Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Bài học từ các tư tưởng giáo dục cổ đại cho phát triển giáo dục VN và thực tiễn đơn vị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.43 KB, 27 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Hiện nay muốn phát triển nhanh và bền vững thì các quốc gia phải quan tâm đến
giáo dục, coi đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho sự phát triển. Đổi mới giáo dục
ngày nay đã trở thành một yêu cầu cấp bách và là sự sống còn của mỗi quốc gia. Hầu hết
các quốc gia trên thế giới đang không ngừng cải cách, đổi mới giáo dục để thích ứng với
xu thế phát triển mới mẻ và năng động của toàn nhân loại, đồng thời để tạo ra những
nguồn lực mới phục vụ cho nhu cầu phát triển xã hội trong bối cảnh mới.
Đối với Việt Nam hiện nay, đổi mới giáo dục đang là vấn đề được toàn Đảng,
toàn dân hết sức quan tâm, coi đó là chìa khóa để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Đổi mới giáo dục cần được tiếp thu và phát
huy những yếu tố tích cực của tư tưởng giáo dục và nền giáo dục trước đây.
Nền giáo dục cũ của nước ta chịu ảnh hưởng không ít bởi tư tưởng giáo dục cổ
đại. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã
khẳng định: Đổi mới giáo dục cần phải “tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa,
truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại”. Như vậy, để đáp ứng yêu cầu
phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi phải đổi mới căn bản và toàn
diện nền giáo dục nước nhà. Ngoài ra đổi mới giáo dục phải đặc biệt quan tâm đến sự
phát triển năng lực và phẩm chất người học; phải kết hợp hài hòa giáo dục đạo đức với
giáo dục trí, thể, mỹ; phải gắn kết dạy người, dạy chữ và dạy nghề; vừa phát triển những
giá trị truyền thống vừa sáng tạo những giá trị mới phù hợp với thời đại mới. Vì thế, kế
thừa và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc, tiếp thu một cách sáng tạo
những tư tưởng và kinh nghiệm giáo dục quý báu đã được tích lũy trong lịch sử nhân loại
để góp phần vào sự nghiệp đổi mới và phát triển giáo dục nước ta hiện nay là một yêu
cầu tất yếu, khách quan.
Trong lịch sử phát triển, nền giáo dục Việt Nam đã tiếp thu rất nhiều thành tựu
của giáo dục nhân loại. Một trong những di sản quý báu đó là tư tưởng giáo dục cổ đại
của Khổng Tử và Platon.
Từ thực trạng trên tôi lựa chọn đề tài: “Bài học từ các tư tưởng giáo dục thời
cổ đại cho sự phát triển của giáo dục Việt Nam trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện


nay và thực tế ở đơn vị” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
- “Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử” của Trần Cảnh Bàn (Nhà xuất bản Nhân
dân Hồ Bắc, Trung Quốc, 2008) đã trình bày khá rõ nét tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
từ cái nhìn hiện đại.
- “Vận dụng tư tưởng giáo dục của Platon trong sự nghiệp đổi mới căn bản toàn
diện giáo dục – đào tạo ở Việt Nam hiện nay” cảu Th.S Bùi Hùng Vương và TH.S Bùi
Ngọc Bích Thủy đăng trên Tạp chí giáo dục số 380 kì 2 tháng 4 năm 2016 đã trình bày
nội dung cơ bản triết lý giáo dục cảu Platon và việc vận dụng tư tưởng giáo dục của
Platon trong sự nghiệp đổi mới căn bản toàn diện giáo dục – đào tạo ở Việt Nam hiện
nay.
- “Quan niệm của Nho giáo về giáo dục con người” của Nguyễn Thị Nga, Hồ
Trọng Hoài (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003).
1


- “Khổng Tử” của Nguyễn Hiến Lê (Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội,
2006) đã trình bày ngắn gọn một số nội dung cơ bản trong học thuyết của Khổng Tử như:
“chính danh”, “đức trị”, “tu thân’, “phải học”, “dưỡng dân”, “giáo dân”, “đạo làm
người”.v.v.. Nghiên cứu những nội dung này giúp tôi có thêm những gợi ý để phân tích
một số nội dung giáo dục của Khổng Tử.
- Bài viết “Nhân trong Luận ngữ của Khổng Tử” của tác giả Lê Ngọc Anh (Tạp
chí Triết học, số 3, 2004) đã phân tích sâu sắc phạm trù “Nhân” – một phạm trù quan
trọng trong nội dung giáo dục của Khổng Tử.
- Bài viết “Quan niệm về thế giới và con người trong triết học Khổng Tử” của tác
giả Doãn Chính (Tạp chí Triết học, số 11, 2005) đã trình bày những nét cơ bản trong
quan niệm của Khổng Tử về thế giới, về con người thể hiện qua các phạm trù như “đạo”,
“thiên mệnh”, “nhân”, “nghĩa”, “trí”…
- “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2011) đã trình bày những chỉ đạo cơ bản về “đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục

và đào tạo” của Đảng ta trong thời kỳ mới.
- Luật Giáo dục (Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, 2012) là văn bản pháp lý quy định rõ
về hệ thống giáo dục quốc dân; nhà trường, cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo dục
quốc dân, của cơ quan nhà nước, của tổ chức chính trị - xã hội; tổ chức và cá nhân tham
gia hoạt động giáo dục, đồng thời quy định cụ thể về mục tiêu giáo dục; tính chất,
nguyên lý giáo dục; yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục.v.v..
- Tác phẩm “Hồ Chí Minh: Toàn tập” tập 1 và tập 2 (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995); “Hồ Chí Minh: Toàn tập” tập 4, tập 6 và tập 9 (Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002) đã trình bày nhiều quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục. Tư
tưởng của Người về phát triển sự nghiệp giáo dục thể hiện tập trung khát vọng hướng
tới một nền giáo dục văn minh, tiến bộ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của tiểu luận là phân tích một cách có hệ thống tư tưởng
giáo dục cổ đại từ mục đích, đối tượng, đến nội dung và phương pháp giáo dục để qua đó,
rút ra ý nghĩa của tư tưởng giáo dục cổ đại đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục ở Việt
Nam hiện nay và của đơn vị công tác tại Trường THPT Đầm Dơi huyện Đầm Dơi, tỉnh
Cà Mau.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tiểu luận tập trung làm rõ những nội dung chủ yếu sau:
- Phân tích, khái quát những điều kiện và tiền đề chủ yếu cho sự hình thành tư tưởng giáo
dục của Khổng Tử.
- Phân tích, làm rõ một số nội dung chủ yếu trong tư tưởng giáo dục cổ đại.
- Bước đầu rút ra ý nghĩa của tư tưởng giáo dục cổ đại đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục
Việt Nam hiện nay và của cơ quan đơn vị đang công tác.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ đặt ra cho đề tài, tôi vận dụng những
quan điểm biện chứng duy vật của triết học Mác – Lênin, phương pháp lịch sử triết học
kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: phương pháp diễn
dịch, quy nạp; phương pháp phân tích, luận giải; phương pháp đối chiếu - so sánh;

phương pháp lôgic - lịch sử; phương pháp tổng hợp, khái quát.
2


5. Ý nghĩa của đề tài

5.1. Về mặt lý luận
- Từ góc độ và phương pháp tiếp cận triết học khoa học, tiểu luận bước đầu trình bày khái
quát các điều kiện và nhân tố tác động đến sự hình thành tư tưởng giáo dục của cổ đại.
- Phân tích và hệ thống hóa những nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo dục của cổ đại.
- Rút ra và bước đầu phân tích ý nghĩa từ tư tưởng giáo dục của cổ đại đối với đổi mới
giáo dục nước ta hiện nay.
5.2. Về mặt thực tiễn
- Tiểu luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu và học tập về tư
tưởng giáo dục cổ đại. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của tiểu luận có thể vận dụng vào
sự nghiệp đổi mới nền giáo dục nước ta hiện nay, vận dụng vào sự nghiệp giáo dục của
đơn vị công tác - Trường THPT Đầm Dơi.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, còn có phần nội dung với 3 chương và 6 tiết.

3


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CÁC TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC THỜI CỔ ĐẠI
1. Tư tưởng giáo dục Khổng tử
Hạt nhân tư tưởng mà Khổng Tử đề xướng và truyền bá trong các lớp môn sinh
là “NHÂN”, chữ Nhân theo quan niệm của Ông mang một ý nghĩa rộng lớn, gắn bó
chặt chẽ với ĐẠO – Đạo Đức – lòng yêu thương con người, yêu thương vạn vật. Theo
Khổng Tử, gốc của Nhân là hiếu đễ lễ nghĩa, trung thực vị tha, xã thân cứu người như

chính Khổng Tử đã nói: “Theo ta, người có đức Nhân là: Bản thân mình muốn đứng
vững trong cuộc sống thì phải giúp người khác đứng vững trong cuộc sống. Mọi việc
đều có thể từ mình mà nghĩ đến người khác, có thể nói đó là biện pháp thực hiện điều
Nhân”. (Luận Ngữ - Ung dã). Nhân theo Khổng Tử còn là: “kỷ sở bất dục, vật thi ư
nhân”. Để thực hiện được Nhân, Khổng Tử cho rằng con người phải có Lễ. Lễ là các
quy phạm đạo đức hợp thành một hệ thống qui tắc xử thế. Trong suốt cuộc đời làmThầy
của mình, bên cạnh dạy chữ, bao giờ Khổng Tử cũng chú trọng vào dạy người, ở đây đề
cao thuyết Đức trị.
Phần Học thuyết mà nội dung được Khổng Tử áp dụng vào lãnh vực giáo dục ,
mang tính nhập thế và tích cực, Ông đề xướng “thuyết Tôn Hiền”. Những tư tưởng ấy
của Khổng Tử trong bối cảnh rối ren của xã hội đương thời rất khó thực hiện, song đó là
những quan điểm có giá trị được thế hệ sau kế thừa, phát triển và đến nay vẫn còn đáng
trân trọng về chủ trương, nội dung và cả phương pháp giáo dục.
1.1. Mục tiêu giáo dục của Khổng Tử
Mục tiêu giáo dục của Khổng tử là đào tạo, bồi dưỡng người “Nhân”, “Quân Tử”
để làm quan, điều hòa mâu thuẫn giai cấp, “khôi phục lễ nghĩa” trong xã hội đầy rối ren.
Xét về mặt chính trị về cơ bản có vẻ bảo thủ, nhưng về giáo dục thì mang tính tiến bộ
và vượt thời đại.
Theo Khổng Tử, học để làm người Quân Tử với chí khí của bậc Đại Trượng Phu
– hình mẫu của con người trong xã hội phong kiến. Người quân tử trước hết phải tu
dưỡng đạo đức thì mới có thể làm việc lớn (tề gia, trị quốc, bình thiên hạ). Khổng Tử
quan niệm: “người quân tử ăn không được đầy đủ, ở không được yên vui, làm việc
siêng năng và thận trọng với lời nói, tìm người đạo đức để sửa mình; như vậy mới được
coi là người ham học”. Khổng Tử không chỉ quan tâm đến việc nuôi dân, dưỡng dân mà
còn quan tâm đến việc giáo hóa dân. Nuôi dân, dưỡng dân là chăm lo về đời sống vật
chất, giáo dân là lo cho dân về đời sống tinh thần. Với quan điểm này, giáo dục góp
phần làm nên bản chất xã hội của con người. Với mục đích giáo dục này, Khổng Tử đã
thể hiện tư tưởng vượt thời đại :một xã hội muốn phát triển vững mạnh phải có con
người đủ Đức, đủ Tài.
Tuy nhiên, mục đích giáo dục của Khổng Tử còn là nhằm thực hiện mục đích

chính trị của Nho gia, là thể hiện tư tưởng Thân Dân của nhà cầm quyền. Bởi vì người
làm quan có giáo dục sẽ hiểu được chức phận của mình không làm điều hại dân, ngưòi
dân có giáo dục sẽ hiểu được nghĩa vụ và quyền lợi của mình để thực hiện.
1.2. Chủ trương giáo dục của Khổng Tử
Chủ trương giáo dục của Khổng Tử là Bình Dân giáo dục, đây là chủ trương tiến
bộ trong bối cảnh lịch sử bấy giờ.
4


Trong “Luận ngữ”, Khổng Tử chủ trương “hữu giáo vô loại”, bầt cứ ai chỉ cần
“đem cho thầy một bó nem” là ông đều nhận làm học trò, không phân biệt giai cấp, quý
tiện, sang hèn.
1.3. Nội dung giáo dục của Khổng Tử
Nội dung giáo dục luân lý đạo đức của Khổng Tử được thể hiện trong “Luận
ngữ”. “Luận ngữ” chủ trương rèn luyện tính Thiện cho dân bằng phương pháp “cất nhắc
người tốt, dạy dỗ người không tốt thì dân khuyên nhau làm điều thiện”. Mục đích giáo
dục còn thể hiện cho dân không làm điều ác, không phạm tội. Nếu không giáo hóa dân,
để dân phạm tội rồi giết, như vậy tàn ngược. Với quyết định này, thì trước hết phải dạy
cho dân biết điều thiện, ác để mà thực thi.
Bên cạnh giáo dục đạo đức, chúng ta có thể suy thấy nội dung dạy học của ông
gồm 4 mặt: “những kẻ theo ta ở nước Trần, nước Sái nay đều không đến trường cùa ta
nữa. Môn đức hạnh: thì có Nhan Uyên, Mẫu Tử – Khiên, Nhiễm Bá – Ngưu, Trọng
Cung; khoa ngôn ngữ: thì có Tể Ngã, Tử Cống ; môn chính trị, thì có Nhiễm Hữu, Qúy
Lộ; môn văn học: thì có Tử Du, Tử Hạ”. Ở đây Khổng Tử chưa hẳn phân ngành để dạy,
nhưng trên thực tế thì có 4 nội dung đó, và biết phân biệt ra 4 mặt như vậy mà dạy, “tùy
tính chất mà dạy”, thì quả thật đây là một tiến bộ rất lớn trong lịch sử giáo dục mà đến
nay còn nguyên giá trị. Chính công việc truyền dạy của Ông đã có tác dụng tích cực rất
lớn đối với lịch sử văn hóa.
Nội dung giáo dục của Khổng Tử bao gồm những chủ trương nhắm vào việc
phục vụ quan điểm chính trị, cũng như vào việc cải tạo xã hội đương thời. Ông tuyệt

nhiên không phải dạy “văn học”, dạy “ngôn ngữ”. Khổng Tử rất coi trọng việc học Kinh
Thi, không học Kinh Thi thì không biết gì để nói. Theo Khổng Tử, Kinh Thi có thể làm
cho ta phấn khởi, có thể làm cho ta đoàn kết, có thể làm cho ta biết căm thù, gần thì để
thờ cha mẹ, xa thì thờ vua, nhưng căn bản là bồi dưỡng đức hạnh, kiến thức, để “thờ
cha”, “thờ vua”.
Ngoài ra, nội dung giáo dục của Khổng Tử còn thể hiện trong việc giáo hóa huấn
luyện kỹ năng thực hành cho dân. Khổng Tử cho rằng “Bậc thiện dạy dân bảy năm thì
có thể dùng dân vào việc chiến đấu được”, “đưa dân không được dạy dỗ ra đánh giặc,
tức là bỏ dân”. Quan điểm này thể hiện trong quan niệm của Khổng Tử ít nhiều quý
trọng sinh mệnh con người, dù đó là tính mạng của thứ dân bách tính tầm thường.
1.4. Phương pháp giáo dục của Khổng Tử
Về mặt phương pháp dạy học, Ông có một số quan điểm cá biệt có tính cách
Thực Tiễn Tiến Bộ,vượt thời gian đến nay vẫn còn ý nghĩa thời sự trong việc dạy học
và cách tổ chức thi cử ở nước ta hiện nay. Phương pháp giáo dục của Khổng Tử thể
hiện:
Thứ nhất, học như thế nào?
Theo Khổng Tử người học phải có nhu cầu nhận thức, ham hiểu biết, khám phá
cái mới; phải độc lập suy nghĩ và sáng tạo trong quá trình nhận thức. Người dạy không
chỉ truyền đạt tri thức mà cái cơ bản là dạy năng lực sáng tạo, dạy phương pháp để
người học tự tìm đến tri thức. Ông nói: “kẻ nào không cố công tìm kiếm, ta chẳng chỉ
vẽ. Kẻ nào không bộc lộ tư tưởng của mình, ta chẳng khai sáng cho. Kẻ nào ta dạy mà
không biết hay ta chẳng dạy”. Trong quá trình học, Khổng Tử bắt học trò phải suy nghĩ,
“học không suy nghĩ thì vô ích. Suy tư mà không học thì kết quả cũng chỉ bằng không”.
5


Ngoài ra, Khổng Tử còn đề cao việc ứng dụng vào cuộc sống những điều đã học.
Ông nói: “Như có ai đã đọc thuộc hết ba trăm thiên trong Kinh Thi, được bậc quốc
trưởng trao quyền hành chính cho mình, nhưng cai trị chẳng xuôi; được phái đi sứ đến
các nước ở bốn phương, nhưng tự mình chẳng có tài ứng đối, người ấy dẫu học nhiều

cũng trở nên vô ích” (Luận Ngữ, Tử Lộ)
Thứ hai, thái độ của người học và người dạy:
- Đối với người học:
Theo Khổng Tử, ngoài học Thầy, học trong sách vở còn học cả trong cuộc sống
“ba người cùng đi, tất có người làm thầy; lựa cái hay của người này mà học, xét cái
quấy của người kia mà tự sửa mình”, tư tưởng này rất tiến bộ. Chúng ta có thể học mọi
lúc, mọi nơi, mọi người trong bất cứ hoàn cảnh nào. Đặc biệt, Khổng Tử coi trọng
nguyên tắc làm gương. tập cho mọi người và những hình thức học tập thường xuyên”.
Trong thời kỳ hội nhập hiện nay, khoa học kỹ thuật công nghệ luôn luôn thay
đổi. Do đó, nếu ta thụ động, không tiếp thu tri thức thì sẽ lạc hậu và không theo kịp xu
hướng phát triển của thời đại. Vì vậy ta phải luôn học tập, trao dồi kiến thức trong mọi
hoàn cảnh.
- Đối với người dạy:
Theo Khổng Tử “học không biết chán, dạy người không mỏi mệt” – thái độ dạy
học ấy rất tiến bộ hợp cho mọi thời đại. Ngoài ra, Khổng Tử đặt ra rất nhiều yêu cầu
khắt khe đòi hỏi sự nỗ lực của người học đi theo hướng của thầy đã vạch ra. Về đòi hỏi
này, thông thường trong khi dạy, Khổng Tử giảng giải từng bước một, trả lời những câu
hỏi từng bước, từ chung chung đến cụ thể tuỳ theo sự hiểu biết của người học. Chính
điều này đã phát huy được khả năng suy lý của mình như lời bình trong “Lễ ký” viết:
“Thầy dạy chỉ thúc đẩy, chỉ mở lối soi đường nhưng sự không bức bách, không dẫn dắt
đến cùng ấy lại làm cho học trò thư thái và biết nghĩ suy”.
Ngoài ra, Khổng Tử đòi hỏi khả năng phân tích, tổng hợp của người học để nắm
những phần quan trọng nhất của các vấn đề đặt ra. Lời giảng: “Này, Tứ, sự thông suốt
mọi nhẽ của ta chẳng phải ở chỗ ta học nhiều mà ở chỗ ta để tâm tìm ra đầu mối”,
không phải dành riêng cho Tử Cống mà là yêu cầu đối với tất cả những ai muốn “thông
suốt mọi nhẽ như Ông”. Ngoài ra, Ông còn đòi hỏi sự kết hợp giữa Học và Hành, giữa
tri thức và thực tiễn như đòi hỏi việc vận dụng ba trăm thiên trong Kinh Thi, với việc
hành chính và việc của người đi sứ.
2. Tư tưởng giáo dục Platon
2.1. Nội dung tư tưởng giáo dục Platon

Triết gia Đức Karl Jasper đã từng nói, toàn bộ triết học phương Tây chỉ là những
dòng cước chú dưới những trang sách của Platon. Ông đã để lại cho nhân loại một di
sản triết học lớn bao trùm nhiều lĩnh vực: bản thể luận; nhận thức luận; đạo đức học;
chính trị - xã hội... Trong số các tác phẩm của ông không có tác phẩm nào trực tiếp bàn
một cách hệ thống về giáo dục, nhưng đây lại chính là một chủ đề được đặc biệt quan
tâm. Những tư tưởng triết học về giáo dục được Platon trình bày qua một vài tác phẩm,
trong đó tập trung nhất là tác phẩm Cộng hòa, Luật pháp, Phaedo, Meno. Tư tưởng giáo

6


dục của Platon gắn liền với tư tưởng triết học chính trị, với việc đào tạo các công dân
trong nhà nước lý tưởng.
Platon đề cập đến vai trò của giáo dục ngay trong tác phẩm Phaedo "Vì đi xuống
âm phủ linh hồn không mang theo cái gì trừ giáo dục và cung cách đã sống, hai phạm trù
cực kỳ quan trọng... nghe người ta nói đem lại lợi ích lớn lao hoặc tai ương ghê gớm".
Quan niệm này tiếp tục được khẳng định trong tác phẩm Cộng hòa. Đào tạo các công dân
cho nhà nước lý tưởng là tư tưởng bao trùm của Platon trong tác phẩm này. "Muốn có
được nhà nước lý tưởng cần giáo dục các công dân ngay từ khi còn trẻ, giáo dục đóng vai
trò quyết định hình thành nhân phẩm công dân tương lai... Mọi người được giáo dục theo
hướng nào thì sẽ quyết định đời sống tương lai của họ theo hướng đó". Như vậy, đối
tượng mà nền giáo dục hướng đến là các công dân tương lai của nhà nước lý tưởng. Theo
Platon, cần phải lựa chọn và đào tạo các thành viên trong quốc gia dựa trên cơ sở tôn
trọng tài năng, qua đó tạo điều kiện cho phép họ phát huy những phẩm hạnh tương ứng
với bổn phận và trách nhiệm trong tương lai. Điều này có thể thực hiện thông qua một
nền giáo dục dân chủ.
Platon coi trọng giáo dục, nhưng không phải là nền giáo dục cưỡng chế, áp đặt từ
bên ngoài mà phải là một nền giáo dục phù hợp với năng khiếu tự nhiên của con người
"Giáo dục không phải là cái được định nghĩa bởi một số người chủ trương đưa tri thức
vào một linh hồn không có nó, như thể họ có thể đưa ánh sáng vào những con mắt mù

lòa". Trong thời đại Platon sống, xã hội Hy Lạp đang chịu ảnh hưởng giáo dục của các
nhà Ngụy biện. Họ tạo nên một nền giáo dục sai lầm, có thể dẫn đến sự suy đồi của chính
các triết gia vì mục đích của các nhà Ngụy biện là dạy con người chiến thắng bằng mọi
cách trong tranh luận. Từ thực tiễn như vậy, ông đòi hỏi xây dựng một lối giáo dục đúng
đắn, phù hợp với năng khiếu tự nhiên của mỗi người. "Nếu các công dân của chúng ta
được giáo dục tử tế và lớn lên thành những con người biết lý lẽ, thì họ sẽ dễ thấy rõ con
đường họ phải theo giữa biết bao nhiêu điều khác.... Việc dưỡng dục tốt sẽ cấy trồng
được những thể chất tốt và những thể chất tốt ăn rễ sâu trong nền giáo dục tốt sẽ ngày
càng tiến bộ, và sự tiến bộ này sẽ ảnh hưởng đến nòi giống nơi con người và loài vật".
Theo Platon, các thiên khiếu bẩm sinh to lớn nhất, nếu bị giáo dục trệch hướng, sẽ trở
thành những con người xấu một cách tột độ. Những ai được giáo dục đúng đắn đều trở
thành người tốt. "Không được xem thường giáo dục, vốn là điều đầu tiên và đúng đắn
nhất mà một người tốt luôn phải có và là cái, dù có bị trệch hướng, vẫn có thể sửa đổi
được. Công việc sửa đổi này là việc lớn lao trong đời mỗi người khi còn sống". Giáo dục
mà Platon nói đến phải là nền giáo dục công lập. "Hãy để người bảo vệ luật pháp, cũng là
người bảo vệ giáo dục theo dõi sát sao và chú tâm đặc biệt đến việc rèn luyện con cái
chúng ta, dẫn dắt bản tính chúng và luôn luôn hướng chúng đến điều tốt theo pháp luật"
Đối tượng được tuyển chọn vào hệ thống giáo dục phải là những người lành
mạnh cả về thể chất và tinh thần. Chính vì vậy, giai đoạn đầu tiên của giáo dục là sự đào
luyện tính cách nhờ đó học sinh biết tự chủ về tâm hồn và thể xác để trang bị cho họ
chống lại những cám dỗ của giác quan và sự a dua theo các ý kiến thời thượng. Để thực
hiện điều đó hai môn học đầu tiên phải dạy cho trẻ là môn âm nhạc và thể dục "Nền giáo
dục có hai phần, thể dục cho thân thể và âm nhạc cho tâm hồn".
7


Theo Platon, giai đoạn đầu tiên của giáo dục là nhằm rèn luyện tính cách cho con
người, sao cho họ trở thành những con người cân đối, hài hòa, không bị lệ thuộc vào các
đam mê thể xác. "Trong khi sống ... sẽ gần gũi hiểu biết hơn hết nếu kìm hãm càng mạnh
càng tốt kết hợp với thân xác, hoặc tăng gia tiếp xúc với thể xác nhiều hơn cần thiết, nếu

không bị nhiễm độc vì bản chất thể xác, nhưng thanh tẩy bản thân tới khi thần linh giải
thoát".
Giai đoạn thứ hai của giáo dục là đưa vào các môn học tri thức trừu tượng như:
Thiên văn học, số học, hình học. Trong số các môn khoa học và nghệ thuật thì toán học
được coi là đứng đầu, đồng thời là một dạng lý tưởng mà các môn nghệ thuật và khoa
học hướng đến.
Mục đích cao nhất của nền giáo dục của Platon là đào tạo người cầm quyền trong
nhà nước lý tưởng với các phẩm chất cơ bản: Thông thái, can đảm, tiết độ, công bằng.
Những con người có đủ những phẩm chất đó là những người tài giỏi, khôn ngoan nhất,
đức hạnh nhất. Can đảm theo Platon có hai loại, một loại can đảm giúp cho con người
chống lại sợ hãi và dạy họ chịu đựng được gian khổ; và một loại khuyến khích con người
chống trả các cuộc tấn công âm ỉ của khoái lạc và ham muốn. Muốn vậy, họ phải được
giáo dục ngay từ đầu để chống lại sự cám dỗ của khoái lạc. Platon đặc biệt nhấn mạnh
đến giáo dục các phẩm hạnh đạo đức cho con người, trong đó đã bao hàm khả năng trí
tuệ của con người.
Quan niệm của Platon về sự bất tử của linh hồn, về vòng luân hồi của các linh
hồn có ý nghĩa lớn trong giáo dục đạo đức cho con người khi đang sống. Những người
chết trước tiên được xét xử theo các hành vi họ đã làm và những kẻ không trị nổi sẽ bị
ném vào vực Tartarus và không bao giờ được lên khỏi đó. Những người chỉ phạm những
tội nhẹ thì trước tiên phải được tẩy sạch những tội đó, rồi được thưởng vì các việc lành
họ đã làm. Những người phạm tội ác to lớn mà không được tha thì bị ném vào dòng xoáy
vô tận của các con sông trong vực Tartarus. Những linh hồn thanh sạch cũng nhận phần
thưởng và được ở trên phần đất cao, một ít người được tuyển chọn còn được ở "nơi ở"
đẹp hơn. Trong quan niệm của Platon, bản tính con người được qui định sẵn từ phần linh
hồn của họ, vì vậy mọi điều khác đều dựa vào linh hồn và mọi điều của linh hồn đều dựa
vào sự khôn ngoan, nếu chúng muốn là những điều tốt đẹp. "Tất cả những gì mà linh hồn
cố gắng chịu đựng, khi được sự khôn ngoan hướng dẫn, thì dẫn đến hạnh phúc; nhưng
khi chịu sự điên rồ hướng dẫn thì ngược lại".
Thực chất, tư tưởng triết học giáo dục của Platon hướng đến một bộ phận tầng
lớp quý tộc trong xã hội chứ không phải cho tất cả mọi người dân, vì ông quan niệm

không thể đưa giáo dục vào những linh hồn không thể có nó. Đồng thời, ông cũng đánh
giá thấp bằng chứng của giác quan trong việc tìm ra chân lý, xem thường các cuộc thí
nghiệm và thu thập các dữ liệu quan sát; ác cảm với nghệ thuật, coi nghệ thuật là mối
nguy hiểm cho linh hồn chúng ta (trong xã hội lý tưởng nghệ thuật không được thừa
nhận). Tuy nhiên, tư tưởng giáo dục của Platon cũng đặt ra một vấn đề mà giáo dục cần
quan tâm là làm thế nào để con người có thể tiếp nhận sự giáo dục một cách tự nhiên, phù
hợp với năng lực tự nhiên của mỗi người. Đồng thời Platon cũng đặc biệt nhấn mạnh đến
giáo dục nhân cách, đạo đức cho con người trước khi truyền thụ những tri thức khoa học
trừu tượng, như vậy dưới dạng sơ khai có thể hiểu mục đích của giáo dục là dạy làm
người, điều mà mọi nền giáo dục hướng đến.
8


Gắn liền với tư tưởng giáo dục, quan niệm của Platon về lựa chọn những người
cầm quyền đủ tài và đức để nắm quyền là biện pháp để loại bỏ những kẻ bất tài, bip bợm
ra khỏi chính quyền. Những người có đủ các phẩm chất trên đây để lãnh đạo quốc gia
theo Platon chính là các triết gia. Chỉ khi nào các quốc vương là các triết gia và các triết
gia trở thành các quốc vương, khi đó sẽ không còn mọi bất công và tệ nạn xã hội. Tuy
nhiên Platon cũng chuyển tải cho chúng ta một thông điệp đầy ý nghĩa: người lãnh đạo
quốc gia nhất thiết phải là những người có tri thức, hiểu biết đến độ có thể thâm nhập tới
bình diện thực tại nền tảng ẩn dưới những hiện tượng bề mặt. Có như vậy mới có thể xây
dựng được các quyết sách phát triển đất nước phù hợp với thực tại xã hội. Platon chủ
trương, những người cầm quyền phải là những người ưu tú nhất và phải được huấn luyện
chu đáo nhất, chỉ những người được hoàn thiện nhờ thời gian và giáo dục mới được giao
trọng trách của nhà nước.

9


CHƯƠNG II:

BÀI HỌC TỪ CÁC TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỔ ĐẠI CHO
PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
2.1. Sự vận dụng quan niệm của Khổng Tử về giáo dục vào sự nghiệp giáo
dục ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay, nền giáo dục nước ta hiện nay đang đứng trước những thời cơ và thách
thức lớn, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải đưa ra những đường lối, chính sách và biện
pháp đúng đắn phù hợp để giải quyết những khó khăn, tiếp tục đưa sự nghiệp giáo dục
phát triển và đạt được những thành tựu to lớn hơn.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày nay, muốn xây dựng một nền giáo dục
toàn diện, tiên tiến, nhân văn, chúng ta phải biết kết hợp những nhân tố truyền thống và
hiện đại. Quan niệm của Khổng Tử về giáo dục là một trong những nhân tố có vai trò chủ
đạo trong việc hình thành và phát triển nền giáo dục Việt Nam thời kỳ phong kiến, trải
qua 10 thế kỉ nền giáo dục này đã đóng vai trò to lớn trong việc xây dựng và phát triển
đất nước về nhiều mặt, trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Mặc dù quan niệm của
Khổng Tử về giáo dục có không ít hạn chế và tiêu cực, nhưng cho đến nay nó vẫn còn
những giá trị hết sức tích cực, những bài học kinh nghiệm hết sức bổ ích mà chúng ta cần
kế thừa và vận dụng để xây dựng nền giáo dục nước nhà đáp ứng được những yêu cầu
của sự phát triển nói chung hiện nay.
Nghiên cứu quan niệm của Khổng Tử về giáo dục với tư cách là một nhân tố
truyền thống và nhất là tiếp thu và vận dụng những giá trị tích cực của nó vào sự nghiệp
giáo dục ở Việt Nam là hết sức cần thiết là cho nền giáo dục Việt Nam vừa đậm chất dân
tộc, vừa mang tính hiện đại. Trong quá trình nghiên cứu để vận dụng quan niệm đó vào
sự nghiệp giáo dục ở nước ta đòi hỏi chúng ta phải tuân thủ các nguyên tắc thế giới quan
duy vật biện chứng đúng đắn của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để kế
thừa có chọn lọc và vận dụng một cách sáng tạo phù hợp với yêu cầu thực tế của đất
nước ta.
2.1.1. Vận dụng quan niệm của Khổng Tử về giáo dục đối với việc xác định
phương châm giáo dục ở Việt Nam hiện nay
Bài học đầu tiên được rút ra trong quan niệm của Khổng Tử về giáo dục là
phương châm, chiến lược giáo dục - đào tạo con người. Theo Khổng Tử, một trong

những mục đích căn bản của giáo dục là đào tạo ra những mẫu người lý tưởng, đó là
người quân tử có đủ đức, đủ tài, có nhân, có lễ, nghĩa… và năng lực để xây dựng một xã
hội lý tưởng. Mục đích của sự học theo Khổng Tử không phải chỉ để được hưởng bổng
lộc, vinh hiển, danh vọng mà chủ yếu là đem tài năng, trí tuệ của mình ra giúp nước, giúp
dân, phục vụ và bảo vệ chế độ. Qua đây, có thể thấy rằng, Khổng Tử đã coi việc giáo dục
đào tạo con người là trọng tâm, là điểm xuất phát, là mục tiêu và là động lực của sự phát
triển xã hội. Có nghĩa là, từ rất sớm Khổng Tử đã nhận thấy được vai trò của giáo dục,
vai trò quan trọng của nhân tố con người trong tiến trình lịch sử. Theo Khổng Tử, muốn
xây dựng một xã hội lý tưởng thì trước hết, phải đào tạo con người có đủ năng lực, phẩm
chất tương ứng. Tiếp thu quan điểm này trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, trong sự
nghiệp xây dựng và bảo về Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chủ tịch Hồ Chí Minh đã
10


nêu lên tư tưởng chiến lược về giáo dục: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần
phải có những con người xã hội chủ nghĩa”.
Ngày nay, nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện thành công mục tiêu đó, nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu là chúng ta phải đào tạo ra những con người mới, con người xã hội chủ
nghĩa, đặc biệt là chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ - một trong những nhân tố thúc đẩy
mạnh mẽ sự phát triển xã hội. Như vậy, về căn bản con nguời Việt Nam trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa vẫn phải là những con người phát triển một cách toàn
diện. Nếu thiếu đi một đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa có đức, vừa có tài, vừa “hồng” lại
vừa “chuyên” như lời chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn thì không thể nói đến việc xây
dựng một đất nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Như chúng ta đã biết, thời đại ngày nay đang chứng kiến sự phát triển như vũ
bão của khoa học - công nghệ, sự bùng nổ của xã hội thông tin và sự chuyển giao công
nghệ trong quá trình toàn cầu hóa. Vì vậy, để có thể lãnh đạo đất nước, đội ngũ cán bộ
phải luôn nâng cao trình độ về mọi mặt. Khi đã nắm vững tri thức, có sự hiểu biết khái

quát, toàn diện mới có thể tận dụng thời cơ, đẩy lùi thách thức mà tình hình thế giới và
trong nước đem lại.
Không chỉ dừng lại ở đó, phương châm, chiến lược trong quan niệm về giáo dục
của Khổng Tử chính là đào tạo những con người lý tưởng, phát triển một cách toàn
diện, không chỉ có tài mà phải còn có đức để thu phục lòng dân một cách tự nhiên, làm
cho dân tin và đi theo mình. Khổng Tử đã từng nói: "Nhà cầm quyền lấy đức làm việc
chính trị cũng ví như ngôi sao Bắc thần, ở yên vị mà các ngôi sao khác chầu về”. Kế
thừa tư tưởng của Khổng Tử, Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đức là gốc của con người”,
việc giáo dục đạo đức, hình thành nhân cách cho con người là một vấn đề trung tâm.
Xét cho cùng, giáo dục góp phần hình thành nhân cách, trong đó đạo đức là gốc và cũng
là mục đích vô cùng cao cả của sự nghiệp giáo dục. Theo đó, việc giáo dục phẩm chất
đạo đức cho đội ngũ cán bộ trong bộ máy nhà nước hiện nay càng trở nên quan trọng.
Bởi lẽ, người lãnh đạo mà có phẩm chất đạo đức tốt, có nhân, có nghĩa thì mới khiến
dân tin và trở thành tấm gương sáng cho dân noi theo. Vì vậy, sự nghiệp giáo dục và
đào tạo ở nước ta hiện nay, bên cạnh việc trang bị, nâng cao tri thức cho con người nhất
là đội ngũ cán bộ, đảng viên thì cần phải bồi dưỡng phẩm chất đạo đức và phải coi giáo
dục đạo đức vừa là yêu cầu trước tiên vừa là mục đích lâu dài trong chiến lược đào tạo
con người. Giáo dục đạo đức vừa là yêu cầu trước tiên, vừa là chiến lược lâu dài trong
chiến lược đào tạo con người. Giáo dục đạo đức là giáo dục những nguyên tắc, những
chuẩn mực đạo đức để con người, mỗi người quy định và điều chỉnh hành vi của con
người với con người, với gia đình và xã hội một cách có đạo đức. Có được đạo đức, sẽ
giúp cho con người tự định hướng cho chính mình, tự mình điều chỉnh những mối quan
hệ giữa cá nhân và xã hội, điều chỉnh những suy nghĩ lệch lạc và ngăn cho nó không
biến thành hành động. Do đó, những quan niệm về đạo đức, luân thường đạo lý trong
quan niệm về giáo dục của Khổng Tử có vai trò quan trọng trong việc góp phần nâng
cao tình cảm, ý chí, trách nhiệm của con người đối với cộng đồng, đối với Tổ quốc.
Việc chú trọng giáo dục đạo đức cho mọi người, mà đặc biệt là cho đội ngũ quan lại
11



trong quan niệm giáo dục của Khổng Tử trước đây, đến ngày nay càng trở nên cần thiết
đối với công xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay. Vì đó là một
trong những phương pháp hữu hiệu để khắc phục sự “tha hóa về phẩm chất đạo đức, lý
tưởng cách mạng của một số không ít cán bộ”, trong bộ máy Nhà nước, trong các cấp,
các ngành.
Theo chiến lược giáo dục, đào tạo cho lớp người lý tưởng của Khổng Tử thì giáo
dục đào tạo ở nước ta hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều thiếu sót. Trong những năm gần đây,
tệ tham nhũng ở Việt Nam ngày càng nghiêm trọng, đã trở thành quốc nạn. Tham nhũng
lại thường nảy sinh từ những cơ quan, tổ chức công quyền, những doanh nghiệp đầu
ngành… Kẻ tham nhũng phổ biến lại chính là những người có chức, có quyền đã suy
thoái đạo đức, đã biến chất. Trong tổng số đó thì số lượng cán bộ công chức nhà nước
chiếm tỷ lệ cao nhất, điều đó đang làm giảm, làm sói mòn niềm tin của nhân dân vào sự
nghiệp cách mạng, vào Đảng, vào Nhà nước. Để khắc phục tình trạng và những biểu hiện
thoái hóa, biến chất này, bên cạnh việc sử dụng pháp luật một cách nghiêm minh và kịp
thời thì một biện pháp hữu hiệu, có tác dụng triệt để chính là giáo dục đạo đức, rèn luyện
nhân cách, lối sống cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Nếu pháp luật và những hình
phạt chỉ có tác dụng tức thời thì giáo dục đạo đức có tác dụng sâu xa ngay trong việc điều
chỉnh hành vi, suy nghĩ, lối sống và hành động của con người, do vậy pháp luật chỉ là
những yêu cầu tối thiểu thì đạo đức là những yêu cầu tối đa, để đạt tới chân giá trị. Như
vậy, những giá trị đạo đức trong quan niệm về giáo dục của Khổng Tử, đặc biệt là về
nhân cách của những người quân tử vẫn còn giữ nguyên giá trị và bài học về phương
châm - chiến lược giáo dục của Khổng Tử, vẫn còn ý nghĩa tới tận ngày hôm nay. Theo
đó, trong sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam hiện nay cần phải chú trọng đào tạo ra đội ngũ
cán bộ có đủ đức, đủ tài, một lòng trung thành với chế độ, với sự nghiệp xây dựng và bảo
về Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy, chúng ta cũng cần phải quan tâm đến
việc nâng cao dân trí và đào tạo nguồn nhân lực. Có như vậy mới tạo ra được lực lượng
lao động đông đảo đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Và chỉ có trên nền tảng dân trí cao, nguồn nhân lực có chất lượng mới có điều kiện
để những nhân tài xuất hiện và được sử dụng hợp lý.
2.1.2. Vận dụng quan điểm của Khổng Tử về giáo dục đối với việc xây dựng

xã hội học tập và thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục ở Việt Nam hiện nay
Ngày nay, chúng ta đang sống trong thời đại lịch sử hoàn toàn khác so với thời
Xuân Thu - Chiến Quốc mà Khổng Tử sinh sống, xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa phát
triển, khoa học - công nghệ ngày càng hiện đại. Vì vậy, chúng ta không thể lấy điều kiện
xã hội ngày nay mà đánh giá, phủ định sạch trơn những tư tưởng của Khổng Tử. Qua quá
trình tiếp biến lâu dài, Nho giáo đã là một bộ phận trong kho tàng giá trị truyền thống của
dân tộc. Nghiên cứu các giá trị truyền thống, chúng ta thấy được những yếu tố tích cực,
đồng thời có những hạn chế cần khắc phục. Do đó, cần vận dụng những yếu tố tích cực
sao cho phù hợp với thực tiễn của đất nước. Trong đó, cần tiếp thu tư tưởng “hữu giáo vô
loại” của Khổng Tử, giáo dục cho tất cả mọi người, không phân biệt giàu nghèo, sang
hèn. Ta thấy rằng, với luận điểm “hữu giáo vô loại”, Khổng Tử đã thể hiện bước nhận
thức vượt thời đại, vượt lên trên hoàn cảnh, điều kiện lúc bấy giờ. Tư tưởng này mặc dù
có hạn chế phân biệt người thượng ngu và kẻ hạ trí, bậc quân tử và kẻ tiểu nhân, nhưng
12


đã mở đầu khuynh hướng mở rộng giáo dục cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, trong xã hội
cổ đại, những điều kiện để thực hiện tư tưởng này chưa thuận lợi, xã hội có sự phân chia
đẳng cấp rõ ràng và sự phân công lao động. Sự công bằng bình đẳng chưa có, hệ tư tưởng
của giai cấp đang lên và thống trị nhân dân, họ không muốn và không tạo điều kiện cho
việc thực hiện giáo dục cho mọi người; trong xã hội, tầng lớp dân nghèo không có địa vị,
không có điều kiện để học tập. Do đó, thời Xuân Thu đã không cho Khổng Tử thực hiện
tư tưởng “hữu giáo vô loại” một cách triệt để.
Trong điều kiện hiện nay của nước ta, với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn liền với nền kinh tế tri thức, dưới ánh sáng soi đường của chủ nghĩa xã
hội… chúng ta đủ điều kiện xây dựng một xã hội học tập, đưa giáo dục đến với mọi
người dân. Đây cũng là một nội dung quan trọng trong quá trình xã hội hóa giáo dục ở
nước ta hiện nay. Điều 11 luật giáo dục chỉ rõ: “Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục là mọi tổ
chức, gia đình và công dân đều có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, xây dựng
phong trào học tập và môi trường giáo dục lành mạnh, phối hợp với nhà trường thực hiện

mục tiêu giáo dục. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự nghiệp giáo dục, khuyến khích,
huy động và tạo ra điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục”.
Trong tư tưởng của Khổng Tử, xã hội hóa giáo dục chỉ thể hiện ở phương diện
giáo dục cho tất cả mọi người, xã hội ai ai cũng phải học tập để biết và thực hiện đúng
chức trách, bổn phận của mình. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, xã hội hóa giáo dục
không chỉ thực hiện nền giáo dục cho 100% dân cư được đi học mà phải làm cho mỗi
thành viên trong xã hội đều có ý thức quan tâm đến giáo dục, có trách nhiệm với nền giáo
dục nước nhà. Theo đó, xã hội hóa giáo dục phải được hiểu là giáo dục cho mọi người, cả
nước trở thành “một xã hội học tập”, tạo nên một phong trào học tập toàn dân, toàn quốc.
Xã hội hóa giáo dục còn thể hiện ở việc đảm bảo sự công bằng xã hội giáo dục.
Ngày nay, chúng ta phải nhấn mạnh hơn nữa đến vấn đề công bằng trong giáo dục để mỗi
người dân từ vùng đồng bằng đến miền núi, từ nông thôn đến thành thị, đặc biệt là các
dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa đều có cơ hội học tập và được hưởng thành quả giáo
dục. Xã hội hóa giáo dục, trước hết phải đảm bảo quyền được giáo dục cho mọi người,
quyền được giáo dục là một bộ phận không thể thiếu được của nhân quyền. Bởi vì, con
người trước hết là con người xã hội, cho nên xã hội phải có trách nhiệm, không thể thoái
thác và phải đảm bảo cho con người khi được sinh ra phải được giáo dục, truyền đạt kho
tàng văn hóa, tri thức chung của xã hội và do đó giao trách nhiệm cho họ thực hiện chức
năng con người xã hội của mình. Xác định được mục tiêu đó, Đảng ta chỉ rõ: “Trong giáo
dục đào tạo xuất hiện một số nhân tố mới đã hình thành phong trào học tập sôi nổi của
cán bộ nhân dân, nhất là thanh niên, các loại trường lớp từ phổ thông đến đại học đa dạng
hơn tạo nên cơ hội học tập cho sinh viên”. Theo tinh thần đó Đại hội IX của Đảng đã nêu:
“Xã hội hóa giáo dục là huy động lực lượng của toàn xã hội cùng tham gia vào quá trình
giáo dục đào tạo, đồng thời chính là tạo điều kiện để tất cả mọi người dân được hưởng
thụ các thành quả do hoạt động giáo dục đem lại. Cần khắc phục tình trạng giáo duc - đào
tạo chỉ là công việc của một ngành, cũng như cách hiểu xã hội hóa giáo dục chỉ đơn giản
là tìm cách tăng thêm nguồn thu cho giáo dục từ người học”.
Như vậy, chúng ta thấy xã hội hóa giáo dục là một yêu cầu tất yếu nhằm đáp ứng
được những yêu cầu đa dạng, phong phú của từng ngành từng địa phương, biến nhà
trường từ một thể chế nhà nước thành một thể chế xã hội, một thể chế đa dạng, mềm dẻo

13


và gắn liền với tiến trình phát triển kinh tế, xã hội, đồng thời, đó là sự trở lại ở một trình
độ cao của truyền thống. Tinh thần học tập suốt đời và tư tưởng “hữu giáo vô loại” của
Khổng Tử đã du nhập và được vận dụng vào sự nghiệp giáo dục của Việt Nam hiện nay
là cần thiết.
2.1.3. Vận dụng quan điểm của Khổng Tử về giáo dục đối với việc xác định
nội dung giáo dục ở Việt Nam hiện nay
Như chúng ta đã biết, mục đích và nội dung giáo dục của Khổng Tử chính là giáo
dục "đạo làm người" cho học trò, với những chuẩn mực, quy phạm đạo đức cơ bản trong
xã hội như: nhân, lễ… Nội dung giáo dục của Khổng Tử vẫn còn có ý nghĩa trong việc
xác định nội dung của sự nghiệp giáo dục của Việt Nam hiện nay, nhất là về mặt giáo dục
đạo đức, hình thành nhân cách cho con người.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập
khu vực và thế giới, với những mặt trái của nó đã làm nảy sinh nhiều hiện tượng xã hội
tiêu cực đang có chiều hướng gia tăng, làm băng hoại giá trị đạo đức xã hội. Trước thực
trạng đó, việc tiếp thu, kế thừa và vận dụng nội dung giáo dục của Khổng Tử vào việc
xác định nội dung giáo dục của sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam là hết sức có ý nghĩa và
cần thiết. Tất nhiên, những chuẩn mực đạo đức mà Khổng Tử đề ra trong nội dung giáo
dục như nhân, lễ... thì phải có sự bổ sung, phát triển cho phù hợp với yêu cầu của xã hội
và những yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra ở nước ta hiện nay. Những giá trị nào có ý nghĩa thì
phải đề cao, tiếp thu, phát triển và những yếu tố nào không còn phù hợp thì phải kiên
quyết loại bỏ. Do vậy, vẫn là những chuẩn mực đạo đức cũ nhưng cần bổ sung trong đó
những nội dung, tính chất mới phù hợp với thời đại. Với quan niệm đó, chúng ta có thể
nêu một số vấn đề về chữ “nhân, lễ…”.
Chữ "nhân" trong trong quan hệ giữa mình và người thì phát huy lòng "nhân" lòng yêu thương con người, suy từ ta ra người, cái gì mình không muốn thì không áp đặt
cho người, cái gì muốn cho mình thì làm cho người… chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường
xuyên sử dụng những yếu tố tích cực để vận dụng vào việc giáo dục đạo đức cách mạng.
Đạo người quân tử là sự thống nhất giữa nhân, trí, dũng cần được chuyển đổi về nội

dung, hình thức cho phù hợp với thời đại. Với quan điểm đó, chúng ta có thể nêu lên một
số vấn đề về việc vận dụng các chuẩn mực đạo đức trong nội dung giáo dục của Khổng
Tử vào việc xác định nội dung giáo dục của nước ta hiện nay, nhất là giáo dục đạo đức
như sau:
“Nhân” trong quan niệm của Khổng Tử là lòng thương người, giúp đỡ lẫn nhau,
cái gì mình muốn thì làm cho người, cái gì mình khônng muốn thì không áp đặt cho
người… thì nay được chuyển thành “nhân” là: “lòng nhân ái, nghĩa tình, yêu nước,
thương dân, là tinh thần đại đoàn kết toàn dân, triệu người như một, tình cảm thiết tha,
mạnh liệt đối với Tổ quốc, đồng bào, trung với nước, hiếu với dân”.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế
thừa và phát huy những chuẩn mực đạo đức đó trở thành những chuẩn mực cho đội ngũ
cán bộ trong giai đoạn cách mạng mới. Người thực hiện khẩu hiệu: “chí công vô tư, cần,
kiệm, liêm, chính”. Nếu “không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hư hại
biến thành sâu mọt của dân”; “chính” là làm việc phải “công tâm, công đức”, làm việc gì
cũng phải “công bình, chính trực”, không “tư ân, tư huệ” hoặc “tư thù, tư oán”… Rõ ràng
yếu tố đạo đức được Người ngay từ buổi đầu cách mạng đánh giá là cái nền, cái gốc của
14


người cán bộ cách mạng cũng như của nhân dân. Người đã nhấn mạnh “có tài mà không
có đức là người vô dụng” để nói lên vai trò của đạo đức.
Trong nội dung giáo dục của mình, Khổng Tử không chỉ coi trọng đạo đức mà
còn chú ý tới giáo dục “văn hóa”, “lục nghệ” cho học trò và ông khẳng định “học lễ” và
là cơ sở để hình thành con người phù hợp với lễ chế nhà Chu. Ngày nay, chúng ta cung
chú trọng giáo dục “lễ” cho học sinh. Ngay từ nhỏ mỗi người đã được giáo dục phải
ngoan ngoãn, lễ phép với ông bà cha mẹ, thầy cô giáo, kính trọng người trên… Ở các cấp
học, bậc học, chúng ta cũng chú trọng tới việc giáo dục đạo đức cho học sinh. Đồng thời,
ngày nay nội dung “học văn” được hiểu là việc học hỏi, bồi dưỡng cho con người hệ
thống tri thức của nhân, khả năng sáng tạo, tiếp cận những thành tựu tri thức mới. Vì vậy,
nhiệm vụ chính của giáo dục Việt Nam là cung cấp, truyền thụ cho con người những tri

thức mới và nhân cách tốt. Con người Việt Nam đòi hỏi phải có cả đức và tài, tri thức là
sức mạnh và đạo đức là đòn bẩy đưa sức mạnh đến thành công.
Như vậy, những giá trị, chuẩn mực trong nội dung giáo dục của Khổng Tử vẫn
còn mang ý nghĩa hết sức thiết thực đối với việc vận dụng vào để xác định nội dung giáo
dục của Việt Nam hiện nay, nhất là khía cạnh đạo đức. Thời đại ngày nay đã khác xa so
với thời đại của Khổng Tử, chính vì vậy nội dung giáo dục của Khổng Tử cũng cần được
hiểu, nhìn nhận theo khía cạnh mới và linh hoạt, phải có sự tiếp biến để giữ lại những yếu
tố tích cực, gạt bỏ những yếu tố tiêu cực, đã lỗi thời, lạc hậu. Việc tìm hiểu, kế thừa, tiếp
thu những tư tưởng trong nội dung giáo dục của Khổng Tử giúp chúng ta xây dựng một
nền giáo dục đúng đắn, có thể đào tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, những con
người phát triển toàn diện có đủ đức, đủ tài tham gia tích cực và có hiệu quả trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2.1.4. Vận dụng quan điểm của Khổng Tử về giáo dục đối với việc xác định
phương pháp giáo dục ở Việt Nam hiện nay
Bài học tiếp theo chúng ta có thể kế thừa, vận dụng vào sự nghiệp giáo dục ở
nước ta hiện nay trong quan niệm của Khổng Tử về giáo dục chính là hệ thống các
phương pháp giáo dục. Đây là những kinh nghiệm có ý nghĩa và vai trò hết sức quan
trọng trong việc góp phần xác định phương pháp trong nền giáo dục Việt Nam hiện nay.
Trong những năm gần đây, các nhà giáo dục, các cấp lãnh đạo, các bậc phụ huynh và đội
ngũ người học ở các bậc đào tạo rất quan tâm đến các phương pháp giáo dục giáo dục nói
chung và phương pháp dạy học ở các cấp học nói riêng. Bởi vì, phương pháp giáo dục đào tạo ở nước ta hiện nay còn đang tồn tại nhiều bất cập và lạc hậu, đòi hỏi phải có sự
đổi mới phương pháp giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Nghiên cứu hệ thống
phương pháp giáo dục của Khổng Tử chúng ta thấy rằng nó không những vẫn còn rất
nhiều giá trị cho đến ngày nay mà còn trở nên hết sức cần thiết trước những yêu cầu đổi
mới phương pháp giáo dục trong sự nghiệp giáo dục ở nước ta hiện nay.
Thực trạng giáo dục nước ta đã chỉ ra rằng: Phương pháp giáo dục phổ biến trên
lớp còn rất lạc hậu, nặng về nhồi nhét kiến thức, nặng về học vẹt, còn thiếu các thiết bị
cần thiết để thực hiện học đi đôi với hành, phương tiện dạy học còn đơn sơ… Sự tăng
nhanh về số lượng người học đã dẫn đến việc dạy và học mang tính lý thuyết, số đông
thầy và trò đều học bằng trí tưởng tượng (học chay), không những thế tự học vẫn là vấn

đề bị bỏ quên, học sinh, sinh viên thụ động trong học tập, học lệch, học tủ, không có kiến
thức, hiểu và nắm bài không sâu sắc… Xuất phát từ thực trạng đó, Hội nghị Trung ương
15


Đảng lần thứ hai, khóa VIII đã nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và
đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của
người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào
quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh,
nhất là sinh viên đại học, phát triển phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng
khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên”. Để làm được điều đó, chúng ta phải biết kế thừa
những yếu tố tích cực trong phương pháp giáo dục của Khổng Tử, kết hợp với các
phương pháp hiện đại nhằm đem lại hiệu quả giáo dục cao.
Trước tiên, chúng ta phải kể đến là phương pháp tùy đối tượng mà dạy của
Khổng Tử, phân chia đối tượng người học theo trình độ, khả năng nhận thức để từ đó mà
có cách dạy cho phù hợp. Vận dụng phương pháp này vào sự nghiệp giáo dục của nước ta
hiện nay, tức là chúng ta cần phải phân loại trình độ của học sinh để có cách dạy phù hợp
với trình độ nhận thức, đặc điểm tâm sinh lý, độ tuổi của các em, từ đó phân ra các lớp
học, cấp học, bậc học khác nhau và từ đó đưa ra nội dung giáo dục phù hợp.
Tiếp đó là phương pháp học đi đôi với hành của Khổng Tử giúp người học có thể
vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Phương pháp này rất cần thiết trong việc đổi
mới phương pháp giáo dục ở Việt Nam hiện nay. Với phương pháp này sẽ giúp người học
có thể vận dụng các kiến thức của các môn học vào cuộc sống, vào sản xuất, từ đó khắc
sâu được kiến thức và có khả năng ứng biến với những đòi hỏi và biến đổi của tình hình
trong nước và quốc tế. Cùng với nó là phương pháp ôn cũ biết mới (ôn cố tri tân) để khắc
sâu hơn kiến thức và tạo được niềm đam mê trong học tập, nghiên cứu.
Phương pháp học đi đôi với tự đào sâu suy nghĩ của Khổng Tử cũng có ý nghĩa
rất quan trọng trong việc đổi mới phương pháp giáo dục ở nước ta, phương pháp đó sẽ
giúp phát huy tối đa tính tích cực của người học, giúp người học biết cách dựa vào những
gợi ý của người dạy mà không ngừng mở rộng thêm, làm phong phú thêm những điều đã

học. Phương pháp này còn giúp người học tạo ra thói quen, bản lĩnh, phương pháp tự
học, nghiên cứu của người học.
Trong hệ thống phương pháp giáo dục của Khổng Tử, còn có một phương pháp
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xác định phương pháp giáo dục trong nền giáo
dục Việt Nam hiện nay, đó chính là phương pháp nêu gương. Trong điều kiện hiện nay,
khi những biểu hiện về sự suy đồi đạo đức trong một bộ phận những người dạy học đang
là vấn đề nhức nhối của toàn xã hội thì việc nghiên cứu, tìm hiểu, vận dụng phương pháp
giáo dục nêu gương của Khổng Tử là điều hết sức cần thiết. Người dạy trước hết phải là
tấm gương sáng, không ngừng rèn luyện về đạo đức, chuyên môn, trình độ của mình cho
học sinh noi theo.
Như vậy, nếu chúng ta biết kết hợp sử dụng những phương pháp giáo dục của
Khổng Tử với nguyên tắc cơ bản là lấy người học làm trung tâm với một hệ thống các
phương pháp đa dạng như: phương pháp tùy đối tượng mà giáo dục, kết hợp học với
hành, học với tư, phương pháp nêu gương… với các phương pháp giáo dục hiện đại sẽ
đem lại hiệu quả giáo dục cao, tạo ra được những con người có ích cho xã hội, đáp ứng
được yêu cầu của thời đại.
2.1.5. Một số kiến nghị nhằm phát huy vai trò của quan niệm của Khổng Tử
về giáo dục đối với sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam hiện nay
16


Trước thực trạng của nền giáo dục nước ta hiện nay, muốn xây dựng một nền
giáo dục toàn diện, có hiệu quả, tiên tiến, nhân văn, chúng ta phải biết kết hợp hài hòa
giữa những nhân tố truyền thống và hiện đại. Nghiên cứu quan niệm của Khổng Tử về
giáo dục với tư cách là một nhân tố truyền thống trong sự hình thành và phát triển của
nền giáo dục Việt Nam hiện nay đòi hỏi chúng ta phải tuân thủ nguyên tắc thế giới quan
duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo đó, chúng ta
thấy rằng, bên cạnh những giá trị hết sức tích cực trong quan niệm về giáo dục của
Khổng Tử thì vẫn còn tồn tại những tư tưởng đã lỗi thời, lạc hậu cản trở sự phát triển của
xã hội nói chung và sự nghiệp giáo dục nói riêng. Do vậy, bên cạnh việc khai thác những

gì là tích cực, là tiến bộ, chúng ta cần quan tâm đến những gì là lạc hậu, là lỗi thời để từ
đó kiên quyết loại bỏ nó. Đó chính là căn cứ để chúng ta có thể đưa ra một số kiến nghị
nhằm phát huy vai trò của quan niệm về giáo dục của Khổng Tử đối với sự nghiệp giáo
dục ở Việt Nam hiện nay.
Thứ nhất, một trong những hạn chế lớn nhất của nội dung giáo dục của Khổng
Tử là không chú trọng đến việc dạy tri thức về đời sống sản xuất, về khoa học tự nhiên.
Đây là lối giáo dục chủ yếu thiên về dạy đạo đức, “duy đạo đức”. Nguyên nhân là do
hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ quy định, khi mà xã hội đang loạn lạc, chìm đắm trong sự
hỗn loạn, thì việc giáo dục đạo đức cho con người được chú trong hơn cả.
Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay cả nhân loại đang bước vào nền kinh tế thị
trường với sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ, sự bùng nổ của xã hội
thông tin. Nguồn tài nguyên đang cạn kiệt và chúng ta không thể tàn phá tự nhiên bừa bãi
như trước nữa. Do vậy, chúng ta phải hết sức chú trọng đến việc trang bị cho con người
tri thức về lao động sản xuất, về khoa học kĩ thuật nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển
nhanh và bền vững. Rõ ràng, trong điều kiện hiện nay, sự coi nhẹ tri thức về lao động,
sản xuất, về khoa học công nghệ của Khổng Tử cần được khắc phục và loại bỏ. Tiếp thu
tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, chúng ta không nên dập khuôn, máy móc mà phải vận
dụng một cách linh hoạt phù hợp với điều kiện của nước ta. Từ đây, có thể đưa ra giải
pháp phát triển và hoàn thiện nền giáo dục của chúng ta là: Trong chương trình dạy học,
nên chú trọng giáo dục đạo đức cho con người, đồng thời không ngừng trang bị những tri
thức về khoa học tự nhiên, về kĩ thuật công nghệ, về lao động sản xuất, để tạo nên những
con người phát triển toàn diện, hài hòa cả đức lẫn tài tham gia vào công cuộc xây dựng
và bảo về Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, một hạn chế nữa trong quan niệm của Khổng Tử về giáo dục là sự phân
biệt đẳng cấp trên dưới, sự phân biệt giữa người thượng trí và kẻ hạ ngu, giữa quân tử và
tiểu nhân, đặc biệt là không quan tâm đến việc giáo dục phụ nữ do tư tưởng trọng nam,
khinh nữ. Đây là một điều bất hợp lý trong tư tưởng của Khổng Tử về giáo dục.
Trong điều kiện hiện nay, chúng ta đang từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội để
hướng tới cái đích cao nhất là chủ nghĩa cộng sản. Ở đó, mọi người đều bình đẳng với
nhau, tất cả mọi người đều có cơ hội học tập như nhau. Để làm được điều đó chúng ta

cần khắc phục triệt để tư tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo trong chính tư tưởng
người Việt. Từ hạn chế trong quan niệm về giáo dục của Khổng Tử về đối tượng giáo
dục, có thể đề ra một số giải pháp để thực hiện công bằng trong giáo dục nước ta hiện
nay như: phải có chính sách hỗ trợ thiết thực đối với người nghèo, những người có hoàn
cảnh khó khăn, tạo mọi điều kiện cho công dân Việt Nam đều được giáo dục trong điều
17


kiện tốt nhất; đối với đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa, cần đầu tư kinh phí để mở
rộng hệ thống các trường học, tăng đội ngũ giáo viên, nâng cao chất lượng học tập, đảm
bảo người dân tộc thiểu số được hưởng đầy đủ quyền lợi của nền giáo dục quốc dân; cần
ra sức đổi mới trong việc tuyên truyền, có quyết tâm cao trong việc xóa bỏ tư tưởng trọng
nam, khinh nữ, đặc biệt còn tồn tại phổ biến ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa,
đảm bảo quyền học tập cho phụ nữ, giúp họ khẳng định vai trò của mình trong xã hội.
Thứ ba, hạn chế về mục đích giáo dục của Khổng Tử là đào tạo con người để trở
thành con người cai trị xã hội. Bên cạnh ý nghĩa tích cực trong việc xác định phương
châm giáo dục Việt Nam thì tư tưởng này còn nhiều hạn chế. Hiện nay, số học sinh tốt
nghiệp phổ thông trung học đăng kí thi đại học, cao đẳng là rất đông so với số thí sinh có
nguyện vọng học ở các trường trung cấp và đào tạo nghề. Thực tế đó đã tạo ra sự mất cân
đối giữa các ngành nghề đào tạo trong sự nghiệp giáo dục của nước nhà, tạo ra tình trạng
thừa thầy, thiếu thợ. Do vậy để khắc phục tình trạng này, đòi hỏi chúng ta phải tạo ra
những cơ sở xã hội hiện thực mới khắc phục có hiệu quả tâm lý coi thường việc học nghề
đã ăn sâu vào trong tiềm thức của con người Việt Nam. Từ đó, có thể đưa ra một số giải
pháp nhằm xây dựng sự nghiệp giáo dục Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn như sau:
Một là, chúng ta cần làm tốt công tác tư tưởng để mọi người hiểu rằng, vào đại học
không phải là lựa chọn duy nhất của mỗi người; Hai là, cần phải có chính sách ưu tiên,
khuyến khích những người học ở các trường trung cấp hoặc học nghề, như tạo công ăn
việc làm ổn định và có thu nhập cao cho họ sau khi ra trường; ba là, thực hiện một cách
nghiêm túc quy chế các kì thi vào cao đẳng, đại học để mọi người ý thức được năng lực
của mình và chọn nghề cho phù hợp; bốn là, xã hội cần có sự thay đổi trong việc nhìn

nhận, phân biệt đối với người trực tiếp tham gia lao động sản xuất.
Tóm lại, trước thực trạng của nền giáo dục nước ta hiện nay với những thành tựu
và hạn chế nhất định, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải tiếp tục đề ra đường lối, chủ
trương đúng đắn để khắc phục những hạn chế, tiêu cực, tiếp tục đưa sự nghiệp giáo dục
đi lên đạt những thành tựu rực rỡ hơn nữa. Muốn xây dựng một nền giáo dục toàn diện,
tiến bộ nhưng vẫn đậm những giá trị truyền thống phương Đông, chúng ta phải biết kết
hợp một cách khéo léo những nhân tố truyền thống và hiện đại. Với yêu cầu đó, việc
nghiên cứu quan niệm về giáo dục của Khổng Tử, từ đó vận dụng cụ thể vào việc xác
định phương châm, chiến lược giáo dục, xây dựng xã hội học tập, nội dung giáo dục,
phương pháp giáo dục trong sự nghiệp giáo dục của Việt Nam hiện nay là một việc làm
có ý nghĩa đối với sự nghiệp giáo dục, đáp ứng được những yêu cầu của sự phát triển xã
hội nói chung.
2.2. Vận dụng quan điểm của Platon về giáo dục vào sự nghiệp giáo dục ở
Việt Nam hiện nay
Qua việc nghiên cứu và luận giải những tư tưởng giáo dục của Platon, nhiều điểm
tiến bộ có thể vận dụng trong công cuộc đổi mới căn bản toàn diện Giáo dục và Đào tạo
ở nước ta hiện nay là:
2.2.1. Xây dựng hệ thống giáo dục nhất quán từ việc lựa chọn đối tượng, xây
dựng nội dung, phương pháp, đến mục đích giáo dục
Tư tưởng của Platon về việc xây dựng một mô hình giáo dục chặt chẻ, nối tiếp
liên tục trong quá trình giáo dục con người là cơ sở để cấp quản lý xem xét, hoạch định
mô hình giáo dục hiện đại với các cấp phù hợp với từng lứa tuổi từ thấp đến cao, từ khi
18


trẻ mới sinh ra cho đến khi trưởng thành. Mỗi cấp học cần nghiên cứu để xây dựng
những nội dung, kiến thức phù hợp với trình độ, tâm lí lứa tuổi. Quá trình giáo dục phải
cho được hoạch định nghiêm túc từ mục tiêu đặt ra cho đến nội dung và phương pháp,
phải gắn liền việc giáo dục tri thức với thể chất, kĩ năng sống, đạo đức, mĩ thuật để đào
tạo sự điều hòa tư tưởng, sự hiểu biết, hình thành bản tính và nhân cách tốt đẹp cho học

sinh(HS). Cần lựa chọn nội dung tri thức phù hợp, coi trọng giáo dục học sinh cần nhằm
phát huy những khả năng sẵn có cũng như sự linh hoạt sáng tạo giữa các em.
2.2.2. Đề cao giáo dục và tự giáo dục
Trong lí tưởng về xây dựng một nhà nước công bằng và hoàn thiện, Platon nhấn
mạnh việc giáo dục các tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là “người bảo vệ” và “nhà cai
trị”, thông qua giáo dục những người lính mới thật sự có hiểu biết và trung thành, mới
thể hiện được lòng yêu nước, hiểu được vai trò và trách nhiệm của họ cũng như lí tưởng
cao cả; “nhà cai trị” sau hai lần tuyển chọn phải được giáo dục để đạt được trình độ
uyên thâm và biện chứng. Trong đó, ông đặc biệt coi trọng tinh thần tự giác học tập,
luyện tập thể thao thao để nâng cao sức khỏe và sự dẻo dai. Theo ông “nhà cai trị” phải
rèn luyện bản thân để đạt đến “cái thiện tối cao”.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay, giáo dục đang giữ vai trò
đặc biệt quan trọng, thúc đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước và hội nhập vào nền
kinh tế thế giới; giáo dục đã và đang tạo nền tảng vững chắc, tạo đà cho sự phát triển
bền vững trong tương lai; đào tạo ra những con người có tri thức khoa học, có “thế giới
quan” biện chứng và có sức khỏe, là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu
phát triển trong thế giới hiện đại đầy biến động. Trong quá trình phát triển của sự nghiệp
GD-ĐT hiện nay, trước hết các quản lí giáo dục cần nghiên cứu, xây dựng nội dung,
chương trình, phương phát dạy học (PPDH) phù hợp, bên cạnh đó, mỗi người cần tự
giác trong việc tự học với tinh thần “học nữa, học mãi, học suốt đời”. Nghị quyết số 29NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ
áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự
học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực.
Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tôt chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt
động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học”
2.2.3. Sự bình đẳng giữa nam – nữ trong quá trình giáo dục
Ngay từ thời cổ đại, trong khi tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” đang thống trị trên
toàn thế giới, quan điểm của Platon đã thể hiện sự tiến bộ, công bằng. Ông cho rằng phụ
nữ cũng có quyền được giáo dục, học tập để phát huy khả năng, cống hiến trí tuệ, sức

lực cho đất nước như nam giới; học tập là quyền cơ bản của con người, nam hay nữ đểu
có quyền được học tập, mọi phân biệt đối xử đều vi phạp quyền tự do cá nhân; phải tạo
điều kiện thuận lợi cho phụ nữ được bình đẳng trong học tập và nghiên cứu để họ phát
huy hết khả năng của mình trong quá trình xây dựng đất nước. Trong thự tiễn của lịch
sử nhân loại, phụ nữ trên thế giới nói chung, phụ nữ Việt Nam nói riêng đã đóng góp
một phần công sức không nhỏ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ để giành và bảo vệ nền độc lập
dân tộc, phụ nữ Việt Nam đã viết lên những trang sử hào hùng, xứng đáng với danh hiệu
19


mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đão trao tặng: “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.
Trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, phụ nữ cũng thể hiện rõ vai trò của mình, các nữ giáo dư, nhà khoa học, nhà kinh
doanh, nghệ sĩ, nhà giáo dục… có những đóng góp không nhỏ. Vì vậy, cần nghiên cứu,
ban hành các cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa để phụ nữ học tập và
phát huy năng lực, cũng như cống hiến tài năng cho sự phát triển của đất nước, nhân
loại.
2.2.4. Xây dựng nội dung, chương trình giáo dục phù hợp, đào tạo đội ngũ
cán bộ, giáo viên theo hướng “chuẩn hóa”
Platon cho rằng muốn trở thành “nhà giáo dục”, trước hết phải là người có tài năng
và tâm đức, đồng thời “nhà giáo dục” phải thường xuyên học tập để trau dồi, mở mang
tri thức cho bản thân, phải có năng lực tự đánh giá để từng bước hoàn thiện bản thân về
mọi mặt, biết lựa chọn những nội dung, kiến thức phù hợp để tổ chức giáo dục. Ví dụ:
với trẻ từ 3-6 tuổi, theo ông, trước khi kể chuyện cho trẻ, “nhà giáo dục” cần lựa chọn
các câu chuyện ngụ ngôn phù hợp để trình duyệt trước cơ quan chức năng (bao gồm các
nhà giáo dục có chuyên môn, uyên bác về tri thức, tinh thông về nghề nghiệp) để thẩm
định một cách nghiêm ngặt, nhằm đảm bảo sự phù hợp về mặt nội dung để phát huy tối
đa tác dụng giáo dục. Đồng thời “nhà giáo dục” phải có phương pháp kể chuyện hấp
dẫn để thu hut sự “tò mò” của trẻ vảo câu chuyện của mình.

Vận dụng quan điểm giáo dục này của Platon, theo chúng tôi, để xây dựng được
nội dung, chương trình giáo dục phù hợp, đáp ứng công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện
hiện nay, trước hết Bộ GD-ĐT cần thành lập một hội đồng khoa học (gồm các chuyên
gia giỏi, có trình độ, năng lực, kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục, những thầy, cô giáo
giỏi trực tiếp tham gia giảng dạy, được HS, cha mẹ HS, các cấp quản lí giáo dục công
nhận về năng lực chuyên môn, về khả năng sư phạm) tham gia xây dưng chương trình
và viết sách giáo khoa; sách giáo khoa cần được thẩm định một cách kĩ càng, cần tổ
chức thực hiện thí điểm với các đối tượng HS, trên nhiều vùng miền trong cả nước để
đánh giá về mặt khoa học, sự phù hợp về nội dung, đáp ứng được nhu cầu của người
học, nhu cầu của công cuộc đổi mới trước khi thực hiện đại trà; cần đào tạo đội ngũ giáo
viên ở các cấp học theo hướng “chuẩn hóa”, thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng về
chuyên môn nghiệp vụ, và tuyên truyền vận động giáo viên tự học, tự bồi dưỡng để
nâng cao năng lực trình độ đáp ứng công cuộc đổi mới và hội nhập với nền giáo dục
quốc tế.
2.2.5. Lựa chọn PPDH phù hợp, vân dụng tích cực, linh hoạt phương pháp
kê chuyện với học sinh mầm non và tiểu học
Lựa chọn PPDH phù hợp ở mỗi cấp học, môn học, cho từng đối tượng người học
là một trong những vấn đề luôn được quan tâm ở tất cả các nhà trường, cơ sở giáo dục,
là một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng GD-ĐT. Để lựa chọn được PPDH
phù hợp, cần căn cứ vào nhiều vấn đề liên quan đến quá trình dạy học: HS, nội dung,
môn học cụ thể, vùng miển cụ thể, mục tiêu, yêu cầu giáo dục... Qua tìm hiểu về
phương pháp kể chuyện của Platon trong giáo dục trẻ thơ, chúng tôi thấy có thê’ áp
dụng phương pháp này với đối tượng là học sinh mầm non, tiểu học ở các môn học như:
Lịch sử, Địa lí, Đạo đức, Tiếng Việt... Vì với đặc điểm lứa tuổi, trình độ tư duy của các
20


em, những câu chuyện lịch sử, ngụ ngôn, những câu chuyện có thật sinh động trong
cuộc sống hàng ngày sẽ cuốn hút các em trong
mỗi giờ học, học sinh nhớ lâu hơn, dễ tiếp thu hơn, tạo cho các em sự thoải mái, không

bị áp lực căng thẳng, tránh những nội dung khoa học lí thuyết khô khan, giúp các em
“học mà chơi, chơi mà học”.

21


CHƯƠNG III.
BÀI HỌC TỪ CÁC TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỔ ĐẠI CHO PHÁT TRIỂN GIÁO
DỤC TẠI TRƯỜNG THPT ĐẦM DƠI
Hiện nay, nền giáo dục cả nước đang tiến hành đổi mới đòi hỏi Trường THPT
Đầm Dơi vừa phải tuân thủ mọi chỉ đạo chủ trương của Đảng, đồng thời phải đưa ra
những đường lối, chính sách và biện pháp đúng đắn phù hợp đặc thù với cơ quan đơn vị
(trong đó có ứng dụng tư tưởng giáo dục cổ đại) để giải quyết những khó khăn, tiếp tục
đưa sự nghiệp giáo dục phát triển và tiếp tục đạt được những thành tựu nhất định trong sự
nghiệp giáo dục. Trong bối cảnh đổi mới hiện nay, việc vận dụng có lựa chọn tư tưởng
giáo cổ đại vào đổi mới dạy học và giáo dục tại Nhà trường là điều cần thiết và được cụ
thể hóa ở một số nội dung cơ bản sau:
3.1. Vận dụng tư tưởng của Khổng tử
3.1.1. Vận dụng quan điểm của Khổng Tử về giáo dục đối với việc xác định
phương châm giáo dục tại trường THPT Đầm Dơi
Vận dụng tư tưởng Khổng tử về việc giáo dục học sinh để trở thành con người
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa vẫn phải là những con người phát triển một
cách toàn diện. Nếu thiếu đi một đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa có đức, vừa có tài, vừa
“hồng” lại vừa “chuyên” như lời chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn thì không thể nói đến
việc xây dựng một đất nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Vì vậy, sự nghiệp giáo dục và đào tạo tại trường THPT Đầm Dơi hiện nay, bên cạnh
việc trang bị, nâng cao tri thức cho học sinh cần phải bồi dưỡng phẩm chất đạo đức và
phải coi giáo dục đạo đức vừa là yêu cầu trước tiên vừa là mục đích lâu dài trong chiến
lược giáo dục học sinh. Giáo dục đạo đức vừa là yêu cầu trước tiên, vừa là chiến lược
lâu dài trong chiến lược dạy học và giáo dục tại nhà trường.

Trong việc xây dựng các hoạt động giáo dục tại nhà trường cần chú ý tăng cường
các hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh, thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt
chuyên đề về học tập noi gương đạo đức Hồ Chí Minh; tổ chức cuộc thi tìm hiểu và
tuyên dương những tấm gương người tốt – việc tốt thông qua đó giáo dục ý thức, rèn
luyện đạo đức cho học sinh.
Việc chú trọng giáo dục đạo đức trong nhà trường không phải chỉ dừng lại ở giáo
dục học sinh mà là giáo dục cho mọi người, mà đặc biệt là cho đội cán bộ giáo viên
tránh biểu hiện tha hóa về phẩm chất đạo đức, lý tưởng cách mạng triong nhà trường.
Trong Đảng Ủy, trong sinh hoạt chi bộ và các hoạt động giáo dục khác cần thiết
bên cạnh việc sử dụng pháp luật một cách nghiêm minh và kịp thời thì một biện pháp hữu
hiệu, có tác dụng triệt để chính là giáo dục đạo đức, rèn luyện nhân cách, lối sống cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Việc giáo dục đạo đức, phầm chất cán bộ giáo viên và học sinh trong nhà trường
được đặt lên hàng đầu. Tuy vậy, chúng ta cũng cần phải quan tâm đến việc nâng cao dạy
học kiến thức khoa học cho học sinh, tổ chức dạy học, tổ chức thi kiểm tra đánh giá phát
hiện học sinh giỏi, …. Có như vậy mới tạo ra được thế hệ học sinh đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.1.2. Vận dụng quan niệm của Khổng Tử về giáo dục đối với việc xây dựng
xã hội học tập và thực hiện công tác xã hội hóa tại trường THPT Đầm Dơi
22


Trong công tác xây dựng xã hội giáo dục tại trường THPT Đầm Dơi tha gia cùng
với hoạt động xây dựng xã hội học tập ở địa phương cụ thể như sau:
- Mở rộng nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo các đối tượng bên trong nhà
trường (tham gia cùng với trung tâm giáo dục nghề nghiệp Đầm Dơi, tham gia bồi dưỡng
kiến thức cho dự thi đại học cho các viên chức trên địa bàn huyện).
- Giáo viên nhà trường tham gia hoạt động xây dựng xã hội học tập đối với các
đối tượng bên ngoài trường học (các hình thức học tập giáo dục linh hoạt, giáo dục
thường xuyên, trung tâm học tập cộng đồng, các hình thức học từ xa, vừa học vừa làm, tự

học ở nhà).
- Nhà trường cử giáo viên tham gia tuyên truyên vận động thực hiện công dân
tham gia học tập.
- Khuyến khích học sinh tham gia học tập, tạo điều kiện học sinh giỏi có hoàn
cảnh khó khăn tham gia học tập thông qua việc vận động các mạnh thường quân tặng học
bổng.
Trong công tác xã hội hóa giáo dục, trong thời gian qua trường THPT Đầm Dơi
thực hiện tốt và được tuyên dương trong hoạt động này, cụ thể. Mỗi năm học nhà trường
xây dựng kế hoạch xã hội hóa giáo dục trình SGD phê duyệt đúng quy định. Các khoảng
xã hội hóa giáo dục chủ yếu trao thưởng cho học sinh có thành tích học tập xuất sắc và
học sinh có hoàn cảnh khó khăn để tiếp tục đến trường.
3.1.3. Vận dụng quan niệm của Khổng Tử về giáo dục đối với việc xác định
nội dung giáo dục ở trường THPT Đầm Dơi
Ngoài việc thực hiện chương trình nội dung giáo dục theo quy định của Đảng,
cảu ngành (trong đó có ứng dụng chọn lọc quan điểm Khổng tử) thì trường THPT Đầm
Dơi cụ thể hóa các hoạt động trong việc xác định nội dung giáo dục ở Việt Nam hiện nay:
- Thực hiện đúng nội dung, chuẩn kiến thức kĩ năng chương trình theo quy định
mỗi môn học.
- Xấy dựng, điều chỉnh phân phối chương trình môn học riêng cho đơn vị và
trình SGD phê duyệt thực hiện.
- Chú trọng dạy đạo đức, dạy “nhân” “lễ” “nghĩa” trong trường học, lồng gép vào
sinh hoạt lớp, sinh hoạt chuyên đề.
- Đa dạng hóa nội dung giáo dục, chú ý rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua
các buổi sinh hoạt chuyên đề kĩ năng sống, buổi dã ngoại, các câu lạc bộ, …
3.1.4. Vận dụng quan miệm của Khổng Tử về giáo dục đối với việc xác định
phương pháp giáo dục ở Trường THPT Đầm Dơi
Ứng dụng phương pháp dạu học của Khổng tử tại trường THPT Đầm Dơi phân
chia đối tượng người học theo trình độ, khả năng nhận thức để từ đó mà có cách dạy cho
phù hợp. Toàn trường có 45 lớp, đối với mỗi khối lớp có phân chi các ban (Xã hội, tự
nhiên), đối với mỗi ban nhà trường lại phân chia thành các khối thi riêng (ví dụ ban tự

nhiên chia các khối A, B, A1). Như vậy, theo cách chia này học sinh được phân chia theo
đối tượng, mục tiêu học tập riêng nên có điều kiện học tập tốt hơn, giáo viên giảng dạy
cũng thuận tiện hơn.
Tiếp đó là phương pháp học đi đôi với hành của Khổng Tử giúp người học có thể
vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Nhà trường có 3 phòng thí nghiệm (lý, hóa,
sinh) đủ chuẩn, đảm bảo học sinh được học thực hành thí nghiệm đúng yêu cầu. Ngoài ra,
nhà trường thường xuyên tổ chức cho học sinh được tìm hiểu thực tế kinh doanh sản xuất
23


ở địa phương để các em co được kiến thức thực tế; học sinh có thể tham gia thực tế làm
ra sản phẩm lao động ở một số phân môn cụ thể.
Đảng Ủy nhà trường tổ chức cuộc thi cho cán bộ giáo viên là tấm gương sáng,
không ngừng rèn luyện về đạo đức, chuyên môn, trình độ của mình cho học sinh noi
theo. Cuộc thi nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của cán bộ giáo viên công nhân viên
và mang lại hiệu quả tích cực. Đây cũng là một trong những ứng dụng phương pháp dạy
học nêu gương của Khổng tử.
Ngoài ra, việc ứng dụng quan điểm Khổng tử trong dạy học ở trường THPT Đầm
Dơi được thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau. Việc ứng dụng hiệu quả, linh hoạt các tư
tưởng giáo dục đã mang lại kết quả cao trong việc thực hiện nhiệm vụ của nhà trương.
Kết quả đó được thể hiện qua việc nhiều năm liền nhà trường dược vinh danh là lá cờ đầu
của ngành giáo dục tỉnh Cà Mau.
3.2. Sự vận dụng quan niệm của Platon cho phát triển giáo dục tại trường
THPT Đầm Dơi trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay
Tư tưởng giáo dục của Platon, nhiều điểm tiến bộ có thể vận dụng trong thực tế
trường THPT Đầm Dơi:
3.2.1. Xây dựng hệ thống giáo dục nhất quán từ việc lựa chọn đối tượng, xây
dựng nội dung, phương pháp, đến mục đích giáo dục
Phân phối chương trình từng bộ môn được xây dựng lại phù hợp đặc điểm tình
hình riêng ở đơn vị. Trong việc xây dựng lại chương trình môn học chú trọng tính kế

thừa từ lớp 10 – 11 – 12; nội dung các lớp học, các phân môn đảm bảo hỗ trợ nhau mà
không chồng chéo. Các chủ đề được xây dựng qua hoạch định nghiêm túc từ mục tiêu
đặt ra cho đến nội dung và phương pháp, phải gắn liền việc giáo dục tri thức với thể
chất, kĩ năng sống, đạo đức, mĩ thuật để đào tạo sự điều hòa tư tưởng, sự hiểu biết, hình
thành bản tính và nhân cách tốt đẹp cho học sinh. Thực tế áp dụng khung chương trình
mới của nhà trường đảm bảo học sinh học tập đáp ứng yêu cầu chung của chuẩn kiến
thức và kĩ năng do BGD ban hanh mà tiết kiệm được thời gian đảm bảo học sinh có
nhiều giờ thực tế, rèn kĩ năng sống, …
3.2.2. Đề cao giáo dục và tự giáo dục
Vận dụng tư tưởng Platon trong việc coi trọng tinh thần tự giác học tập, luyện tập
thể thao thao để nâng cao sức khỏe và sự dẻo dai. Trường THPT Đầm Dơi chú trọng tổ
chức các hoạt động thể thao cho học sinh; mỗi năm học nhà trường tổ chức nhiều giải
thể thao cho học sinh đảm bảo cho các em có sân chơi lành mạnh vừa rèn luyện thể lực
vừa né tránh hình thức vui chơi vô bổ khác.
Trường THPT Đầm Dơi đi đầu trong lĩnh vực hướng dẫn học sinh tham gia nghiên
cứu khoa học kĩ thuật, thi nghiên cứu khoa học cho thanh thiếu niên, thi tìm hiểu biển
đảo, thi văn hóa đọc, thi an toàn giao thông, …. Đây cũng là vận dụng tư tưởng Platon
trong dạy người học cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật
và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang
tôt chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu
khoa học.
3.2.3. Vận dụng xây dựng nội dung, chương trình giáo dục phù hợp, đào tạo
đội ngũ cán bộ, giáo viên theo hướng “chuẩn hóa”

24


Trường THPT Đầm Dơi có giáo viên là thành viên Hội đồng chuyên môn tỉnh ở
tất cả các bộ môn, có giáo viên 100% đạt chuẩn và trên chuẩn; có tĩ lệ thạc sỉ đứng thứ 2
trong các trường THPT (trừ trường chuyên Phan Ngọc Hiển).

Trường THPT Đầm Dơi là trường THPT có 36 giáo viên hạng II (nhiều nhất
trong tỉnh).
Kết quả như trên minh chứng cho việc học tập vận dụng tư tưởng Platon học tập
suốt đời, dảm bảo giáo viên được chuẩn hóa.

C. PHẦN KẾT LUẬN
Quan niệm của Khổng Tử, Platon về giáo dục là những tư tưởng quý báu trong
kho tàng kinh nghiệm giáo dục của nhân loại, nó có tác dụng và ý nghĩa nhất định đối với
sự ổn định và sự phát triển của xã hội Việt Nam hiện nay.
Việc Khổng Tử, Platon quan tâm đến con người và sự nghiệp giáo dục không
phải xuất phát từ ý muốn chủ quan của ông mà nó phản ánh những tất yếu của điều kiện
lịch sử khách quan. Tuy nhiên, chính do những điều kiện khách quan của điều kiện lịch
sử xã hội đem lại, trong tư tưởng của ông còn bộc lộ một số hạn chế nhất định.
Ở Việt Nam hiện nay, trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh thì sự
nghiệp giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực trở thành một nhiệm vụ quan trọng và có ý
nghĩa chiến lược. Tuy nhiên, do tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cũng như xu
hướng hội nhập quốc tế đã làm nảy sinh nhiều tiêu cực ảnh hưởng đến mục tiêu giáo dục
như: vấn đề suy đồi đạo đức, lối sống của một bộ phận nhân dân, vấn đề yếu kém của
công tác giáo dục… Do đó, để hoàn thành mục tiêu giáo dục là nhằm đào tạo ra nguồn
nhân lực đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển đất nước, đòi hỏi chúng ta phải tìm ra
những giải pháp để khác phục những hạn chế nhằm đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục phát
triển.
Từ những điểm tích cực trong quan niệm của Khổng Tử, Platon về giáo dục soi
vào thực trạng và yêu cầu của sự nghiệp giáo dục ở nước ta hiện nay thì có thể khẳng
định rằng tư tưởng giáo dục cổ đại vẫn còn nhiều ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Vấn đề ở đây
là chúng ta cần phải có sự đánh giá và kế thừa một cách khoa học để thu được kết quả
cao nhất. Nếu gạt bỏ những hạn chế về lịch sử và giai cấp, thì quan niệm cổ đại về giáo
dục vẫn còn nhiều ý nghĩa lý luận và bài học thực tiễn thiết thực. Từ quan niệm về giáo
dục cổ đại chúng ta vận dụng vào việc xác định phương châm - chiến lược giáo dục,

nhằm đào tạo ra đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất gánh vác công viêc quốc gia;
vận dụng vào việc xây dựng xã hội học tâp và thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục
nhằm nâng cao dân trí, đưa giáo dục đến với mọi người dân, đảm bảo được yêu cầu của
sự phát triển xã hội; vận dụng vào việc xác định nội dung giáo dục, coi trọng cả việc giáo
dục đạo đức, tài năng, trí tuệ nhằm xây dựng những con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, phát triển một cách toàn diện về đức, trí, thể, mĩ; và vận dụng quan niệm cổ đại về
giáo dục vào việc xác định phương pháp giáo dục, đổi mới phương pháp giáo dục làm
cho việc giảng dạy và học tập đạt được hiệu quả cao nhất.
Thời đại ngày nay đã khác xa so với thời đại của Khổng Tử, vì vậy, khi kế thừa
và vận dụng những nội dung trong quan niệm về giáo dục của Khổng Tử và Platon,
25


×