Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

“Phát triển năng lực học sinh qua tiết dạy tích hợp liên môn toán – lý trong bài TOÁN về CHUYỂN ĐỘNG ném NGANG – vật lý 10”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 38 trang )

MỞ ĐẦU
I. Bối cảnh của giải pháp
1. Về không gian
Vật lí là bộ môn khoa học tự nhiên nghiên cứu các sự vật hiện tượng vật
lí nói chung và cơ học nói riêng. Những thành tựu của vật lí được ứng dụng
vào thực tiễn đã thúc đẩy khoa học phát triển. Học vật lí không chỉ đơn
thuần là học lí thuyết vật lí mà phải biết vận dụng vào thực tiễn. Vì vậy
trong quá trình giảng dạy người giáo viên phải rèn luyện cho học sinh có
được những kĩ năng, kĩ xảo vận dụng những hiểu biết đã học để giải quyết
những vấn đề thực tiễn đặt ra.
Để xác định các đại lượng Vật lí, giải thích sự thay đổi các đại lượng,
giải thích các hiện tượng Vật lí nhất thiết phải sử dụng các công thức toán
học như các hàm số, phép tính đạo hàm, tích phân…
Việc sử dụng toán học có ý nghĩa và hiệu quả vào bài toán vật lí vẫn là
vấn đề khó khăn đối với học sinh phổ thông. Đặc biệt, trường THPT Sốp
Cộp khá đông học sinh, nhưng tỷ lệ học sinh nhận thức được vấn đề khi
thực hiện nhiệm vụ học tập trên lớp là rất ít. Đa số học sinh học môn Vật lý
thụ động, máy móc, không có kĩ năng vận dụng hay liên hệ từ môn học này
đến môn học khác, mà vận dụng kiến thức toán trong Vật lý là rất quan
trọng. Thậm chí một bài toán Vật lý muốn đi đến kết quả cuối cùng thì
không thể thiếu khâu viết công thức toán để thay số và tính toán. Xong nếu
học sinh không có các kĩ năng vận dụng, tích hợp giữa môn toán và môn
Vật lí thì bài toán trở nên khó khăn, có nhiều học sinh phó mặc ỷ lại, bỏ
qua nếu giáo viên không giải chi tiết.
Từ khi bắt đầu được nhận nhiệm vụ công tác tại trường đến nay, bản
thân đã rất quan tâm đến vấn đề này. Qua nhiều năm giảng dạy, tôi luôn
phải nỗ lực vì học sinh học toán rất yếu. Muốn đưa đến một đơn vị kiến
thức nào đó hay một công thức nào đó thì phải chỉ ra trong môn toán các
em được học kiến thức liên quan nào. Chẳng hạn trong bài học đầu tiên về
chuyển động cơ học, muốn “xác định vị trí của vật trong không gian” –
trong Vật lí, thì cách đơn giản nhất là dùng “hệ tọa độ” – trong Toán học;


trong bài chuyển động ném ngang, để đơn giản trong việc xác định chuyển
động ném ngang – trong Vật lý, thì phải phân tích chuyển động ném ngang
làm hai thành phần bằng “phương pháp tọa độ” – trong Toán học… Có thể
nói, giáo viên vừa làm phép so sánh giữa 2 môn học Toán – Lý, vừa xác
định đơn vị kiến thức liên quan.
2. Về thời gian
Trong năm học này (2018 – 2019), tôi được nhận giảng dạy khối 10 ở 3
lớp 10B7, 10B8, 10B9. Qua giảng dạy thời gian đầu, thấy kết quả học bộ
môn của các em rất thấp. Bản thân đã tìm hiểu, nắm bắt nguyên nhân và kịp
thời khắc phục. Đến giữa học kì I, kết quả có phần được cải thiện.
1


Thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc dạy học tích hợp liên
môn Toán - lý là việc làm thiết thực, bản thân đã thực hiện thành công
trong dạy “Bài toán về chuyển động ném ngang” trong học kì I, năm học
(2018 – 2019).
II. Lí do chọn giải pháp
Dạy học vật lí trong trường phổ thông nhằm cung cấp cho học sinh
những kiến thức phổ thông, cơ bản, có hệ thống toàn diện về vật lí. Hệ
thống kiến thức này phải thiết thực và có tính kĩ thuật tổng hợp, đặc biệt là
phải phù hợp với quan điểm vật lí hiện đại.
Trước nhu cầu của học sinh, buộc những người làm thầy trực tiếp giảng
dạy bộ môn phải trăn trở, tìm tòi những phương pháp phù hợp nhất giúp
học sinh có thể tiếp thu một cách chủ động, khắc sâu kiến thức môn học và
rèn kĩ năng vận dụng kiến thức toán vào giải quyết bài toán Vật lí nhanh
chóng và hiệu quả nhất.
Là một giáo viên có hơn 10 năm công tác giảng dạy, trong đó có nhiều
năm được phân công giảng dạy khối 10. Bản thân nhận thấy những khó
khăn thường gặp của học sinh, đó là chưa có phương pháp học phù hợp,

trong đó việc phân bố thời gian tự học còn rất hạn chế, hơn thế nữa ý thức
học của các em cũng còn yếu kém dẫn đến kết quả học tập chưa đạt như
mong muốn.
Vì những lí do nêu trên, bản thân tôi đã luôn trăn trở, tìm hiểu nguyên
nhân và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng học tập của các em. Qua thời
gian nghiên cứu tìm hiểu, tôi nhận thấy việc tích hợp kiến thức liên môn
của các em còn nhiều hạn chế, đặc biệt là học Vật lí thì việc sử dụng kiến
thức toán là rất cần thiết. Nếu học sinh không vận dụng kiến thức toán vào
môn học thì chỉ học lí thuyết suông, học vẹt, không nhận thức sâu, không
nắm rõ bản chất. Tuy nhiên việc sử dụng kiến thức toán trong vật lí thì
cũng tùy từng phần, từng bài, từng nội dung.
Năm học này (2018 – 2019), tôi được phân công giảng dạy Vật lí 10 ở 3
lớp (10B7, 10B8, 10B9), tôi nhận thấy việc đổi mới phương pháp dạy – học
là cần thiết, trong đó dạy học tích hợp kiến thức liên môn là rất thiết thực.
Chính vì vậy, tôi lựa chọn viết sáng kiến với đề tài: “Phát triển năng lực
học sinh qua tiết dạy tích hợp liên môn Toán – Lý trong BÀI TOÁN VỀ
CHUYỂN ĐỘNG NÉM NGANG – Vật lý 10”
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
1. Phạm vi nghiên cứu
- Trong công tác giảng dạy Vật lý 10.
- Trong học kì I, đối với các lớp 10B7, 10B8, 10B9 trường THPT Sốp
Cộp.

2


- Đưa ra các biện pháp dạy học tích cực nhằm phát triển tư duy của học
sinh kĩ năng tổng hợp phân tích vấn đề dựa trên kiến thức của nhiều môn
học.
2. Đối lượng nghiên cứu

- Học sinh lớp: 10B7, 10B8, 10B9 trường THPT Sốp Cộp.
- Việc sử dụng kiến thức toán trong các bài toán về chuyển động ném
ngang.
IV. Mục đích nghiên cứu
- Nhằm giáo dục ý thức học sinh trong việc kết hợp vận dụng kiến thức
liên môn trong nhiều bài toán.
- Mặt khác tôi muốn trao đổi một số kinh nghiệm trong đổi mới phương
pháp dạy học hiện nay. Đặc biệt trong bộ môn Vật lí việc tích hợp kiến thức
toán là không thể thiếu. Qua đó tạo sự lôi cuốn, hứng thú học tập của học
sinh đối với môn học, đồng thời giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về tầm
quan trọng của việc sử dụng kiến thức toán trong Vật lí.
PHẦN NỘI DUNG
I. Thực trạng của giải pháp đã biết
1. Giải pháp cũ thường làm
a) Mục tiêu bài học:
- Về kiến thức: Giáo viên bám sát nội dung SGK, SGV và các chuẩn
kiến thức kĩ năng môn Vật Lí để xây dựng giáo án giảng dạy.
- Về kĩ năng: thường tập trung vào hình thành các kĩ năng để giải bài
tập, chưa tập trung vào giải quyết các tình huống thực tiễn và các năng lực
giải quyết vấn đề.
b) Chuẩn bị của giáo viên:
- Giáo án giảng dạy:
+ Giáo án.
+ Đồ dùng dạy học: các dụng cụ như thước, đồng hồ.
+ Một số bài tập vận dụng sau bài học.
- Chuẩn bị của học sinh:
- Sau bài học trước, học sinh được giáo viên yêu cầu đọc trước bài
mới, ôn lại kiến thức bài “chuyển động cơ” – Vật lý 10.
- Học sinh đến lớp đã chuẩn bị: bài cũ, đọc trước bài mới, sách vở
bút …

c) Về phương pháp dạy học:
3


- Thường giáo viên sử dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề, đàm
thoại kết hợp với phương pháp truyền thống.
d) Về tổ chức các hoạt động dạy và học:
Giáo viên: Dẫn dắt vào bài mới. Sau đó đặt câu hỏi vào bài như
trong sách giáo khoa (SGK)
Học sinh: Đọc sách giáo khoa để trả lời
Giáo viên: vào mục I, chúng ta hãy khảo sát chuyển động ném
ngang – Giáo viên mô tả chuyển động của một vật bị ném theo phương
ngang.
Học sinh: Trên cơ sở đã đọc sách giáo khoa để nêu được phương
pháp xác định vị trí của vật trong không gian bằng hệ tọa độ.
Giáo viên: tiếp tục dẫn dắt, với một vật bị ném ngang như vậy thì
nên chọn hệ tọa độ như thế nào (trục Oy hướng lên hay hướng xuống)?
Học sinh: Dựa vào SGK nêu được câu trả lời
Giáo viên tiếp tục dẫn dắt: Dựa vào vị trí của vật dùng phép chiếu
lên các trục tọa độ Ox và Oy tìm điểm M x và My, từ đó xác định chuyển
động thành phần và viết các phương trình của chuyển động thành phần trên
trục Ox và Oy.
Học sinh: Xác định các thành phần chuyển động, rồi viết các
phương trình cuyển động thành phần.
Giáo viên: Dựa vào các chuyển động thành phần đã xác định ở trên,
giáo viên yêu cầu học sinh xác định chuyển động của vật (xác định quỹ
đạo, thời gian, tầm ném xa)?
Học sinh: Từ phương trình chuyển động thành phần trên trục Ox và
Oy, viết phương trình chuyển động của vật, suy ra dạng quỹ đạo chuyển
động là đường cong parabol.

Giáo viên: tiếp tục yêu cầu học sinh tìm tầm ném xa.
Học sinh: từ phương trình chuyển động thành phần trên trục Oy suy
ra thời gian trong chuyển động cảu vật.
Giáo viên: yêu cầu học sinh tìm công thức tính tầm ném xa của vật?
Học sinh: Từ phương trình chuyển động thành phần trên trục Ox,
suy ra công thức tính tầm ném xa.
Giáo viên: Mô tả thí nghiệm kiểm chứng chuyển động ném ngang,
yêu cầu học sinh nhận xét về khoảng thời gian thực tế vật A rơi chạm đất
với thời gian hình chiếu của vật B chạm đất.
Học sinh: Cả hai chạm đất cùng thời điểm.
Giáo viên: nêu bài tập vận dụng
Học sinh: vận dụng công thức để giải
4


2. Đánh giá về ưu, nhược điểm, mức độ và hiệu quả của giải
pháp cũ
2. 1. Ưu điểm
a) Đối với giáo viên
- Có cơ sở pháp lí, nội dung để bám sát khi giảng dạy bài học.
- Thực hiện giảng dạy theo phương pháp cũ giáo viên luôn kiếm soát
được thời gian, tiến độ chương trình và đảm bảo được nội dung giảng dạy
đã được xây dựng trong giáo án.
- Giáo viên tiết kiệm được thời gian, công sức khi hướng dẫn học
sinh học bài vì nội dung dạy học là do giáo viên đã chuẩn bị sẵn.
b) Đối với học sinh
- Trước mỗi bài học, học sinh chỉ cần đọc trước nội dung bài học
SGK và thực hiện các yêu cầu của giáo viên giao trong tiết học trước.
- Học sinh là người thụ động trong học tập, nhiệm vụ là lắng nghe
bài giảng của giáo viên, ghi chép và học thuộc những nội dung ấy.

Như vậy, ưu điểm của giải pháp này là giáo viên chủ động trong việc
giới thiệu kiến thức mới đến học sinh, cung cấp cho học sinh kiến thức theo
đúng chuẩn kiến thức, kĩ năng hiện hành.
2. 2 Nhược điểm
- Giáo viên không cần thường xuyên phải trau dồi kiến thức mới.
Nếu dạy nhiều năm liên tục sẽ trở nên thuần thục kiến thức nhưng làm cho
giáo viên ngày càng ít năng động, sáng tạo.
- Học sinh phải chịu áp lực với việc thụ động tiếp thu tri thức khoa
học, chịu áp lực ghi nhớ, học thuộc lớn.
- Học sinh không chủ động và tích cực trong việc học tập. Ít có năng
lực thực tiễn và chưa được giải quyết các vấn đề thực tiễn.
- Phương pháp dạy học truyền thống sẽ giúp đào tạo ra những công
dân có tri thức, am hiểu lí thuyết nhưng lại rất xa lạ với thực tiễn đời sống,
năng lực làm việc bị hạn chế.
2. 3. Mức độ và hiệu quả của giải pháp cũ
Khi dạy học theo phương pháp truyền thống đối với “Bài toán về
chuyển động ném ngang” cũng có sự tích hợp giữa môn Toán và Vật lý, tuy
nhiên mới chỉ dừng lại ở mức độ nhận biết, còn để học sinh hiểu rõ vấn đề
và vận dụng vào thực tiễn thì chưa đạt được hiệu quả tối ưu.
Ở giải pháp này, giáo viên và học sinh chủ yếu giải quyết vấn đề trên
phương diện kiến thức của riêng môn Vật lý. Khi thành công đạt được
nhiều mục tiêu của môn học hiện nay: chiếm lĩnh kiến thức thông qua hoạt
động, bồi dưỡng các phương thức tư duy khoa học và các phương pháp
5


nhận thức khoa học. Kiến thức thu được rời rạc, chỉ có một mối liên hệ
theo một chiều thiết kế bài học. Trình độ nhận thức sau quá trình học tập và
rèn luyện thường theo trình tự và thường dừng lại ở trình độ biết, hiểu và
vận dụng ( giải bài tập). Kiến thức sau khi học thường hạn hẹp trong

chương trình nội dung môn học.
Hơn nữa giải pháp này, thời gian dành cho học sinh thực hành, luyện
tập rất ít. Nếu được thực hành, giáo viên cũng thường cho học sinh trình
bày những vấn đề đã được đề cập trong sách giáo khoa, những vấn đề nặng
về tính lí thuyết. Các em ít có cơ hội được lựa chọn những vấn đề mình yêu
thích, những vấn đề gắn với thực tiễn. Do vậy, học sinh thường không mấy
hứng thú với bài học này. Việc rèn luyện kĩ năng trình bày vấn đề vì thế
không đạt được hiệu quả mong muốn.
Đó chính là những cơ sở quan trọng để chúng tôi đề xuất giải pháp mới:
tích hợp kiến thức Toán – Lý vào giảng dạy một vấn đề.

Dưới đây là kết quả thu được từ một số lớp của giáo viên không
áp dụng sáng kiến:
Bảng 1: Kết quả khảo sát tại lớp không áp dụng sáng kiến
Giỏi
Lớp

Tổng

Số
HS

10B2

43

0

10B3


39

10B4
Tổng

Khá

T. bình

Yếu

Số
HS

(%)

Số
HS

(%)

Số
HS

(%)

0

3


6,98

23

53,48

17

39,54

0

0

2

5,12

21

53,85

16

41,03

42

0


0

2

4,76

22

52,38

18

42,86

124

0

0

7

5,65

66

53,22

51


41,13

(%)

Số liệu trên đây phản ánh thực trạng của giải pháp cũ đã được
thực hiện từ trước.
Trong xu thế đổi mới toàn diện giáo dục, trước nhu cầu thực
tiễn, để đáp ứng hòa nhập với thời đại giáo dục hiện nay đòi hỏi giáo
viên phải tìm ra phương pháp truyền đạt tốt nhất để thu được những
kết quả cao nhất trong giáo dục bộ môn.

6


Sau đây, tôi xin trình bày nội dung sáng kiến nhằm giúp các em
học sinh khối 10 có kĩ năng sử dụng kiến thức liên môn trong quá
trình học tập góp phần nâng cao chất lượng giáo của môn học nói
riêng và của nhà trường nói chung.
II. Nội dung sáng kiến
1. Bản chất của giải pháp mới
“Tích hợp” là một hoạt động mà ở đó cần phải kết hợp, liên hệ, huy
động các yếu tố có liên quan với nhau của nhiều lĩnh vực để giải quyết một
vấn đề, qua đó đạt được nhiều mục tiêu khác nhau.
“Dạy học tích hợp” là định hướng dạy học trong đó giáo viên (GV) tổ
chức, hướng dẫn Hs biết huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều
lĩnh vực (môn học/ hoạt động giáo dục) khác nhau nhằm giải quyết các
nhiệm vụ học tập; thông qua đó, hình thành những kiến thức, kĩ năng mới,
phát triển được những năng lực cần thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn đề
trong học tập và trong thực tiễn cuộc sống.
Ở mức độ thấp, dạy học tích hợp có thể chỉ tiến hành trong một môn

học (tích hợp đơn môn). Theo đó, trong quá trình dạy học một môn học
nhất định, giáo viên có thể lồng ghép vào môn học đó những nội dung liên
quan vào quá trình dạy học. Chẳng hạn, với môn Ngữ văn, giáo viên có thể
tích hợp trong đó nội dung giáo dục kĩ năng sống, giáo dục về chủ quyền
biển đảo, giáo dục bảo vệ môi trường,...
Ở mức độ cao hơn, dạy học tích hợp có thể tiến hành đa môn, liên môn
và xuyên môn. Nghĩa là trong quá trình giảng dạy, giáo viên có thể lồng
ghép những nội dung liên quan đến nhau ở nhiều môn học khác nhau để
xem xét, giải quyết theo nhiều hướng khác nhau.
Dạy học tích hợp nhằm hình thành và phát triển năng lực học sinh, nhất
là năng lực giải quyết các vấn đề thực tiễn; tạo mối quan hệ giữa các môn
học với nhau và với kiến thức thực tiễn; tránh sự trùng lặp về nội dung giữa
các môn học. Hướng dạy học này không chỉ giúp học sinh vận dụng những
kiến thức của nhiều môn học để giải quyết vấn đề mà còn đưa nội dung
môn học gần hơn với thực tiễn, tạo hứng thú học tập ở người học, cho phép
các em phát huy năng lực tự học, năng lực hợp tác, năng lực làm việc nhóm
và đặc biệt là năng lực giao tiếp.
Năng lực là sự tích hợp các kĩ năng tác động một cách tự nhiên lên các
nội dung trong một loạt tình huống cho trước để giải quyết những vấn đề
cho những tình huống đặt ra. Hay “Năng lực là tập hợp các kĩ năng (các
hoạt động) tác động lên các nội dung trong một tình huống có ý nghĩa
đối với học sinh”.
7


Bảng các năng lực và phẩm chất hình thành trong dạy học tích hợp
Các phẩm chất
- Sống yêu thương
- Sống tự chủ
- Sống trách nhiệm


Các năng lực
- Năng lực tự học
- Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo
- Năng lực thẩm mỹ
- Năng lực thể chất
- Năng lực giao tiếp
- Năng lực hợp tác
- Năng lực CNTT và truyền thông

Dạy học tích hợp gắn với lao động, hướng nghiệp gắn với thực tiễn,
là cơ hội để học sinh phát triển được các năng lực, phẩm chất cơ bản, nhất
là năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
* Sơ đồ các bước thực hiện giải pháp
Bước 1: Xác định nội dung kiến thức có thể tích hợp
(Tìm trong chương trình toán THPT các nội dung cần đưa vào để tích
hợp trong bài dạy)

Bước 2: Xây dựng các hoạt động
(Xây dựng các hoạt động dạy học sao cho phù hợp với nội dung và phù
hợp với trình độ nhận thức, khả năng thực hiện của người học)

Bước 3: Giao nhiệm vụ
(Phân chia học sinh thành các nhóm, giao nhiệm vụ cho từng nhóm
(cùng một vấn đề, mỗi nhóm trình bày một ý tưởng nhưng không được
sao chép). Giáo viên đưa ra yêu cầu về thời gian, đưa ra tiêu chí đánh
giá cụ thể)

Bước 4: Thực hiện nhiệm vụ
(Học sinh trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ, lựa chọn vấn đề trình bày

và lập dàn ý cho bài trình bày, GV là người hướng dẫn, đôn đốc và
8


giúp đỡ khi cần thiết)

Bước 5: Trình bày vấn đề
(Tổ chức buổi tổng kết để các nhóm trình bày vấn đề)

Bước 6: Tổng kết, đánh giá
(các nhóm và GV nhận xét, cho điểm. GV chốt lại những nội dung
quan trọng liên quan trực tiếp tới bài học).

1. 1. Quy trình thực hiện giải pháp mới
Bước 1: Xác định nội dung kiến thức có thể tích hợp
“Chuyển động ném ngang” là một vấn đề của thực tế mà Vật lý tìm
hiểu trong chuyên đề các loại chuyển động bài học có tính chất định hướng
cho học sinh tìm hiểu giải thích các hiện tượng trong bài toán chuyển động
ném ngang. Vì vậy, giáo viên có thể lựa chọn các công cụ toán học để học
sinh phát huy tư duy lôgíc tìm ra cái thực tế thú vị của vật lý.
Mục tiêu cụ thể:
a) Về kiến thức
- Môn Vật lí:
Phân tích chuyển động thành các chuyển động thành phần. Viết được
phương trình của các chuyển động thành phần. Nêu được đặc điểm quan
trọng của chuyển động ném ngang.
- Môn toán (hình học):
+ Gắn hệ trục toạ độ vào một không gian cụ thể.
+ Nhận biết được hàm bậc 2 của đồ thị parabol.
b) Về kĩ năng:

- Biết áp dụng định luật 2 để lập các phương trình cho 2 chuyển động
thành phần.
- Biết cách tổng hợp hai chuyển động thành phần để được chuyển
động của vật.
- Có khả năng phân tích tư duy tổng hợp.
- Kĩ năng vận dụng kiến thức liên môn Toán học và Vật lí ... trong
học tập và vận dụng vào đời sống để giải quyết các vấn đề thực tiễn và có
năng lực sáng tạo, NCKH của học sinh.
c) Về thái độ:
- Có thái độ tự tin khi trình bày vấn đề trước tập thể.
9


- Học sinh có hứng thú khi tìm ra những vấn đề thực tiễn từ lý thuyết
toán học.
- Yêu thích môn vật lí, có lòng yêu khoa học, tích cực tự giác trong
học tập.
- Có tinh thần hợp tác, tự tin đưa ra các ý kiến cá nhân khi thực hiện
nhiệm vụ ở lớp cũng như ở nhà.
- Có thái độ khách quan, trung thực, có tác phong tỉ mỉ, cẩn thận,
chính xác trong các hoạt động.
d) Các năng lực có thể phát triển:
+ Phát triển các năng lực sử dụng kiến thức: Có thể nhận biết và
phân tích được chuyển động ném ngang, xác định chuyển động thành phần,
tổng hợp chuyển động của vật, viết được phương trình chuyển động của
vật.
+ Phát triển năng lực phương pháp của học sinh: Với mỗi vấn đề,
học sinh cần đề ra phương pháp giải quyết hợp lí và tối ưu nhất (lên kế
hoạch thực hiện, giao nhiệm vụ, thực hiện nhiệm vụ và báo cáo kết quả).
+ Năng lực trao đổi thông tin: Thực hiện trao đổi, thảo luận với các

thành viên trong nhóm, trong lớp để thực hiện nhiệm vụ, phân công công
việc hợp lí để có hiệu quả cao nhất.
Ngoài ra giáo viên có thể tổ chức hướng cho học sinh có cơ hội phát
triển các năng lực khác, như:
+ Năng lực xã hội: Học sinh được giao tiếp, làm việc theo nhóm, rèn
luyện khả năng trình bày trước đám đông, kỹ năng bảo vệ ý kiến của cá
nhân.
+ Năng lực tự học.
+ Năng lực điều tra, nghiên cứu khoa học (tăng cường khả năng trích
dẫn nguồn khi nghiên cứu).
+ Năng lực chế tạo mô hình, sản phẩm ứng dụng.
+ Năng lực ứng dụng CNTT, sử dụng phương tiện mới.
+ Năng lực thuyết trình trước nhiều người.
Bước 2: Xây dựng các hoạt động
Bài "Phương pháp tọa độ. Chuyển động của một vật bị ném ngang"
được bố trí sau khi học sinh đã học các định luật Niu tơn và các lực cơ học.
Học sinh cũng đã nắm được việc vận dụng phương pháp động lực học để
giải các bài toán cơ học.
Nhằm chuyển giao nhiệm vụ cho học sinh, giáo viên giao cho học
sinh bài toán xác định tầm xa của một vật bị ném theo phương ngang từ độ
cao h với vận tốc ban đầu v0. Đây là dạng chuyển động mà học sinh thường
gặp trong cuộc sống hàng ngày và đều biết rằng tầm xa phụ thuộc vào vận
tốc ban đầu v0. Tuy nhiên, để có thể tính được tầm xa thì cần phải tìm hiểu
xem chuyển động của vật bị ném ngang có tuân theo quy luật gì không.
Giáo viên sử dụng các tệp phim ghi chuyển động của vật ném ngang, ném
10


xiên trong máy tính và quay lại theo từng cảnh để học sinh có thể quan sát
rõ hơn quá trình chuyển động của vật. Qua việc quan sát như trên, học sinh

có thể sơ bộ thấy rằng hình như chuyển động của các vật đều tuân theo một
quy luật nào đó và bắt tay vào việc tìm hiểu quy luật đó.
Do đã được làm quen và sử dụng phần mềm phân tích video trong
các bài học trước cho nên sau khi phát biểu được vấn đề cần nghiên cứu,
học sinh có thể nhanh chóng xác định được điều kiện cần sử dụng để tìm
hiểu quy luật chuyển động là phần mềm phân tích video. Giáo viên đồng ý
với đề xuất của học sinh và giao cho học sinh sử dụng phần mềm phân tích
video để khảo sát chuyển động của một vật bị ném ngang trong tệp phim.
Có thể phác họa như sau
Các bước

Tên hoạt động

Thời
gian dự
kiến

Tạo tình huống có vấn đề về
chuyển động ném ngang.

5 phút

Hoạt động 1

Khảo sát chuyển động ném
ngang

15 phút

Hoạt động 2


Xác định chuyển động ném
ngang

15 phút

Hoạt động

Khởi động

Hình thành
kiến thức

Luyện tập
Mở rộng

Hoạt động 3 Thí nghiệm kiểm chứng

3 phút

Hoạt động 4 Củng cố, vận dụng

5 phút

Tìm hiểu những ứng dụng của
Hoạt động 5 chuyển động ném ngang trong
đời sống kỹ thuật.

2 phút


Bước 3: Giao nhiệm vụ
Ở bước này, giáo viên cần giới thiệu chủ đề tích hợp và phân chia
nhóm dựa trên sở thích, khả năng làm việc của các em. Sau đó, giáo viên
cần hướng dẫn học sinh xây dựng kế hoạch làm việc (học sinh thực hiện tại
lớp).
+ Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, các nhóm thảo luận về chủ đề
được giao, xây dựng đề cương nghiên cứu cũng như kế hoạch cho việc thực
hiện dự án.
+ Các nhóm xác định được những việc cần làm, thời gian dự kiến,
vật liệu, phương pháp tiến hành.
11


+ Các nhóm tự phân công tìm hiểu, nghiên cứu về nội dung được
phân công.
Khởi động (5p): Tạo tình huống có vấn đề về chuyển động ném
ngang.
Giáo viên cho học sinh trải nghiệm thông qua một hoạt động nhỏ:
Cho nhóm học sinh gấp máy bay giấy rồi ném lên bục giảng, sau đó cho
ném mẩu phấn lên. Cho các nhóm tự so sánh, tự nhận xét về chuyển động
của máy bay giấy và mẩu phấn. Cuối hoạt động cho học sinh nhận xét về
dạng quỹ đạo chuyển động, thời gian và tầm ném xa của các chuyển động
mà các em được quan sát.
Giáo viên chiếu các hình ảnh minh họa (dưới) nêu vấn đề của bài
học. Sau đó đặt câu hỏi: Máy bay phải thả hàng cứu trợ từ vị trí nào để
hàng rơi trúng mục tiêu? Pháo thủ phải hướng nòng súng đại bác chếch một
góc bằng bao nhiêu để bắn đạn trúng đích? Vận động viên phải chọn góc
ném như thế nào ném tạ, ném lao được xa nhất?

1. Máy bay thả hàng cứu trợ


12


3. Vận động viên ném tạ

4. Vận

Vận động viên ném lao

Bước 4: Thực hiện nhiệm vụ
Sau khi đã hướng dẫn học sinh tự phân công thảo luận tìm hiểu các
vấn đề được phân công chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Ở bước này giáo
viên không phó mặc cho học sinh, mà sẽ hỗ trợ cùng học sinh tháo gỡ
những khó khăn trong quá trình tìm hiểu từng đơn vị kiến thức.
Các hoạt động hình thành kiến thức
Hoạt động 1. Tổ chức giải quyết vấn đề
Hoạt động 1.1 Khảo sát chuyển động ném ngang
13


Để chuyển giao nhiệm vụ, giáo viên cho học sinh quan sát chuyển
động của viên bi đặt ở mép bàn rồi dùng ngón tay búng:

Giáo viên dẫn dắt học sinh bằng những câu hỏi: Viên bi chuyển
động trên mặt phẳng nào? Muốn biểu diễn chuyển động của viên bi cần
chọn hệ tọa độ như thế nào?
Ở hoạt động này, GV giao nhiệm vụ cho học sinh: Hãy làm việc theo
nhóm, mỗi nhóm là một tổ. Công việc của các nhóm là thảo luận về chuyển
động của viên bi khi ra khỏi mặt bàn, vẽ hệ trục tọa độ phù hợp nhất để

biểu diễn không gian chuyển động của viên bi.

14


Học sinh: thảo luận kết hợp với SGK trả lời: Nên chọn hệ tọa độ đề
các có gốc O, trục hoành Ox hướng theo vectơ vận tốc
, trục tung Oy
hướng xuống dưới theo vectơ trọng lực (hình ảnh minh họa dưới đây).

Giáo viên hướng dẫn: Xét tại điểm M bất kì trong mặt phẳng
chuyển động của viên bi, yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức hình học
phẳng (hệ tọa độ) để xác định chuyển động của viên bi.
Giáo viên tiếp tục gợi ý: Để xác định chuyển động của viên bi, thì ta
hãy dùng phương pháp chiếu trong hình học. Tại M ta lần lượt chiếu lên
các trục Ox và trục Oy, từ đó tìm được hình chiếu của viên bi trên trục Ox
và Oy.
Học sinh vận dụng kiến thức hình học, thực hiện nhiệm vụ: hình
chiếu của viên bi trên Ox là Mx, hình chiếu của viên bi trên Oy là My.
Giáo viên yêu cầu đại diện các nhóm lên báo cáo sản phẩm.
Học sinh: Đại diện các nhóm lên trình bày sản phẩm của nhóm.

Giáo viên chiếu hình ảnh để xác minh kết quả của học sinh.

15


Giáo viên: Yêu cầu học sinh nhận xét về quỹ đạo chuyển động hình
chiếu của viên bi trên các trục tọa độ Ox và Oy?
Học sinh: nhận xét được là thành phần Mx chuyển động thẳng đều,

thành phần My chuyển động rơi tự do.
Giáo viên gợi ý cho học sinh xác định các chuyển động thành phần:
Hãy xác định gia tốc, vận tốc và viết phương trình chuyển động của viên bi
trên các trục tọa độ Ox, Oy? (Yêu cầu học sinh hoạt động theo nhóm).
Học sinh dựa vào hình vẽ của nhóm, xác định được gia tốc, vận tốc,
và viết được phương trình chuyển động trên các trục tọa độ Ox và Oy. Rồi
đại diện các nhóm lên trình bày sản phẩm.

Sau khi các nhóm trình bày, giáo viên tổ chức cho các nhóm tự nhận
xét kết quả của nhóm bạn, so sánh kết quả giữa các nhóm với nhau.
Cuối hoạt động này, giáo viên nhận xét chung, chốt kiến thức và đưa
ra kết quả bảng sau:
Thành phần chuyển động

Thành phần chuyển động

trên trục Ox

trên trục Oy

16


Hoạt động 2. Xác định chuyển động của vật
Giáo viên chiếu lại hình ảnh chuyển động của viên bi và một số hình
ảnh khác, yêu cầu học sinh nhận xét về dạng quỹ đạo chuyển động của các
chuyển động của viên bi?
Giáo viên: Cử đại diện của các nhóm lên vẽ gần đúng quỹ đạo
chuyển động của viên bi vào bảng phụ của nhóm.


Sản phẩm của các nhóm đã hoàn thành.

Sau đó để xác minh kết quả đúng giáo viên chiếu hình sau:

17


Học sinh nhận xét: Quỹ đạo là đường cong parabol.
Giáo viên tiếp tục dẫn dắt bằng cách yêu cầu học sinh viết phương
trình đường cong parabol trong hình học (toán)?
Học sinh viết được phương trình parabol:
Giáo viên yêu cầu học sinh vận dụng phương trình trên viết phương
trình chuyển động của viên bi dạng parabol?
Học sinh phải viết được:

.

Giáo viên nhận xét kết quả và chốt kiến thức: Quỹ đạo chuyển động
của viên bi có dạng parabol, với phương trình chuyển động là

.

Giáo viên dẫn dắt: Ngay bài đầu tiên “chuyển động cơ” chúng ta đã
biết việc xác định thời gian trong chuyển động là chỉ cần xác định được
mốc thời gian (có thể gồm cả các thời điểm) và đồng hồ đo (đó là đo bằng
phương pháp thực nghiệm). Vậy nếu không có đồng hồ đo, ta có xác định
được thời gian chuyển động này không? Nếu có hãy viết công thức tính
thời gian trong chuyển động này (xác định bằng công thức lí thuyết)? Phần
này giáo viên cũng tổ chức cho học sinh hoạt động thảo luận theo nhóm
(vẫn mỗi tổ là một nhóm).

Học sinh hoạt động nhóm: Dựa vào quan sát cá nhân, học sinh thảo
luận kết hợp với SGK và đưa ra nhận xét. Học sinh trình theo nhóm, đại
diện nhóm trình bày.

18


Giáo viên yêu cầu nhóm khác nhận xét, yêu cầu từng nhóm giải
thích rõ kết quả của nhóm mình bằng cách phát vấn thêm một số học sinh ở
các nhóm để thấy được mức độ hiểu bài cũng như tinh thần hoạt động
nhóm có hiệu quả hay không? Sau đó giáo viên chốt kiến thức:
trong đó đã thay
.

,

Giáo viên chiếu hình vẽ sau, nếu gọi L là khoảng cách xa nhất tính
từ vị trí ném đến vị trí vật chạm đất (theo phương ngang), thì chỉ cần có
thước là ta đo được khoảng cách này. Nhưng nếu không có thước thì còn
cách nào để tính khoảng cách này nữa không?
O

x

đất

y
Học sinh quan sát kĩ hình vẽ và nhận xét:
Giáo viên phát vấn thêm một số học sinh để kiểm tra trình độ nhận
thức của các em, rồi nhận xét chung và chốt kiến thức:

.
Hoạt động 3: Làm thí nghiệm kiểm chứng.
Giáo viên chiếu hình 15.3, 15.4 (SGK – trang 87 – Vật lí 10 – Cơ
bản), rồi yêu cầu học sinh nhận xét về thời gian rơi của bi A và B?

19


Học sinh nhận xét: bi A và bi B chạm đất cùng thời điểm.
Giáo viên nói thêm rằng nếu coi bi B là hình chiếu của bi A thì
chuyển động của bi A và bi B chính là trường hợp chuyển động của viên bi
chúng ta xét ở trên.

LUYỆN TẬP
Hoạt động 3: Củng cố và vận dụng
Giáo viên nêu câu hỏi hệ thống kiến thức bài học.
Học sinh tự hệ nội dung thống kiến thức cơ bản.
Giáo viên cho học sinh luyện tập bằng những câu hỏi trắc nghiệm lí
thuyết và một số bài tập đơn giản thông qua phiếu học tập.
PHIẾU HỌC TẬP
Câu 1: Bi A có trọng lượng lớn gấp đôi bi B. Cùng một lúc tại một mái nhà
ở cùng độ cao, bi A được thả, còn bi B được ném với vận tốc lớn, bỏ qua
sức cản của không khí. Hãy cho biết phương án nào sau đây đúng nhất?
A. A chạm đất trước B.

B. A chạm đất sau B.

C. Cả hai chạm đất cùng lúc.

D. Chưa đủ thông tin trả lời.


Câu 2: Để tăng tầm xa của vật ném theo phương ngang với sức cản không
khí không đáng kể thì biện pháp nào sau đây có hiệu quả nhất?
A.Giảm khối lượng vật ném.

B.Tăng độ cao điểm ném.

C.Giảm độ cao điểm ném.

D.Tăng vận tốc ném.

Câu 3: : Một vật được ném ngang từ độ cao h với vận tốc ban đầu là v 0.
Tầm xa của vật là:
A. L = v0

g
2h

B. L = v0

2h
g

20

C. L = v0

h
2g


D. L = v0

2g
h


Câu 4: Một vật được ném ngang từ độ cao 5m, tầm xa vật đạt được là 2m.
Vận tốc ban đầu của vật là: (Lấy g =10 m/s2)
A. 10 m/s.

B. 2,5 m/s.

C. 5 m/s.

D. 2 m/s.

Câu 5: Môt hòn bi lăn theo cạnh của một mặt bàn nằm ngang cao 1,25m .
Khi ra khỏi mép bàn nó rơi xuống nền nhà cách mép bàn là 2m (theo
phương ngang) lấy g =10m/s2. Vận tốc khỏi mép bàn là:
A. 2m/s ,

B. 4m/s ,

C. 1m/s ,

D.một đáp án khác.

Hết thời gian 5 phút, yêu cầu học sinh nộp bài.
Giáo viên thông báo đáp án sau khi học sinh nộp bài.
Kết quả chấm, trả bài vào tiết tiếp theo.

MỞ RỘNG
Trở lại với các câu hỏi đầu bài:
+ Máy bay muốn thả hàng trúng mục tiêu, viên phi công cần xác định (gần
đúng) được độ cao so với mặt đất và khoảng cách từ vị trí thả đến mục tiêu.
+ Trường hợp khẩu súng đại bác, các vận động viên ném tạ, ném lao là
trường hợp “ném xiên” góc, ngoài xác định các yếu tố trên còn phải xác định góc
ném nữa. Và tất nhiên khi đó hệ độ có sự thay đổi (trục Oy hướng lên).
Bước 5: Trình bày vấn đề
Ngay khi học sinh nhận nhiệm vụ, giáo viên tổ chức cho học sinh
hoạt động theo nhóm (hoặc cá nhân). Cuối hoạt động là phần báo cáo kết
quả của học sinh. Học sinh trình bày sản phẩm theo định hướng hoạt động,
giáo viên nhận xét, tổng kết, chốt kiến thức.
Bước 6: Tổng kết, đánh giá
Sau khi hoàn thành việc trình bày vấn đề, giáo viên sẽ cho HS trong
các nhóm nhận xét, đánh giá về kết quả làm việc. Cuối cùng, giáo viên tiến
hành lấy phiếu tham dò mức độ hứng thú của học sinh sau khi học bài
“chuyển động ném ngang” theo giải pháp mới; mức độ tiếp nhận kiến thức
của các em sau bài học này; mong muốn của các em,... để có thể rút kinh
nghiệm trong những bài dạy tiếp theo.
Cuối cùng giáo viên nhận xét về ý thức tham gia hoạt của các thành
viên trong nhóm, hiệu quả của hoạt động nhóm và thời gian hoàn thành sản
phẩm của các nhóm. Từ đó đánh giá, chấm điểm để khuyến khích tâm lí
các em hứng thú hơn trong các buổi học sau.
Thực ra, ở hai bước 5 và 6 giáo viên có thể thực hiện tuần tự từng
bước hoặc có thể thực hiện xen kẽ cùng bước 4, vì sau mỗi đơn vị kiến thức
đều đã có kết luận, chốt kiến thức và đánh giá từng hoạt động.

21



Trên đây là phần trình bày nội dung sáng kiến, còn kế hoạch dạy học
cụ thể sẽ được thể hiện ở phần phụ lục.
1. 2. Cách thức tổ chức thực hiện giải pháp mới
Trong những năm gần đây, dạy học theo hướng tích hợp liên môn chính
là một trong những hướng dạy học được Bộ giáo dục coi trọng trong quá
trình đổi mới phương pháp dạy học và phương pháp kiểm tra đánh giá theo
định hướng phát triển năng lực học sinh. Việc xây dựng các chủ đề dạy học
theo hướng tích hợp đã trở thành một trong những hoạt động thường niên
của các trường THPT.
Sử dụng kiến thức của nhiều môn học để giải quyết một vấn đề là kĩ
năng quan trọng cần hình thành cho học sinh THPT. Ở bậc học THCS, HS
còn khá thụ động trong việc tự học, tự tìm kiếm và khám phá tri thức.
Ngược lại, ở bậc học THPT, các em đã có thể chủ động trong việc học tập,
khám phá tri thức. Chính vì vậy, một bài học thiên về thực tế là “khảo sát
chuyển động ném ngang” không thể dạy một cách công thức, máy móc mà
cần phải gắn liền với thực tế sử dụng linh hoạt các công cụ toán học để hiểu
bản chất, tìm ra logíc vấn đề. Đối với bài học này, dạy học theo hướng tích
hợp liên môn chính là phương pháp tối ưu nhất để học sinh chủ động nắm
bắt kiến thức. Thông qua việc tích hợp, giáo viên có thể định hướng để học
sinh lựa chọn những vấn đề gần gũi với các em, được các em yêu thích để
tạo cho các em hứng thú học tập. Hơn thế nữa, qua việc vận dụng kiến thức
liên môn để tiếp cận bài học này, học sinh sẽ từng bước giải quyết các vấn
đề liên quan đến thực tiễn, đồng thời, tự mình thấy được tầm quan trọng
của việc sử dụng lý thuyết toán học vào tìm ra cái thực tế của vật lý.
Giải pháp được tôi thực hiện bằng cách lồng ghép kiến thức toán phần
hệ trục toạ độ và phương trình toán học vào phân tích, tổng hợp, kết luận
các tính chất của bài toán chuyển động ném ngang. Để thực hiện giải pháp
này, bản thân tôi nhận thấy cần xác định các nội dung có thể tích hợp trong
bài dạy. Căn cứ vào những nội dung đó để xây dựng các hoạt động cho chủ
đề tích hợp, tiến hành phân công nhiệm vụ cho học sinh, hướng dẫn học

sinh thực hiện nhiệm vụ và cho học sinh báo cáo kết quả (đã xác định ở
trên).
1. 3. Đánh giá kết quả thực hiện giải pháp mới
Sáng kiến được thực hiện ở các lớp 10B7, 10B9 trường THPT Sốp
Cộp.
Để đánh giá việc áp dụng sáng kiến đem lại hiệu quả hay không,
mức độ hiệu quả như thế nào, tôi đã tiến hành khảo sát năng lực của học
sinh thông qua bài kiểm tra 15 phút với nội dung sau:
KIỂM TRA KHẢO SÁT (15 PHÚT)
Họ và tên: ………………………………….Lớp: ………………

22


Câu 1: Một vật có khối lượng m, được ném lên từ độ cao h với vận tốc
Tầm bay xa của vật phụ thuộc những yếu tố nào?
A. m và v0.

B. v0 và h.

C. m và h.

.

D. m, v0 và h.

Câu 2: Hai vật ở cùng một độ cao, vật I được ném ngang với vận tốc đầu
v0 cùng lúc đó vật II được thả rơi tự do không vận tốc đầu. Bỏ qua sức cản
không khí. Kết luận nào đúng?
A. Vật I chạm đất trước vật II.

B. B Vật I chạm đất sau vật II.
C. Vật I chạm đất cùng một lúc với vật II.
D. Thời gian rơi phụ thuộc vào khối lượng của mỗi vật.
Câu 3: Chọn phát biểu sai về tầm bay xa của một vật
A. Tầm bay xa tỉ lệ nghịch với khối lượng.
B. Tầm bay xa tỉ lệ với vận tốc đầu.
C. Tầm bay xa tỉ lệ với căn bậc hai độ cao.
D. Tầm bay xa phụ thuộc vào vận tốc đàu và độ cao.
Câu 4: Một vật được ném ngang từ độ cao h = 9m. Vận tốc ban đầu có độ
lớn là v0. Tầm xa của vật 18m. Tính v0. Lấy g = 10m/s2.
A. 19m/s

B. 13,4m/s

C. 10m/s

D. 3,16m/s

Câu 5: Một vật được ném từ độ cao h so với mặt đất theo phương ngang.
Bỏ qua sức cản của không khí. Lấy g = 10m/s 2. Sau 5s vật chạm đất. Tính
độ cao h của vật so với mặt đất?
A. 80m.

B. 100m.

C. 125m.

D. 140m.

Câu 6: Một vật được ném từ độ cao h = 45m với vận tốc đầu v 0=20m/s

theo phương nằm ngang, bỏ qua sức cản của không khí, lấy g =10m/s 2 Tầm
ném xa của vật là:
A. 30 m

B. 60 m.

C. 90 m.

D. 180 m

Câu 7: Một vật được ném theo phương ngang ở độ cao 45m so với mặt đất.
Bỏ qua sức cản của không khí, lấy g = 10m/s 2. Thời gian để vật rơi chạm
đất là bao nhiêu?
A.

B. 3s.

C. 4,5s.

D. 9s.

Câu 8: Một quả bóng được ném theo phương ngang với vận tốc đầu có độ
lớn là , sau 3s thì bóng chạm đất. Bỏ qua sức cản của không khí, lấy
. Hỏi quả bóng được ném từ độ cao nào so với mặt đất?
A. 30m.

B. 45m.

C. 60m.


23

D. 90m.


Câu 9: Một viên bi được ném theo phương ngang từ độ cao 20m với vận
tốc đầu v0, tầm bay xa của viên bi là 36m. Bỏ qua sức cản không khí, lấy g
= 10m/s2. Hỏi vận tốc đầu của viện bi có độ lớn bằng bao nhiêu?
A. 18m.

B. 20m.

C. 30m.

D. 45m.

Câu 10: Một máy bay trực thăng đang bay với tốc độ 120m/s theo phương
ngang ở độ cao 4500m so với mặt đất để thả hàng cứu trợ. Muốn thả hàng
trúng mục tiêu thì máy bay phải thả cách mục tiêu bao xa? Bỏ qua sức cản
của không khí, lấy g = 10 m/s2.
A. 3,6m.

B. 36m.

C. 360m.

D. 3600m

BÀI LÀM
Lựa chọn phương án nào thì điền đáp án đó vào ô tương ứng sau

đây:
Câu

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

Đáp án
Đáp án bài kiểm tra 15 phút:
Câu

1

2


3

4

5

6

7

8

9

10

Đáp án

B

C

A

B

C

B


B

B

A

D

Việc công bố đáp án chỉ được thực hiện khi các lớp đã hoàn thành
bài kiểm tra.
Qua trao đổi với một số giáo viên dạy cùng khối thì ở một số lớp
không thực hiện áp dụng sáng kiến này.
Tôi đã tiến hành khảo sát bằng cách cho các lớp làm bài kiểm tra
cùng nội dung trên, kết quả thu được ở Bảng 1.
Dưới đây là bảng kết quả thu được từ việc áp dụng sáng kiến:
Bảng 2: Kết quả khảo sát tại lớp áp dụng sáng kiến
Giỏi
Lớp

Tổng

10B
7

46

10B
8


38

10B

43

Số
HS
8
5
6

(%)
17,40
13,15
13,95

Khá
Số
HS
16
12
14

(%)
34,80
31,57
32,56
24


T. bình
Số
HS
20

(%)
43,46

Yếu
Số
HS
2

15

39,5
0

6

18

41,87

5

(%)
4,34
15,78
11,62



9
Tổn
g

127

14,96

19

33,07

42

53

41,7
3

10,24

13

Bảng 3: Kết quả chấm phiếu học tập ở lớp áp dụng sáng kiến

Lớp

Tổng


10B
7

46

10B
8

38

10B
9

43

Tổn
g

127

Điểm 9 - 10

Điểm 7 - 8

Điểm 5 - 6

Số
HS


Số
HS

Số
HS

7
4
5
16

(%)
15,21

(%)
45,56

21

10,52

42,10

16

11,62

41,86

18


12,59

43,30

55

16
16
17
49

Điểm dưới 5
Số
HS

(%)
34,78

(%)
4,45

2

42,10

5,28

2


39,5
3

6,99

3

38,48

5,63

7

Từ 2 bảng kết quả (Bảng 2 và bảng 3) trên cho thấy việc áp dụng
sáng kiến này vào giảng dạy đã góp phần nâng cao kết quả học tập của các
em.
Kết quả thu được từ phiếu thăm dò sau mỗi tiết ở các lớp
Rất thích
Lớp Tổng

10B
7

46

10B
8

38


10B
9

43

Tổn
g

127

Số
HS
18
13
15
46

(%)
39,13
34,21
34,88
36,22

Bình
thường

Thích
Số
HS
22

17
19
58

(%)
47,82
44,74
44,19
45,67

Số
HS
4
4
7
15

(%)
8,7

Không
thích
Số
HS
0

10,5
3
16,28
11,81


2. Ưu điểm và nhược điểm của giải pháp mới
25

3
2
5

Không ý
kiến

(%)

Số (%)
HS

0

2

4,35

7,89 1

2,63

4,65 0

0


3,94 3

2,36


×