Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân kết quả để nói về vấn đề biến đổi khí hậu đối với thế giới nói chung và việt nam nói riêng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.75 KB, 22 trang )

Tiểu luận Triết học Sau Đại học

MỤC LỤC
Phần I: Lời mở đầu .

2

Phần II: Nội dung

4

1. Cơ sở lí luận chung nhìn từ góc độ triết học:

4

1.1 Cặp phạm trù Nguyên nhân và kết quả :

4

1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả

4

2. Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả để giải thích hiện tượng
biến đổi khí hậu.

6

2.1 Nguyên nhân biến đổi khí hậu

6



2.1.1 Về nguyên nhân khách quan (do sự biến đổi của tự nhiên)

6

2.1.2 Về nguyên nhân chủ quan (con người)

8

2.2 Hệ quả của biến đổi khí hậu

10

2.3 Những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đối với Thế giới
và Việt Nam

13

2.3.1 Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đối với một số nước
trên thế giới.

13

2.3.2 Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đối với Việt Nam

14

Phần III : Các giải pháp khắc phục.

16


Phần IV: Kết luận

19

Tài liệu tham khảo

21

Tiểu luận Triết học Sau Đại học

1


Tiểu luận Triết học Sau Đại học

PHẦN I - LỜI MỞ ĐẦU
Mọi sự vật, hiện tượng trên trái đất đều vận động và phát triển theo 02
nguyên lý của phép biện chứng duy vật: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến (là
nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện tượng khách quan tồn tại trong mối
liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật,
hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế
giới) và nguyên lý về sự phát triển (là nguyên tắc lý luận mà trong đó khi xem
xét sự vật, hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn
vận động và phát triển (vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật)).
Khí hậu trái đất của chúng ta cũng không ngoại lệ nằm ngoài hai
nguyên lý đó. Không chỉ hiện tại mới diễn ra quá trình biến đổi khí hậu mà từ
khi trái đất được hình thành đã có quá trình biến đổi, rõ rệt nhất là vào thời kỷ
Phấn trắng với sự thay đổi lạnh đột ngột của thời tiết dẫn đến sự tuyệt chủng

của không ít loài sinh vật, trong đó có khủng long. Khí hậu trái đất hàng ngày,
hàng giờ đều có sự thay đổi, sự thay đổi này không phải ngẫu nhiên mà xét về
nguyên lý mối liên hệ phổ biến phải có sự ràng buộc, tác động lẫn nhau. Theo
nguyên lý sự phát triển khí hậu trái đất đang ngày càng nóng lên, sự thay đổi
đó là do sự nhận thức của chúng ta vào thế giới quan này làm cho trái đất có
nhiều biến đổi. Việc biến đổi có lợi hay có hại là nhận thức vào thế giới quan
đó và cải tạo chúng theo hướng có lợi hay có hại.
Trái Đất là ngôi nhà chung của tất cả các loài sinh vật, trong đó có con
người. Trong quá trình sống, con người luôn luôn có nhiều tham vọng cải
thiện cuộc sống của mình, từ đó đã cải tạo tự nhiên tạo ra của cải vật chất,
khai thác tận thu các nguồn khoáng sản (nước, than đá, dầu mỏ, quặng sắt...).
Cũng chính con người cải tạo, khai thác tự nhiên quá mức nên ngôi nhà chung
của nhân loại bị tàn phá một cách khủng khiếp”. Trái Đất - nơi nương náu và
sinh trưởng của muôn loài, hiện nay đang bị đe doạ bởi những vấn đề toàn cầu
Tiểu luận Triết học Sau Đại học

2


Tiểu luận Triết học Sau Đại học

nóng bỏng đó là ô nhiễm môi trường, dịch bệnh tràn lan, dân số tăng nhanh...
Nhất là vấn đề ô nhiễm môi trường, nó đang từng ngày từng giờ gióng lên
những hồi chuông báo động, cảnh tỉnh hành động của con người. Cũng bởi
con người chỉ biết hối hả khai thác giới tự nhiên mà quên đi giới hạn chịu
đựng của nó đang đặt ra bao nỗi lo đến thắt lòng.
Môi trường đã và đang là vấn đề cấp bách của mọi thời đại, nó ảnh
hưởng trực tiếp tới sức khoẻ, tương lai phát triển của tất cả các quốc gia trên
thế giới, trong đó có Việt Nam. Trái đất chúng ta cũng vận động, khí hậu cũng
vận động thay đổi, nhưng tại sao không thay đổi theo hướng có lợi cho con

người, tất cả các loài sinh vật mà thay đổi theo hướng có hại đe doạ đến cuộc
sống chúng ta? Đó là câu hỏi đặc ra mà chúng ta phải giải quyết vấn đề theo
cách nhìn của Triết học.
Thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng có tồn tại nữa hay không khi
chúng ta đang đứng trước thực trạng cạn kiệt tài nguyên rừng bị chặt phá bừa
bãi dẫn đến bão lụt xảy ra thường xuyên, ngày càng nhiều sinh vật có tên
trong sách đỏ, lượng rác thải ra ngày càng nhiều gây ô nhiễm không khí, đất,
nguồn nước, ánh sáng.. .Điều đó đặt ra cho chúng ta câu hỏi làm thế nào để
đất nước của chúng ta luôn được xanh- sạch- đẹp? Giải pháp nào để cải thiện
môi trường của nước ta hiện nay?....Mỗi chúng ta cần suy nghĩ và hành động
như thế nào để bảo vệ môi trường sống quanh chúng ta? trách nhiệm của
chúng ta là gì ?
Để hiểu rõ hơn những vấn đề trên, với tầm hiểu biết của mình, em đã
chọn đề tài: “Vận dụng cặp phạm trù Nguyên nhân - kết quả để nói về vấn đề
biến đổi khí hậu đối với thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng” với mong
muốn góp một tiếng nói riêng vào vấn đề nóng bỏng của toàn xã hội và để rèn
luyện kỹ năng nhìn nhận vấn đề dưới góc độ triết học!

Tiểu luận Triết học Sau Đại học

3


Tiểu luận Triết học Sau Đại học

PHẦN II – PHẦN NỘI DUNG
1 Cơ sở lí luận chung nhìn từ góc độ triết học
1.1 Cặp phạm trù Nguyên nhân và Kết quả.
Nguyên nhân và kết quả là một cặp phạm trù trong phép biện chứng
duy vật của chủ nghĩa Mác-Lenin và là một trong những nội dung của nguyên

lý về mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ mối quan hệ biện chứng hai phạm trù
giữa cái Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong
một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào
đó với Kết quả là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau
giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra, qua đó
phản ánh mối quan hệ hình thành của các sự vật, hiện tượng trong hiện thực
khách quan.
1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
Từ việc phát hiện mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết
quả, Triết học Mác-Lenin nêu ra một số ý nghĩa phương pháp luận cho mối
quan hệ này để ứng dụng vào thực tiễn và tư duy, cụ thể là: Mối liên hệ nhân
quả có tính khách quan và tính phổ biến, nghĩa là không có sự vật, hiện tượng
nào trong thế giới vật chất lại không có nguyên nhân. Nhưng không phải con
người có thể nhận thức ngay được mọi nguyên nhân. Nhiệm vụ của nhận thức
khoa học là phải tìm ra nguyên nhân của những hiện tượng trong tự nhiên, xã
hội và tư duy để giải thích được những hiện tượng đó. Muốn tìm nguyên nhân
phải tìm trong thế giới hiện thực, trong bản thân các sự vật, hiện tượng tồn tại
trong thế giới vật chất chứ không được tưởng tượng ra từ trong đầu óc của
con người, tách rời thế giới hiện thực.
Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn tìm nguyên nhân của
một hiện tượng nào đấy cần tìm trong những sự kiện những mối liên hệ xảy ra
trước khi hiện tượng đó xuất hiện.
Tiểu luận Triết học Sau Đại học

4


Tiểu luận Triết học Sau Đại học

Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân

này có vai trò khác nhau đối với việc hình thành kết quả. Vì vậy trong hoạt
động thực tiễn chủ thể cần phân loại các nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ
bản, nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài,
nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan... Đồng thời phải nắm được
chiều hướng tác động của các nguyên nhân, từ đó có biện pháp thích hợp tạo
điều kiện cho nguyên nhân có tác động tích cực đến hoạt động và hạn chế sự
hoạt động của nguyên nhân có tác động tiêu cực.
Từ những lý luận trên, để làm rõ vấn đề hơn ta tìm hiểu cụ thể “nguyên
nhân là gì”, “Kết quả là gì”, “Thế nào là Biến đổi khí hậu”.
* Nguyên nhân là gì?
Là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các
sự vật với nhau gây ra những biến đổi nhất định ở sự vật đó.
Khí hậu bị biến đổi do 2 nhóm nguyên nhân:
Nhóm nguyên nhân khách quan (do sự biến đổi của tự nhiên) bao gồm:
sự biến đổi các hoạt động của mặt trời, sự thay đổi quỹ đạo trái đất, sự thay
đổi vị trí và quy mô của các châu lục, sự biến đổi của các dạng hải lưu, và sự
lưu chuyển trong nội bộ hệ thống khí quyển.
Nhóm nguyên nhân chủ quan (do sự tác động của con người) xuất phát
từ sự khai thác sử dụng quá mức các nguồn tài nguyên, thay đổi mục đích sử
dụng đất, nguồn nước và sự gia tăng lượng phát thải khí CO2 và các khí nhà
kính khác từ các hoạt động của con người.
* Kết quả là gì?
Là những biến đổi xuất hiện ở sự vật do nguyên nhân tạo ra .
Có rất nhiều loại nguyên nhân, một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều
kết quả và ngược lại. Khi xét đến mối liên hệ nhân quả cụ thể thì nguyên nhân
có trước kết quả, còn trong cả quá trình gồm nhiều liên hệ nhân quả nối tiếp
nhau thì nhân và quả có thể chuyển hoá vị trí cho nhau một cách biện chứng.

Tiểu luận Triết học Sau Đại học


5


Tiểu luận Triết học Sau Đại học

Từ những nguyên nhân trên dẫn đến khí hậu Trái Đất bị biến đổi. Từ
trường trục quay của Trái Đất cũng biến đổi, từ đó thời tiết giữa các mùa
trong năm cũng không còn tuân theo quy luật tự nhiên như trước đây. Xảy ra
nhiều thảm hoạ thiên tai như động đất, sóng thần, mưa lớn gây ngập lụt nặng
cho nhiều thành phố lớn trên thế giới.
* Biến đổi Khí hậu Trái Đất là gì?
Biến đổi khí hậu Trái Đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí
quyển, thủy quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi
các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo trong một giai đoạn nhất định tính bằng
thập kỷ hay hàng triệu năm. Sự biển đổi có thể là thay đổi thời tiết bình quân
hay thay đổi sự phân bố các sự kiện thời tiết quanh một mức trung bình. Sự
biến đổi khí hậu có thế giới hạn trong một vùng nhất định hay có thế xuất hiện
trên toàn Địa Cầu. Trong những năm gần đây, đặc biệt trong ngữ cảnh chính
sách môi trường, biến đổi khí hậu thường đề cập tới sự thay đổi khí hậu hiện
nay, được gọi chung bằng hiện tượng nóng lên toàn cầu.
Khí hậu Trái Đất đang bị biến đổi, thời tiết, mưa, bão không còn theo
quy luật của mùa nằng, mùa mưa như trước đây mà ngay cả mùa nắng vẫn có
mưa và bão. Trước đây con người nghiên cứu quy luật của tự nhiên để áp
dụng trong mọi mặt đời sống hằng ngày. Con người biết thời tiết khí hậu như
thế nào để trồng và nuôi con gì tốt nhất. Ngay cả các tướng lĩnh các nước trên
thế giới điển hình là Trung Quốc, thời tam quốc diễn nghĩa giữa các nước
đánh với nhau phải nghiên cứu các vì sao, hướng gió như thế nào để có lợi
cho ta và có hại nhiều cho địch. Cả Việt Nam ta cũng thế, thời nhà Ngô, nhà
Trần đều vận dụng quy luật của thuỷ triều để đánh giặc và có những chiến
thắng lẫy lừng trên Sông Bạch Đằng khiến quân thù khiếp sợ.

2. Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả để giải thích
hiện tượng biến đổi khí hậu.
2.1 Nguyên nhân biến đổi khí hậu
2.1.1 Về nguyên nhân khách quan (do sự biến đổi của tự nhiên)
Tiểu luận Triết học Sau Đại học

6


Tiểu luận Triết học Sau Đại học

Nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu do tự nhiên bao gồm thay đổi
cường độ sáng của Mặt trời, xuất hiện các điểm đen Mặt trời (Sunspots), các
hoạt động núi lửa, thay đổi đại dương, thay đổi quỹ đạo quay của Trái Đất. Số
Sunspots xuất hiện trung bình năm từ năm 1610 đến 2000. Với sự xuất hiện
các Sunspots làm cho cường độ tia bức xạ mặt trời chiếu xuống trái đất thay
đổi, nghĩa là năng lượng chiếu xuống mặt đất thay đổi làm thay đổi nhiệt độ
bề mặt trái đất (Nguồn: NASA).
Sự thay đổi cường độ sáng của Mặt trời cũng gây ra sự thay đổi năng
lượng chiếu xuống mặt đất thay đổi làm thay đổi nhiệt độ bề mặt trái đất. Cụ
thể là từ khi tạo thành Mặt trời đến nay gần 4,5 tỷ năm cường độ sáng của
Mặt trời đã tăng lên hơn 30%. Như vậy có thể thấy khoảng thời gian khá dài
như vậy thì sự thay đổi cường độ sáng mặt trời là không ảnh hưởng đáng kể
đến biến đổi khí hậu.
Núi lửa phun trào – Khi một ngọn núi lửa phun trào sẽ phát thải vào khí
quyển một lượng cực kỳ lớn khối lượng sulfur dioxide (SO2), hơi nước, bụi
và tro vào bầu khí quyển. Khối lượng lớn khí và tro có thể ảnh hưởng đến khí
hậu trong nhiều năm. Các hạt nhỏ được gọi là các sol khí được phun ra bởi
núi lửa, các sol khí phản chiếu lại bức xạ (năng lượng) mặt trời trở lại vào
không gian vì vậy chúng có tác dụng làm giảm nhiệt độ lớp bề mặt trái đất.

Đại dương ngày nay – Các đại dương là một thành phần chính của hệ
thống khí hậu. Dòng hải lưu di chuyển một lượng lớn nhiệt trên khắp hành
tinh. Thay đổi trong lưu thông đại dương có thể ảnh hưởng đến khí hậu thông
qua sự chuyển động của CO2 vào trong khí quyển.
Thay đổi quỹ đạo quay của Trái Đất – Trái đất quay quanh Mặt trời với
một quỹ đạo. Trục quay có góc nghiêng 23,5 °. Thay đổi độ nghiêng của quỹ
đạo quay trái đất có thể dẫn đến những thay đổi nhỏ. Tốc độ thay đổi cực kỳ
nhỏ có thể tính đến thời gian hàng tỷ năm, vì vậy có thể nói không ảnh hưởng
lớn đến biến đổi khí hậu.

Tiểu luận Triết học Sau Đại học

7


Tiểu luận Triết học Sau Đại học

Trái Đất chúng ta luôn vận động và xoay quanh hệ mặt trời. Từ khi
hình thành cho đến nay khí hậu, môi trường sống của Trái Đất luôn luôn thay
đổi. Khi Trái Đất vừa được hình thành trên Trái Đất chưa có đại dương và
cũng không có oxy trong khí quyển. Sinh vật sơ khởi của Trái Đất chỉ là các
tế bào, qua quá trình quang hợp đã tạo ra rất nhiều oxy. Từ đó dẫn đến thực
vật và động vật ra đời. Như vậy từ khi Trái Đất hình thành đến khi có thực vật
và động vật môi trường sống luôn được cải thiện và khí hậu bao gồm nhiệt độ,
độ ẩm, lượng mưa, áp suất khí quyển cũng thay đổi theo.
Điển hình như thời kỳ Kỷ Băng Hà với sự thay đổi đột ngột của nhiệt
độ, Trái Đất trở nên lạnh đi như một quả địa cầu tuyết dẫn đến sự tuyệt chủng
của nhiều loài sinh vật do sự thay đổi đột ngột của nhiệt độ Trái Đất. Về
nguyên nhân của sự thay đổi nhiệt độ này đến nay cũng là một câu hỏi lớn
đang đặc ra, vì nó phụ thuộc vào nhận thức của con người vào thế giới quan

ấy. Trong đó giả thuyết giả thuyết "trục trái đất nghiêng" được đa số mọi
người ủng hộ. Theo đó, quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời (và cả chính
Mặt Trời quanh Ngân Hà) đã bị thay đổi. Người ta gọi sự thay đổi này là chu
kỳ Milankovitch.
Đến thời kỳ Kỷ Phấn Trắng khí hậu là rất ấm đến mức không có băng
tại hai địa cực. Mực nước biển cao hơn nhiều so với ngày nay và các khu vực
lớn của lớp vỏ Trái Đất đã bị các biển nông bao phủ, với khí hậu ấm áp đã tạo
điều kiện để các loài thực vật sinh sôi nẩy nở, đặc biệt là các thực vật có hoa
phát triển thịnh vượng.
Với 02 kỷ Băng Hà và kỷ Phấn Trắng vừa nêu trên, để thấy được sự
biến đổi khí hậu do yếu tố tự nhiên tác động đều có ảnh hưởng trực tiếp đến
môi trường sống của sinh vật. Có lúc thì sự ảnh hưởng của khí hậu, biến đổi
của Trái Đất theo hướng có lợi cho môi trường sống, có lúc thì có hại cho môi
trường sống. Với vấn đề nêu ra, để từ đó ta có cái nhìn nhận về sự vận động,
biến đổi của khí hậu trên Trái Đất này, từ đó đưa ra được ý thức đúng mà cải
tạo môi trường sống ngày càng có lợi cho con người.
Tiểu luận Triết học Sau Đại học

8


Tiểu luận Triết học Sau Đại học

2.1.2 Về nguyên nhân chủ quan (con người)
Kể từ thời kỳ tiền công nghiệp (khoảng từ năm 1750), con người đã sử
dụng ngày càng nhiều năng lượng, chủ yếu từ các nguồn nguyên liệu hóa
thạch (than, dầu, khí đốt), qua đó đã thải vào khí quyển ngày càng tăng các
chất khí gây hiệu ứng nhà kính của khí quyển, dẫn đến tăng nhiệt độ của trái
đất.
Trái đất chịu sự tác động mạnh mẽ của con người hàng nghìn năm qua,

các hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên của con người với số lượng
không ngừng tăng lên, nhất là từ thế kỉ 18 thời kì nhảy vọt về công nghiệp,
khoa học kĩ thuật. Cho tới ngày nay các nguồn tài nguyên đang dần cạn kiệt,
không những thế nó còn mang lại những hậu quả hết sức nặng nề khi con
người chỉ biết khai thác mà không biết bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên,
tất cả các lĩnh vực: Công nghiệp, Lâm nghiệp, Giao thông vận tải và Năng
lượng hạt nhân.
Về Công nghiệp: Các nhà máy, xí nghiệp hàng ngày thải ra hàng tấn
bụi, khí SO2, NO2, CO... Nồng độ bụi có xu hướng tăng theo thời gian và hầu
hết đều vượt quá giới hạn cho phép nhiều lần.
Về Lâm nghiệp: Những vụ chặt phá rừng, cháy rừng với quy mô lớn
cũng thải ra một lượng bụi khí và CO2 khá lớn làm biến đổi khí hậu.
Về Giao thông vận tải: Hoạt động lưu hành của các phương tiện giao
thông hàng ngày thải vào khí quyển rất nhiều khói bụi, làm cho các thành
phần chất khí trong khí quyển thay đổi hàm lượng một cách rõ rệt.
Về Năng lượng hạt nhân: Một vụ nổ hạt nhân sẽ cho ra hàng tấn bụi
khí, số bụi khí này bay vào khí quyển làm thay đổi hàm lượng các chất có
trong không khí.
Tất cả mọi hoạt động của con người đều ảnh hưởng đến khí hậu Trái
Đất. Từ năm 1840 đến 2004, tổng lượng phát thải khí CO2 của các nước giàu
chiếm tới 70% tổng lượng phát thải khí CO2 toàn cầu, trong đó ở Hoa Kỳ và
Anh trung bình mỗi người dân phát thải 1.100 tấn, gấp khoảng 17 lần ở Trung
Tiểu luận Triết học Sau Đại học

9


Tiểu luận Triết học Sau Đại học

Quốc và 48 lần ở Ấn Độ. Riêng năm 2004, lượng phát thải khí CO2 của Hoa

Kỳ là 6 tỷ tấn, bằng khoảng 20% tổng lượng phát thải khí CO2 toàn cầu.
Trung Quốc là nước phát thải lớn thứ 2 với 5 tỷ tấn CO2, tiếp theo là Liên
bang Nga 1,5 tỷ tấn, Ấn Độ 1,3 tỷ tấn, Nhật Bản 1,2 tỷ tấn, CHLB Đức 800
triệu tấn, Canada 600 triệu tấn, Vương quốc Anh 580 triệu tấn. Các nước đang
phát triển phát thải tổng cộng 12 tỷ tấn CO2, chiếm 42% tổng lượng phát thải
toàn cầu so với 7 tỷ tấn năm 1990 (29% tổng lượng phát thải toàn cầu), cho
thấy tốc độ phát thải khí CO2 của các nước này tăng khá nhanh trong khoảng
15 năm qua. Một số nước phát triển dựa vào đó để yêu cầu các nước đang
phát triển cũng phải cam kết theo Công ước Biến đổi khí hậu.
Năm 1990, Việt Nam phát thải 21,4 triệu tấn CO2. Năm 2004, phát thải
98,6 triệu tấn CO2, tăng gần 5 lần, bình quân đầu người 1,2 tấn/năm (trung
bình của thế giới là 4,5 tấn/năm, Singapo 12,4 tấn, Malaysia 7,5 tấn, Thái Lan
4,2 tấn, Trung Quốc 3,8 tấn, Inđônêxia 1,7 tấn, Philippin 1,0 tấn, Myanma 0,2
tấn, Lào 0,2 tấn).
Như vậy, phát thải các khí CO2 của Việt Nam tăng khá nhanh trong 15
năm qua, song vẫn ở mức thấp so với trung bình toàn cầu và nhiều nước trong
khu vực. Dự tính tổng lượng phát thải các khí nhà kính của Việt Nam sẽ đạt
233,3 triệu tấn CO2 tương đương vào năm 2020, tăng 93% so với năm 1998.
Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là trong khi các nước giàu chỉ chiếm 15%
dân số thế giới, nhưng tổng lượng phát thải của họ chiếm 45% tổng lượng
phát thải toàn cầu; các nước châu Phi và cận Sahara với 11% dân số thế giới
chỉ phát thải 2%, và các nước kém phát triển với 1/3 dân số thế giới chỉ phát
thải 7% tổng lượng phát thải toàn cầu. Đó là điều mà các nước đang phát triển
nêu ra về bình đẳng và nhân quyền tại các cuộc thương lượng về Công ước
khí hậu và Nghị định thư Kyoto.
2.2 Hệ quả của biến đổi khí hậu

Tiểu luận Triết học Sau Đại học

10



Tiểu luận Triết học Sau Đại học

Biến đổi khí hậu mang theo nhiều hệ luỵ cho con người, các điều kiện
sống của con người và sinh vật bị thay đổi đáng kể trong đó có một số hiện
tượng như:
Mực nước biển dâng:
Nước biển dâng cao là do nhiệt độ trên trái đất ngày càng tăng. Nhiệt
độ tăng khiến các tảng băng tan nhanh hơn, làm mực nước biển và đại dương
trên toàn thế giới tăng theo.
Nhiều khu vực trên thế giới, trong đó có Việt Nam diện tích lãnh thổ bị
thu hẹp dần, nguy cơ mất nơi sinh sống là khó tránh khỏi.
Băng tan:
Chúng ta dễ dàng nhận thấy diện tích của các dòng sông băng trên toàn
thế giới đang dần bị thu hẹp lại. Vùng lãnh nguyên (vùng đất cao nơi cây cối
không thể sinh trưởng và phát triển) từng bị lớp băng vĩnh cửu bao phủ, nay
dưới tác động của nhiệt độ cao, lớp băng đã tan chảy và sự sống của các loài
thực vật trên vùng đất này cũng đã xuất hiện.
Nắng nóng:
Trong 50 năm trở lại đây, tần suất xảy ra các đợt nắng nóng đã tăng từ
2- 4 lần. Nhiều khả năng trong 40 năm tới, số lượng các đợt nắng nóng sẽ
tăng 100 lần.
Theo các chuyên gia, nắng nóng sẽ làm tăng số vụ cháy rừng, các loại
bệnh dịch, và mức nhiệt độ trung bình trên hành tinh trong tương lai cũng sẽ
tăng theo.
Bão và lũ lụt:
Số liệu thống kê cho thấy, chỉ trong vòng 30 năm gần đây, những cơn
bão mạnh cấp 4 và cấp 5 đã tăng lên gấp đôi.
Những vùng nước ấm đã làm tăng sức mạnh cho các cơn bão. Chính

mức nhiệt cao trên đại dương và trong khí quyển, đẩy tốc độ cơn bão đạt mức
kinh hoàng.
Tiểu luận Triết học Sau Đại học

11


Tiểu luận Triết học Sau Đại học

Hạn hán:
Khi một số nơi trên thế giới đang phải hứng chịu cảnh ngập lụt do mực
nước biển dâng và bão lũ, thì ở nhiều nơi khác, hạn hán lại đang hoành hành.
Các chuyên gia ước tính tình trạng hạn hán sẽ tăng ít nhất 66% do khí
hậu ngày càng ấm hơn.
Hạn hán xảy ra thường xuyên sẽ thu hẹp nguồn cung cấp nước, làm
giảm chất lượng các sản phẩm nông nghiệp, khiến nguồn cung ứng lương
thực toàn cầu trở nên bấp bênh.
Hiện nay Ấn Độ, Pakistan và vùng cận Sahara thuộc châu Phi đang
phải hứng chịu các đợt hạn hán nghiêm trọng. Giới khoa học dự báo lượng
mưa tại các khu vực trên sẽ tiếp tục giảm trong những thập kỷ tới. Hội đồng
liên chính phủ về biến đổi khí hậu tại châu Phi cho rằng, tới năm 2020, sẽ có
75 – 250 triệu dân châu Phi không có nước sử dụng, và sản lượng nông
nghiệp của châu lục này cũng sẽ giảm 50%
Dịch bệnh:
Nhiệt độ ngày càng tăng kết hợp với lũ lụt và hạn hán đang trở thành
mối đe dọa với sức khỏe dân số toàn cầu. Bởi đây là môi trường sống lý
tưởng cho các loài muỗi, những loài ký sinh, chuột và nhiều sinh vật mang
bệnh khác phát triển mạnh.
Thiệt hại kinh tế:
Bão lụt cùng với những tổn thất trong ngành nông nghiệp đã gây thiệt

hại hàng tỷ USD. Bên cạnh đó, các chính phủ cũng cần một lượng tiền lớn để
xử lý và kiểm soát sự lây lan dịch bệnh.
Năm 2005, cơn bão lịch sử đã đổ bộ vào Louisiana, khiến mức thu
nhập của người dân nơi đây giảm 15% trong những tháng sau cơn bão, và
thiệt hại về tài sản ước tính khoảng 135 tỷ USD.
Trong khi người dân phải đối phó với giá lương thực và nhiên liệu tăng
cao, thì các chính phủ cũng đang phải chịu sụt giảm doanh thu từ ngành du
Tiểu luận Triết học Sau Đại học

12


Tiểu luận Triết học Sau Đại học

lịch, giảm lợi nhuận công nghiệp. Ngược lại, nhu cầu năng lượng, lương thực,
nước sạch, chi phí cho hoạt động dọn dẹp sau thảm họa lại luôn tăng cao, kèm
theo những bất ổn vùng biên giới.
Theo dự đoán của Viện nghiên cứu Môi trường và phát triển toàn cầu
tại Đại học Tufts, Mỹ, chi phí cho cuộc chiến chống biến đổi khí hậu tới năm
2100 sẽ đạt 20 ngàn tỷ USD.
Giảm đa dạng sinh học:
Nhiệt độ gia tăng đã đẩy nhiều loài sinh vật tới bờ vực suy giảm số
lượng hoặc tuyệt chủng. Nếu mức nhiệt độ trung bình tăng từ 1,1ºC – 6,4ºC,
30% loài động thực vật hiện nay sẽ có nguy cơ tuyệt chủng vào năm 2050.
Nguyên nhân dẫn tới sự tuyệt chủng là do môi trường sống của các
loài động thực vật ngày càng bị thu hẹp, hiện tượng sa mạc hóa, phá rừng và
nước trên các đại dương ngày càng ấm hơn, trong khi đó, nhiều loài không thể
thích ứng kịp thời với những biến đổi trên.
Con người cũng không thể thoát khỏi những tác động của biến đổi khí
hậu. Sa mạc hóa và mực nước biển tăng đe dọa trực tiếp môi trường sống của

con người. Khi thực vật và động vật giảm dần số lượng, nguồn cung cấp thực
phẩm, nhiên liệu và cả thu nhập của con người cũng sẽ giảm theo.
Hủy diệt hệ sinh thái:
Những thay đổi trong điều kiện khí hậu và lượng khí carbon dioxide
tăng nhanh chóng đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới hệ sinh thái, nguồn cung
cấp nước ngọt, không khí, nhiên liệu, năng lượng sạch, thực phẩm và sức
khỏe.
Dưới tác động của nhiệt độ, không khí và băng tan, số lượng các rạn
san hô ngày càng có xu hướng giảm. Điều đó cho thấy, cả hệ sinh thái trên
cạn và dưới nước đều đang phải hứng chịu những tác động từ lũ lụt, hạn hán,
cháy rừng, cũng như hiện tượng axit hóa đại dương
2.3 Những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đối với Thế giới và Việt
Nam
Tiểu luận Triết học Sau Đại học

13


Tiểu luận Triết học Sau Đại học

2.3.1 Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đối với một số nước trên thế
giới.
Với những biến đổi khí hậu đã gây ra nhiều thảm hoạ điển hình như
hàng loạt tác động cực đoan của khí hậu trong thời gian gần đây như đã có
khoảng 250 triệu người bị ảnh hưởng bởi những trận lũ lụt ở Nam Á, châu Phi
và Mexico. Các nước Nam Âu đang đối mặt nguy cơ bị hạn hán nghiêm trọng
dễ dẫn tới những trận cháy rừng, sa mạc hóa, còn các nước Tây Âu thì đang bị
đe dọa xảy ra những trận lũ lụt lớn, do mực nước biển dâng cao cũng như
những đợt băng giá mùa đông khốc liệt. Những trận bão lớn vừa xẩy ra tại
Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ...có nguyên nhân từ hiện tượng trái đất

ấm lên trong nhiều thập kỷ qua.
Những dữ liệu thu được qua vệ tinh từng năm cho thấy số lượng các
trận bão không thay đổi, nhưng số trận bão, lốc cường độ mạnh, sức tàn phá
lớn đã tăng lên, đặc biệt ở Bắc Mỹ, tây nam Thái Bình Dương, Ân Độ Dương,
bắc Đại Tây Dương. Số lượng các trận bão lớn, lốc xoáy cường độ mạnh tăng
gấp đôi, trùng hợp với nhiệt độ bề mặt đại dương tăng lên. Trận sóng thần ở
Ấn Độ Dương (2004) cướp đi sinh mạng 225 000 người thuộc 11 quốc gia,
hay cơn bão Katrina đổ bộ vào nước Mỹ (2005) gây thương vong lên đến
hàng ngàn người và thiệt hại kinh tế ước tính 25 tỷ USD, và gần đây nhất siêu
bão Nargis đánh vào Myanmar (2008) là thảm họa thiên nhiên tàn khốc nhất
năm qua tính theo số lượng người thiệt mạng. Trận bão này giết chết hơn
135.000 người và đẩy hơn một triệu người vào cảnh không nhà cửa. Tính ra,
thiên tai đã cướp đi mạng sống của hơn 220.000 người trong năm 2008 và gây
thiệt hại khoảng 200 tỷ USD, biến nó thành một trong những năm đáng sợ
nhất trong lịch sử loài người tính theo tổn thất thiên tai về người và của. Diễn
biến mới nhất của thiên tai là trận cháy rừng khủng khiếp do thời tiết quá khô
hạn vừa xãy ra ở nước Úc (2/2009) đã giết chết ít nhất 210 người và làm bị
thương hơn 500 người cùng những thiệt hại nặng nề về vật chất. Một nghiên

Tiểu luận Triết học Sau Đại học

14


Tiểu luận Triết học Sau Đại học

cứu với xác suất lên tới 90%.cho thấy sẽ có ít nhất 3 tỷ người rơi vào cảnh
thiếu lương thực vào năm 2100, do tình trạng ấm lên của Trái đất.
2.3.2 Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đối với Việt Nam
Thời tiết ở Việt Nam những năm gần đây ngày càng bất thường. Hạn

hán, ngập lụt, sạt lở, giông tố, bão lũ có diễn biến phức tạp, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào sản xuất nông nghiệp của
nước ta. Đặc biệt, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia bị
ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu (BĐKH) do có bờ biển dài. Nếu nước
biển dâng 1 mét, 40% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long, 10% diện tích
Đồng bằng sông Hồng sẽ bị ngập, ảnh hưởng trực tiếp đến 20-30 triệu người
dân.
Thời tiết bất thường khắp cả nước: các năm gần đây thời tiết ngày càng
gay gắt, diễn ra bất thường trên khắp cả nước, không phân biệt mùa vụ, không
theo quy luật tự nhiên. Cụ thể với mùa khô 2016, nhiều nơi ở miền Nam và
miền Trung khô hạn do lượng mưa thiếu hụt từ 30 - 40%, lượng dòng chảy
trên các sông nhỏ dẫn đến tình trạng xâm nhập mặn đến sớm hơn 1 tháng ở
các vùng cửa sông miền Trung và đặc biệt ở ĐBSCL, nhiều nơi mặn đã vào
sâu 80 - 100 km hoặc hơn, bà con nông dân điêu đứng vì hạn mặn, thiếu
nguồn nước ngọt cho sinh hoạt và sản xuất rất nghiêm trọng.
Ở miền Trung mưa lũ đến muộn nhưng lại dồn dập, lũ chồng lũ kéo dài
nhiều ngày vào những tháng cuối năm 2016, gây thiệt hại lớn về tài sản và
người. Miền Bắc đợt rét đầu tiên đến sớm so với bình thường, tuy nhiên người
dân lại ít cảm nhận được không khí lạnh của mùa đông, do xen kẽ các đợt
lạnh lại có những ngày nhiệt độ khá cao gây tiết trời oi nóng.
Trong mùa khô 2016 – 2017, Nam Bộ cũng như TPHCM đã xuất hiện
một số trận mưa trái mùa với lượng lớn, số ngày xuất hiện mưa và tổng lượng
mưa các tháng trong mùa khô cũng vượt trung bình nhiều năm cùng thời kỳ.
Mưa trái mùa gây thiệt hại cho sản xuất vụ đông xuân cũng như hoa màu cây
trái. Theo chuyên gia dự báo khí tượng, có nhiều nguyên nhân, trong đó phần
Tiểu luận Triết học Sau Đại học

15



Tiểu luận Triết học Sau Đại học

lớn do BĐKH đã làm thay đổi một số quy luật tự nhiên. Chuyên gia dự báo
khí tượng cho biết, hiện nay thời tiết đang ở giai đoạn trung tính và có xu
hướng nhích sang El Nino (thường gắn với hiện tượng khô hạn) nên mùa mưa
ở Nam Bộ đã đến sớm hơn trung bình nhiều năm.

PHẦN III: CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
Vấn đề khắc phục biến đổi khí hậu không phải do một người, một quốc
gia thực hiện mà phải có sự chung sức của toàn thể nhân loại, trong đó chú
trọng một số vấn đề sau:
1. Nâng cao tình yêu thiên nhiên đất nước của con người.
Yếu tố con người là quan trọng nhất trong việc nhìn nhận cải tạo thiên
nhiên, và cũng là nhân tố quan trọng trong việc khắc phục biến đổi của khí
hậu. Do đó phải nâng cao nhận thức, ý thức con người về hành tinh xanh mà
ta đang sống. Việc nâng cao nhận thức, ý thức đó bắt nguồn từ những việc
làm rất nhỏ là tình yêu quê hương, yêu đất nước, yêu thương những người đã
sinh ra ta, đến yêu thương quý trọng những gì đã cho ta sự sống. Chính những
tình yêu thương này sẽ làm cho con người cân nhắc mỗi khi hành động khai
thác, tác động vào môi trường đã nuôi dưỡng sự sống của mình.
2. Chặn đứng nạn phá rừng và tích cực trồng rừng
Mỗi quốc gia phải đặt việc bảo vệ rừng là trên hết. Tích cực trồng rừng
và bảo vệ rừng. Vì rừng là lá phổi xanh của Trái Đất, chứng rừng đã tạo ra
cho con người bầu khí quyển trong lành, cung cấp khí ô xy để con người
sống. Cũng chính rừng đã tích và giữ nước, hạn chế xảy ra xói mòn, lũ lụt vì
Tiểu luận Triết học Sau Đại học

16



Tiểu luận Triết học Sau Đại học

rừng đã giữ lại một lượng nước mưa đáng kể ở đầu nguồn và từ từ trả lại cho
tự nhiên thông qua các con suối, dòng sông rồi chảy ra biển. Quá trình trả lại
nước theo quy luật tự nhiên một cách từ từ không nhảy vột nên không thể xảy
ra việc ngập lụt, sạt lở núi như hiện nay.
3. Hạn chế sử dụng nhiên liệu hóa thạch
Một trong những giải pháp khả thi nhất là hạn chế đốt than, dầu và khí
thiên nhiên. Hiện nay, dầu là nhiên liệu phổ biến và cũng từ dầu người ta sản
xuất ra nhiều sản phẩm khác, còn than lại được sử dụng rất phổ biến ở hầu hết
các quốc gia, chủ yếu là để sản xuất điện. Theo các chuyên gia Năng lượng
Mỹ, cho tới thời điểm hiện nay chưa có một giải pháp hoàn hảo nào để thay
thế nhiên liệu hóa thạch mặc dù đây là nguồn gây hiệu ứng nhà kính rất lớn.
Bởi vậy, sớm hay muộn con người cũng sẽ phải tìm ra nguồn nhiên liệu khác
thay thế như nhiên liệu sinh học, điện nguyên tử hay các nguồn năng lượng
khác.
4. Cải tạo, nâng cấp hạ tầng
Theo số liệu thống kê, nhà ở chiếm tới gần 1/3 lượng phát tán khí gây
hiệu ứng nhà kính trên quy mô toàn cầu (riêng ở Mỹ là 43%). Vì vậy, việc cải
tiến trong lĩnh vực xây dựng như tăng cường hệ thống bảo ôn, xây dựng các
cầu thang điều chỉnh nhiệt, các loại nhà "môi trường"... sẽ tiết kiệm được rất
nhiều nhiên liệu và giảm mức phát tán khí thải. Ngoài ra, các công trình giao
thông như cầu đường cũng là yếu tố cần đầu tư thỏa đáng. Đường tốt không
chỉ giảm nhiên liệu cho xe cộ mà còn giảm cả lượng khí phát tán độc hại hoặc
sử dụng các loại lò đốt trong công nghiệp (như lò khí hóa than, lò dùng trong
sản xuất xi măng) cũng sẽ giảm được rất nhiều khí thải gây hiệu ứng nhà
kính.
5. Giảm tiêu thụ
Một trong những phương án kinh tế nhất là tiết kiệm giảm chi tiêu, điều
này không chỉ đúng trong cuộc sống hàng ngày mà nó còn có tác dụng làm

giảm các loại khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Ví dụ như giảm dùng các loại
Tiểu luận Triết học Sau Đại học

17


Tiểu luận Triết học Sau Đại học

bao gói sẽ giảm được đáng kể chi phí sản xuất lẫn phí tái chế. Một trong
những vấn đề bức xúc hiện nay là sử dụng quá nhiều các loại bao gói có
nguồn gốc từ nhựa plastic đã gây nên hiệu ứng "ô nhiễm trắng"...
6. Ăn uống thông minh, tăng cường rau, hoa quả
Đây là phương án được giới y học khuyến cáo rất nhiều, nhưng đứng về
mặt môi trường lại có ý nghĩa khác. Theo đó, người ta đã khuyến khích việc
canh tác hữu cơ, gieo trồng các loại rau, hoa quả không dùng phân hóa học,
thuốc trừ sâu. Việc lựa chọn thực phẩm để cân bằng dưỡng chất, ngon miệng
lại mang tính môi trường quả là không đơn giản, trong khi đó các hãng sản
xuất lại thi nhau quảng cáo nên đã làm cho người tiêu dùng dễ bị nhầm lẫn.
Ngoài ra việc ăn quá nhiều thịt cũng không tốt cho cơ thể, trong khi đó riêng
ngành chăn nuôi cũng là nơi sản xuất ra các loại gây hiệu ứng nhà kính lớn
nhất.
8. Tiết kiệm điện
Một trong những giải pháp kinh tế khả thi nhất nhằm giảm thiểu ô
nhiễm môi trường là tiết kiệm điện, đặc biệt là sử dụng các thiết bị dân dụng
tiết kiệm điện như bóng đèn compact, các loại pin nạp. Theo các Bộ Môi
trường Mỹ, ở quốc gia này mỗi gia đình chỉ cần thay một bóng đèn dây tóc
chiếu sáng bằng bóng compact thì cả nước sẽ tiết kiệm được lượng điện dùng
cho 3 triệu gia đình khác.
9. Khai phá những nguồn năng lượng mới
Việc tìm kiếm nguồn năng lượng mới để thay thế nhiên liệu hóa thạch

là thách thức lớn nhất của con người trong thế kỷ 21. Một số nguồn năng
lượng ứng viên sáng giá là ethanol từ cây trồng, hydro từ quá trình thủy phân
nước, năng lượng nhiệt, năng lượng sóng, năng lượng gió, năng lượng mặt
trời và nhiên liệu sinh học...
10. Ứng dụng các công nghệ mới trong việc bảo vệ trái đất
Hiện nay các nhà khoa học đang tiến hành những thử nghiệm mới như
quá trình can thiệp kỹ thuật địa chất hay kỹ thuật phong bế mặt trời... nhằm
Tiểu luận Triết học Sau Đại học

18


Tiểu luận Triết học Sau Đại học

giảm hiệu ứng nhà kính. Ngoài các giải pháp này, các nhà khoa học còn tính
đến kỹ thuật phát tán các hạt sulfate vào không khí để nó thực hiện quá trình
làm lạnh bầu khí quyển như quá trình phun nhan thạch của núi lửa, hoặc lắp
đặt hàng triệu tấm gương nhỏ để làm chệch ánh sáng mặt trời cho tới việc bao
phủ vỏ trái đất bằng các màng phản chiếu để khúc xạ trở lại ánh sáng mặt trời,
tạo ra các đại dương có chứa sắt và các giải pháp tăng cường dưỡng chất giúp
cây trồng hấp thụ nhiều CO2 hơn...

Phần IV - KẾT LUẬN .
Theo định luật nhân quả, các hậu quả của biến đổi khí hậu cho Trái Đất
chúng ta cũng xuất phát phần lớn là do việc cải tạo tự nhiên của con người
quá mức, chúng ta đã vấn kiệt sức sống của tự nhiên. Thì theo quy luật nhân
quả tự nhiên sẽ trả lại cho con người những gì mà con người gây ra với tự
nhiên. Từ những nguyên nhân và kết quả của biến đổi khí hậu đã nêu để từ đó
chúng ta có cách nhìn nhận đúng bản chất sự việc và đưa ra một số giải pháp
đúng để cải tạo, khai thức tự nhiên sau cho yếu tố tự nhiên và con người là hài

hoà nhất theo nguyên tắc “để tạo ra nền nhà thì phải lấy đất đi và để lại một
cái vũng, cái vũng này là nơi chứa nước tự nhiên chứ không thể cưỡng bức
làm nền nhà hết thì nước thoát đi đâu”? Phải tìm cách sống hài hoá với tự
nhiên chứ không phải tiềm cách chống lại tự nhiên.

Tiểu luận Triết học Sau Đại học

19


Tiểu luận Triết học Sau Đại học

“ Thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng có giữ mãi màu xanh ngát,
có sạch đẹp mãi được không? Điều đó tuỳ thuộc hành động của bạn, chỉ thuộc
vào bạn mà thôi”.
Thật vậy, tổ quốc Việt Nam ta có xanh, có sạch, có đẹp mãi được không
tuỳ thuộc vào chính chúng ta. Vì mọi hành động của con người đều tác động
vào giới tự nhiên và môi trường cũng như con người không thể sống mà tách
rời tự nhiên. Vậy mà, hiểm hoạ sinh thái đang đe doạ toàn bộ sự sống của mọi
quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng, hiểm hoạ này liệu có ngăn chặn và
giải quyết được hay không ? chúng ta hãy cùng suy nghĩ ! Tất cả chúng ta
hãy bắt đầu khi chưa quá muộn, hãy cùng nhau chung sức bảo vệ môi trường
để giang sơn gấm vóc hình chữ S với rừng vàng biển bạc mà cha ông đã để lại
ngày càng tươi đẹp....Hãy làm cho mọi người hiểu bất kì một hành vi thiếu ý
thức nào của con người cũng dễ dàng làm tổn hại đến cái nôi thiêng liêng cuả
chính mình. Chúng ta không thể không nghĩ đến thế hệ con cháu chúng ta.
Hãy để lại cho chúng không phải là sa mạc, một đất nước bị tàn phá với
những mảnh đất khô cằn, ô nhiễm nặng nề... mà là những cánh đồng màu mỡ,
những khu rừng được phủ xanh cùng với những tiếng gầm, gừ của hổ báo,
chim muông ...

Chúng ta là sinh viên - thế hệ tương lai của đất nước cần có trách
nhiệm tuyên truyền, phổ biến cho mọi người hiểu rõ nguy cơ hiểm hoạ của ô
nhiễm môi trường, động viên những việc làm có ích tới môi trường, hãy nhớ
tới môi trường từ những việc làm nhỏ nhất, hãy biết trân trọng và bảo vệ môi
trường vì chúng ta là thế hệ tiếp nối .

Tiểu luận Triết học Sau Đại học

20


Tiểu luận Triết học Sau Đại học

TÀI LIỆU THAM KHẢO
 Triết học Mac Lênin (giáo trình của trường ĐHQL & KD HN).
 Giáo trình những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, Bộ
giáo dục và Đào tạo, nhà xuất bản chính trị quốc gia, năm 2014.
 Kĩ năng thuyết trình và xử lí văn bản (giáo trình của trường ĐHQL
& KD HN )
 Báo Khoa học- Công nghệ Môi trường ra tháng 12/2003 trang 12-13
 Nguồn tài liệu tham khảo trên Wikipedia tiếng Việt
 Cùng với nhiều báo, tài liệu tham khảo khác...

Tiểu luận Triết học Sau Đại học

21


Tiểu luận Triết học Sau Đại học


Tiểu luận Triết học Sau Đại học

22



×