Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

HỦY HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ THEO BỘ NGUYÊN TẮC UNIDROIT VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (927.1 KB, 85 trang )

i

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................................ 1

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỦY HỢP ĐỒNG THƯƠNG
MẠI QUỐC TẾ .............................................................................................................. 4
1.1.

Hợp đồng thương mại quốc tế ............................................................................ 4


1.1.1. Khái niệm ............................................................................................................. 4
1.1.2. Đặc điểm ............................................................................................................... 8
1.1.3. Phân loại hợp đồng thương mại quốc tế........................................................... 10
1.2.

Hủy hợp đồng thương mại quốc tế ................................................................... 12

1.2.1. Khái niệm............................................................................................................. 12
1.2.2. Đặc điểm .............................................................................................................. 14
1.2.3. Điều kiện áp dụng hủy hợp đồng thương mại quốc tế ...................................... 15
1.3. Điều chỉnh pháp luật về hủy hợp đồng thương mại quốc tế ............................. 17
CHƯƠNG 2. HỦY HỢP ĐỒNG THEO BỘ NGUYÊN TẮC UNIDROIT VỀ HỢP
ĐỒNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ ............................................................................ 22
2.1. Giới thiệu chung về Bộ Nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc
tế ..................................................................................................................................... 22
2.2. Quy định và thực tiễn hủy hợp đồng thương mại quốc tế theo Bộ Nguyên tắc
UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế ........................................................... 25
2.2.1. Các trường hợp hủy hợp đồng............................................................................ 26
2.2.2. Thủ tục hủy hợp đồng ......................................................................................... 41
2.2.3. Hậu quả pháp lý của việc hủy hợp đồng ............................................................ 45
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỦY HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ .... 54
3.1. Một số bất cập trong quy định và thực tiễn pháp luật về hủy hợp đồng thương
mại quốc tế của Việt Nam ............................................................................................ 54
3.1.1. Về căn cứ hủy hợp đồng ..................................................................................... 54


ii
3.1.2. Về thủ tục hủy hợp đồng ..................................................................................... 62
3.1.3. Về hậu quả pháp lý của việc hủy hợp đồng ....................................................... 63

3.2.

Định hướng hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về hủy hợp đồng

thương mại quốc tế ....................................................................................................... 65
Một số giải pháp cụ thể ...................................................................................... 70

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

3.3.

3.3.1. Về căn cứ hủy hợp đồng ..................................................................................... 70
3.3.2. Về thủ tục hủy hợp đồng ..................................................................................... 74

3.3.3. Về hậu quả pháp lý của hủy hợp đồng............................................................... 75
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... iii


1

LỜI NÓI ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Trong xu thế chung của toàn cầu hóa, Việt Nam cũng đang đẩy mạnh hội nhập
quốc tế một cách toàn diện, sâu, rộng trên mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực thương

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu

aann
i iCC
HHoo

mại quốc tế. Hoạt động thương mại quốc tế phát triển đồng nghĩa với việc số lượng và
giá trị hợp đồng xuất nhập khẩu của Việt Nam ngày một tăng lên, kèm theo đó là tính
đa dạng, phức tạp trong việc đàm phán, ký kết, thực hiện hợp đồng, khiến cho nguy cơ
phát sinh tranh chấp cũng gia tăng, các bên đi đến quyết định hủy bỏ hợp đồng. Thực
tế, số lượng các vụ tranh chấp trong hoạt động thương mại của Việt Nam ngày một
tăng. Tính từ năm 1993 đến nay, VIAC đã giải quyết hơn 700 vụ tranh chấp trong lĩnh
vực hợp đồng thương mại quốc tế, Tòa án kinh tế cũng ghi nhận số vụ tranh chấp về
hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài trung bình mỗi năm khoảng hơn 400 vụ và
có xu hướng tăng lên. Cùng với đó, một kết cục phổ biến trong những tranh chấp này là
hợp đồng thương mại quốc tế bị hủy bỏ, gây ra tổn hại không nhỏ cho doanh nghiệp
cũng như ảnh hưởng tới lợi ích quốc gia. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thực trạng này
là do kiến thức pháp lý của các thương nhân cũng như hệ thống pháp luật về hợp đồng
thương mại quốc tế nói chung và hủy hợp đồng thương mại quốc tế nói riêng còn nhiều
hạn chế. Tìm hiểu về chế tài hủy hợp đồng thương mại quốc tế, làm rõ bản chất, đánh
giá những ưu nhược điểm trong quy định về hủy hợp đồng thương mại quốc tế là một
hướng đi hợp lý lúc này giúp khắc phục được những thực trạng nói trên.
Có nhiều nguồn luật điều chỉnh vấn đề hủy hợp đồng thương mại quốc tế, mỗi
nguồn luật có những quy định, lý giải khác nhau. Trong đó, không thể không kể đến
Bộ Nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế (Principles of
International Commercial Contracts, viết tắt là PICC) của Viện nghiên cứu quốc tế về
thống nhất luật tư UNIDROIT. PICC là thành quả sau nhiều năm nghiên cứu với sự
cộng tác của nhiều luật gia nổi tiếng nhằm đưa ra khung pháp lý chung điều chỉnh hợp
đồng thương mại quốc tế. Về lý luận, nó có những quy định mang tính hiện đại, phù
hợp hơn những văn bản pháp lý trước đó điều chỉnh cùng một vấn đề hợp đồng thương



2
mại quốc tế. Cho đến nay, sau hơn hơn 20 năm kể từ ngày được ban hành, PICC đã
phát huy được vai trò nhất định, được cộng đồng pháp lý và các doanh nghiệp đánh giá
cao. Nhiều luật sư tham khảo PICC như bộ luật mẫu để có hướng nghiên cứu, vận dụng
thích hợp. Các doanh nghiệp cũng đã nhìn nhận PICC như một luật chung để điều

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

chỉnh quan hệ hợp đồng. Trong bài nghiên cứu “An Empirical Study of the
UNIDROIT Principles – International and British Responses” của Sarah Lake, luật sư
của Pitmans LLP tại London, có chỉ ra rằng 60% doanh nghiệp tham khảo Bộ Nguyên
tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế để soạn thảo hợp đồng và 94% đánh
giá Bộ Nguyên tắc rất hữu dụng. Từ những đánh giá đó, có thể thấy, việc tìm hiểu Bộ

Nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế là điều cần thiết đối với
doanh nghiệp, với các nhà làm luật trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, đặc
biệt khi mà các quy định pháp lý của ta còn thiết sót.

Đặt trong bối cảnh nhu cầu cấp thiết phải tìm hiểu chế tài hủy hợp đồng thương
mại quốc tế và những đánh giá tích cực với Bộ Nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng
thương mại quốc tế như trình bày ở trên, người viết đã chọn đề tài: "Hủy hợp đồng
thương mại quốc tế theo Bộ Nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc
tế và định hướng hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam" làm đề tài khoá luận
tốt nghiệp của mình.
2.

Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu quy định về hủy hợp đồng thương mại quốc tế theo Bộ
Nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế, đề tài hướng đến hoàn thiện
quy định của pháp luật Việt Nam về hủy hợp đồng thương mại quốc tế.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là các quy định về
hủy hợp đồng trong Bộ Nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế, trong
pháp luật Việt Nam và các tranh chấp cụ thể trong thực tiễn có liên quan đến vấn đề
này.
- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở việc phân tích
những quy định hủy hợp đồng của Bộ Nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương


3

mại quốc tế và của pháp luật Việt Nam. Về mặt thời gian, phạm vi nghiên cứu giới hạn
từ năm 1994, khi phiên bản đầu tiên của Bộ Nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng
thương mại quốc tế ra đời cho đến nay.
Phương pháp nghiên cứu

4.

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

Muốn hiểu rõ được quy định về hủy hợp đồng thương mại quốc tế nói chung thì
phải tìm kiếm, phân tích, tổng hợp thông tin từ sách, báo, các website, các quy định
trong các văn bản quy phạm pháp luật, các bài nghiên cứu liên quan tới hủy hợp đồng
thương mại quốc tế. Vì vậy, người viết lựa chọn phương pháp thu thập, phân tích, tổng

hợp đối với các thông tin liên quan tới lý thuyết.

Bên cạnh đó, để làm rõ những ưu, nhược điểm về quy định hủy hợp đồng thương
mại quốc tế theo Bộ Nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế và theo
pháp luật Việt Nam, người viết sẽ nghiên cứu một số án lệ và thực hiện đánh giá so
sánh giữa các quy định với nhau. Do đó, phương pháp bình luận án lệ, phương pháp so
sánh luật học cũng được áp dụng trong Chương 2 và Chương 3 của khóa luận.
5.

Kết cấu của đề tài

Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khoá luận gồm
3 chương:

- Chương 1. Một số vấn đề lý luận về hủy hợp đồng thương mại quốc tế
- Chương 2. Hủy hợp đồng theo Bộ Nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương
mại quốc tế

- Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam
về hủy hợp đồng thương mại quốc tế

Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến ThS. Võ Sỹ Mạnh – người đã trực tiếp
hướng dẫn, chỉ bảo và tận tình giúp đỡ em có thể hoàn thành khóa luận này. Em cũng
xin gửi lời cảm ơn tới tập thể giảng viên trường Đại học Ngoại thương đã dạy bảo và
giúp em trang bị những kiến thức quý báu trong thời gian học tập và nghiên cứu tại
trường.


4


CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
HỦY HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Để tìm hiểu một vấn đề trước hết cần xuất phát từ những lý luận cơ bản làm nền
tảng vững chắc cho những lập luận và định hướng về sau. Bởi vậy Chương 1 khóa luận

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

sẽ đi nghiên cứu một số vấn đề lý luận về hủy hợp đồng thương mại quốc tế, trong đó
tập trung tìm hiểu về cơ sở lý luận đối với hợp đồng thương mại quốc tế, hủy hợp đồng
thương mại quốc tế và điều chỉnh pháp luật về hủy hợp đồng thương mại quốc tế. Nội
dung cụ thể như sau:
1.1.


Hợp đồng thương mại quốc tế

1.1.1.

Khái niệm

Trong thực tiễn nghiên cứu về khái niệm hợp đồng thương mại quốc tế có nhiều
quan điểm khác nhau. Việc phân tích, bình luận về tên gọi, khái niệm hợp đồng thương
mại quốc tế trong văn bản pháp lý cần có sự linh hoạt và gắn với bối cảnh hình thành,
mục đích, phạm vi điều chỉnh của văn bản ấy.

Đầu tiên, hợp đồng thương mại quốc tế là hợp đồng. Khái niệm hợp đồng được
đưa vào quy định pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới:

Theo Bộ luật dân sự Pháp năm 1804: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay
nhiều bên về việc chuyển giao vật, làm hay không làm một công việc”.
Theo Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ: “Hợp đồng là khối nghĩa vụ pháp lý
phát sinh từ thỏa thuận giữa các bên theo quy định của luật này và những quy định
khác có liên quan”.

Theo pháp luật Trung Quốc, tại Điều 2, Luật Hợp đồng năm 1999 quy định: “Hợp
đồng là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự giữa
các chủ thể bình đẳng, tự nhiên của các tổ chức”.

Trong pháp luật Việt Nam không có khái niệm riêng về hợp đồng, mà thay vào đó
là khái niệm hợp đồng dân sự. Điều 388 Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 quy định:
“Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Khái niệm này cũng có tính khái quát cao, như một khái



5
niệm chung, áp dụng được cho mọi loại hợp đồng chứ không giới hạn áp dụng cho hợp
đồng dân sự.
Từ những quy định trên có thể thấy yếu tố cơ bản nhất để hình thành nên hợp
đồng là sự thỏa hiệp ý chí, hay sự ưng thuận giữa các bên với nhau trên cơ sở tự do hợp

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

đồng trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Như vậy, hợp đồng là sự thỏa thuận,
nhằm quy định quyền và nghĩa vụ giữa các bên khi thực hiện một công việc, một hoạt
động hoặc một hành vi nhất định nào đó phù hợp với quy định của pháp luật. Tương
ứng với đó, hợp đồng thương mại quốc tế trước hết là một hợp đồng nên cũng là sự
thỏa thuận giữa các bên, nhằm thực hiện các hoạt động thương mại phù hợp với quy

định của pháp luật.

Thứ hai, hợp đồng thương mại quốc tế là hợp đồng thương mại. Hiện nay không
có một định nghĩa cụ thể thống nhất chung về hợp đồng thương mại, có thể hiểu được
khái niệm này khi tìm hiểu về thuật ngữ “thương mại”.

Theo pháp luật của Pháp, trong Điều 1 và 2 Bộ luật thương mại Pháp năm 2006
quy định đối tượng điều chỉnh của luật thương mại, theo đó các hoạt động được coi là
hoạt động thương mại bao gồm mua bán động sản, mua bất động sản để bán lại, các
hoạt động trung gian mua bán hoặc cho thuê, hoạt động đầu tư cổ phiếu, hoạt động
ngân hàng, môi giới, vận tải, bảo hiểm. Luật pháp của Pháp không đưa ra một tiêu chí
cụ thể mà lựa chọn cách liệt kê các hoạt động thương mại, quy định như vậy tuy rõ
ràng nhưng lại dễ dẫn đến thiếu sót.

Theo pháp luật Nhật Bản, trong Bộ luật thương mại số 48 ngày 9/3/1899, thuật
ngữ thương mại được dùng để chỉ những hoạt động mua bán nhằm mục đích lợi nhuận
và hầu hết các dịch vụ trên thị trường như dịch vụ vận tải, cung ứng điện hay khí đốt,
uỷ thác, bảo hiểm, ngân hàng. Pháp luật Nhật Bản bên cạnh việc liệt kê các hoạt động
là hoạt động thương mại còn đưa ra tiêu chí “mục đích lợi nhuận” để xác định một hợp
đồng có phải hợp đồng thương mại hay không, như vậy khái niệm thương mại đã được
hiểu ra rộng hơn, không bó buộc trong bất kỳ hình thức mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ cụ thể nào.


6
Với quan điểm tương tự, theo luật Việt Nam, tính thương mại là đặc điểm cơ bản
để phân biệt loại hợp đồng này với hợp đồng dân sự. Khoản 1 Điều 3 Luật thương mại
Việt Nam năm 2005 giải thích: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và


UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Yếu tố trong pháp luật Việt Nam đưa ra
để xác định một hợp đồng thương mại là mục đích sinh lợi, nghĩa là hợp đồng có mục
đích lợi nhuận, không đồng nghĩa phải có lợi nhuận.

Trong các hiệp định của Tổ chức thương mại thế giới WTO, khái niệm thương
mại bao gồm: thương mại hàng hóa; thương mại dịch vụ; thương mại liên quan đến đầu
tư; thương mại quyền sở hữu trí tuệ. Tức là khái niệm thương mại được phân cụ thể
thành bốn lĩnh vực rõ ràng, bất cứ hoạt động nào thuộc vào bốn lĩnh vực kể trên thì
được coi là hoạt động thương mại.

Trong PICC, giới hạn của từ thương mại lại không đi theo quan điểm truyền

thống phân biệt đây là giao dịch “thương mại” chứ không phải giao dịch “dân sự”.
PICC không ép buộc các bên trong hợp đồng thương mại phải là thương nhân hay giao
dịch phải bắt buộc có mục đích lợi nhuận mà từ thương mại trong PICC chỉ có mục
đích loại bỏ các giao dịch với “người tiêu dùng”. Theo quan điểm của PICC, khái niệm
hợp đồng thương mại phải được hiểu theo một nghĩa rộng nhất có thể, không chỉ bó
hẹp là hợp đồng mua bán hàng hóa dịch vụ, mà còn có thể bao gồm nhiều hình thức
giao dịch kinh tế khác như đầu tư, ủy thác, cung cấp dịch vụ chuyên môn…
Như vậy, đáp ứng với xu thế phát triển trong hoạt động kinh doanh ngày càng mở
rộng, khái niệm thương mại cũng nên được hiểu theo nghĩa rộng nhất có thể, là các
hoạt động không nhằm mục đích tiêu dùng. Hợp đồng thương mại quốc tế cũng nên
được hiểu là hợp đồng không nhằm mục đích tiêu dùng.

Thứ ba, hợp đồng thương mại phải có yếu tố nước ngoài. Pháp luật của quốc gia
và trên thế giới đưa ra những tiêu chí khác nhau để xác định yếu tố nước ngoài.
Theo pháp luật của Pháp: để xác định yếu tố nước ngoài của hợp đồng thì dựa
trên hai tiêu chuẩn: tiêu chuẩn kinh tế và tiêu chuẩn pháp lý. Theo tiêu chuẩn kinh tế,
sự di chuyển qua biên giới các giá trị trao đổi tương ứng giữa hai nước cấu thành nên


7
yếu tố nước ngoài trong hợp đồng. Theo tiêu chuẩn pháp lý, căn cứ vào quốc tịch, nơi
cư trú của các bên, nơi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, nguồn vốn thanh toán…để xác
định yếu tố nước ngoài.
Trong pháp luật Việt Nam, Luật thương mại Việt Nam năm 2005 không quy định

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC

HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

cụ thể về yếu tố nước ngoài đối với hợp đồng thương mại mà chỉ có quy định với hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế – một hình thức của hợp đồng thương mại quốc tế. Tại
Khoản 1 Điều 27 Luật thương mại năm 2005: “Mua bán hàng hoá quốc tế được thực
hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập
và chuyển khẩu”. Các hoạt động này đều mang đặc điểm chung là hàng hóa được giao
qua biên giới. Do đó có thể thấy việc hàng hóa phải được giao qua biên giới là một tiêu
chí để xác định yếu tố nước ngoài theo luật Việt Nam.

Bên cạnh đó, Khoản 3 Điều 4 Luật thương mại Việt Nam năm 2005 có quy định:
“Hoạt động thương mại không được quy định trong Luật Thương mại và trong các luật
khác thì áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự”. Do đó, đối với những hợp đồng
thương mại quốc tế mà hàng hóa không được chuyển giao qua biên giới quốc gia (như
hợp đồng mua bán hàng hóa giữa một thương nhân Việt Nam với một thương nhân
nước ngoài nhưng hàng hóa chỉ được chuyển dịch trong nội bộ lãnh thổ Việt Nam) hay
các hợp đồng dịch vụ thì hoàn toàn có thể áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự đối
với hợp đồng có yếu tố nước ngoài nói chung để điều chỉnh. Theo Điều 758 Bộ luật

dân sự năm 2005: “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất
một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân,
tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp
luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở
nước ngoài”. Vậy không chỉ dựa trên tiêu chí hàng hóa được giao qua biên giới, quốc
tịch, nơi cư trú của các bên trong hợp đồng cũng là cơ sở để xác định yếu tố nước ngoài
của hợp đồng.
Về vấn đề này, PICC không có quy định trực tiếp tại điều khoản nào về tính chất
quốc tế của hợp đồng nhưng phần bình luận trong lời mở đầu có nêu rằng: “Pháp luật


8
quốc gia và pháp luật quốc tế đã và đang đưa ra nhiều giải pháp để xác định tính chất
quốc tế của hợp đồng như dựa vào trụ sở hay nơi thường trú của các bên tại các quốc
gia khác nhau, áp dụng những tiêu chí mang tính chất tổng quát như hợp đồng có các
mối liên hệ mật thiết với hơn một quốc gia, hợp đồng đòi hỏi có sự lựa chọn giữa pháp

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

luật của các quốc gia khác nhau, hợp đồng có ảnh hưởng đến các lợi ích trong thương
mại quốc tế”. Vậy là với PICC không lựa chọn cụ thể bất cứ một tiêu chí nào. Theo
quan điểm của PICC thì chỉ không coi là hợp đồng không có tính quốc tế nếu nó không
có bất kỳ một yếu tố quốc tế nào - nghĩa là tất cả các yếu tố cơ bản của hợp đồng chỉ
liên quan đến một quốc gia duy nhất.

Ngày nay, với sự mở rộng của các quan hệ thương mại quốc tế, yếu tố nước ngoài
cũng nên được hiểu theo một nghĩa rộng nhất có thể như nhận định của PICC, tức là
chỉ không coi là hợp đồng không có tính quốc tế nếu nó không có bất kỳ một yếu tố
quốc tế nào, như vậy mới có thể bao quát toàn diện các hợp đồng thương mại quốc tế.
Từ những phân tích nêu trên, một cách khái quát nhất có thể kết luận: Hợp đồng
thương mại quốc tế là sự thỏa thuận giữa các bên, đi đến thống nhất quyền và nghĩa vụ
giữa các bên khi thực hiện một hoạt động nhất định nào đó phù hợp với quy định của
pháp luật, không nhằm mục đích tiêu dùng, trong đó các yếu tố cơ bản của hợp đồng
có liên quan đến hai hay nhiều quốc gia.
1.1.2.

Đặc điểm

Từ khái niệm của hợp đồng thương mại quốc tế, có thể thấy đặc điểm của hợp
đồng thương mại quốc tế sẽ mang đầy đủ các đặc điểm của hợp đồng thương mại, bên
cạnh đó còn có các đặc điểm là biểu hiện của tính chất quốc tế.


Trước tiên, hợp đồng thương mại quốc tế là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên.
Sự tự do ý chí trong giao kết hợp đồng được đề cao. Nội dung cụ thể, các điều khoản
trong hợp đồng do các bên thỏa thuận thống nhất với nhau trong khuôn khổ pháp luật.
Luật pháp tôn trọng sự thỏa thuận giữa các bên, khi thỏa thuận đạt được nó có tính chất
ràng buộc đối với các bên tham gia ký kết, như là luật cao nhất điều chỉnh quan hệ các
bên trong hợp đồng.


9
Mục đích của hợp đồng thương mại quốc tế là sinh lợi. Đặc điểm này phân biệt
hợp đồng thương mại quốc tế với hợp đồng dân sự. Các giao dịch dân sự hình thành vì
mục đích tiêu dùng, không vì mục đích kinh doanh hay nghề nghiệp. Còn các giao dịch
thương mại hướng tới mục đích tìm kiếm lợi nhuận và các mục đích có được các lợi

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann

i iCC
HHoo

ích kinh tế khác.

Chủ thể của hợp đồng thương mại quốc tế có thể là cá nhân, pháp nhân hay nhà
nước. Chủ thể của hợp đồng phải hợp pháp, tức là có năng lực pháp lý và người ký kết
đầy đủ năng lực hành vi cũng như thẩm quyền ký kết. Tư cách pháp lý của chủ thể còn
phụ thuộc vào pháp luật quốc gia mà chủ thể đó mang quốc tịch. Trong pháp luật Việt
Nam, chủ thể bên Việt Nam phải là thương nhân hoặc tổ chức, cá nhân có hoạt động
liên quan đến thương mại được phép hoạt động thương mại trực tiếp với nước ngoài.
Trong bình luận Lời mở đầu của PICC có nói: “Việc áp dụng Bộ Nguyên tắc không phụ
thuộc vào việc các bên có tư cách thương nhân hay không và/hoặc giao dịch về bản
chất có thật sự mang tính thương mại hay không”. Như vậy, hiểu theo nghĩa rộng, chủ
thể của hợp đồng thương mại quốc tế không bắt buộc phải là thương nhân mà chỉ cần
đảm bảo đầy đủ năng lực pháp lý và năng lực hành vi theo quy định của luật quốc tịch
của chủ thể đó; có tham gia vào các hoạt động thương mại và có đầy đủ thẩm quyền ký
kết các hợp đồng thương mại quốc tế. Quan hệ giữa các chủ thể trong hợp đồng thương
mại quốc tế hoàn toàn bình đẳng, không phụ thuộc vào quốc tịch, quy mô, loại hình
doanh nghiệp. Trường hợp đặc biệt nếu Nhà nước là chủ thể trong hợp đồng thương
mại quốc tế thì Nhà nước được hưởng quyền miễn trừ tư pháp.

Nội dung của hợp đồng thương mại quốc tế là toàn bộ quyền, nghĩa vụ của các
bên đối với việc chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến thương mại, việc thanh toán tiền. Những nội dung này phải đảm bảo tính hợp
pháp, nếu không hợp đồng sẽ trở nên vô hiệu.

Bên cạnh các đặc điểm chung, hợp đồng thương mại quốc tế còn có những đặc
điểm khác đặc trưng cho tính chất quốc tế:
- Về chủ thể của hợp đồng thương mại quốc tế: Chủ thể trong hợp đồng thương

mại quốc tế thường là các bên có trụ sở thương mại ở các quốc gia khác nhau. Yếu tố


10
quốc tịch có thể là một căn cứ xác định tính quốc tế nhưng không phải yếu tố duy nhất
quyết định. Trên thực tế, phần lớn các thương nhân có trụ sở thương mại đóng ở các
nước khác nhau có quốc tịch khác nhau, nhưng cũng không loại trừ trường hợp họ
cùng quốc tịch.

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

- Về đối tượng của hợp đồng thương mại quốc tế: Đối tượng của hợp đồng có thể
được di chuyển qua biên giới quốc gia. Đối tượng của hợp đồng thương mại quốc tế có

thể là hàng hóa hữu hình hoặc hàng hóa vô hình, trong đó, hàng hóa hữu hình vẫn được
giao dịch phổ biến hơn cả.

- Về đồng tiền dùng trong thanh toán: Đồng tiền dung để thanh toán có thể là
ngoại tệ với một hoặc cả hai bên. Việc hình thành các tổ chức liên minh sử dụng đồng
tiền chung như đồng EURO của Liên minh châu Âu EU, khiến cho hoạt động thương
mại ở các nước này diễn ra thuận lợi, dễ dàng hơn.

- Về luật điều chỉnh hợp đồng thương mại quốc tế: Luật điều chỉnh hợp đồng
thương mại quốc tế hết sức phức tạp, đa dạng. Không có luật quốc gia nào có giá trị bắt
buộc để điều chỉnh hợp đồng thương mại quốc tế, việc áp dụng luật nào là hoàn toàn do
các bên tự lựa chọn. Luật điều chỉnh có thể là pháp luật nước ngoài đối với một
hoặc/và cả hai bên, có thể là điều ước quốc tế, luật tập quán quốc tế hay án lệ…
- Về cơ quan giải quyết tranh chấp: khi phát sinh tranh chấp đối với hợp đồng
thương mại quốc tế, có thể tòa án một quốc gia hoặc do một tổ chức trọng tài có thẩm
quyền giải quyết.
1.1.3.

Phân loại hợp đồng thương mại quốc tế

Không có văn bản pháp lý thống nhất phân chia hợp đồng thương mại quốc tế
gồm những loại nào, tuy nhiên căn cứ vào đối tượng của hoạt động thương mại quốc tế
có thể tạm phân chia hợp đồng thương mại quốc tế thành các nhóm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, hợp đồng thương mại quốc tế liên quan đến mua bán, trao đổi hàng
hóa. Đây là loại này là loại hợp đồng chủ yếu trong hoạt động thương mại quốc tế, bao
gồm:
- Hợp đồng mua bán hàng hóa;
- Hợp đồng trao đổi hàng hóa;



11
- Hợp đồng mua bán thông qua đấu thầu, đấu giá.
Trong hệ thống các hợp đồng thương mại quốc tế thì có hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế chiếm vị trí trung tâm, là hình thức phổ biến nhất được sử dụng rộng rãi
trong thương mại quốc tế. Chính vì lẽ đó nên hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

nhiều quốc gia và nhiều tổ chức thương mại quốc tế quan tâm đặc biệt, nhiều quy phạm
pháp luật dùng để điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ra đời, được áp dụng
tương tự luật để điều chỉnh các loại hợp đồng thương mại quốc tế khác. Vì vậy trong
các văn bản pháp lý của Luật thương mại quốc tế xây dựng khái niệm hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế được coi là cơ sở để xây dựng các khái niệm của các hợp đồng

thương mại quốc tế khác nói chung.

Thứ hai, các loại hợp đồng liên quan đến hoạt động cung cấp dịch vụ khác nhau.
Trong hoạt động thương mại quốc tế có những loại hình dịch vụ có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ hàng hóa cũng như phát triển kinh
doanh thương mại nói chung. Hợp đồng liên quan đến thương mại dịch vụ có các loại
cơ bản như sau:

- Hợp đồng vận chuyển hàng hóa;
- Hợp đồng bảo hiểm;

- Hợp đồng gia công sản phẩm;
- Hợp đồng thuê tài chính;

- Hợp đồng bao thanh toán;
- Bảo lãnh ngân hàng…

Thứ ba, các loại hợp đồng thương mại quốc tế liên quan đến hoạt động tổ chức
kinh doanh ở nước ngoài, có liên quan đến với pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ, pháp
luật chống cạnh tranh. Loại hợp đồng này chủ yếu có các loại sau:
- Hợp đồng đại diện thương mại;

- Hợp đồng chuyển giao công nghệ;

- Hợp đồng chuyển nhượng thương mại.
Thứ tư, các hợp đồng thương mại quốc tế trong lĩnh vực tổ chức kinh doanh ở
nước ngoài, tiêu biểu trong loại hình này có hợp đồng đại diện thương mại.


12

Trên đây là các loại hợp đồng thương mại quốc tế chủ yếu, ranh giới để phân chia
giữa những loại hợp đồng này không phải là tuyệt đối. Trong hoạt động thương mại
quốc tế, có một số loại hợp đồng liên quan đến cả thương mại hàng hóa, cả thương mại
dịch vụ và cả thương mại liên quan đến sở hữu trí tuệ, ví dụ như hợp đồng độc quyền

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

phân phối. Bởi vậy việc phân loại hợp đồng này chỉ để hình dung cụ thể hơn về hợp
đồng thương mại quốc tế, vẫn cần hiểu hợp đồng thương mại quốc tế một cách bao
quát như chính nội hàm khái niệm của nó vậy: là hợp đồng có tính thương mại và có
yếu tố nước ngoài.
1.2.


Hủy hợp đồng thương mại quốc tế

1.2.1.

Khái niệm

Bản chất của hợp đồng thương mại quốc tế là sự thỏa thuận giữa các bên, đi đến
thống nhất quyền và nghĩa vụ giữa các bên khi thực hiện một hoạt động nhất định nào
đó phù hợp với quy định của pháp luật. Bên này thỏa thuận cam kết thực hiện cho bên
kia một nghĩa vụ với điều kiện bên kia cũng cam kết trở lại, thực hiện cho bên này một
nghĩa vụ, từ đó lợi ích các bên mới được cân bằng và hợp đồng mới duy trì được. Tuy
nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng, vì nguyên nhân nào đó mà một bên không
thực hiện được các nghĩa vụ của mình như cam kết thỏa thuận ban đầu khiến cho cân
bằng lợi ích giữa các bên bị phá vỡ, một bên phải chịu thiệt hại do bên kia gây ra. Lúc
này pháp luật cho phép bên bị vi phạm được phép thực hiện các biện pháp nhằm khắc
phục những tổn thất phải chịu hay nói cách khác đây là việc buộc bên vi phạm phải
thực hiện đúng hợp đồng nhằm mục đích tối đa hóa lợi ích nhận được của các bên từ
việc thực hiện hợp đồng.

Trong thương mại quốc tế, có nhiều biện pháp để bảo vệ quyền lợi của bên bị vi
phạm, chẳng hạn: buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, buộc bồi thường thiệt
hại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng… Những biện pháp
ban đầu đều hướng đến mục tiêu khắc phục được những tổn thất, lập lại cân bằng lợi
ích trong hợp đồng với mong muốn tiếp tục duy trì hợp đồng. Tuy nhiên không phải
lúc nào điều kiện cũng cho phép các bên thực hiện được các biện pháp này, có thể do
khả năng tài chính lúc này không đáp ứng được, thiếu hụt nhân công, điều kiện tự


13
nhiên không thuận lợi hay thậm chí chính bên vi phạm không còn ý thức muốn duy trì

hợp đồng. Bên bị vi phạm cần được đảm bảo quyền lợi của mình, khi không còn được
nhận những gì bên kia đã cam kết thì cũng có quyền đòi lại những gì mình đã thực hiện
cho bên đó. Đó là nội dung cơ bản của chế tài hủy bỏ hợp đồng nói chung và hủy hợp

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

đồng thương mại quốc tế nói riêng.

Có thể thấy, hủy hợp đồng thương mại quốc tế là chế tài nghiêm khắc nhất khi
khắc phục hậu quả của vi phạm hợp đồng, bởi nó gây ra hậu quả pháp lý thực sự
nghiêm trọng cho cả hai bên chủ thể của hợp đồng. Thông thường luật pháp các nước
không định nghĩa trực tiếp thế nào là hủy hợp đồng thương mại quốc tế, tuy nhiên ta có
thể hiểu thêm về khái niệm này qua cách quy định về chế tài hủy hợp đồng thương mại.

Theo luật hợp đồng của Anh năm 2013 (English Contract Law), hủy hợp đồng là
biện pháp khắc phục theo đó một bên (bên bị vi phạm) được giải phóng khỏi các nghĩa
vụ của mình vì lỗi lầm hay sự không thực hiện của bên kia.

Theo luật hợp đồng của Trung Quốc năm 1999 (Contract Law of the People's
Republic of China), hủy hợp đồng là một biện pháp khắc phục không thực hiện hợp
đồng mà khi xảy ra, những nghĩa vụ của hợp đồng chưa được thực hiện sẽ chấm dứt
còn những nghĩa vụ đã thực hiện thì tùy từng điều kiện và bản chất của hợp đồng, các
bên có thể khôi phục về tình trạng ban đầu hoặc có biện pháp khắc phục khác.
Luật thương mại Việt Nam năm 2005 quy định hủy hợp đồng bao gồm hai trường
hợp hủy bỏ hoàn toàn hoặc một phần hợp đồng, hủy bỏ hoàn toàn là việc bãi bỏ thực
hiện toàn bộ các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng, hủy bỏ một phần hợp
đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp
đồng vẫn có hiệu lực. Như vậy theo pháp luật Việt Nam, hủy hợp đồng thương mại
quốc tế có thể hiểu là việc bãi bỏ thực hiện một phần hay toàn bộ nghĩa vụ hợp đồng.
Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ (Uniform Commercial Code) tại Điều 2106, có sự phân biệt cho hai trường hợp của hủy hợp đồng: hủy hợp đồng do hai bên
thỏa thuận trước, hủy hợp đồng do một bên vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên bản chất của
hủy hợp đồng trong Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ vẫn là việc hai bên không


14
còn bị ràng buộc bởi nghĩa vụ của hợp đồng, trừ những nghĩa vụ phát sinh sau khi hủy
hợp đồng.
Như vậy, hủy hợp đồng là một biện pháp khắc phục khi có hành vi vi phạm hợp
đồng dẫn đến hậu quả pháp lý là việc hai bên sẽ giải thoát cho nhau tất cả mọi nghĩa vụ

UU
FFTT
SSuu
aann

i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

của hợp đồng, trừ những nghĩa vụ phát sinh sau khi hủy hợp đồng. Tương ứng với đó,
khái niệm hủy hợp đồng thương mại quốc tế có thể được hiểu như sau: Hủy hợp đồng
thương mại quốc tế là biện pháp khắc phục khi có hành vi vi phạm hợp đồng thương
mại quốc tế, từ đó giải phóng các bên khỏi nghĩa vụ của hợp đồng đã giao kết, trừ
nghĩa vụ phát sinh sau khi hủy hợp đồng.
1.2.2.

Đặc điểm

Trước hết, hủy hợp đồng thương mại quốc tế là một biện pháp khắc phục hậu quả
khi có vi phạm xảy ra.

Cũng tương tự với các biện pháp khác như tạm ngừng thực hiện hợp đồng, buộc
thực hiện hợp đồng, yêu cầu bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm hợp đồng, hủy hợp
đồng cũng nhằm mục đích khắc phục hậu quả khi mà có hành vi vi phạm hợp đồng. Có

ý kiến cho rằng hủy hợp đồng khiến cho những cố gắng thực hiện hợp đồng từ trước
đến nay của các bên trở nên vô nghĩa thì không được coi là một biện pháp khắc phục
hậu quả. Tuy nhiên, hủy hợp đồng là một lựa chọn đúng đắn khi các giải pháp khác
được đưa ra không có khả năng thực hiện do năng lực của bên vi phạm không cho phép
hoặc bên vi phạm không còn mong muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng. Lúc này nếu áp
dụng hủy hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền đòi lại những gì đã thực hiện cho bên kia,
điều này rõ ràng hạn chế tổn thất hơn là việc bên bị vi phạm trông chờ vào việc sẽ
không xảy ra rằng bên kia sửa chữa những lỗi lầm đã gây ra.

Thứ hai, hủy hợp đồng thương mại quốc tế giải phóng các bên khỏi nghĩa vụ của
hợp đồng, trừ những nghĩa vụ phát sinh sau khi hủy hợp đồng. Đặc điểm này được đưa
vào quy định cụ thể trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật:

Khoản 1 Điều 314 Luật thương mại Việt Nam năm 2005 quy định: “Sau khi huỷ
bỏ hợp đồng, hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải


15
tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các
quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp”.
Khoản 1 Điều 7.3.5 của Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế PICC
quy định: “Việc huỷ hợp đồng giải phóng các bên khỏi những nghĩa vụ của mình trong

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU

FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

tương lai”.

Quy định tương tự cũng xuất hiện trong Điều 9:305 của Bộ nguyên tắc hợp đồng
chung châu Âu – PECL: “Hủy hợp đồng giải phóng cả hai bên khỏi nghĩa vụ mà họ
phải thực hiện và nhận được thực hiện trong tương lai, nhưng với các Điều 9:306,
9:307 và 9:308, không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ trả nợ đến thời điểm hủy hợp
đồng”.

Như vậy, với các nghĩa vụ hợp đồng chưa được thực hiện tại thời điểm hủy, các
bên không còn nghĩa vụ phải thực hiện chúng sau này. Khi hủy hợp đồng, bên bị vi
phạm hoàn toàn có thể từ chối việc thực hiện nghĩa vụ của mình, hoặc giữ lại hoạt
động đáng ra cần thực hiện. Trường hợp hủy một phần của hợp đồng thì chỉ phần nghĩa
vụ tương ứng tại phần bị hủy đó mới được chấm dứt. Ngoài ra hủy hợp đồng không
làm mất đi các quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm hợp đồng.
Thứ ba, hủy hợp đồng thương mại quốc tế là biện pháp nghiêm khắc nhất trong
các biện pháp khắc phục vi phạm hợp đồng thương mại quốc tế.

Vì hủy hợp đồng thương mại quốc tế mang lại những hậu quả pháp lý hết sức

nặng nề đối với cả hai bên, giải phóng các bên khỏi nghĩa vụ của hợp đồng nên nó là
một biện pháp khắc phục vi phạm hợp đồng cứng rắn hơn cả. Khi có vi phạm xảy ra,
thông thường người ta không áp dụng ngay hủy hợp đồng mà sẽ ưu tiên áp dụng trước
những biện pháp khác như tạm ngừng thực hiện hợp đồng, buộc thực hiện hợp đồng,
yêu cầu bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm hợp đồng… Chỉ khi có những điều kiện đặc
biệt mới áp dụng đến chế tài nghiêm khắc này.
1.2.3.

Điều kiện áp dụng hủy hợp đồng thương mại quốc tế

Khi xảy ra vi phạm, thông thường các bên chỉ lựa chọn hủy hợp đồng như một
giải pháp cuối cùng bởi hậu quả do hủy hợp đồng đối với các bên đều rất nặng nề. Bởi


16
vậy, không thể tự do áp dụng chế tài này mà chỉ được áp dụng khi thỏa mãn được
những điều kiện nhất định, bao gồm điều kiện về nội dung và điều kiện về hình thức.
Điều kiện về nội dung: Pháp luật quốc gia hay pháp luật quốc tế có những quy
định không giống nhau về các trường hợp được áp dụng chế tài hủy hợp đồng.

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann

i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

Chẳng hạn, Khoản 4 Điều 312 Luật thương mại Việt Nam năm 2005 quy định:
“Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, chế tài hủy
bỏ hợp đồng được áp dụng trong các trường hợp sau đây: a) Xảy ra hành vi vi phạm
mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng; b) Một bên vi phạm cơ bản
nghĩa vụ hợp đồng”. Hay như Khoản 1 Điều 7.3.1 của Bộ Nguyên tắc về hợp đồng
thương mại quốc tế PICC yêu cầu: “Một bên có thể huỷ hợp đồng nếu có trường hợp
không thực hiện cơ bản của bên kia”. Tương tự, Khoản 1 Điều 9:301 của Bộ nguyên
tắc hợp đồng chung châu Âu PECL quy định: “Một bên có thể hủy hợp đồng nếu
không thực hiện của bên kia là cơ bản”.

Có những căn cứ mà các bên trong hợp đồng buộc phải tuân theo một cách chặt
chẽ mới được phép áp dụng biện pháp hủy hợp đồng. Có thể đó là một điều kiện rõ
ràng mà hai bên đã có thỏa thuận với nhau hoặc đó là một vi phạm nghiêm trọng cấu
thành vi phạm cơ bản. Trường hợp đã có thỏa thuận với nhau từ trước thì sẽ dễ dàng
xác định việc tuân thủ có được đảm bảo nghiêm ngặt hay không, có phải áp dụng hình
thức hủy hợp đồng hay không. Tuy nhiên, trường hợp còn lại để xác định một vi phạm
cơ bản hay một không thực hiện cơ bản thì pháp luật quốc gia cũng như pháp luật quốc
tế chưa có thống nhất cho vấn đề này.

Về bản chất, để xem xét sự không thực hiện của bên kia có đến mức độ phải hủy
bỏ hợp đồng hay không cần căn cứ vào yếu tố lỗi và mức độ không thực hiện nghĩa vụ.

Một bên không thực hiện nghĩa vụ có thể do cố ý, cũng có thể do những trở ngại khách
quan vượt quá tầm kiểm soát của bên đó. Nếu đã là từ nguyên nhân cố ý không thực
hiện thì lúc này, việc bên bị vi phạm có mở ra một cơ hội nữa cho bên kia như thêm
thời gian thực hiện hoặc buộc sửa chữa lỗi lầm cũng sẽ là điều vô nghĩa. Bên cạnh đó,
mức độ vi phạm phải là đáng kể. Một nghĩa vụ nhỏ nhặt không được thực hiện trong
hợp đồng không thể dẫn đến hủy bỏ toàn bộ hợp đồng, điều này sẽ đi ngược lại nguyên


17
tắc thiện chí và gây ra tổn thất nặng nề cho cả hai bên, ngoại trừ những trường hợp đặc
biệt mà bên kia rõ ràng không còn muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng nữa. Khi những
điều kiện về căn cứ hủy hợp đồng này được thỏa mãn, bên bị vi phạm mới có quyền
hủy bỏ hợp đồng.

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann

i iCC
HHoo

Điều kiện về hình thức: cũng vì mang lại hậu quả pháp lý nặng nề, nên các hệ
thống pháp luật đều đưa ra quy định buộc bên muốn tuyên bố hủy bỏ hợp đồng phải
đưa ra thông báo cho bên kia trước khi áp dụng chế tài này.

Điều 315 Luật thương mại Việt Nam năm 2005 quy định: “Bên tạm ngừng thực
hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc huỷ bỏ hợp đồng phải thông báo
ngay cho bên kia biết về việc tạm ngừng, đình chỉ hoặc huỷ bỏ hợp đồng”. Khoản 1
Điều 9:303 của Bộ nguyên tắc hợp đồng chung châu Âu PECL có quy định: “Quyền
hủy hợp đồng của một bên phải được thực hiện bằng cách thông báo cho bên kia”.
Như vậy, việc thực hiện thông báo hủy hợp đồng phải được tiến hành ngay khi có
thể. Bởi nếu trì hoãn thực hiện thông báo có thể khiến bên kia vẫn nỗ lực tiếp tục thực
hiện hợp đồng, đến khi hợp đồng bị hủy, bên đó sẽ phải gánh chịu những tổn thất
không mong muốn. Nhất là trong kinh doanh thương mại, yếu tố thời gian rất quan
trọng, việc thông báo sớm cũng giúp các bên sớm nắm được tình hình và lựa chọn
được phương án giải quyết hợp lý hơn. Nếu một bên không đưa ra thông báo trong thời
gian hợp lý, bên đó sẽ phải có trách nhiệm bồi thường, thậm chí mất quyền hủy bỏ hợp
đồng, tùy theo quy định pháp luật của từng quốc gia.

Đây là hai điều kiện cơ bản cần xem xét trước khi đi đến quyết định hủy hợp
đồng thương mại quốc tế. Phải có đầy đủ hai điều kiện này một bên mới được hủy hợp
đồng, nếu không bên quyết định hủy hợp đồng sẽ phải bồi thường cho bên kia khi có
thiệt hại phát sinh.
1.3.

Điều chỉnh pháp luật về hủy hợp đồng thương mại quốc tế

Điều chỉnh pháp luật là việc nhà nước dùng pháp luật, dựa vào pháp luật để điều

chỉnh các quan hệ xã hội theo những hướng nhất định. Đây là hoạt động của nhà nước
thể hiện trong việc quy định, ban hành ra luật pháp để đáp ứng nhu cầu mà pháp luật
cần điều chỉnh. Ở đây, chủ thể của điều chỉnh pháp luật là nhà nước với hoạt động lập


18
pháp và khách thể là những cá nhân, tổ chức có trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa
vụ của mình theo pháp luật. Điều chỉnh pháp luật được coi là phương pháp phổ biến và
chủ yếu để nhà nước quản lí xã hội, thiết lập trật tự cho xã hội trên cơ sở các điều kiện
khách quan và chủ quan.

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo


Quan hệ hủy hợp đồng thương mại quốc tế cũng không nằm ngoài phạm vi của
điều chỉnh của pháp luật. Bàn về cơ sở để điều chỉnh pháp luật đối với hủy hợp đồng
thương mại quốc tế, có hai quan điểm như sau: một là tự do hủy bỏ hợp đồng, hai là
phải tuân thủ nghiêm ngặt các điều kiện hủy bỏ.

Quan điểm đầu lập luận dựa trên bản chất của hợp đồng thương mại quốc tế là sự
thỏa thuận ý chí giữa hai bên, một khi thiện chí thực hiện hợp đồng không còn nữa thì
có thể tuyên bố hủy hợp đồng, pháp luật nên tôn trọng ý chí tự nguyện giữa hai bên chủ
thể hợp đồng. Theo như lập luận này, các bên chỉ cần thỏa thuận với nhau về điều kiện
áp dụng hủy hợp đồng, khi điều kiện đó xảy ra là lúc phát sinh quyền hủy bỏ hợp đồng.
Như vậy có phải các bên sẽ được thỏa thuận về điều kiện hủy hợp đồng là bất cứ yếu tố
nào mà ý chí các bên mong muốn? Phạm vi áp dụng hủy hợp đồng có thể mở rộng ra
không giới hạn. Khi đó không thể kiểm soát được hết các trường hợp của hủy hợp
đồng. Những điều kiện đi ngược lại với lợi ích xã hội cũng có khả năng được đưa vào
làm căn cứ hủy hợp đồng hoặc do vị thế thương mại mà một bên phải chịu những yêu
cầu vô lý từ phía bên kia đưa ra, không được pháp luật bảo vệ. Như vậy quan điểm này
bộc lộ những hạn chế nhất định.

Quan điểm thứ hai cho rằng, trong quan hệ hợp đồng cần đảm bảo cân bằng lợi
ích giữa hai bên chủ thể, việc hủy bỏ hợp đồng ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi
các bên trong giao dịch nên không thể tiến hành một cách tự do, tùy tiện mà phải đưa
ra một khuôn khổ pháp lý nghiêm ngặt điều chỉnh vấn đề này. Pháp luật thừa nhận
nguyên tắc tự do hợp đồng, tuy nhiên sự tự do này cũng có giới hạn trong chừng mực,
không thể đi ngược lại các giá trị đạo đức xã hội, các điều cấm của pháp luật, xâm
phạm quyền lợi chính đáng của các bên. Nếu hủy hợp đồng thương mại quốc tế diễn ra
một cách tự do, quyền lợi chính đáng của các bên trong hợp đồng sẽ không được bảo
vệ gây ra tình trạng bất ổn trong môi trường kinh doanh cũng như trong môi trường


19

pháp lý. Cần hiểu là xây dựng các quy phạm pháp luật nghiêm ngặt mô hình hóa hành
vi của chủ thể thông qua quan hệ pháp luật cụ thể để điều chỉnh pháp luật không đồng
nghĩa với những quy định gò bó, cứng nhắc mà cần cả tính linh hoạt, mềm dẻo, phù
hợp điều kiện của hợp đồng thương mại quốc tế.

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

Thực tế, quan điểm thứ hai được thế giới công nhận và áp dụng. Ngày càng có
nhiều văn bản quy phạm pháp luật ra đời điều chỉnh vấn đề hủy hợp đồng thương mại
quốc tế. Đồng thời điều chỉnh pháp luật về hợp đồng thương mại quốc tế cũng theo
hướng tuân thủ tính nghiêm ngặt của quy định pháp lý và đảm bảo được sự linh hoạt
trong áp dụng quy định.


Theo nghiên cứu của Harry M. Flechtner trên tạp chí Journal of Law and
Commerce số 8/1998: Ban đầu, hủy hợp đồng nói chung chỉ cho phép hủy đối với
những vi phạm nghiêm trọng, nhưng bên bị vi phạm muốn được mở rộng quyền hủy
hợp đồng. Bên bị vi phạm có lý do hợp lý để hủy hợp đồng khi mà bên kia thực hiện
quá chậm trễ khiến cho việc thực hiện lúc này không còn ý nghĩa hoặc khi bên vi phạm
mất khả năng tài chính và không thể thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, khi đó vi
phạm xảy ra không quá to tát nhưng hủy hợp đồng lại là một lựa chọn đúng đắn hơn.
Ngược lại, bên vi phạm thường có mong muốn hạn chế các trường hợp hủy hợp đồng
bởi bên đó có thể mất tất cả hoặc hầu hết những nỗ lực đã thực hiện nếu hủy hợp đồng
xảy ra. Lợi ích của hai bên trái ngược với nhau nên tự do thỏa thuận hủy hợp đồng sẽ
rất khó đạt được. Pháp luật đã có sự can thiệp linh hoạt, điều chỉnh vấn đề này theo
hướng cho phép hủy hợp đồng với cả những vi phạm không quá nghiêm trọng nhưng
phải đảm bảo thỏa mãn những điều kiện nghiêm ngặt nhất định.

Việc đưa quan hệ hủy hợp đồng thương mại quốc tế vào điều chỉnh pháp luật trải
qua các giai đoạn như sau:

Giai đoạn 1: Định ra các quy phạm pháp luật về hủy hợp đồng thương mại quốc
tế. Sự kiện này đưa ra các quy phạm pháp luật là khuôn mẫu buộc các chủ thể phải
hành động theo. Tùy thuộc tính chất của quan hệ hủy hợp đồng mà pháp luật sẽ xác
định nội dung quy phạm đó là cho phép, bắt buộc hoặc cấm đoán.


20
Giai đoạn 2: Xuất hiện các quan hệ pháp luật mà nội dung của nó là xuất hiện
quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể (cá biệt hóa các khuôn mẫu của hành vi
trong giai đoạn đầu thành các xử sự cụ thể).
Giai đoạn 3: Các chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý. Các chủ thể bằng

UU

FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

hành vi của mình thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý trong thực tiễn hủy hợp đồng
thương mại quốc tế.

Sự phân chia ra các giai đoạn này cũng chỉ mang tính chất tương đối, chỉ là sự
khái quát hóa để đưa ra một mô hình chung, thực tế quá trình điều chỉnh pháp luật nói
chung và điều chỉnh pháp luật đối với hủy hợp đồng thương mại quốc tế nói riêng sẽ
còn phụ thuộc vào các hoàn cảnh xác định với không gian, thời gian xác định.
Thông qua quá trình này, quan hệ hủy hợp đồng thương mại quốc tế được đưa
vào điều chỉnh pháp luật và để có một định hướng đúng đắn cho sự điều chỉnh còn phụ
thuộc nhiều yếu tố khác nữa. Các yếu tố kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, pháp luật
của một quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề này. Cùng với đó, đây là điều
chỉnh pháp luật quan hệ hủy hợp đồng thương mại quốc tế nên cần đặc biệt coi trọng

yếu tố về pháp luật quốc tế. Điều chỉnh pháp luật về hủy hợp đồng thương mại quốc tế
phải dựa vào các nguyên tắc thương mại toàn cầu, có định hướng chuyển hóa các
nguyên tắc, quy định pháp luật quốc tế vào văn bản pháp luật trong nước, như vậy mới
đảm bảo sự phù hợp cả với điều kiện trong và ngoài của một quốc gia.
Trên đây là cơ sở, quá trình và các yếu tố ảnh hưởng đến điều chỉnh pháp luật đối
với hủy hợp đồng thương mại quốc tế. Việc điều chỉnh pháp luật về hủy hợp đồng
thương mại quốc tế là điều cần thiết, đồng thời cần có được định hướng phù hợp đối
với vấn đề này.

Kết luận: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về hợp đồng thương mại quốc tế, hủy
hợp đồng thương mại quốc tế và điều chỉnh pháp luật về hủy hợp đồng thương mại
quốc tế, có thể nhận thấy khái niệm hợp đồng thương mại quốc tế mang nghĩa rất rộng.
Nghiên cứu những quy định có liên quan đến hợp đồng thương mại quốc tế, đặc biệt là
hủy hợp đồng thương mại quốc tế cần bám sát vào bản chất đối tượng để tránh những
trường hợp bị bỏ sót. Điều chỉnh pháp luật đối với vấn đề này là điều quan trọng,


21
không chỉ dựa trên những lý luận chung mà còn cần kiểm chứng quy định trong thực
tiễn. Do đó, nắm chắc về bản chất hủy hợp đồng thương mại quốc tế sẽ là cơ sở đáng
tin cậy để đi đến nghiên cứu quy định và thực tiễn vấn đề này trong pháp luật quốc gia
cũng như trên thế giới.

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU

FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo


22

CHƯƠNG 2. HỦY HỢP ĐỒNG THEO BỘ NGUYÊN TẮC
UNIDROIT VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung, Chương 2 sẽ tiếp tục làm rõ những vấn đề
về hủy hợp đồng thương mại quốc tế cả về quy định và thực tiễn theo Bộ Nguyên tắc

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann

i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế. Để làm được điều này, nội dung của
Chương 2 sẽ đưa ra giới thiệu chung về Bộ Nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng
thương mại quốc tế; quy định và thực tiễn hủy hợp đồng thương mại quốc tế theo Bộ
Nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế từ các trường hợp hủy hợp
đồng, thủ tục hủy hợp đồng và hậu quả pháp lý của hủy hợp đồng. Sau đây là nội dung
chi tiết:

2.1. Giới thiệu chung về Bộ Nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại
quốc tế

Thương mại quốc tế phát triển, đó cũng là lúc các rào cản do khác biệt trong quy
định pháp lý cần được gỡ bỏ, hướng tới những quy tắc thống nhất chung để thuận tiện
trong giao dịch xuất nhập khẩu. Những nỗ lực nhằm thống nhất luật thương mại của
các nước trên thế giới đã được ghi nhận bằng việc các điều ước quốc tế lần lượt ra đời.
Tuy nhiên, các điều ước quốc tế thường mang tính bắt buộc, không có tính khái quát,
khó mà phù hợp với hoàn cảnh tất cả các quốc gia. Chính vì vậy xu hướng mới khi
thống nhất luật chung là tạo ra những văn bản không mang tính bắt buộc. Hiện nay có
hai nguồn chủ yếu đáp ứng được điều kiện này là các tập quán thương mại quốc tế và
các nguyên tắc cơ bản trong thương mại. Nắm bắt được xu hướng đó, Viện quốc tế về
nhất thể hóa luật tư UNIDROIT cho ra đời Bộ Nguyên tắc về hợp đồng thương mại
quốc tế - PICC.


PICC được soạn thảo và ban hành vào tháng 5 năm 1994. Đến năm 2004, Viện
UNIDROIT đã soạn thảo và ban hành phiên bản thứ hai của PICC và đến năm 2010,
phiên bản thứ ba của PICC ra đời với một số nội dung được sửa đổi và bổ sung. Theo
phiên bản mới nhất phát hành năm 2010, PICC bao gồm 211 điều (phiên bản 1994 gồm
120 điều, phiên bản năm 2004 gồm 185 điều) được bố cục như sau: Lời mở đầu;


23
Chương 1: Những quy định chung; Chương 2: Giao kết hợp đồng và thẩm quyền đại
diện; Chương 3: Hiệu lực của hợp đồng; Chương 4: Giải thích hợp đồng; Chương 5:
Nội dung hợp đồng; Chương 6: Thực hiện hợp đồng; Chương 7: Không thực hiện hợp
đồng; Chương 8: Bù trừ; Chương 9: Chuyển giao quyền, chuyển giao nghĩa vụ, chuyển

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann

i iCC
HHoo

giao hợp đồng; Chương 10: Thời hiệu; Chương 11: Quyền và nghĩa vụ đa số.
Bộ nguyên tắc là công sức nghiên cứu của nhiều nhà luật học nổi tiếng cùng với
sự cộng tác, đóng góp ý kiến của nhiều chuyên gia hàng đầu về luật hợp đồng, luật
thương mại quốc tế cũng như của nhiều nhà khoa học đến từ các quốc gia khác nhau.
Năm 1971, khi vấn đề thống nhất luật thương mại được Viện UNIDROIT đặt ra, một
uỷ ban chuyên trách gồm những giáo sư có kinh nghiệm được thành lập, bước đầu để
xác định những yêu cầu của việc soạn thảo PICC. Năm 1980, nhóm công tác đặc biệt
được thành lập để bắt tay vào nghiên cứu, soạn thảo PICC. Qua các nghiên cứu so sánh
luật học cho thấy tuy pháp luật thương mại ở mỗi quốc gia mang đặc điểm riêng, song
có một số nguyên tắc liên quan đến hợp đồng thương mại quốc tế lại giống nhau và
được các thương nhân áp dụng thống nhất. Căn cứ vào đó, nhóm công tác của Viện
UNIDROIT đã tập hợp, sắp xếp lại theo một trật tự khoa học và soạn thảo nên Bộ
Nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế – PICC.

Với sự ra đời của PICC, các nhà nghiên cứu mong muốn có một hệ thống các quy
phạm pháp luật đặc biệt điều chỉnh về hợp đồng thương mại quốc tế mà đáp ứng được
các yêu cầu trong giao dịch thương mại quốc tế, đồng thời thiết lập được một hệ thống
hài hòa các quy phạm pháp luật có thể áp dụng tại mọi quốc gia trên thế giới. Với
mong muốn này, Bộ Nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế PICC được trình bày
theo hình thức giống như các bộ luật thông thường, gồm các chương, mục, điều khoản,
có nội dung đề cập hầu như tất cả các vấn đề pháp lý trong quá trình giao kết, thực hiện
hợp đồng thương mại quốc tế. Tuy nhiên, đi cùng với mỗi điều khoản đều có thêm
phần bình luận và các ví dụ minh họa giúp giải thích quy định một cách rõ ràng, rất
thuận tiện khi tra cứu và áp dụng. Bởi vậy, sự ra đời của PICC đánh dấu một bước tiến
quan trọng trong quá trình hài hòa, thống nhất pháp luật thương mại nói riêng, pháp
luật quốc tế nói chung.



×