Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại viện sốt rét ký sinh trùng côn trùng trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.49 KB, 79 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRỊNH HUYỀN ANH

THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TẠI VIỆN
SỐT RÉT - KÝ SINH TRÙNG - CÔN TRÙNG TRUNG ƯƠNG

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 8. 310. 201

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Vũ Mạnh Toàn

Hà Nội, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được thực
hiện dưới sự hướng dẫn của TS.Vũ Mạnh Toàn. Các số liệu và kết quả nêu
trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được công bố trong bất cứ công trình nào.
Tác giả luận văn

Trịnh Huyền Anh


MỤC LỤC Trang



MỞ ĐẦU …………………………………………………………………. 1
CHƯƠNG 1: KHÁI LUẬN VỀ QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ …... 8
1.1. Dân chủ cơ sở và quy chế dân chủ ở cơ sở…………………………… 8
1.2. Nội dung, hình thức và các chủ thể thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở …………………………………………………….……………......17
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ
DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TẠI VIỆN SỐT RÉT - KÝ SINH TRÙNG CÔN TRÙNG……………………………………………………….……. 30
2.1. Khái lược về Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương…. 30
2.2. Thực hiện quy chế dân chủ tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng Côn trùng Trung ương…………………………………………………… 37
CHƯƠNG 3: NHÓM GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TẠI VIỆN
SỐT RÉT - KÝ SINH TRÙNG - CÔN TRÙNG TRUNG ƯƠNG …… 59
3.1. Nâng cao vai trò của các chủ thể thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.. 60
3.2. Tăng cường hoạt động của Ban Chỉ đạo và Ban Thanh tra
nhân dân; Thường xuyên rà soát, bổ sung, hoàn thiện Quy chế
dân chủ, đảm bảo thực hiện quy chế dân chủ ở Viện theo hướng

nâng cao chất lượng, hiệu quả và ngày càng đi vào chiều sâu …………… 64
3.3. Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục tổ chức thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở…………………………………………………… 65
3.4. Nâng cao chất lượng hoạt động kiểm tra, giám sát; sơ kết,
tổng kết việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở………………………….. 66
KẾT LUẬN ………………………………………………………………. 69


BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CBVC

Cán bộ viên chức


CNH - HĐH

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

GS

Giáo sư

Nxb

Nhà xuất bản

PGS

Phó giáo sư

UBND

Ủy ban nhân dân

QCDC

Quy chế dân chủ

XHCN


Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ là khát vọng sâu xa, là lợi ích cơ bản, là nhu cầu và nguyện
vọng chính đáng của nhân dân; dân chủ đồng thời là thành tựu của cuộc đấu
tranh lâu dài của cả loài người. Trong xã hội ta, xã hội do nhân dân làm chủ
thì dân chủ không chỉ là mục tiêu, là động lực của sự nghiệp cách mạng, mà
dân chủ còn là cơ chế và phương thức để vận hành quyền lực của nhân dân
trong quản lý nhà nước và tổ chức đời sống xã hội.
Dân chủ ở nước ta là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nó thể hiện đầy đủ
nhất quyền làm chủ đất nước của nhân dân. Đảng ta khẳng định phải “lấy dân
làm gốc” và đề ra phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”,
đó chính là nội dung đồng thời cũng là phương thức thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở. Cương lĩnh cùng các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Hiến pháp của
Nhà nước đều chỉ rõ xây dựng và thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân lao động là bản chất của chế độ ta.
Để thực hiện dân chủ, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản
làm cơ sở cho việc thực hiện dân chủ. Những văn bản đó có thể kể đến là Chỉ
thị số 30-CT/TW ngày 18 tháng 01 năm 1998 về xây dựng và thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở; Nghị định số 04/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định
về việc thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước
và đơn vị sự nghiệp công lập và nhiều văn bản khác nữa …
Từ khi Đảng và Nhà nước ta ban hành chủ trương xây dựng và thực
hiện các quy định về dân chủ ở cơ sở, cho đến nay, chúng ta đã triển khai thực
hiện rộng khắp trên cả nước và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng trên
tất cả các mặt đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của đất nước. Qua

quá trình thực thi dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy, tạo

1


nên nguồn động lực quan trọng, mang lại thành tựu to lớn trong công cuộc
xây dựng đất nước. Trong các cơ quan đơn vị quyền làm chủ của cán bộ viên
chức được nâng cao. Hạn chế dần các hiện tượng tiêu cực như tham nhũng,
lãng phí…
Tuy nhiên việc thực hiện dân chủ thời gian qua vẫn còn không ít yếu
kém, khuyết điểm. Việc triển khai và kết quả thực hiện chưa đồng đều, thiếu
đồng bộ; tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn còn;
nhiều lĩnh vực chưa được cụ thể hóa, chưa tạo điều kiện để quy chế dân chủ ở
cơ sở thực sự phát huy tác dụng. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại
một số nơi còn hình thức, quyền làm chủ của nhân dân chưa được quan tâm
đầy đủ vì thế chất lượng thực hiện dân chủ ở cơ sở bị hạn chế.
Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương là đơn vị sự nghiệp
trực thuộc Bộ Y tế. Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Trung ương, các cấp ủy
Đảng, chính quyền đã chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện các quy chế, quy
trình dân chủ ở cơ sở.
Sau một thời gian thực hiện quy chế dân chủ, Viện Sốt rét - Ký sinh
trùng - Côn trùng Trung ương đã có những thay đổi tích cực đáng ghi nhận
như bầu không khí làm việc trong Viện luôn thân thiện, đoàn kết, phát huy
được trí tuệ của từng cán bộ, viên chức vào thực hiện nhiệm vụ chung của cơ
quan, đơn vị.
Tổ chức Đảng, chính quyền, công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh ngày càng trong sạch, lớn mạnh, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao
góp phần đưa Viện ngày càng phát triển.
Tuy nhiên vẫn còn một số ít cán bộ, đảng viên chưa nhận thức được hết
tầm quan trọng của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.

Trước tình hình đó, tôi nhận thấy việc nâng cao chất lượng thực hiện
quy chế dân chủ ở Viện là vô cùng cần thiết.

2


Là một chuyên viên phòng Tổ chức cán bộ - đơn vị có chức năng
nghiên cứu, tham mưu cho Đảng ủy lãnh đạo và tổ chức triển khai thực hiện
các Chỉ thị, Nghị quyết có liên quan đến công tác xây dựng và thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở. Nhận thức được tầm quan trọng của việc thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở, với mục đích phát huy tối đa những điểm tích cực cũng
như khắc phục triệt để những điểm còn yếu kém trong việc thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở, tôi chọn đề tài: “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại Viện
Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương” làm luận văn tốt nghiệp của
mình với mong muốn nghiên cứu, làm rõ những vấn đề đang đặt ra đối với
việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, từ đó sẽ tìm thêm những giải pháp
thích hợp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề dân chủ và thực hiện dân chủ ở cơ sở từ lâu đã thu hút sự quan
tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà chính trị như: Trần Bạch Đằng,
Phan Minh Tánh, Nguyễn Hồng Phong, Đào Quang Huy, Trịnh Nhu…
Trong các nghiên cứu về vấn đề dân chủ, đã có nhiều bài viết với nhiều
đóng góp quý báu trong việc nghiên cứu về bản chất, nội dung và phương
pháp thực hiện dân chủ.
Học viện Chính trị Quốc gia (2003), “quy định pháp luật về dân chủ cấp
cơ sở”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đây là những cơ sở pháp lý về dân
chủ cấp cơ sở.
Nguyễn Thị Kim Tiến, “Bác Hồ với ngành Y tế”, Nxb Y học, 2014. Tác
phẩm đã tập hợp các bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết về ngành Y.

Cuốn sách một số vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ của tác giả Đào Trí
Úc, Vũ Công Giao, Trịnh Đức Thảo đã cung cấp cho người đọc những khái
niệm, tình hình cơ bản về thực hiện dân chủ làm cơ sở cho việc nâng cao

3


chất lượng thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của người lao động, tạo
sự đồng thuận trong cơ quan, đơn vị góp phần đưa đơn vị ngày càng phát
triển.
Tác phẩm “Dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, lý luận và thực tiễn” tác giả
PGS.TS. Nguyễn Văn Mạnh đã cung cấp cho chúng ta những khái niệm và
tình hình thực tế việc thực hiện dân chủ trực tiếp ở nước ta.
Các công trình, bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã
khẳng định việc thực hiện dân chủ là việc làm rất quan trọng để thực hiện cơ
chế nhân dân làm chủ xã hội trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Khắc Mai cũng đã khẳng định tư tưởng dân chủ là một
trong những di sản văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều này được tác giả
thể hiện trong tác phẩm “Dân chủ di sản văn hóa Hồ Chí Minh”.
Những việc dân cần biết, cần làm, cần kiểm tra để thực hiện quy chế dân
chủ cũng được thể hiện trong cuốn vấn đề xây dựng quy chế dân chủ của Ban
Dân vận Trung ương xuất bản năm 1998.
Bên cạnh các cuốn sách của các nhà chính trị, nhà khoa học đã được xuất
bản, vấn đề thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở cũng được các học viên chọn
nghiên cứu làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình đó là luận văn thạc sỹ
chính trị học của Nguyễn Quốc Việt về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại
Bệnh viện Giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay; luận văn thạc
sĩ quản lý hành chính công của Nguyễn Thị Ngọc Lan về giải pháp nâng cao
hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở Thành phố Hồ Chí Minh…
Mỗi nhà khoa học, nhà chính trị, mỗi học viên đi sâu nghiên cứu ở mỗi

góc độ khác nhau, tập trung chủ yếu vào vấn đề lý luận về dân chủ dưới các
khía cạnh, góc độ khác nhau.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu làm thế nào để nâng cao chất
lượng thực hiện dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là việc nghiên cứu tại một địa bàn

4


cụ thể còn chưa nhiều. Đến nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng
Trung ương.
Đề tài “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại Viện Sốt rét - Ký sinh
trùng - Côn trùng Trung ương” là sự tiếp nối những công trình đã nêu trên với
mong muốn góp phần nghiên cứu, bổ sung nhằm nâng cao chất lượng thực
hiện dân chủ cơ sở tại một địa bàn cụ thể là Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn
trùng Trung ương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ lý luận chung về dân chủ và
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; phân tích, đánh giá thực trạng việc thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng
Trung ương, luận văn đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất
lượng thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn
trùng Trung ương.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Làm rõ khái niệm về dân chủ, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; nội
dung, hình thức và các chủ thể trong thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương hiện nay.
+ Đề xuất một số nhóm giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng

Trung ương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại
Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương.
- Phạm vi nghiên cứu:

5


+ Về không gian: Chỉ nghiên cứu việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương.
+ Về thời gian: Việc nghiên cứu giới hạn trong khoảng thời gian từ
năm 2015 đến nay (khi có Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của
Chính phủ về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà
nước và đơn vị sự nghiệp công lập).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước
về dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp gồm: Phương pháp phân
tích và tổng hợp, phương pháp quy nạp và diễn dịch, phương pháp nghiên cứu
tài liệu kết hợp nghiên cứu thực tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm rõ thêm một số nhận thức về
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại các đơn vị sự nghiệp công lập.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần vào việc nâng cao chất lượng
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại các đơn vị sự nghiệp công lập trực
thuộc Bộ Y tế, mà trực tiếp là việc nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân

chủ ở cơ sở tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương trong giai
đoạn hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy và học tập chuyên ngành chính trị học.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Khái luận về quy chế dân chủ ở cơ sở.

6


Chương 2: Thực trạng việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại Viện
Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương.
Chương 3: Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương.

7


Chương 1
KHÁI LUẬN VỀ QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ

1.1. Dân chủ cơ sở và quy chế dân chủ ở cơ sở
Khái niệm dân chủ
Thuật ngữ dân chủ ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII-VI trước công
nguyên. Xét về mặt ngữ nghĩa, “dân chủ (demokratia), trong tiếng Hy Lạp cổ
là từ ghép, được cấu thành từ hai từ gốc là: demos = nhân dân và kratein - cai
trị. Nếu dịch sát nghĩa thì demokraitia sẽ là một mệnh đề hoàn chỉnh: nhân
dân cai trị. Sau này các nhà chính trị học đã xác định thực chất của dân chủ là:
“tất cả quyền lực thuộc về nhân dân” [21, tr.150].
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin, quần chúng nhân dân là

người sản xuất ra mọi của cải vật chất, sáng tạo ra những giá trị tinh thần vô
giá, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội, là lực lượng nòng
cốt của mọi cuộc cách mạng xã hội. Xuất phát từ bản chất, chế độ dân chủ tư
sản không giành cho số đông, một nền dân chủ không phải ai cũng hưởng thụ
được, dân chủ dành cho giai cấp hữu sản, quy định quyền lực thuộc về nhân
dân nhưng thực chất chỉ là khẩu hiệu hình thức. Dưới chế độ dân chủ tư bản
chủ nghĩa, sự tha hóa của con người trong đó sự tha hóa về quyền lực, đặc
biệt là sự tha hóa về quyền lực chính trị là tất yếu và diễn ra phổ biến ở các
nước tư bản chủ nghĩa. Như vậy trong xã hội có giai cấp đối kháng luôn chứa
đựng sự thống nhất có tính mâu thuẫn, đó cũng là nguyên nhân dẫn tới cách
mạng xã hội nhằm giải quyết mâu thuẫn bằng việc thiết lập một chế độ dân
chủ mới - chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Theo C.Mác nền dân chủ tư sản là nền dân chủ được xây dựng trên cơ
sở tước đoạt quyền dân chủ của quần chúng nhân dân vì quyền lực và lợi ích
của giai cấp tư sản.

8


Chế độ dân chủ vô sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa hình thành và phát
triển biện chứng, nó kế thừa những giá trị của nhân loại, tiếp thu những thành
tựu của dân chủ tư sản. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được hình thành và phát
triển trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, khác với cơ sở của nền
dân chủ tư sản là chế độ sở hữu tư nhân. Đây là hình thức phát triển cao của
dân chủ, trong đó thực tế quyền lực thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân
lao động. Quyền lực đó được thực hiện thông qua Nhà nước và các tổ chức xã
hội dưới sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công nhân. Trong dân chủ xã
hội chủ nghĩa, quyền công dân và quyền con người được bảo đảm về mặt
pháp lý và được bảo đảm trên thực tế. Xét về quy mô, dân chủ xã hội chủ
nghĩa là nền dân chủ rộng rãi, thể hiện trên tất cả các mặt của đời sống xã hội,

bảo vệ quyền lợi của đa số quần chúng nhân dân lao động. Nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân, nó kế thừa và phát huy
những giá trị nhân đạo của các nền dân chủ trước đó thành những giá trị hiện
thực dành cho đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động.
Tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện: Dân chủ xã hội
chủ nghĩa là dân chủ dành cho số đông, là sự đảm bảo quyền và lợi ích của
nhân dân lao động, do giai cấp công nhân đại diện. Đông đảo quần chúng
nhân dân được giải phóng, được tự do về mọi mặt, chế độ nhà nước thống
nhất với chế độ dân chủ. Đảng Cộng sản cầm quyền và thực hiện nhiệm vụ
lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Nguyên tắc tập trung dân chủ xuất hiện trong
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đây vừa là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, vừa là nguyên tắc và cơ chế trong quản lý, điều hành của Nhà nước xã
hội chủ nghĩa nhằm bảm đảm quyền làm của của nhân dân lao động.
Điều đó chứng tỏ trình độ dân chủ gắn liền với sự phát triển, tiến bộ của
xã hội loài người, được biểu hiện qua sự phát triển của các hình thái kinh tế xã
hội khác nhau. Dân chủ được hình thành và phát triển không ngừng, là

9


một nguyên tắc đồng thời là phương pháp quản lý nhà nước và xã hội, là
thước đo mức độ giải phóng con người.
Có thể thấy dân chủ là một khái niệm có tính chất lịch sử, có sự vận
động và biến đổi theo sự phát triển khách quan của đời sống xã hội. Thông
qua quá trình đấu tranh xã hội lâu dài vì sự tiến bộ của xã hội, dân chủ vừa là
động lực, vừa là mục đích vươn tới của xã hội loài người.
Như vậy quan niệm về dân chủ cho đến nay còn khác nhau, phụ thuộc
vào giai cấp, dân tộc, tôn giáo, tập quán xã hội, truyền thống văn hóa và chính
trị. Nhưng nhìn chung dân chủ là quyền làm chủ của nhân dân đối với quyền
lực nhà nước, là dân làm chủ.

Dân chủ cơ sở: là việc người dân thực hiện quyền làm chủ của mình ở
cơ sở (ở cấp xã, phường đến tận thôn, xóm, đơn vị, cơ quan, nhà máy, xí
nghiệp) theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Khi
nói dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra là nói đến các quyền cụ thể của
người dân và các quyền làm chủ cụ thể của người dân được thực hiện chủ yếu
ở cơ sở, vì cơ sở là nơi đại bộ phận nhân dân sinh sống, học tập, lao động,
công tác; cơ sở cũng là nơi xuất hiện các nhu cầu, lợi ích thiết thân của cộng
đồng; nơi trực tiếp thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước;
nơi thực hiện quyền làm chủ của người dân một cách trực tiếp và rộng rãi
nhất.
Dân chủ cơ sở là việc chủ thể quyền lực thực hiện quyền làm chủ của
mình trong việc tham gia bàn bạc, quyết định những công việc chung ở cơ sở;
dân chủ cơ sở được biểu hiện thông qua hai hình thức: dân chủ trực tiếp và
dân chủ đại diện.
Dân chủ trực tiếp là phương thức dân chủ ra đời từ thời kỳ sơ khai của
xã hội loài người, thời kỳ bộ lạc, thị tộc. Dân chủ trực tiếp là cách thức mà
người dân có thể trực tiếp biểu thị ý chí của mình về một vấn đề gì đó. Mỗi

10


người dân đều có thể trực tiếp tham gia bàn bạc, giải quyết các vấn đề chung
của đất nước, tập thể, cộng đồng như về lập pháp, hành pháp, chủ trương phát
triển kinh tế - xã hội… Có 3 yếu tố cấu thành hình thức dân chủ trực tiếp, đó
là phổ thông đại chúng, trực tiếp và hiệu lực thi hành. Để dân chủ trực tiếp
mang lại hiệu quả thì cần phải có các điều kiện như: thông tin đầy đủ về các
vấn đề cần quyết định; tổ chức bàn bạc thấu đáo trước khi quyết định, bảo
đảm môi trường xã hội lành mạnh, tự do, bình đẳng; bảo đảm trình tự, thủ tục
đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện. Những hình thức dân chủ trực tiếp thường thể
hiện qua việc trưng cầu dân ý, thực hiện sáng kiến pháp luật, bầu cử Quốc hội,

Hội đồng nhân dân các cấp, hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, các
hội quần chúng và nghề nghiệp, các hình thức công dân tham gia trực tiếp các
hoạt động sản xuất kinh doanh, quyết định những vấn đề tự quản ở cộng đồng
dân cư. Việc thực hiện dân chủ trực tiếp phụ thuộc vào trình độ phát triển của
kinh tế, xã hội, trình độ dân trí và trình độ chính trị.
Dân chủ đại diện là hình thức phát triển và phổ biến nhất, ra đời trong
lòng chế độ quân chủ, chế độ đại nghị tư sản, nó trở thành một công cụ đấu
tranh hữu hiệu chống lại chế độ phong kiến. Hình thức này tuy không trực
tiếp thực hiện ý chí của mình nhưng chủ thể quyền lực có quyền và chức năng
giám sát, kiểm tra hoạt động của cơ quan đại diện. Ngày nay ở các nước phát
triển trên thế giới, hình thức dân chủ đại diện được sử dụng là chủ yếu, nhưng
hình thức dân chủ trực tiếp vẫn được sử dụng với những vấn đề trọng đại của
quốc gia, dân tộc.
“Quy chế dân chủ ở cơ sở là những văn bản pháp lý, yêu cầu mọi
người, mọi tổ chức đều phải nghiêm chỉnh thực hiện những điều quy định về
quyền dân chủ và phát huy quyền tự do, bình đẳng của nhân dân, để nhân dân
theo đó mà thực hiện trong những hoạt động của mình ở cơ sở” [32, tr.6].

11


Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở: là một tập hợp các hành động có tổ
chức và có hướng đích để đưa quy chế dân chủ cơ sở vào thực tế hoạt động
của cơ quan, tổ chức, đơn vị và địa phương.
Cơ sở xã, phường, cơ quan, doanh nghiệp, trường học… là nơi trực tiếp
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; là địa bàn nhân dân
sinh sống, lao động, sản xuất, học tập và công tác; là nơi diễn ra các mối quan
hệ nhiều mặt giữa nhân dân với các cấp ủy đảng và chính quyền vì vậy nhân
dân cần được biết, được bàn và được tham gia giải quyết những vấn đề đặt ra
ở cơ sở, đồng thời có yêu cầu kiểm tra, giám sát hoạt động hàng ngày của cấp

ủy, chính quyền và cán bộ lãnh đạo.
Như vậy, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là việc triển khai quy chế
dân chủ ở từng cơ quan, đơn vị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, đảm bảo
quyền lợi chính trị thiết thực cho người dân và người lao động.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân
văn hóa thế giới và là nhà tư tưởng lớn của cách mạng Việt Nam. Một trong
những giá trị văn hóa đáng tự hào, đáng trân trọng của Người là tư tưởng dân
chủ và văn hóa dân chủ, đó là một giá trị to lớn và đặc sắc trong toàn bộ di
sản văn hóa và tinh thần của Hồ Chí Minh.
Cuộc đấu tranh của Người cho dân chủ bắt đầu từ rất sớm. Người luôn
dũng cảm đấu tranh cho quyền dân chủ không riêng cho người Việt Nam và
Đông Dương mà cho tất cả những ai bị thực dân, tư bản, phong kiến chà đạp
quyền dân chủ, dù ở Mỹ, ở châu Phi, ở Trung Hoa hay Ấn Độ.
Người là nhà khai sáng nền Dân chủ Cộng hòa đầu tiên của nước ta.
Người tâm niệm suốt đời về quyền dân chủ của nhân dân và không một phút
giây nào ngừng nghỉ trong cuộc đấu tranh để thực hiện nó. Cho đến tận cuối

12


đời, Người vẫn suy nghĩ về nhân dân, về nhiệm vụ của nhà nước, về đổi mới
và chỉnh đốn Đảng.
Người quan niệm dân chủ là một hệ thống tổng hợp những thiết chế,
luật lệ, vừa là một chế độ xã hội, vừa là một phương thức ứng xử văn minh
của các mối quan hệ xã hội của con người.
Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh có nội dung phong phú, sâu sắc,
liên quan tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, có giá trị lớn lao, chỉ dẫn cho
chúng ta có nhận thức và hành động đúng về dân chủ. Đó là một nền dân chủ
thấm nhuần bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn ở nước ta.

Quan điểm của Đảng về dân chủ
Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới thành lập đã luôn quan tâm
đến việc xây dựng một chế độ dân chủ nhân dân tiến tới xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn quan
tâm lãnh đạo nhân dân xây dựng chế độ dân chủ bởi dân chủ là bản chất của
chế độ ta, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Tư tưởng
đó luôn được thể hiện trong các Nghị quyết của Đảng qua các kỳ Đại hội, nhất
là từ khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước (Đại hội VI-1986).
Đại hội Đảng IX với tinh thần đổi mới mạnh mẽ, kiên quyết đã đề ra
nhiệm vụ “đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước, phát huy
dân chủ, tăng cường pháp chế”. Đại hội đã đưa dân chủ thành một trong 5
mục tiêu cơ bản mà nước ta cần đạt được, đó là: dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Vai trò việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
Các nhà kinh điển Macxit đã khẳng định, dân chủ có vai trò rất quan
trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Dân chủ chính là điều kiện, môi

13


trường đảm bảo cho các quyền tự do. Nếu không có dân chủ thực sự, chỉ là
dân chủ giả hiệu, phục vụ cho lợi ích của một số ít người thì mọi thứ quyền
công dân sẽ bị hạn chế, sẽ chỉ là hình hức. Các Mác và Ph.Ăngghen viết: “các
vị không thể sống, không thể chết, không thể kết hôn, không thể viết thư,
không thể suy nghĩ, không thể xuất bản, không thể buôn bán, không thể dạy
học … nếu không được phép của chính quyền… Còn về tự do khoa học và tự
do tín ngưỡng… thì tất cả những cái đó chỉ là điều hoàn toàn nhảm nhí” [33,
tr.759].
Đối với nước ta, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực. Nền dân chủ

XHCN theo bản chất của nó là nền dân chủ của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, là sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân vào quản lý công
việc của nhà nước và của xã hội. Hiến pháp Việt Nam từ năm 1946 đến nay
đều thể hiện rõ quyền làm chủ của nhân dân. Ở tầm vĩ mô, Đảng và Quốc hội
cũng đã có những hình thức để nhân dân tham gia góp ý những vấn đề trọng
đại của đất nước như: Dự thảo cương lĩnh chính trị, Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc, các dự án luật … được nhân dân hoan nghênh, đồng tình hưởng
ứng và đóng góp rất nhiều ý kiến, mang lại hiệu quả thiết thực.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở là một chủ trương chiến lược của Đảng
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội. Có thể nói, quy
định về dân chủ cơ sở là khâu đột phá, đưa sinh hoạt chính trị ở nước ta lên
một tầm cao mới, củng cố và kiến tạo những điều kiện có tính nền tảng cho sự
nghiệp dân chủ hóa ở nước ta.
Trong tình hình hiện nay, các quy định về dân chủ ở cơ sở càng thể hiện
ý nghĩa và vai trò quan trọng trong xã hội.
Quy chế dân chủ cơ sở ở nước ta ra đời xuất phát từ yêu cầu thực tiễn
từ cơ sở là nhằm giải quyết triệt để tình hình mất dân chủ ở cơ sở, làm giảm
sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Quy chế đã cụ thể hóa

14


quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, nơi thực thi dân chủ một cách trực tiếp
nhất và rộng rãi nhất; quy định rõ những việc cần thông báo công khai cho
người dân biết (bao gồm cả cán bộ, công chức, viên chức, công nhân, người
lao động); những việc cần để người dân tham gia bàn bạc, đóng góp ý kiến,
quyết định; những việc người dân được quyền tham gia ý kiến, chính quyền
quyết định và những việc người dân có quyền kiểm tra, giám sát, qua đó góp
phần bảo đảm quyền lực chính trị của nhân dân lao động.
Quy chế dân chủ cơ sở là chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân, khẳng

định rõ vai trò làm chủ của nhân dân, bảo đảm quyền lực chính trị của nhân
dân được thực thi một cách thực chất, góp phần làm chuyển biến nhận thức
của người dân về thực hiện quyền làm chủ của mình, khắc phục sự thờ ơ,
không quan tâm đến đời sống chính trị, xã hội.
Như vậy có thể khẳng định rằng quy chế dân chủ ở cơ sở đóng vai trò
quan trọng trong việc cụ thể hóa bản chất dân chủ của nhà nước ta.
Đứng trước yêu cầu của thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế,
việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở còn có vai trò to lớn trong công tác
xây dựng đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh góp phần giữ vững chế
độ, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với toàn xã
hội. Thực hiện dân chủ ở cơ sở tạo một bước chuyển về chất trong cán bộ,
đảng viên, góp phần không nhỏ trong việc đấu tranh chống tham nhũng. Thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở góp phần sàng lọc, đào tạo đội ngũ cán bộ, qua
thời gian tạo ra cơ chế lựa chọn, tôn vinh những cán bộ có tâm, có tầm, có trí,
gắn bó với nhân dân, vì nhân dân; loại bỏ được những phần tử cơ hội, cá nhân
chủ nghĩa thoái hóa biến chất trong chính quyền cơ sở. Về lâu dài điều này sẽ
ảnh hưởng tích cực đến việc hình thành một quan điểm về cán bộ đúng hơn,
khoa học hơn, dân chủ hơn.

15


Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã hạn chế được phần nào
những tiêu cực trong xã hội. Cụ thể, khi thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở,
một số việc phải được công khai rõ ràng và được cán bộ, nhân dân tham gia
bàn bạc, kiểm tra, giám sát vì vậy một số người rất khó để lợi dụng chức vụ
mình có được để tư lợi cá nhân qua đó hạn chế được sự tham nhũng, lãng phí,
quan liêu trong xã hội.
Có thể nói, thực hiện dân chủ ở cơ sở là một cuộc cách mạng có tác
dụng sâu sắc đến ý thức và phong cách, phương thức lãnh đạo của cấp ủy, sự

điều hành của chính quyền cơ sở đối với sự tôn trọng quyền làm chủ của
người dân. Từ đó cán bộ sát dân hơn, bớt đi thái độ hống hách, cửa quyền,
nhũng nhiễu dân. Từ đó cán bộ chăm lo giữ gìn phẩm chất đạo đức của mình,
góp phần làm cho mối quan hệ giữa dân với chính quyền cởi mở hơn, góp
phần làm cho chính quyền hoạt động có hiệu quả hơn.
Các quy định của pháp luật về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở không
chỉ là công cụ thể chế hóa một số chủ trương, chính sách của đảng và nhà
nước nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước mà còn đóng góp tích cực
vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngành luật khác và góp phần
hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Các quy định của pháp luật về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là một
chế định pháp luật hợp thành của hệ thống pháp luật Việt Nam, thể hiện sự
quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp dân chủ hóa đời sống xã
hội. Công tác xây dựng, ban hành pháp luật và các văn bản dưới luật để thể
chế hóa quyền làm chủ của nhân dân có nhiều tiến bộ. Nhiều bộ luật, văn bản
dưới luật được ban hành nhằm đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân góp
phần làm cho không khí dân chủ trong xã hội ngày càng được cởi mở, quyền
làm chủ của nhân dân ngày càng được tôn trọng.

16


Thực tiễn cho thấy việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở mang lại tác
dụng to lớn. Nơi nào tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân thì nơi đó giữ
được đoàn kết nội bộ, vừa phát huy được quyền làm chủ, tính sáng tạo của
nhân dân, vừa nâng cao được vai trò lãnh đạo của đảng, quản lý của chính
quyền, sự vận động của mặt trận và các đoàn thể trong phát triển kinh tế xã
hội. Niềm tin đối với Đảng được tăng cường, mối quan hệ gắn bó giữa người
lãnh đạo và đông đảo quần chúng được củng cố, thúc đẩy sự tích cực, sáng tạo
của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân.

1.2. Nội dung, hình thức và các chủ thể thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở
Chế độ chính trị mà Đảng và nhân dân ta xây dựng là chế độ dân chủ xã
hội chủ nghĩa, đảm bảo đầy đủ và thực chất quyền dân chủ và làm chủ của
nhân dân lao động ở nước ta. Để phát huy được quyền làm chủ của nhân dân,
nhà nước phải xây dựng những quy định, quy chế dân chủ ở cơ sở cụ thể, rõ
ràng để mọi cá nhân trong xã hội đều phải có trách nhiệm thực hiện.
Thực hiện chủ trương của Đảng, theo tinh thần Chỉ thị 30-CT/TW ngày
18/02/1998 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở, Nhà nước ta đã cụ thể hóa và ban hành các quy chế dân chủ phù hợp với
từng loại hình ở cơ sở theo ba nhóm, đó là:
Thứ nhất, quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn được quy
định tại Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07 tháng 7 năm 2003 của Chính
Phủ. Ngày 20 tháng 4 năm 2007, Uỷ ban thường vụ Quốc hội Việt Nam khoá
XI đã thông qua Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn với mục
đích là để người dân được bàn và quyết định những nội dung liên quan trực
tiếp đến quyền và lợi ích của nhân dân tại cấp xã gồm:

17


Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán, quyết toán ngân sách hằng
năm của cấp xã; Các dự án, công trình đầu tư, phương án đền bù, hỗ trợ giải
phóng mặt bằng, tái định cư liên quan; Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi
tiết khu dân cư trên địa bàn; Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu
tư, tài trợ và các khoản huy động nhân dân đóng góp; Kết quả thanh tra, kiểm
tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của cán bộ, công chức cấp xã,
của cán bộ thôn, tổ dân phố, kết quả lấy phiếu tín nhiệm Chủ tịch và Phó Chủ
tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã;
Đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính

quyền cấp xã trực tiếp thu [40, tr.15].
Hình thức công khai gồm: Niêm yết công khai tại trụ sở hành chính cấp
xã, trên hệ thống truyền thanh của cấp xã và công khai thông qua trưởng thôn,
tổ trưởng tổ dân phố để thông báo đến hộ dân. Đối với những nội dung được
nhân dân quan tâm nhất, liên quan trực tiếp nhất đến quyền lợi của nhân dân
thì Pháp lệnh còn quy định bắt buộc phải được công khai bằng hình thức niêm
yết tại trụ sở hành chính cấp cấp xã trong thời gian chậm nhất là hai ngày sau.
- Những nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp bao gồm chủ
trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường trạm),
các công trình phúc lợi công cộng trong phạm vi cấp xã, thôn, tổ dân phố
(công viên xã, khuôn viên xã... nhà trẻ, nhà vệ sinh, cầu, đường nội bộ...) mà
những công trình này do nhân dân đóng góp toàn bộ, hoặc một phần kinh phí
[40, tr.18].
Những nội dung, hình thức nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm
quyền quyết định, bao gồm: Hương ước, quy ước của thôn, tổ dân phố, việc
bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố, hòa giải viên,
tổ trưởng tổ hòa giải, bầu, bãi nhiệm thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban
giám sát đầu tư của cộng đồng.

18


Hình thức để nhân dân bàn và quyết định trực tiếp hoặc biểu quyết,
gồm: Tổ chức cuộc họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn
từng thôn, tổ dân phố hoặc phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện
hộ gia đình.
- Những việc dân có ý kiến: 5 nội dung phải đưa ra lấy ý kiến nhân dân
trước khi chính quyền cấp xã hoặc cơ quan có thẩm quyền quyết định, bao
gồm [40, tr.21].
Dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cấp xã, phương án

chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất; đề án định canh, định cư, vùng
kinh tế mới và phương án phát triển ngành nghề của cấp xã; Dự thảo quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, việc quản lý, sử
dụng quỹ đất của cấp xã; Dự thảo kế hoạch triển khai các chương trình, dự án
trên địa bàn cấp xã, chủ trương, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt
bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng, tái định cư, phương án quy hoạch khu dân cư;
Dự thảo đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa
giới hành chính liên quan trực tiếp đến cấp xã....
Hình thức để nhân dân tham gia ý kiến bao gồm: họp cử tri hoặc cử tri
đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố và phát phiếu lấy ý
kiến cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình hoặc có thể thông qua hòm thư góp
ý.
- Những việc dân giám sát: Nhân dân được quyền giám sát tất cả những
nội dung phải công khai để nhân dân biết, những nội dung nhân dân bàn và
quyết định, những nội dung cơ quan có thẩm quyền phải đưa ra lấy ý kiến
nhân dân quy định trong Pháp lệnh [40, tr.25].
Việc giám sát có thể thực hiện bằng 2 hình thức là gián tiếp và trực
tiếp.

19


Thứ hai, các quy định về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong cơ
quan (bao gồm cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công
lập; các nhà trường).
* Dân chủ trong cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp
công lập.
Trên cơ sở Nghị quyết số 55/NQ-UBTVQH10 ngày 30/8/1998 Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về việc ban hành quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt
động của cơ quan, ngày 08 tháng 9 năm 1998 Chính phủ đã ban hành Nghị

định số 71/1998/NĐ-CP về Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ
quan, nhưng vì Nghị định 71 không còn phù hợp nên Chính phủ ban hành
Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2015 về thực hiện dân
chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp
công lập để thay thế. Nghị định 04/2015/NĐ-CP có 4 chương, 18 điều.
- Nội dung những việc phải công khai để cán bộ, công chức, viên chức
biết gồm 9 việc sau:
Chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước liên quan
đến công việc của cơ quan, đơn vị.
Kế hoạch công tác hàng năm, hàng quý, hàng tháng của cơ quan, đơn vị;
Kinh phí hoạt động hàng năm, bao gồm các nguồn kinh phí do ngân sách nhà
nước cấp và các nguồn tài chính khác; quyết toán kinh phí hàng năm của cơ
quan, đơn vị; tài sản, trang thiết bị của cơ quan, đơn vị; kết quả kiểm toán;
Tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, bổ nhiệm, luân chuyển, biệt phái,
từ chức, miễn nhiệm; hợp đồng làm việc, thay đổi chức danh nghề nghiệp,
thay đổi vị trí làm việc, chấm dứt hợp đồng làm việc của viên chức; đi công
tác nước ngoài, giải quyết chế độ, nâng bậc lương, nâng ngạch, đánh giá, xếp
loại công chức, viên chức; khen thưởng, kỷ luật, thôi việc, nghỉ hưu đối với
cán bộ, công chức, viên chức; các đề án, dự án và việc xây dựng các văn bản

20


quy phạm pháp luật của cơ quan, đơn vị; Kết quả tiếp thu ý kiến của cán bộ,
công chức, viên chức về những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của
người đứng đầu cơ quan, đơn vị đưa ra lấy ý kiến cán bộ, công chức, viên
chức.
Các vụ việc tiêu cực, tham nhũng trong cơ quan, đơn vị đã được kết
luận; bản kê khai tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ phải kê khai theo
quy định của pháp luật.

Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong nội bộ cơ
quan, đơn vị.
Các nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị.
Văn bản chỉ đạo, điều hành của cơ quan quản lý cấp trên liên quan đến
công việc của cơ quan, đơn vị.
Hình thức công khai: Căn cứ vào đặc điểm, tính chất hoạt động và nội
dung phải công khai, các cơ quan, đơn vị áp dụng một, một số hoặc tất cả các
hình thức công khai sau đây:
Niêm yết tại cơ quan, đơn vị;
Thông báo tại hội nghị cán bộ, công chức, viên chức cơ quan, đơn vị;
Thông báo bằng văn bản gửi toàn thể cán bộ, công chức, viên chức;
Thông báo cho người phụ trách các bộ phận của cơ quan, đơn vị và yêu
cầu họ thông báo đến cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong các bộ
phận đó;
Thông báo bằng văn bản đến cấp ủy trực tiếp, Ban Chấp hành Công đoàn
cơ quan, đơn vị;
Đăng trên trang thông tin nội bộ của cơ quan, đơn vị.
- Nội dung những việc cán bộ, công chức, viên chức tham gia ý kiến,
người đứng đầu cơ quan, đơn vị quyết định gồm 8 việc sau: Chủ trương, giải
pháp thực hiện nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến

21


×