Tải bản đầy đủ (.doc) (250 trang)

Quan điểm của đảng cộng sản việt nam căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và sự vận dụng của tỉnh thừa thiên huế trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.54 MB, 250 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỦY TIÊN

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ ĐỔI
MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VÀ
SỰ VẬN DỤNG CỦA TỈNH THỪA THIÊN HUẾ TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỦY TIÊN

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ ĐỔI
MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VÀ
SỰ VẬN DỤNG CỦA TỈNH THỪA THIÊN HUẾ TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: CNDVBC&CNDVLS
Mã số: 92 29 002

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC



Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN ĐÌNH HÒA
PGS.TS. NGUYỄN VĂN HÒA

HA NỘI, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
tài liệu được trích dẫn trong luận án là trung thực, có nguồn gốc và xuất xứ rõ ràng.
Các kết quả nghiên cứu của luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào khác.
Nghiên cứu sinh

Nguyễn Thủy Tiên


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành đề tài luận án một cách hoàn chỉnh và tốt nhất, bên
cạnh sự nỗ lực cố gắng của bản thân còn có sự hướng dẫn nhiệt tình của quý thầy,
cô giáo cũng như sự động viên, ủng hộ của gia đình và bạn bè trong suốt thời gian
học tập nghiên cứu và thực hiện luận án Tiến sĩ.
Cho phép em bày tỏ lòng biết ơn, sự kính trọng đến thầy TS. Nguyễn Đình
Hòa, PGS.TS. Nguyễn Văn Hòa đã hết lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất
để em có thể hoàn thành luận án theo đúng quy định.
Em xin gửi lời cảm ơn đến Học viện Khoa học xã hội, Trường Cao đẳng Sư
phạm Huế đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho em trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Cuối cùng, cho em gửi lời cảm ơn đến gia đình và tất cả mọi người đã giúp

đỡ và động viên em trong thời gian qua.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2019
Nghiên cứu sinh

Nguyễn Thủy Tiên


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................ 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án................................................... 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................... 4
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu.......................................... 5
5. Những đóng góp mới của luận án....................................................................... 5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án............................................................. 6
7. Kết cấu của luận án............................................................................................ 6
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN......................................................................................................... 7
1.1. Các công trình nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản xoay quanh quan điểm của

Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. 7
1.2. Các công trình nghiên cứu thực trạng vận dụng quan điểm của Đảng Cộng sản Việt

Nam về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở Thừa Thiên Huế..27
1.3. Các công trình nghiên cứu về phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả vận dụng quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở Thừa Thiên Huế...................................32

1.4. Khái quát kết quả của các công trình có liên quan và những vấn đề mà luận án
sẽ tiếp tục nghiên cứu.................................................................................... 39
Chương 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN
DIỆN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THEO QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG.............42
2.1. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo: Một số khái niệm cơ bản,
tính tất yếu của đổi mới giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay...................42
2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo: Cơ sở lý luận và thực tiễn..................................................... 52
2.3. Nội dung quan điểm của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo........................................................................................................... 75


Chương 3. KẾT QUẢ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ ĐỔI MỚI
CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở TỈNH THỪA THIÊN
HUẾ TRONG THỜI GIAN QUA........................................................................ 93
3.1. Điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế, văn hóa và xã hội của tỉnh Thừa Thiên Huế
.....................................................................................................................................93

3.2. Một số thành tựu và nguyên nhân cơ bản trong quá trình vận dụng quan điểm
của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở Thừa Thiên
Huế hiện nay.................................................................................................. 98
3.3. Một số hạn chế và nguyên nhân trong vận dụng quan điểm của Đảng về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở tỉnh Thừa Thiên Huế............119
3.4. Một số vấn đề đặt ra từ việc vận dụng quan điểm của Đảng về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở Thừa Thiên Huế.................................135
Chương 4. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TIẾP TỤC
NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ ĐỔI
MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở THỪA THIÊN
HUẾ HIỆN NAY.................................................................................................. 148
4.1. Những thuận lợi và khó khăn trong thời gian tới ở Thừa Thiên Huế trong việc

thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo............................148
4.2. Một số định hướng trong việc vận dụng quan điểm của Đảng về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở Thừa Thiên Huế.................................155
4.3. Một số giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả vận dụng quan điểm của Đảng về

đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở Thừa Thiên Huế hiện nay
..................................................................................................................... 165
KẾT LUẬN.......................................................................................................... 184
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ.......................................... 187
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................ 189
PHỤ LỤC


CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BGD & ĐT
CP

:
:

Bộ Giáo dục và Đào tạo
Chính phủ



:

Cao đẳng

CBGV


:

Cán bộ giáo viên

CBQL

:

Cán bộ quản lý

GD & ĐT

:

Giáo dục và đào tạo

ĐH

:

Đại học

ĐHH

:

Đại học Huế

GDMN


:

Giáo dục Mầm non

GDNN

:

Giáo dục nghề nghiệp

GDTX

:

Giáo dục thường xuyên

HNTW

:

Hội nghị Trung ương

KHKT

:

Khoa học kỹ thuật




:

Quyết định

NQ

:

Nghị quyết

TBCN

:

Tư bản chủ nghĩa

THCS

:

Trung học cơ sở

THPT

:

Trung học phổ thông

TW


:

Trung ương

UBND

:

Ủy ban nhân dân

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Muốn thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [27, tr.25 - 26] thì cần phải tìm cho
được động lực cơ bản để phát triển đất nước.
Trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại với sự bùng nổ của
công nghệ thông tin, “thông tin” trở thành nguồn tài nguyên quan trọng của mọi
quốc gia, việc “tin học hóa” tạo nên những chuyển biến nhanh chóng về lượng cũng
như về chất của nền kinh tế thế giới, con người được vũ trang bằng những tri thức
hiện đại sẽ là động lực cơ bản của sự phát triển. Khi mà trí tuệ đã trở thành yếu tố
hàng đầu thể hiện quyền lực và sức mạnh của một quốc gia, thì các nước trên thế
giới đều ý thức được rằng giáo dục không chỉ là phúc lợi xã hội mà còn là động lực

để phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay, các nước muốn phát triển nhanh thì phải
quan tâm đến giáo dục và coi đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho phát triển.
Nguồn lực căn bản cho phát triển đất nước nói chung và Thừa Thiên Huế nói
riêng là nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao; các nguồn lực
khác chỉ thực sự hữu ích và được sử dụng một cách có hiệu quả khi thông qua
nguồn nhân lực. Muốn phát triển nguồn nhân lực thì phải phát triển giáo dục và đào
tạo. Bởi nguồn nhân lực là sản phẩm của giáo dục và đào tạo.
Giáo dục và đào tạo là cơ sở và tiền đề cho sự phát triển của con người. Hơn
nữa, con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể của phát
triển. Vì vậy, giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát
triển của mỗi con người, mỗi địa phương và mỗi quốc gia. Nhận thức rõ vấn đề này nên
Đảng ta luôn khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu là sự nghiệp của
Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên
đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” [29, tr.119].

Con người là yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất. Nguồn
lực con người được coi là yếu tố quyết định đối với sự phát triển của mỗi quốc gia,
còn giáo dục và đào tạo là phương tiện chủ yếu để phát triển nguồn lực đó. Nói cách
1


khác, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Giáo dục
và đào tạo là con đường ngắn nhất để phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất
con người nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 ở nước ta,
việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo được xem là vấn đề cốt lõi, là
một trong ba đột phá quan trọng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Chính vì vậy. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định một trong các nhiệm vụ trọng tâm

là: “Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng đồng bộ) cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với
đổi mới mô hình tăng trưởng” [30, tr.218].
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là yêu cầu khách quan được
bắt nguồn từ thực tiễn của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế,
cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh, đặc biệt
là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tác động đến các nền kinh tế thế giới. Đổi
mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo là quá trình cải biến sâu sắc
toàn diện, đồng bộ, tích cực, khẩn trương, nhưng phải có lộ trình phù hợp. Trong
quá trình cải biến đó, bên cạnh những thuận lợi và thời cơ cũng có không ít khó
khăn và thách thức. Vì thế, để đảm bảo cho sự nghiệp đổi mới tiếp tục đạt được
những thành tựu mong muốn, trước hết cần phải nắm vững và quán triệt các quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo. Những quan điểm này đặt cơ sở cho việc định hướng để xác định và giải quyết
các nhiệm vụ cấp bách và lâu dài trong lĩnh vực đổi mới giáo dục của các cấp từ
trung ương đến địa phương. Mặt khác, thông qua sự cụ thể hóa, hiện thực hóa, cá
biệt hóa các vấn đề về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở những địa
phương khác nhau để làm cho nội dung những quan điểm trên được phong phú hơn
và sinh động hơn.
2


Với lợi thế là một trung tâm giáo dục và đào tạo lớn của khu vực miền Trung
và cả nước, Thừa Thiên Huế đang ra sức thực hiện việc đổi mới căn bản và toàn
diện lĩnh vực giáo dục và đào tạo của tỉnh. Việc vận dụng đúng đắn quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo sẽ góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; tạo nên động lực phát triển kinh tế xã hội của Thừa Thiên Huế. Do đó, để tiếp tục đẩy mạnh đổi mới giáo dục và đào
tạo nhằm đáp ứng các mục tiêu tổng quát về phát triển, Thừa Thiên Huế xác định:

“Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo, đáp
ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của
nhân dân. Giáo dục con người Thừa Thiên Huế phát triển toàn diện và phát huy tốt
nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân. Phấn đấu đến năm 2025, giáo
dục Thừa Thiên Huế đạt trình độ tiên tiến trong khu vực” [146].
Một trong những nội dung của mục tiêu tổng quát về phát triển Thừa Thiên
Huế thời kỳ 2015 - 2020 là phấn đấu đến năm 2020 xây dựng Thừa Thiên Huế xứng
tầm một trong những trung tâm văn hóa – du lịch, y tế chuyên sâu, giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ của cả nước và khu vực. Để đạt mục tiêu này, Nghị
quyết Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đã chỉ rõ: Cần phải “thực hiện có hiệu quả chủ
trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo Nghị quyết Trung ương
8 (Khóa XI)” [147]. Thừa Thiên Huế là một trung tâm giáo dục và đào tạo của khu
vực và cả nước, vì vậytrong thời gian qua, tỉnh đã có nhiều đóng góp tích cực trong
việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Tuy nhiên, trước yêu
cầu của giai đoạn mới, giáo dục và đào tạo của Thừa Thiên Huế trên thực tế vẫn còn
tồn tại những hạn chế,như hệ thống cơ sở vật chất đầu tư cho giáo dục còn nhiều
thiếu thốn; chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo chưa đồng đều, chưa thực sự
tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của tỉnh; phương pháp giáo dục còn nặng lý
thuyết, nhẹ thực hành; giáo dục đạo đức nhân cách cho học sinh chưa được chú
trọng; quản lý về giáo dục và đào tạo, nhất là các cơ sở đào tạo liên kết vẫn còn
nhiều bất cập; một bộ phận nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa thực sự có ý
thức và trách nhiệm, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới.

3


Từ thực tế nêu trên, đã đặt ra yêu cầu cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn của
việc đổi mới giáo dục và đào tạo theo quan điểm của Đảng ở Thừa Thiên Huế hiện
nay. Vì vậy, chúng tôi chọn vấn đề: “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và sự vận dụng của tỉnh Thừa Thiên

Huế trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu trong luận án tiến sĩ triết học
của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Trên cơ sở phân tích quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, luận án làm rõ sự vận dụng những quan điểm đó
ở Thừa Thiên Huế, đồng thời luận giải một số định hướng và giải pháp cơ bản nhằm
tiếp tục nâng cao hiệu quả vận dụng quan điểm của Đảng về đổi mới giáo dục và
đào tạo trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Để thực hiện mục đích trên, luận án phải giải quyết những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và xác
định những vấn đề mà luận án tiếp tục nghiên cứu.
Thứ hai, phân tích và làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của các quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Thứ ba, phân tích, đánh giá thực trạng vận dụng quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở Thừa Thiên Huế.
Thứ tư, đề xuất một số định hướng, nhóm giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả việc đổi mới giáo dục và đào tạo ở Thừa Thiên Huế theo quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và sự vận dụng quan điểm đó ở tỉnh
Thừa Thiên Huế.

4


3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung:
- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
- Tập trung vào Nghị quyết 29/NQ - TW “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
Về không gian:
Nghiên cứu sự vận dụng quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo tại tỉnh Thừa Thiên Huế.
Về thời gian:
- Luận án nghiên cứu quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới giáo
dục và đào tạo; sự vận dụng quan điểm đó ở Thừa Thiên Huế từ năm 2013 đến nay.

4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, những quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Đồng thời, luận án có
kế thừa và phát triển kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đi trước có
liên quan đến đề tài.
Cơ sở thực tiễn: Luận án căn cứ vào thực tiễn quá trình vận dụng quan điểm
của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở Thừa Thiên Huế từ
năm 2013 cho đến nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng kết hợp nhiều phương pháp như: Phân tích, tổng hợp, diễn
dịch, quy nạp, so sánh, logic, lịch sử.
5. Những đóng góp mới của luận án
Thứ nhất, luận án góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn trong các quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

5


Thứ hai, luận án góp phần làm rõ thực trạng vận dụng quan điểm về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ở Thừa Thiên
Huế từ năm 2013 đến nay và một số vấn đề đặt ra từ thực trạng đó.
Thứ ba, luận án đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao hiệu quả vận dụng quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở Thừa Thiên Huế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần làm rõ một cách có hệ thống các quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; sự vận dụng
quan điểm đó ở Thừa Thiên Huế trong thời gian qua và các giải pháp nâng cao hiệu
quả vận dụng trong giai đoạn hiện nay.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu và
giảng dạy vấn đề về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo quan điểm
của Đảng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và danh mục những công
trình đã công bố của tác giả có liên quan đến đề tài luận án, nội dung luận án gồm
có 4 chương với 14 tiết.

6


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là một trong ba đột phá chiến
lược để phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay. Vì vậy, vấn đề này đã thu hút

sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu. Và cho đến nay, đã có rất nhiều công
trình khoa học đề cập đến. Căn cứ kết cấu nội dung của luận án, tác giả chia các
công trình nghiên cứu thành các nhóm nghiên cứu sau:
1.1. Các công trình nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản xoay quanh quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo

Khi đề cập đến khái niệm giáo dục và đào tạo, có một số công trình nghiên cứu
tiêu biểu sau:“Đại từ điển Tiếng Việt” của Nguyễn Như Ý [172]; “Từ điển Giáo dục
học” của Bùi Hiển [50]; “Giáo dục học một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Hà Thế
Ngữ [109]; “Những vấn đề chung của Giáo dục học” của Phan Thanh Long (chủ biên)
– Lê Tràng Định [79], />
Những công trình này đã đưa ra cách hiểu về khái niệm giáo dục và khái niệm đào
tạo. Mỗi một khái niệm như vậy có hai cách hiểu. Đó là hiểu theo nghĩa rộng và
hiểu theo nghĩa hẹp. Nhưng tựu trung lại, các công trình đều cho rằng: giáo dục là
hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất
con người, làm cho con người ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực
như yêu cầu đề ra. Giáo dục là hoạt động hướng tới con người thông qua một hệ
thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn
luyện kỹ năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng,
giúp hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích,
mục tiêu chuẩn bị cho đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội; còn
đào tạo là làm cho con người trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn
nhất định. Tuy nhiên, những công trình trên chưa nêu rõ khái niệm giáo dục và đào
tạo với tư cách là một khái niệm dung hợp nội hàm của hai khái niệm giáo dục và

7


khái niệm đào tạo. Trên cơ sở tiếp nhận những ý kiến và kết quả nghiên cứu của các
công trình trên, tác giả thấy rằng cần phải tiếp tục phân tích làm rõ nội dung khái

niệm giáo dục, khái niệm đào tạo, đặc biệt là khái niệm giáo dục và đào tạo.
Khi bàn đến khái niệm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã có
những công trình tiêu biểu như sau: Công trình: “Cải cách và phát triển” của Nguyễn
Trần Bạt [4] đã cho rằng đổi mới là quá trình mang tính chủ động, nằm trong quy luật
vận động và phát triển tự thân của sự vật. Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng luôn trải
qua quá trình đổi mới. Theo ông, “cải cách giáo dục là tạo ra những con người làm chủ
tương lai của xã hội, vì thế cải cách giáo dục khó hơn các cuộc cải cách khác, bởi nó
phải có kinh nghiệm để tiên lượng các đòi hỏi của đời sống tương lai chứ chưa phải là
thỏa mãn các đòi hỏi hiện tại, trong đó vừa có ý nghĩa dự báo, vừa có ý nghĩa quy
hoạch, vừa có ý nghĩa kế hoạch” [4, tr.422]. Công trình này giúp tác giả luận án hiểu rõ
hơn về bản chất của việc cải cách để phát triển. Tuy nhiên công trình này chưa nói lên
được sự khác nhau căn bản giữa cải cách và đổi mới.

Công trình “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam” của
Ban Tuyên giáo Trung ương, Tổng cục Dạy nghề, Viện Nghiên cứu phát triển
phương Đông [2] đề cập đến nhiều nội dung, trong đó có bàn đến khái niệm đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Theo đó, đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo là quá trình động chạm tới tầng sâu bản chất của hệ thống giáo dục,
để đưa hệ thống giáo dục lên một trình độ mới, hiệu quả hơn, chất lượng hơn. Tuy
nhiên, tầng sâu bản chất của hệ thống giáo dục là cái gì thì tác giả của công trình
chưa nêu rõ. Vì vậy, tác giả của luận án sẽ tiếp tục phân tích và chỉ rõ vấn đề đó.
Khái niệm này còn được đề cập đến trong công trình “Đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, nội hàm cơ bản và đặc trưng chủ yếu” của Lê Văn Liêm [75].
Tác giả công trình cho rằng: “Về trạng thái, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục
và đào tạo chỉ sự chuyển biến mang tính tổng thể và sự tiến bộ toàn diện trên các
phương diện của giáo dục như tư tưởng, chế độ, nội dung, phương pháp giáo dục.
Về nội hàm, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo nổi bật ba điểm sau:
Thứ nhất, là quá trình bắt kịp trình độ tiên tiến ở những giai đoạn phát triển khác
nhau, mục tiêu theo đuổi cũng khác nhau. Thứ hai, là quá trình chuyển đổi từ giáo
8



dục truyền thống sang giáo dục hiện đại vừa bao gồm sự tiến bộ một cách toàn diện
về tư tưởng, nội dung, phương pháp giáo dục, vừa bao gồm sự phát triển toàn diện,
hài hòa của các cấp, các loại hình giáo dục. Thứ ba, là quá trình không ngừng cải
cách giáo dục sao cho phù hợp với nhu cầu phát triển của kinh tế - xã hội, cải cách
là động lực mang tính nền tảng cho đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào
tạo” [75, tr. 32 - 33]
Công trình “Bàn về giáo dục” của nhiều tác giả [100]. Tác giả Trần Nam
Bình trong tác phẩm “Bàn về giáo dục” cho rằng: “Giáo dục là một đề tài phức tạp
và cải tổ giáo dục rất khó khăn. Tình hình giáo dục phản ánh thực trạng phát triển
kinh tế. Không thể có thay đổi giáo dục hàng loạt và lập tức trong khi chính sách
kinh tế thay đổi từng phần và dần dần” [100, tr.285].
Công trình “Tư tưởng cải cách giáo dục của Nguyễn Trường Tộ” của
Nguyễn Minh Nguyên [108] đã tập trung phân tích tư tưởng cải cách giáo dục của
Nguyễn Trường Tộ đánh dấu bước chuyển biến quan trọng trên phương diện tư
tưởng trong xã hội phong kiến Việt Nam thế kỷ XIX. Với tư cách nhà tư tưởng lớn,
nhà canh tân yêu nước của Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX, Nguyễn Trường Tộ
đã nhiều năm sống và học tập ở phương Tây ông có điều kiện mở rộng kiến thức và
văn hóa. Từ đó, Nguyễn Trường Tộ đã đưa ra những tư tưởng có giá trị về cải cách
giáo dục, thể hiện qua việc ông phê phán nền giáo dục hư học và chủ trương xây
dựng nền giáo dục thực học mang tính toàn diện, nhằm thay đổi nền giáo dục lạc
hậu của Việt Nam lúc bấy giờ, tạo nền tảng chấn hưng đất nước trên nhiều phương
diện, như kinh tế, chính trị, xã hội.
Các công trình nghiên cứu trên đã bàn đến khái niệm đổi mới, đổi mới căn
bản giáo dục và đào tạo; đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo; đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo. Song do khuôn khổ và mục đích đặt ra của công trình
nên nội hàm của những khái niệm này chưa được đề cập đầy đủ. Trên cơ sở kế thừa
những kết quả đã đạt được, tác giả luận án sẽ tiếp tục bổ sung và làm rõ nội hàm
khái niệm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

Nghiên cứu về tính tất yếu của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo ở Việt Nam, có các công trình nghiên cứu sau:
9


Công trình “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục cần đặt trong xu thế toàn
cầu” của Vũ Minh Giang [175], cho rằng: Nền giáo dục của Việt Nam sẽ có nhiều
vấn đề phải giải quyết trong quá trình thực hiện đề án đổi mới giáo dục và đào tạo,
nhưng nếu chỉ vì khắc phục sự yếu kém và lạc hậu, một bài toán của riêng ta thì có
lẽ chưa phải tầm của công cuộc đổi mới lần này mà phải thực sự “nhúng” sâu trong
môi trường quốc tế. Với bài viết này tác giả luận án có thể tham khảo để phân tích
vấn đề đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong xu thế đổi mới để hội
nhập và phát triển.
Công trình “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục có mang tính quy luật”
của Trần Trí Dũng [179] lại nhìn nhận rằng đổi mới giáo dục ở nước ta là phù hợp
với quy luật khách quan, khi mà cái cũ không còn phù hợp với điều kiện và hoàn
cảnh nữa thì đòi hỏi cái mới ra đời trong sự phát triển của đời sống xã hội; mọi chủ
trương, quyết sách cũng phải tuân theo các quy luật này. Đổi mới căn bản và toàn
diện giáo dục là tuân theo quy luật phủ định của phủ định trong phép biện chứng
duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nếu tuân theo đúng các quy luật khách quan thì
đó là sự phát triển hợp lý và tiến bộ, ngược lại sẽ cản trở đến sự phát triển của đất
nước. Tác giả bài viết khẳng định đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo
là mang tính quy luật phù hợp với điều kiện đổi mới giáo dục và đào tạo hiện nay.
Công trình “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực” của Nguyễn Bá Dương [181] khẳng định: Đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực là cấp thiết giúp chúng ta vượt
qua khó khăn, thách thức của thời cuộc và phát triển bền vững. Tuy nhiên, nếu
không quyết liệt đổi mới, hoặc đổi mới “nhỏ giọt”, cục bộ, từng phần, tức là giáo
dục, đào tạo vẫn không khác hơn kiểu cũ thì nguy cơ tụt hậu xa hơn vẫn tồn tại,
đường lối đổi mới của Đảng sẽ mất dần động lực phát triển, chúng ta sẽ không thể

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Tác giả luận án cũng
nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề phát triển nguồn nhân lực đối với đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và cho rằng đây là cơ sở để tác giả phân tích rõ
hơn nội dung này trong luận án.
10


Trong công trình “Đổi mới tư duy lý luận – khâu đột phá trong sự nghiệp đổi
mới của Đảng ta” [178], tác giả Trần Sỹ Phán nhấn mạnh: Đổi mới tư duy chính là
bổ sung và phát triển những thành tựu lý luận đã đạt được, làm cho lý luận đó thâm
nhập vào hoạt động thực tiễn của quần chúng, dấy lên phong trào cách mạng to lớn,
rộng khắp trong nhân dân. Đổi mới không có nghĩa là làm thay đổi mục tiêu xã hội
chủ nghĩa mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả hơn.
Các công trình nghiên cứu trên đều thống nhất cho rằng, đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo là tất yếu khách quan, phù hợp với yêu cầu phát triển
của thời đại, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam và phù hợp
với việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, do khuôn khổ và giới
hạn phạm vi nghiên cứu nên các công trình chưa phân tích và đánh giá một cách có
hệ thống những hạn chế, bất cập của nền giáo dục Việt Nam trong thời gian qua.
Trên cơ sở các quan điểm của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo; luận án sẽ đi vào phân tích và đánh giá một cách có hệ thống những khuyết
điểm và bất cập trên; đồng thời, góp phần làm rõ hơn tính tất yếu của đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo dưới tác động của toàn cầu hóa, khoa học công
nghệ hiện đại và hội nhập quốc tế.
Nghiên cứu cơ sở lý luận hình thành quan điểm của Đảng về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo có các công trình sau:
Những công trình sau đây nói về quan điểm của C. Mác và Ph. Ănghen; V.
Lênin về giáo dục và đào tạo:
Công trình C. Mác – Ph. Ănghen, Toàn tập, tập 1 [87]; công trình C. Mác –
Ph. Ănghen, Toàn tập, tập 3 [88]; công trình C. Mác – Ph. Ănghen, Toàn tập, tập 23

[89]. Ở những công trình này, C.Mác – Ph. Ănghen đã đưa ra những luận điểm quan
trọng thể hiện vị trí, vai trò của giáo dục và đào tạo trong việc hình thành và phát
triển nhân cách của mỗi cá nhân. C.Mác – Ph. Ănghen là những người đầu tiên đã
nghiên cứu về giáo dục một cách khoa học. Các nhà kinh điển mátxít khẳng định
mục đích của nền giáo dục XHCN là đào tạo nên những con người XHCN, những
người lao động mới có ý thức và đạo đức XHCN, có trình độ văn hóa, khoa học tiên
tiến, có kỹ năng lao động cần thiết, có óc thẩm mỹ, có sức khỏe. Nghiên cứu quan
11


điểm của C.Mác – Ph. Ănghen góp phần đáp ứng yêu cầu mới của công tác tư
tưởng, lý luận và trong công tác xây dựng phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản
lý giáo dục.
Công trình “Quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về giáo dục và
ý nghĩa của nó đối với vấn đề đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay” của Cao Thu
Hằng [46] cho rằng giáo dục không chỉ được coi là phương thức làm giàu tri thức
cho con người, phục vụ cho xã hội, mà quan trọng hơn, giáo dục là cách thức làm
cho con người được phát triển toàn diện các năng lực của mình. Muốn làm được
điều này, Việt Nam phải không ngừng đổi mới cải cách giáo dục toàn diện.
Công trình“Triết học giáo dục hiện đại” của Khổng Khang Hoa và Lương Vị
Hùng [51] cho rằng: Giáo dục là con đường tất yếu và cơ bản để sức lao động ở
dạng tiềm tàng, khả năng chuyển hóa thành sức lao động hiện thực; giáo dục là hoạt
động thực tiễn xã hội cơ bản của việc sản xuất và tái sản xuất tự thân của nhân loại,
từ đó chỉ ra quan điểm của C.Mác về giáo dục – đào tạo đó là “giáo dục sẽ sản sinh
ra sức lao động”.
Công trình “Tư tưởng của C.Mác về giáo dục và ý nghĩa đối với Việt Nam hiện
nay” của Mai Đức Ngọc [106]. Trên cơ sở phân tích tính lịch sử, tính giai cấp, mục
đích, nội dung giáo dục toàn diện, quan hệ giữa giáo dục và phát triển, tiến bộ xã hội,
cũng như dự báo về sự hình thành và phát triển của nền giáo dục cộng sản chủ nghĩa,
tác giả đã khẳng định tính khoa học, cách mạng, ý nghĩa và giá trị trường tồn trong

quan niệm của C.Mác về giáo dục và sự vận dụng trong điều kiện hiện nay để phát triển
và đổi mới thành công sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước nhà. Đây là những tài liệu
có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn, tác giả luận án sử dụng tham khảo để giải thích
quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen, V. Lênin về giáo dục và đào tạo.

Công trình “Quan điểm của triết học Mác về sự tha hóa con người – cơ sở lý
luận cho nhận thức về phát triển con người thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ
tư” [56]. Tác giả Nguyễn Minh Hoàn, cho rằng quan điểm của triết học Mác về bản
chất con người là cơ sở lý luận cho việc nhận thức các tiền đề và điều kiện đối với
việc giải phóng và phát triển toàn diện con người trong giai đoạn cách mạng công
nghiệp lần thứ tư hiện nay.
12


Công trình “Tiên đoán của K.Marx – F.Engels về toàn cầu hóa trong tác
phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”” của Hồ Minh Đồng [35], khẳng định: Xu
thế toàn cầu hóa đã được C.Mác và Ph.Ăngghen tiên đoán từ 167 năm trước đây và
bây giờ đang thể hiện rõ ở thời đại của chúng ta hiện nay. Việt Nam cũng không thể
nằm ngoài sự tác động của xu thế đó. Tác giả nhấn mạnh: “Trước xu thế toàn cầu
hóa của thời đại, một mặt chúng ta cần nhanh chóng đổi mới để thích nghi với một
quan hệ mới dựa trên “hiệu quả”, mặt khác phải chủ động tạo ra những cơ chế mới
chống chọi với mặt trái của xu thế toàn cầu hay mặt trái của nền kinh tế thị trường:
như tha hóa về đạo đức, xói mòn trong quan hệ gia đình, mất định hướng niềm tin,
lý tưởng” [35, tr.120]. Chính vì vậy, chúng ta cần phải nhìn vào hiện thực, phải đối
diện với những biến đổi để vượt qua thách thức và tận dụng cơ hội để phát triển.
Công trình V.I.Lênin (1970), Toàn tập, tập 1 [101]; công trình V.I.Lênin
(1970), Toàn tập, tập 33 [102]. Những công trình này đã thể hiện quan điểm của
V.I.Lênin về giáo dục ở những góc độ và khía cạnh khác nhau.
Khi nghiên cứu những công trình này, tác giả nhận thấy yếu tố đóng vai trò
quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội là nguồn lực lao động có chất lượng

cao. Vì vậy, chúng ta cần phải tạo ra đội ngũ người lao động có chuyên môn cao, ý
thức kỷ luật tốt, có sức khoẻ và năng động, nhạy bén với cái mới. Để làm được điều
đó, chúng ta phải đổi mới giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà
giáo, gắn học với hành, gắn việc đào tạo và nghiên cứu khoa học với thực tiễn cuộc
sống. Có như vậy mới thúc đẩy nền giáo dục Việt Nam phát triển, vươn lên ngang
tầm khu vực và thế giới.
Những công trình sau nói về quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo:
Công trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục” của Đào Thanh Hải – Minh Tiến
[45] là một công trình khái quát toàn bộ nội dung tư tưởng của Hồ Chí Minh
về giáo dục từ mục tiêu cho đến nội dung, phương pháp giáo dục. Tuy nhiên, công
trình chỉ mới sưu tầm biên soạn mà chưa có những phân tích đánh giá quan điểm
của Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo.
Công trình Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4 [91]; Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5
[92]; Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8 [93]; Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9 [94]. Những
13


công trình này nói đến mục tiêu của giáo dục; nội dung của giáo dục và đào tạo; đạo
đức cách mạng; vai trò của người thầy giáo trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Những công trình sau đây nói về cơ sở thực tiễn hình thành quan điểm của
Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo:
Công trình “Một số quan điểm cơ bản của Đảng về giáo dục – đào tạo trong
thời kỳ đổi mới” của Nghiêm Đình Vỳ [184] đã trình bày quan điểm của Đảng về
giáo dục và đào tạo qua các giai đoạn phát triển của đất nước; trên cơ sở đó, tác giả
cho chúng ta thấy, việc tiến hành đổi mới giáo dục và đào tạo trong giai đoạn hiện
nay là phù hợp với quy luật và tính tất yếu khách quan của lịch sử. Đây là một trong
những cơ sở để tác giả luận án khái quát và hệ thống lại quá trình tiến hành đổi mới
giáo dục và đào tạo ở Việt Nam.
Công trình “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và vai trò, sứ mạng của
các trường đại học khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đào tạo đội ngũ nhân

lực chất lượng cao” của Trần Khánh Đức [32], cho rằng: “Cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư với xu hướng chủ đạo là “số hóa” và dựa trên những thành tựu
khoa học và công nghệ hiện đại đã và đang làm thay đổi nhanh chóng mọi diện mạo
của đời sống kinh tế, xã hội của các quốc gia. Trong tiến trình đó, vai trò, vị thế của
các trường đại học nói chung và các trường đại học khoa học và công nghệ nói riêng
trong đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng cao ngày càng được đề
cao để thực sự trở thành đầu tàu cho quá trình phát triển của cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư” [32, tr.1]. Đây là những nội dung quan trọng để tác giả luận án
tham khảo và phân tích vấn đề giáo dục với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Công trình“Quan điểm của C.Mác về sự tác động của cách mạng công
nghiệp lần thứ nhất tới sự biến đổi của xã hội và con người – ý nghĩa của nó trong
thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư” của Trương Ngọc Nam [98], cho rằng:
Với tư duy thiên tài, “C.Mác không chỉ nhìn thấy vai trò của khoa học đối với sự
phát triển của lực lượng sản xuất về phương diện cho “sự phát triển của tư bản cố
định”, mà còn phát hiện và khẳng định vai trò vượt trội của khoa học trong việc làm
biến đổi toàn bộ kết cấu việc sử dụng lao động sống trong quá trình sản xuất của
nền sản xuất đại công nghiệp. Không dừng lại ở đó, C.Mác còn cho thấy tác động
14


của lực lượng sản xuất làm biến đổi toàn bộ diện mạo của đời sống xã hội. Cho đến
nay, trong điều kiện của cách mạng công nghiệp lần thứ tư, những chỉ báo thiên tài
của C.Mác chính là phương pháp luận định hướng trong nhận thức và vận dụng vào
thực tiễn đối với việc khắc phục những hạn chế và phát huy những thế mạnh tiềm
tàng của cuộc cách mạng này” [98, tr.20].
Công trình“Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự tác động của nó tới tiến
bộ xã hội” [31] của tác giả Đặng Quang Định khẳng định: Dưới sự tác động của
khoa học - công nghệ, thế giới đã có những thay đổi tích cực và tiến bộ; tuy nhiên,
cũng cần phải nhận thức tính hai mặt của vấn đề để có sự điều chỉnh nhận thức và
ứng dụng khoa học - công nghệ hướng đến phục vụ tốt hơn cuộc sống của con

người và sự phát triển của xã hội.
Công trình “Đổi mới tư duy phát triển giáo dục Việt Nam trong kinh tế thị
trường” của Nguyễn Thế Long [78] cho rằng cần phải đổi mới tư duy về giáo dục
và đào tạo chấp nhận cơ chế thị trường trong một số lĩnh vực như giáo dục nghề
nghiệp, giáo dục đại học, giáo dục thường xuyên để thu hút đầu tư nước ngoài, để
nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nhân lực cho đất nước.
Công trình “Trách nhiệm đào tạo nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay” [44], Lương Đình Hải cho rằng: Kinh tế tri thức càng phát
triển thì cơ hội tạo ra đội ngũ lao động có tay nghề cao càng phong phú, đây là lực
lượng then chốt cho mọi sự phát triển nói chung, là tốc độ, định hướng cho sự phát
triển xã hội và đất nước trong giai đoạn mới. Với tư cách hiền tài, nguyên khí quốc gia,
việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao này cần phải trên cơ sở tư duy mới,
những quan niệm mới, cách làm mới, phù hợp với những quy tắc mới của kinh tế tri
thức. Tác giả luận án tiếp thu và phát triển vấn đề đào tạo nguồn nhân lực trong điều
kiện kinh tế thị trường đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo hiện nay.

Công trình “Kế hoạch hóa nguồn nhân lực xã hội ở Việt Nam – nhìn từ góc
độ lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Thị Huệ [57] khẳng định: Phát triển và nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột
phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh
15


tranh, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững để đưa đất nước lên một
tầm cao mới.
Kết quả của những công trình nghiên cứu trên tạo nên kho dữ liệu đa dạng,
phong phú giúp tác giả luận án có những luận chứng khoa học để phân tích và giải
thích cơ sở thực tiễn hình thành quan điểm của Đảng về giáo dục và đào tạo.
Liên quan đến kinh nghiệm và bài học thế giới có những công trình nghiên

cứu sau đây:
Công trình “Giáo dục vì cuộc sống sáng tạo” của Tsunesaburo Makiguchi do
cán bộ giảng dạy khoa Anh văn - Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố
Hồ Chí Minh dịch [82], cho rằng: “Giáo dục là tìm thấy giá trị trong môi trường
sống và từ đó phát hiện ra những nguyên lý vật lý và tâm lý chi phối cuộc sống của
ta, rồi ứng dụng những nguyên lý mới phát hiện này vào cuộc sống thực tế để sáng
tạo nên những giá trị mới” [82, tr.260]. Công trình này giúp tác giả luận án có thể
tham khảo về giáo dục Nhật Bản để từ đó có thể rút ra bài học kinh nghiệm cho quá
trình đổi mới giáo dục và đào tạo ở Việt Nam.
Công trình “John Dewey về giáo dục” của Reginald D.Archambault bản dịch
của Phạm Anh Tuấn [1], đã tổng hợp một cách có hệ thống những tác phẩm quan
trọng của John Dewey về giáo dục và những phát biểu căn bản của ông về lập
trường triết học có liên quan tới việc ông lý giải những quan điểm giáo dục của
mình. Công trình này giúp tác giả luận án hiểu rõ hơn về nền giáo dục Mỹ và trả lời
cho câu hỏi vì sao nước Mỹ lại có một nền giáo dục tiến tiến, hiện đại bậc nhất trên
thế giới.
Công trình “Triết lý giáo dục của John Dewey trong tác phẩm “Kinh nghiệm
và giáo dục” [14] của Quách Hoàng Công, Hà Lê Dũng cho rằng: “Đối với không ít
người, nền giáo dục Hoa Kỳ là một hình mẫu tuyệt vời để tham khảo và học tập.
Nền giáo dục đó đã góp một phần không nhỏ vào việc tạo nên sức mạnh của một
siêu cường trong thế giới hiện đại. Thậm chí, dù muốn hay không, ngay tại các quốc
gia châu Âu, nơi luôn tự hào về truyền thống giáo dục lâu đời, cũng đang phải tham
chiếu với những kinh nghiệm của nước Mỹ trong việc cải tổ hệ thống giáo dục của
chính mình” [14, tr.118]. Công trình “Kinh nghiệm và giáo dục” của John Dewey
16


đã thể hiện cách nhìn chín chắn của John Dewey đối với nền giáo dục Mỹ lúc bấy
giờ, ông đã phê phán những hạn chế “những trạng thái cực đoan” của nền giáo dục
truyền thống; từ đó, đề xuất những nguyên tắc cơ bản mang tính định hướng cho

hoạt động của giáo dục kiểu mới. Đây sẽ là những gợi mở cho quá trình cải cách
giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
Công trình “Kinh nghiệm Thế giới và Việt Nam - Kỷ yếu của Trường Đại học
Humboldt 200 năm (1810 – 2010” [18]. Rất nhiều ý kiến trong công trình này cho
rằng, giáo dục Việt Nam cần có sự thay đổi, cần phải học tập những nước phát triển
để đổi mới, cải cách giáo dục. Tác giả luận án cho rằng giáo dục là để tạo ra những
con người có tư duy độc lập, sáng tạo, suy nghĩ có phương pháp, có tri thức, trở
thành những con người thành đạt có trách nhiệm với bản thân gia đình và xã hội.
Công trình “Đảm bảo chất lượng giáo dục đại học của một số quốc gia trên
thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” của Nguyễn Thị Khánh Trinh [163],
cho rằng: Đảm bảo chất lượng giáo dục đại học là một trong những vấn đề được các
quốc gia, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức và mạng lưới khu vực và quốc tế
đặc biệt quan tâm. Việc nghiên cứu một số mô hình đảm bảo chất lượng được các
quốc gia trên thế giới sử dụng sẽ rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong bối
cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo hiện nay.
Công trình “Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, y tế ở Việt Nam” của Nguyễn
Minh Phương [120], đã nêu lên kinh nghiệm huy động các nguồn lực xã hội để phát
triển giáo dục và đào tạo của một số nước trên thế giới, như Thái Lan, Singapore,
Hàn Quốc, Úc, Cộng hòa Liên bang Đức, Thụy Điển, Pháp, Anh, Nga, Mỹ, Canađa.
Trên cơ sở đó, gợi mở cho Việt Nam những bài học kinh nghiệm để tiến hành đổi
mới giáo dục và đào tạo trong giai đoạn hiện nay.
Công trình “Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về quản lý giáo
dục và bài học kinh nghiệm áp dụng vào Việt Nam” của Nguyễn Đức Ca [10], cho
rằng ở nước ta hiện nay việc đổi mới quản lý giáo dục còn nhiều bất cập, mang tính
bao cấp, ôm đồm, sự vụ và chồng chéo, phân tán, trách nhiệm và quyền hạn quản lý
chuyên môn chưa đi đôi với trách nhiệm quyền hạn quản lý về nhân sự và tài chính”
[10, tr.103]. Những kinh nghiệm quản lý giáo dục của một số quốc gia trên thế giới
17



như Hàn Quốc, Anh, Singapore, Phần Lan sẽ góp phần gợi mở cho quá trình đổi
mới cải tiến quản lý giáo dục ở Việt Nam.
Nhìn chung, các công trình trên đã phân tích sự ảnh hưởng của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức, toàn cầu hóa, hội nhập
quốc tế cũng như sự ảnh hưởng của cách mạng 4.0 đối với giáo dục. Tuy nhiên,
những vấn đề khác cũng có liên quan và ảnh hưởng không nhỏ đối với quá trình đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo như vấn đề cơ chế, chính sách, điều
kiện, hoàn cảnh của đất nước. Những vấn đề này tác giả sẽ tiếp tục triển khai và làm
rõ trong luận án.
Tóm lại, những công trình trên đã nghiên cứu ở từng góc độ khác nhau về
mặt lý luận và thực tiễn đối với đổi mới giáo dục và đào tạo ở Việt Nam. Một số tác
giả đã đứng từ góc độ triết học để giải thích và phân tích các vấn đề xoay quanh nội
dung đổi mới giáo dục. Những kết quả nghiên cứu đó sẽ là căn cứ quan trọng để tác
giả có những luận chứng khoa học khi phân tích và luận giải quan điểm của Đảng
về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo hiện nay. Ngoài ra, tác giả sẽ tiếp
tục làm rõ những vấn đề trên trong một tổng thể thống nhất, lôgíc và toàn diện. Qua
đó, giúp người đọc có cái nhìn khái quát về quá trình hình thành quan điểm của
Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay.
Nghiên cứu nội dung quan điểm của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo có các công trình sau:
Liên quan đến vấn đề về vị trí, vai trò của giáo dục và đào tạo có các công
trình: Bài “Giáo dục - quốc sách hàng đầu, tương lai của dân tộc” của Phạm Văn
Đồng [180], cho rằng: Giáo dục là quốc sách hàng đầu, điều đó có nghĩa là sự
nghiệp giáo dục và chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước ta có tầm quan trọng
hàng đầu, các cơ quan có thẩm quyền và mọi người, mọi tầng lớp nhân dân trong cả
nước đều phải coi trọng như vậy và phải làm đúng như vậy.
Một số công trình khác có liên quan như: “Để giáo dục - đào tạo thật sự trở
thành quốc sách hàng đầu” của Phạm Ngọc Minh [96];“Để giáo dục – đào tạo và
khoa học – công nghệ thật sự là quốc sách hàng đầu” của Vũ Oanh [113];“Vai trò của
giáo dục, đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam” của Ngô Thị Thu Hà

18


×