo việc
làm, nâng cao thu nhập của người dân, mạnh dạn đột phá và đi đầu trong nhiều lĩnh


vực sản xuất, kinh doanh mới. Do đó, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khu vực
KTTN phát triển cũng chính là tạo điều kiện để giải phóng các nguồn lực phát triển
trong xã hội, để nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN) phát huy tối đa các tiềm năng to lớn của nó.
Chủ trương phát triển KTTN gắn liền với chủ trương phát triển KTTT định hướng
XHCN ở nước ta. Đảng ta đã nhận định hết sức đúng đắn rằng: KTTT là sản phẩm
của văn minh nhân loại, có thể tồn tại và thích ứng với nhiều hình thái xã hội khác
nhau; KTTT phát triển với trình độ cao dưới chủ nghĩa tư bản (CNTB), song không
đồng nhất với CNTB và cũng không đối lập với chủ nghĩa xã hội (CNXH). Một
quốc gia dựa trên nền tảng thị trường để phát triển kinh tế có thể chưa chắc nhanh
chóng thành công, song một quốc gia không có nền KTTT đầy đủ, hiện đại chắc
chắn sẽ không thể phát triển trong dài hạn. Tự thân KTTT không mang lại CNXH,
nhưng muốn xây dựng CNXH thành công dứt khoát phải phát triển KTTT.
Kinh tế tư nhân là chủ thể quan trọng nhất trong nền KTTT hiện đại. Mặc dù quy
mô của khu vực tư nhân có thể khác nhau trong các mô hình KTTT đa dạng, song
có một điều chắc chắn rằng, nếu không có khu vực KTTN thì sẽ không có nền
KTTT theo đúng nghĩa của nó. Dù không hoàn hảo, song KTTT vẫn chứng tỏ là
một cơ chế huy động, phân bổ nguồn lực, thúc đẩy sáng tạo và phát triển được coi
là tốt nhất hiện nay. Chính hoạt động của khu vực KTTN giúp vận hành cơ chế đó.
Một khu vực KTTN phát triển chưa chắc mang lại một nền KTTT hoàn hảo. Tự
thân khu vực KTTN không giúp khắc phục những khiếm khuyết và “thất bại” của
thị trường. Tuy nhiên, nếu không phát triển KTTN sẽ không thể phát huy hết thế
mạnh của KTTT, không thể khai thác hết nguồn lực phát triển to lớn của xã hội.

Từ tinh thần của Đại hội XII cũng cần nhấn mạnh và làm rõ, việc xác định kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo và KTTN là một động lực quan trọng trong nền kinh
tế không hàm ý phân biệt đối xử, mà với ý nghĩa là tùy thuộc vào chức năng của
mỗi thành phần kinh tế để xác định vai trò của chúng. Nhà nước với các nguồn lực,


công cụ, chính sách sẽ đóng vai trò chủ đạo trong việc định hướng và điều tiết nền
kinh tế, bảo đảm các cân đối lớn cho nền kinh tế, kiểm soát các nguồn tài nguyên
chiến lược, phát triển kết cấu hạ tầng và dịch vụ công có vốn đầu tư lớn, luân
chuyển chậm, lợi nhuận không cao, rất cần thiết cho nền kinh tế - xã hội mà khu
vực tư nhân không sẵn sàng đảm nhận; các lĩnh vực quốc phòng - an ninh, một số
hoạt động đầu tư mạo hiểm... Như vậy, để thấy rằng, Đảng ta tiếp tục xác định kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo với nội hàm mới, phù hợp với Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi năm
2013).
4. Kinh tế tư nhân ở nước ta có đặc điểm khác về bản chất so với kinh
tế ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay điều đó thể hiện ở chỗ:
-Kinh tế ở nước ta là kết quả của chính sách phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa
-Kinh tế ở nứơc ta phát triển theo định hướng mà Đảng Cộng Sản Việt
Nam để ra thông qua hệ thống các chính sách, pháp luật của Nhà Nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
-Kinh tế tư nhân ở nước ta ngay từ khi mới ra đời đã mang trong mình những yếu
tố có tính xã hội chủ nghĩa. Kinh tế tư nhân ở nước ta cũng góp
phần tăng cường khối đoàn kết dân tộc, gắn kết các giai tầng xã hội vì mục
tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
5. Mối quan hệ trực tiếp giữa chủ doanh nghiệp của kinh tế với công
nhân: người lao động trong từng doanh nghiệp không còn không còn là quan

hệ đối kháng, không hoàn toàn là quan hệ chủ thợ, quan hệ giữa một bên là
người làm thuê, bị bóc lột, bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất như trước đây nữa


mà mang tính chất hợp tác.
6. Sự phát triển của kinh tế: góp phần tăng tính cộng đồng dân tộc, yếu
tố dân tộc, hình ảnh của dân tộc trong cộng đồng quốc tế. Sự mở rộng của các
loại sản phẩm mang thương hiệu việt trên thị trường thế giới là một minh
chứng nhằm tăng cường hình ảnh Việt Nam ,yếu tố Việt Nam trong tiến hành
hội nhập kinh tê quốc tế.
7. .Đặc điểm về sở hữu:
Thành phần này tồn tại gắn với sở hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất. Chính vì thế kinh tế tư nhân có thời kì bị coi là biểu hiện của chủ nghĩa
tư bản nên có thời gian nó đã bị cấm tồn tại ở nước ta
8. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển của kinh tế
trong nền kinh tế thị trường
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin đã mô tả một cách đầy đủ và
toàn diện về sự xuất hiện của sở hữu tư nhân đã khẳng định: chế độ sở hữu tư
nhân ra đời là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của lực lượng sản xuất
và phân công lao động xã hội và là cơ sở làm nảy sinh, tồn tại và phát triển
của kinh tế tư nhân. Sự tồn tại và phát triển mạnh mẽ của kinh tế tư nhân
trong lịch sử đã chứng minh nó là một động lực cá nhân, thuộc tính tồn tại
lâu đời của con người và xã hội loài người.
Thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta là thời kì đấu tranh giữa
những cái cũ và cái mới, những cái nào có nhiều ưu điểm hơn thì tồn tại . Nền
kinh tế của nước ta vốn dĩ không đồng đều vế tính chất và trình độ sản xuất
của lực lượng sản xuất và theo yêu cầu của quy luật thị trường thì phải có sự
đa dạng về hình thức của quan hệ sản xuất. Kinh tế tư nhân là một trong số
những thành phần kinh tế cần phải phát triển mạnh hơn nữa để xây dựng nền
kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển sang nền kinh tế thị trường định


hướng xã hội chủ nghĩa nên một trong những khuyết tật của nó là nạn thất
nghiệp. Thực tế kinh tế tư nhân đã góp phần lớn vào giải quyết nạn thất
nghiệp ở nước ta tạo ra sự ổn định trong tăng trưởng kinh tế.
Sự tồn tại của kinh tế tư nhân đã có tác dụng lớn đối với nền kinh tế
nhiều thành phần để giải phóng mọi năng lực sản xuất và khai thác các tiềm
năng kinh tế của đất nước, thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển, đẩy nhanh
quá trình phát triển và hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta.

II. THỰC TRẠNG KINH TẾ VIỆT NAM.
1. Tiến trình phát triển
1.1. Thời kì trước đổi mới (trước năm 1986).
Trong thời kì phát triển của đất nước được coi như là cao trào của quá
trình quốc hữu hoá và hợp tác hoá, kinh tế hầu như không tồn tại. Trong công
cuộc phát triển kinh tế và cải tạo quan hệ sản xuất được thực hiện trên phạm
vi cả nước. Kế hoạch 5 năm 1976-1980 ngoài nhiệm vụ khắc phục hậu quả
chíên tranh, tiến hành cải tạo kinh tế xã hội theo mô hình chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế tư nhân vẫn tồn tại nhưng với một lượng rất nhỏ ; trong công nghiệp
vẫn còn có trên dưới 60 vạn người sản xuất cá thể năm 1980 :50,3 vạn , năm
1981:55,1 vạn, năm 1983 :66,6 vạn, năm 1984 :64 vạn, năm 1985 : 59,3 van.
Số lượng hoạt động trong kinh tế vẫn chiếm trên 20% tổng số lao động
ngành công nghiệp, năm 1980 :22,3% năm 1984 :26% năm1985 :23%
năm1986 :23,2%.
Giá trị sản lượng công ngiệp do khu vực kinh tế tạo ra hạng năm chiếm
trên dưới 15% giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp.
Những người kinh doanh thương nghiệp những năm 1980 cũng ở mức 60
vạn, năm 1982 :63,7 vạn, năm 1985 :63,7 vạn, năm 1986 : 56,8 vạn.
Đó là những số liệu cho thấy sức sống của kinh tế cá thể rất bền bỉ, sự



hiện diện của thành phần kinh tế này trong suốt thời gian dài như một tất yếu
khách quan. Tuy bị kìm hãm, trong những điều kiện khó khăn nhưng kinh tế
cá thể vẫn tồn tại và ngày càng khẳng định chỗ đứng của mình.
1.2. Thời kì sau đổi mới (sau năm 1986).
Sự phát triển của nền kinh tế đã trải qua một quá trình nhiều biến động,
trong quá trình đó kinh tế có nhiều thăng trầm.Từ đường lối đổi mới ( đại hội
VI của Đảng 12-1986) khẳng định xây dựng, phát triển nền kinh tế nước ta
với cơ cấu nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế tồn tại lâu dài.
nghị quyết trung ương khoá VI ghi rõ : chính sách kinh tế nhiều thành plhần
có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xúât nhỏ lên sản xuất lớn
XHCN và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế, tư nhân được kinh doanh
không hạn chế trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Nhờ có
chính sách đổi mới kinh tế đựơc thừa nhận và tạo điều kiện phát triển đóng
góp tích cực và phát triển kinh tế của đất nước.
Trong công cuộc đổi mới khu vực kinh tế đã dần khẳng định được vai
trò vị trí của mình.
Trong công nghiệp tư nhân đã mở rộng các cơ sở hiện có, hoặc xây dựng thêm các
cơ sở mới. Năm 1988 khu vực nàyđầu tư thêm 80tỷ đồng, thành lập
thêm 17000 cơ sở, trong đó có 46 xí nghiệp tư nhân, 1100 cơ sở tiểu thủ công
nghiệp và hơn 15000 hộ cá thể. Năm 1989 số vốn đầu tư tăng thêm 102 tỷ
đỗng số xí nghiệp tăng gấp 4 lần so với năm 1988 từ 102 xí nghiệp tăng lên
1284 xí nghiệp , hộ tiểu thủ công nghiệp và cá thể từ 31,85 vạn lên 33,33 vạn
tăng4.6%. Trong hai năm1990- 1991 số vốn tăng thêm mỗi năm khoẩng 100
tỷ đồng. Năm 1989 thành phần kinh tế thu hút thềm 39,5 nghìn lao động.
Năm 1990 nước ta ban hành Luật công ty và luật doanh nghiệp, đã tạo
động lực cho khu vực kinh tế tiếp tục phát triển. Năm 1991 so với năm 1990
tăng thêm 4000 cơ sở và lao động tăng thêm 10 nghìn người. Tỷ trọng giá trị



sản lượng công nghiệp khu vực tư nhân, cá thể chiếm trong giá trị tổng sản
lượng toàn nghành công nghiệp tăng khá nhanh năm 1986 là : 15,6% thì đến
năm 1990 là : 26,5%.
Trong thương nghiệp, lao động của thành phần kinh tế phát triển nhanh
chóng: năm19886: 64 vạn người, thì đến năm 1990 đã tăng lên 81,1. ngoài ra
còn có lực lượng thương nghiệp kkhông chuyên tham gia hoạt động, năm1990
có khoảng 16i vạn người.
Trong giao thông vận tải, năm 1990 có 97194 họ tư nhân cá thể làm dịch
vụ vận tải. Tổng số lao động vận tải 138,5 nghìn người. Năm 1990 thực hiện
vận chuyển 16,6 triệu tấn hàng hoá chiếm 36,35% khối lượng vận chuyển
hàng hoá của tất cả các thành phần kinh tế và 165,3 triệu lượt hành khách,
chiếm 28,6 % khối lượng vận chuyển hành khách toàn nghành.
Tỷ trọng doanh số bán hàn hoá và dịch vụ của tư nhân trong tổng mức
bản lẻ hàng hoá dịch vụ tiêu dùng của xã hội ngày càng lớn: năm 1986 :
45,6% thì đến năm 1990: 66,9%, và năm 1991 đạt : 73,1 %.
Sự phát triển của kinh tế vẫn tiếp tục tăng trong những năm 1991-1996,
nhưng trong 2 năm 1997-1998 tốc độ plhát triển kinh tết tư nhân châm lại do
khủng hoảng tài chính khu vực, số hộ kinh doanh cá thể năm 1997 giảm, số
doanh nghiệp năm 1998 giảm.
Năm 1999 Luật doanh nghiệp được quốc hội thông qua và năm 2000 ban
hành Luật doanh nghiệp (thay cho luật công ty và luật doanh nghiệp trước
đây). Đạo luật này đi vào cuộc sống rất nhanh, tạo ra bước ngoặt, đột phá
trong nền kinh tế của nứơc ta đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân từ năm 2000
đến nay. Theo tổng cục thống kê, đến cuối năm 2000 cả nước ta có khoảng
59473 doanh nghiệp tư nhân với số vốn 52000 tỷ đồng, sử dụng tới 60000 lao
động và góp 7,6% GDP. Sự tăng trưởng mạnh mẽ này chủ yếu là do môi
trường kinh tế đã có nhiều chuyển biến tích cực tạo điều kiện cho kinh tế phát



trỉên. luật doanh nghiệp và các nghị định số 57 và 44 có vai trò quan trọng nhất,
tạo ra những bước ngoặt phát triển kinh tế. Số doanh nghiệp thành lập
trong vòng một năm sau khi có luật doanh nghiệp năm 2000 tương đương với
số lượng doanh nghiệp của 5 năm trước đây.
2. Đánh giá chung về thực trạng của nền kinh tế trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2.1.Thành tựu đạt được.
Khu vực kinh tế đã tồn tại trong vòng 20 năm qua , song nó đã thể hiện
đựơc vị trí của nó trong việc phát triển lực lượng sản xuất của đất nước. Khu
vực kinh tế đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP , huy động vốn của
xã hội, tạo được nhiều việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng thu nhân
sách cho Nhà Nước, sản xuất hàng xuất khẩu, tác động tich cực tới chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cỏ chế quản lý kinh tế, xã hội.
2.1.1 Đóng góp vào sự tăng trưởng của đất nước.
Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế nhìn chung tăng trưởng ổn định trong
những năm gần đây. nhịp độ tăng trưởng năm 1999 :7,5% năm 2000: 12,55%
và chiếm tỷ trọng tương đối ổn định trong GDP, tuy năm 2000 có giảm chút ít
so với năm 1996 còn 28,48% năm 1996 còn 26,87% năm 2000. tỷ trọng GDP
giảm đi chút ít do sự tham gia và đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài(FDI).
Vào những năm đầu đổi mới, kinh tê tư nhân hầu như chưa có gì nhưng
đã chiếm 14% trong tổng sản phẩm công nghiệp trong nước(GDP) và
năm1995 và tăng kên 23% vào năm 2003/ trong sản xuất công nghiệp, vị trí
của kinh tế tư nhân còn cao hơn:32% năm 1995 và năm 2003.
Đâu tư toàn xã hội năm 2005 đạt 39% GDP, trong đó mục tiêu đế ra là
30-32% GDP. Tổng mức đầu tư toàn xã hội đạt 326000 tỷ đồng, trong đó đầu
tư nước ngoài chiếm 17% đầu tư tư nhân trong nước chiếm 32%, 49% thuộc


về khu vực ngoài quốc doanh là một tỷ lệ ấn tượng

Dự báo trong năm năm tới nền kinh tế quốc dân sẽ có những bưốc đột
phá : mức đầu tư trong thời gian tới khoảng trên 40% GDP , tổng đầu tư toàn
xã hội 5 năm tới khoảng 130-140tỷ USD. Trong đó, 35% vốn nước ngoài,
65% trong nước, và đặc biệt khu vực tư nhân sẽ có tỷ lệ cao hơn nhiều hiện
nay, phải chiếm 53-54%.
3.Giải pháp phát triển kinh tế tư nhân:
Việt Nam đặt mục tiêu phấn đấu có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp (năm 2020), hơn
1,5 triệu doanh nghiệp (năm 2025) và có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp (năm 2030).
Tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền
kinh tế. Phấn đấu tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP để
đạt khoảng 50% GDP (năm 2020), khoảng 55% GDP (năm 2025) và 60 - 65%
GDP (năm 2030). Để đạt được mục tiêu đặt ra cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho
khu vực kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng trong phát triển kinh tế, cần
thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục thay đổi nhận thức về kinh tế tư nhân. Cần có sự thống nhất
nhận thức trong xã hội về khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh
tế tư nhân. Xây dựng cơ chế, chính sách định hướng sự phát triển của kinh tế tư
nhân; hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật về kinh tế tư nhân. Sửa đổi một số
cơ chế, chính sách về phát triển kinh tế tư nhân như chính sách đầu tư, tín dụng,
chính sách về mặt bằng sản xuất, chính sách thuế, chính sách đào tạo, tiền lương,
thu nhập và bảo hiểm xã hội... Phát huy thế mạnh và tiềm năng to lớn của kinh tế
tư nhân trong phát triển kinh tế - xã hội phải đi đôi với khắc phục có hiệu quả
những mặt trái, những tiêu cực phát sinh trong quá trình phát triển kinh tế tư nhân.
Thứ hai, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển kinh tế tư


nhân. Nhà nước cần đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đẩy nhanh
quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Tiếp tục hoàn
thiện cơ chế, chính sách thu hút đầu tư tư nhân vào hoạt động kinh tế tư nhân theo
cơ chế thị trường. Không biến các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân

thành chính sách bao cấp, phục vụ "lợi ích nhóm" dưới mọi hình thức. Tạo điều
kiện để kinh tế tư nhân đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh trong những ngành,
lĩnh vực mà pháp luật không cấm, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội quốc gia. Đẩy mạnh xã hội hóa, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân tham gia
cung cấp dịch vụ công, tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hỗ trợ
kinh tế tư nhân tiếp cận, khai thác các cơ hội trong hội nhập quốc tế, mở rộng thị
trường, đẩy mạnh đầu tư và thương mại quốc tế. Tạo điều kiện để kinh tế tư nhân
phát triển, nâng cao năng lực từng bước tham gia sâu, vững chắc vào chuỗi giá trị
khu vực và toàn cầu.
Thứ ba, hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát
triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích, hỗ trợ kinh tế
tư nhân đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển. Chuyển giao công nghệ
tiên tiến. Bảo đảm thực thi hiệu quả pháp luật về sở hữu trí tuệ. Phát triển các quỹ
hỗ trợ đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ. Áp dụng chính sách thuế, hỗ trợ
tài chính, tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi phù hợp với hoạt động nghiên cứu, đổi
mới, hiện đại hóa công nghệ. Đẩy mạnh thực hiện chiến lược quốc gia về phát triển
nguồn nhân lực. Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, đặc biệt là đào tạo nghề,
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng đủ nhu cầu số lượng và chất
lượng nhân lực cho phát triển kinh tế tư nhân. Tăng cường hợp tác, liên kết chặt
chẽ giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo. Phát triển đào tạo theo nhu cầu sử dụng
của doanh nghiệp và thị trường. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ
doanh nhân có trình độ chuyên môn cao, kỹ năng quản lý hiện đại, đạo đức kinh


doanh và tinh thần trách nhiệm cao.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Cần xây dựng khung pháp lý tạo điều
kiện thuận lợi hơn, bình đẳng hơn cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển. Nâng
cao năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả pháp luật, chính sách, tạo
môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, an toàn cho kinh tế tư nhân phát triển lành
mạnh, đúng định hướng. Tăng cường hiệu quả công tác giám sát, kiểm tra, trách

nhiệm giải trình của chính quyền địa phương các cấp đối với việc chấp hành chủ
trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân. Xử lý
nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, không làm ảnh hưởng đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đơn giản hóa, rút ngắn thời gian xử lý các
thủ tục hành chính thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh, cấp phép, thuế,
giải quyết tranh chấp,… Tăng cường cơ chế đối thoại có hiệu quả giữa cơ quan
quản lý nhà nước với doanh nghiệp nhằm nắm bắt và xử lý kịp thời các vướng mắc
liên quan đến phát triển kinh tế tư nhân.
Thứ năm, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, nâng cao vai trò của các
tổ chức chính trị - xã hội. Nhà nước tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách đối với
doanh nghiệp tư nhân, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tư
nhân phát triển. Mạnh dạn giao cho các doanh nghiệp tư nhân có đầy đủ điều kiện
đảm nhiệm các lĩnh vực quan trọng của Nhà nước. Chỉ nên giữ lại các doanh
nghiệp nhà nước mang tính chủ đạo. Kinh tế tư nhân không chỉ là quan trọng mà là
đầu kéo quan trọng để phát triển kinh tế. Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị xã hội trong phát triển kinh tế tư nhân. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ
chức xã hội - nghề nghiệp, tích cực phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước để
cung cấp thông tin, hỗ trợ liên kết, hợp tác kinh doanh, đào tạo kỹ thuật và tư vấn
cho doanh nghiệp tư nhân.


×