Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Một số vấn đề về việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn thành phố việt trì, tỉnh phú thọ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (693.57 KB, 81 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ HẢI YẾN

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VIỆC THỰC
HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ VIỆT
TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

HÀ NỘI, 2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ HẢI YẾN

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VIỆC THỰC
HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ VIỆT
TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Người hướng dẫn khoa học
GV. Chu Thị Diệp


HÀ NỘI, 2013


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
HĐND: Hội đồng nhân dân
HTX: Hợp tác xã
MTTQ: Mặt trận tổ quốc
QCDC: Quy chế dân chủ
XHCN: Xã hội chủ nghĩa


LỜI CẢM ƠN

Bằng tất cả sự kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin trân thành cảm ơn
Giảng viên Chu Thị Diệp đã trực tiếp hướng dẫn và định hướng cho tôi
trong suốt quá trình làm khóa luận.
Cảm ơn các thầy các cô trong khoa Giáo dục chính trị đã giảng dạy tôi
trong suốt thời gian qua, cảm ơn gia đình, anh chị, bạn bè đã giúp đỡ ủng hộ
tạo mọi điều kiện để tôi có thể hoàn thành khóa luận này.
Để đề tài được hoàn thiện hơn rất mong được sự đóng góp ý kiến của
các thầy cô giáo và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2013
Người thực hiện

Nguyễn Thị Hải Yến


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong khóa luận này với đề tài là
“Một số vấn đề về việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn thành
phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ hiện nay” là của riêng tôi không trùng với kết quả
nghiên cứu của bất kỳ tác giả nào khác.
Trong quá trình làm đề tài có trích dẫn một số dẫn liệu của một số tác
giả. Tôi xin phép tác giả được trích dẫn bổ sung cho khóa luận. Tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm về kết quả của đề tài trước Hội đồng bảo vệ.

Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2013
Người thực hiện

Nguyễn Thị Hải Yến



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân chủ không chỉ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà còn là
động lực, là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng mà Đảng và nhân dân ta
xây dựng.
Từ lâu, Đảng ta luôn coi trọng phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
dựa vào dân, nên đã đưa cách mạng nước ta vượt qua mọi gian nan thử thách,
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước theo định hướng XHCN, dân chủ hóa đời sống xã hội đã được Đảng
Cộng Sản Việt Nam xác định là một trong những nội dung cốt lõi, trọng tâm.
Đặc biệt là dân chủ hóa đời sống xã hội từ cơ sở.
Chính vì vậy mà ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị đã ra chỉ thị 30CT/TW
về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Tiếp đó, ngày 15/5/1998, để
cụ thể hóa Chỉ thị này, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định 29NĐ/CP về ban

hành “Quy chế thực hiện dân chủ ở xã ’’ nhằm phát huy sức sáng tạo của
nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội, tăng cường đoàn
kết toàn dân, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng, chính
quyền, đoàn thể vững mạnh, góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Qua 10 năm triển khai thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở; mặc dầu thời gian còn ngắn, song thực tế đã cho
thấy những kết quả bước đầu là rất quan trọng. Tuy vậy, vẫn còn bộc lộ
những thiếu sót, yếu kém như: quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở
nhiều nơi, nhiều lĩnh vực. Tệ quan liêu, cửa quyền, mệnh lệnh, tham nhũng,
sách nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn còn khá phổ biến và nghiêm trọng mà
chưa đẩy lùi, chưa ngăn chặn được. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân
kiểm tra” chậm đi vào cuộc sống.

1


Do vậy báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khóa VIII tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục nêu rõ: “Thực hiện tốt
quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội,
thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng. Khắc phục mọi biểu hiện
dân chủ hình thức; xây dựng luật trưng cầu ý dân” [5,tr.134].
Để không ngừng tăng cường hiệu quả của việc thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở và góp phần xem xét, đánh giá vấn đề một cách khách quan,
khoa học, việc đi sâu nghiên cứu, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện
trên phạm vi toàn quốc hay từng địa phương cụ thể đều có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn to lớn.
Với tầm quan trọng trên, chúng tôi chọn vấn đề: “Một số vấn đề về việc
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn thành phố Việt Trì, tỉnh Phú
Thọ hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Có một số cuốn sách đề cập đến vấn đề này như:
Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo: “Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa”, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991; Nguyễn Khắc Mai: “Dân chủ - di sản văn
hóa Hồ Chí Minh”, Nxb Sự thật, Hà Nội 1997; Lương Gia Ban: “Dân chủ và
việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003… Những
tác phẩm này đã nêu rõ thành công, hạn chế trong xây dựng và thực hiện nền
dân chủ ở các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Nêu ra những
nguyên nhân, hạn chế và giải pháp khắc phục.
Công trình luận án, luận văn
Luận án: Lưu Minh Trị: “Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở
nông thôn ngoại thành Hà Nội (cấp xã) trong giai đoạn hiện nay”, Luận án tiến
sĩ, 1993; Nguyễn Văn Long: “Lệ làng truyền thống với việc hình thành ý thức
pháp luật cho nông dân Việt Nam thời kỳ đổi mới”, Luận án tiến sĩ, 2002…

2


Luận văn: Trần Quốc Huy: Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ
sở ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật, Hà Nội, 2005; Lê Xuân Huy:
Ý thức pháp luật với quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện
nay (Qua thực tế một số tỉnh phía Bắc), Luận văn thạc sĩ Triết học, 2005.
Có thể thấy, đã có nhiều công trình viết dân chủ, dân chủ ở cơ sở với
phạm vi nghiên cứu khác nhau, có giá trị nghiên cứu khác nhau, làm rõ bản
chất, nội dung, tính chất, cơ chế thực hiện dân chủ và vai trò của việc mở rộng
quyền làm chủ của nhân dân đối với sự phát triển kinh tế xã hội và tiến bộ xã
hội. Một số công trình đã nghiên cứu vấn đề dân chủ ở cơ sở trên địa bàn
nông thôn. Song việc đưa ra những giải pháp nhằm thực hiện pháp luật về dân
chủ ở cơ sở, đáp ứng nhu cầu dân chủ của người dân thời kỳ mở cửa hội nhập
còn nhiều ý kiến khác nhau.
Với đề tài nghiên cứu “Một số vấn đề về việc thực hiện quy chế dân

chủ ở cơ sở trên địa bàn TP. Việt Trì, tỉnh Phú Thọ hiện nay”. Khóa luận đi
vào nghiên cứu những quan điểm của Đảng và Nhà nước về dân chủ ở cơ sở;
khảo sát thực trạng thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn TP. Việt Trì hiện
nay; trên cơ sở đó đề xuất, kiến nghị quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng
thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của địa phương trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích:
Từ việc đánh giá quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa
bàn TP. Việt Trì, chỉ ra những vấn đề cần giải quyết để từ đó đề ra một số giải
pháp nhằm thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới
trên địa bàn đã nêu.
Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục đích đó, khóa luận có nhiệm vụ:

3


Thứ nhất, phân tích, làm rõ ý nghĩa của việc thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở là mục tiêu, động lực của quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội, đẩy
nhanh quá trình xây dựng thành phố giàu, mạnh.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng quá trình thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở trên địa bàn thành phố Việt Trì.
Thứ ba, vạch ra những nguyên nhân làm hạn chế quá trình thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn TP. Việt Trì.
Thứ tư, đề xuất những phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh
việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn TP. Việt Trì hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là nghiên cứu việc thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn TP. Việt trì từ năm 1998 đến nay.
- Phạm vi nghiên cứu

Với điều kiện cho phép, đề tài chỉ nghiên cứu việc thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở xã, phường thuộc TP. Việt Trì từ năm 1998 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
- Khóa luận được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận về dân chủ của chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng Sản
Việt Nam về dân chủ và dân chủ cơ sở.
Phương pháp nghiên cứu:
- Khóa luận sử dụng một số phương pháp cụ thể như: lôgic và lịch sử, so
sánh và tổng hợp, phương pháp diều tra xã hội học.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Qua việc điều tra, nghiên cứu, phân tích quá trình thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở trên địa bàn TP. Việt Trì, khóa luận khái quát một số kết quả
bước đầu, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của nó; đồng thời đề xuất
những phương hướng, giải pháp cụ thể nhằm tăng cường thực hiện quy chế

4


dân chủ phù hợp với điều kiện của địa bàn, phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu
giảng dạy chuyên đề, đồng thời cũng là tài liệu tham khảo cho các đối tượng
quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, khóa luận
còn gồm 2 chương, 7 tiết.
Chương 1: Thực hiện QCDC ở cơ sở với việc xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp của việc thực hiện QCDC ở trên địa
bàn TP. Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.


5


Chương 1
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ VỚI VIỆC XÂY
DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. Khái niệm dân chủ
Xung quanh quan niệm về dân chủ, cho đến nay đã có nhiều công trình
nghiên cứu, luận bàn. Ở đây chúng tôi chỉ kế thừa và nêu lên một số quan
điểm có tính chất khái quát.
Dân chủ là một khái niệm đa nghĩa, phức tạp, thuộc phạm trù chính trị
có nguồn gốc từ xã hội Hy Lạp cổ đại. Ở đây, “dân chủ” là một từ ghép bao
gồm 2 chữ: Demos, có nghĩa là người bình dân, là dân chúng (không phải là
quý tộc, cũng không phải là nô lệ), và Kratia- có nguồn gốc từ chữ Kratos - có
nghĩa là quyền lực cai trị, sức mạnh. Do vậy, từ nguyên Demos Kratia có
nghĩa là dân chủ, quyền lực, là sự thống trị, nền cai trị của người bình dân. Nó
được biểu hiện theo nghĩa đối lập với chế độ độc tài. Theo đó, dân chủ có
nghĩa là quyền lực của nhân dân; dân chủ là sự cai trị của nhân dân. Nhân dân
là chủ thể của quyền lực, sử dụng quyền lực, trong đó quyền lực chính trị là
quan trọng nhất để tổ chức, quản lý xã hội, thực hiện sự nghiệp giải phóng xã
hội, giải phóng con người.
Từ khi xuất hiện con người cho đến nay nội dung của khái niệm dân
chủ được chuyển hóa ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới. “Dân chủ” có nghĩa
chung là quyền lực của người bình dân, quyền làm chủ xã hội, và làm chủ bản
thân con người, là quyền chủ của nhân dân trong xã hội. Càng ngày, khái
niệm dân chủ càng được mở rộng nhiều hơn, mang nhiều nội dung mới mẻ
hơn, nó được gắn với ý thức chính trị, gắn với chính quyền của nhân dân, gắn


6


với tiến trình lịch sử của xã hội loài người. Đồng thời nó còn là giá trị xã hội
nhân văn, đánh dấu những nấc thang tiến bộ của xã hội loài người. Trong xã
hội cộng sản nguyên thủy, ở buổi bình minh của lịch sử nhân loại, trước sức
mạnh huyền bí của thiên nhiên hoang sơ, để tồn tại và phát triển, con người
buộc phải gắn bó với nhau thành cộng đồng để tạo nên sức mạnh cộng đồng.
Và con người, ngay từ buổi đầu ấy đã sử dụng sức mạnh cộng đồng để thực
hiện quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhà nhân chủng
học người Mỹ đầu thế kỷ XIX L.Moóc gan đã nhận xét: “Toàn thể các thành
viên của thị tộc đều là những người tự do, có nghĩa vụ bảo vệ tự do của nhau;
họ đều có những quyền cá nhân ngang nhau - Cả tù trưởng lẫn Thủ lĩnh quân
sự đều không đòi hỏi những quyền ưu tiên nào cả, họ kết thành một tập thể
thân ái, gắn bó với nhau bởi những quan hệ dòng máu. Tự do, bình đẳng, bác
ái tuy chưa bao giờ được nêu thành công thức, nhưng vẫn là những nguyên
tắc cơ bản của Thị tộc” [8, tr.136].
Do kết quả của quá trình phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao
động, xã hội cộng sản nguyên thủy tan rã, chế độ chiếm hữu tư nhân đối với
tư liệu sản xuất ra đời; cùng với nó là sự xuất hiện giai cấp và một bộ máy
quyền lực đặc biệt thuộc về một số người ra đời - đó là nhà nước.
Ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước đã thừa nhận tham vọng đặc quyền
đứng trên xã hội để giải quyết những vấn đề xã hội. Giai cấp chủ nô nhân
danh xã hội, chiếm đoạt nhà nước, biến nhà nước thành công cụ thực hiện
quyền lực chính trị của mình. Nhà nước chủ nô chính là hình thức, hình thái
đầu tiên của chế độ dân chủ trong xã hội có giai cấp. Dân chủ chủ nô đã đem
lại cho loài người một mô hình về mặt tổ chức và cơ chế vận hành của một
thể chế dân chủ.
Theo quy luật phát triển của xã hội loài người, chế độ dân chủ sau phải
cao hơn chế độ dân chủ trước; kiểu nhà nước sau phải tiến bộ hơn kiểu nhà


7


nước trước. Song, trái lại, kiểu nhà nước phong kiến lại độc đoán chuyên
quyền, kết hợp với thế lực của thần quyền hà hiếp nhân dân nên nhân dân hầu
như bị gạt khỏi cơ chế của quyền lực, bị mất hết quyền lực. C.Mác đã viết:
nguyên tắc duy nhất của chế độ chuyên chế là con người bị mất hết nhân tính.
C.Mác là người đầu tiên quan niệm về một chế độ xã hội xứng đáng với
con người - chế độ dân chủ. Ông vạch ra sự đối lập như nước với lửa, giữa
chế độ dân chủ với chế độ chuyên chính. Một trong những tư tưởng quan
trọng của C.Mác về dân chủ, đó là tính thực chứng của chế độ dân chủ. Theo
đó, ông cho rằng đã là một chế độ dân chủ thì nó phải được xem xét trong tính
hiện thực, phải ngày càng tiến tới cơ sở hiện thực, tới con người hiện thực,
nhân dân hiện thực và được xác định là sự nghiệp bản thân của nhân dân, là
sản phẩm tự do của con người trong hiện thực chứ không chỉ dừng lại ở
những lời tuyên bố pháp lý.
C.Mác cũng như Ph. Ăngghen là những người đã nhìn thấy dân chủ là
một xu hướng khách quan của tiến trình lịch sử. Nghiên cứu những mâu
thuẫn, xung đột đang diễn ra trong thời đại mình, các ông đã nhận thức rằng,
vấn đề nhân đạo, vấn đề giải phóng con người, vấn đề dân chủ chỉ có thể giải
quyết triệt để khi gắn liền với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản, hai ông đã khẳng định sự tất
yếu của việc giai cấp vô sản giành phải giành lấy dân chủ trong giai đoạn thứ
nhất của cách mạng vô sản. Dân chủ ở đây được hiểu như là một quyền lực xã
hội, một chính quyền nhà nước, một thể chế chính trị; nhờ đó mà giai cấp vô
sản có thể sử dụng dân chủ như một công cụ, phương tiện để tiến hành cải
biến xã hội theo hướng nhân đạo cộng sản chủ nghĩa. Chỉ có giành lấy chính
quyền, giành lấy dân chủ, giai cấp công nhân mới có điều kiện, có sức mạnh
để tiến hành sự nghiệp cách mạng triệt để - xóa bỏ sự thống trị của giai cấp tư

sản, xóa bỏ mọi hình thức áp bức, bóc lột, xóa bỏ giai cấp nói chung, xây

8


dựng một xã hội trong đó sự phát triển tự do của mỗi con người là điều kiện
cho sự phát triển tự do của mỗi con người.
Mặc dù C.Mác và Ph. Ăngghen chưa có điều kiện thực tế để có thể bàn
luận vấn đề thực hiện dân chủ ở cơ sở nhưng có thể xem tư tưởng về nền dân
chủ hiện thực cũng như tư tưởng về liên minh công nông trong cách mạng vô
sản là căn cứ lý luận làm nền tảng cho việc tạo lập thể chế chính trị dân chủ
XHCN, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN ở các
nước quá độ đi lên CNXH từ một nền kinh tế thuần nông như Việt Nam.
Là người kế tục sự nghiệp của C.Mác và Ph. Ăngghen trong thời đại
đế quốc chủ nghĩa, V.I .Lênin đã vận dụng sáng tạo những tư tưởng của
C.Mác về dân chủ vô sản vào thực tiễn cách mạng Nga. Từ thực tiễn sinh
động của tiến trình cách mạng Nga, người đã nêu lên những luận điểm
quan trọng vừa có ý nghĩa định hướng cuộc đấu tranh chính trị của giai cấp
công nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa trong thời đại mới, vừa mang
tính thực tiễn chỉ đạo việc tổ chức xây dựng một nền dân chủ cao hơn, rộng
rãi hơn so với dân chủ tư sản.
Khẳng định sự thống nhất, không tách rời giữa dân chủ và CNXH, V.I.
Lênin cũng nghiêm khắc phê phán những quan điểm phiến diện, phi lịch sử
khi đối lập giữa dân chủ và chuyên chính, từ đó xóa nhòa sự khác biệt về chất
giữa dân chủ tư sản và dân chủ vô sản. V.I Lênin cũng nhận thấy rằng, bất cứ
nhà nước nào cũng có nguy cơ dẫn đến chủ nghĩa quan liêu. Dân chủ không
thể tương dung với quan liêu. Vì vậy, tổ chức bộ máy quyền lực, phương thức
hoạt động của các thành viên, các nhân viên trong bộ máy ấy phải được
thường xuyên hoàn thiện theo hướng ngăn ngừa, hạn chế và kiên quyết chống
chủ nghĩa quan liêu.

Cũng như C.Mác và Ph. Ăngghen, V.I Lênin luôn khẳng định rằng:
“Không có sự đồng tình và ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với

9


đội tiên phong của mình, tức là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản
không thể thực hiện được”. Nhưng với tư cách là người trực tiếp lãnh đạo và
chỉ đạo công việc xây dựng CNXH hiện thực, xây dựng nền dân chủ mới đầu
tiên trên thế giới, V.I Lênin đã sớm nhận thấy việc duy trì và thực hiện những
chính sách, những cơ chế không phù hợp với thực tiễn là nguyên nhân chủ
yếu làm suy giảm niềm tin của quần chúng nhân dân, đặc biệt là người nông
dân đối với Đảng, Nhà nước Xô Viết. Vì thế, sau khi Nội chiến kết thúc,
Người đã kịp thời khởi xướng chính sách kinh tế mới (NEP) thay cho Chính
sách Cộng sản thời chiến trước đây cả về phương diện lý luận cũng như trên
thực tế để NEP được thực thi. Người đã rút ra một kinh nghiệm quý báu:
“Chính sách tốt nhất bao giờ cũng vẫn là chính sách cách mạng công khai, là
cuộc đấu tranh quyết liệt, hoàn toàn có tính chất độc lập dưới ngọn cờ vô sản,
cuộc đấu tranh ấy dần dần sẽ tập hợp xung quanh chúng tôi về vô số quần
chúng nông dân dân chủ sẽ tập hợp xung quanh chúng tôi vô số quần chúng
nông dân dân chủ cùng với những người công nhân vô sản”.
Tuy nhiên trong lịch sử của nó, không phải mọi vấn đề liên quan đến
vấn đề này đã được giải quyết, vả lại thực tiễn vốn biến đổi không ngừng,
bởi thế trong thực tế nội dung và cách giải quyết vấn đề dân chủ cần được
cụ thể hóa bổ sung, phát triển gắn liền với đặc đỉểm của mỗi dân tộc và
thời đại. Lôgic ấy cho phép chúng ta tiếp tục tìm hiểu chủ đề này từ thực
tiễn quá trình Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam, trước hết được thể hiện thành những giá trị tiêu biểu trong tư
tưởng dân chủ Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh là nhà lý luận và thực hành dân chủ tiêu biểu của Việt

Nam trong thế kỷ XX. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng
dân chủ của C. Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam, người không chỉ nêu lên hệ thống lý luận những quan điểm về vai trò,

10


bản chất của dân chủ mà còn chỉ ra những giải pháp quan trọng nhằm xây
dựng một nền dân chủ mới gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng con người ở Việt Nam trong thời đại mới từ sau
Cách mạng tháng Mười Nga.
Hồ Chí Minh là người đã thấy rõ sức mạnh của dân: “ Trong bầu trời,
không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng
đoàn kết của nhân dân”. Và chính người đã huy động sức mạnh của toàn dân
trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình, góp phần đưa dân tộc Việt Nam từ
nô lệ tới độc lập tự do, đưa nhân dân ta lên địa vị làm chủ đất nước, làm chủ
xã hội. Người luôn tìm mọi cách để làm cho nhân dân biết hưởng quyền dân
chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm. Việc giáo dục dân
tự ý thức được vai trò làm chủ xã hội ở một dân tộc hàng ngàn năm bị phong
kiến phương bắc đô hộ, hàng trăm năm bị chủ nghĩa thực dân thống trị và
trình độ dân trí thấp như nước ta là điều người luôn trăn trở, dồn hết tâm lực
để tranh đấu, thực hiện. Với Hồ Chí Minh “dân chủ là của quý báu nhất của
nhân dân”, thực hành dân chủ rộng rãi là chiếc chìa khóa vạn năng để giải
quyết mọi khó khăn. Từ việc khẳng định địa vị pháp lý (dân là chủ) đến việc
thực hóa lý tưởng đó, người luôn đòi hỏi phải nâng cao vai trò, năng lực
không chỉ của chủ thể lãnh đạo, quản lý trong việc hoàn thiện thể chế, cơ chế
mà quan trọng hơn nữa là tạo mọi điều kiện cho nhân dân đủ năng lực và bản
lĩnh làm chủ. Là nhà tư tưởng, nhà tổ chức của cách mạng Việt Nam, người
đã giải quyết thấu tình, đạt lý những nội dung đó. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh
thấy rõ dân chủ là động lực, là sức mạnh để xây dựng một xã hội ấm no, hạnh

phúc, tự do, bình đẳng. Chính vì vậy, người luôn nhắc nhở cán bộ lãnh đạo
rằng: Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng
của nhân dân, đưa cách mạng tiến lên.

11


Từ sự phân tích trên, ta thấy, dân chủ là một chủ đề rộng lớn, phức tạp
và còn rất nhiều bất cập giữa lý luận và thực tiễn. Từ trước đến nay, việc xác
lập một quan niệm khả dĩ hợp lý, khoa học về dân chủ cũng như tìm kiếm
cách thức - cơ chế để thực hành dân chủ vẫn là dề tài không ngừng gây tranh
cãi với một sự thể nghiệm khác nhau.
Từ đó, chúng ta có thể khái quát những nét cơ bản về dân chủ như sau:
- Dân chủ là sản phẩm của xã hội loài người, gắn với giai cấp và đấu
tranh giai cấp.
- Dân chủ là một hình thái nhà nước, mà ở đó thừa nhận quyền ngang
nhau của dân cư trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý xã hội.
- Dân chủ cũng được xem xét với tư cách là phương thức của phong
trào chính trị - xã hội của quần chúng, quyền hiện thực của nhân dân.
- Dân chủ với tư cách là hệ thống quyền hành, tự do và trách nhiệm của
công dân được quy định bởi hiến pháp và pháp luật, là hình thức nhà nước,
hình thức tổ chức và thực hiện quyền lực xã hội.
- Dân chủ với tư cách là chế độ chính trị. Song với nghĩa chung nhất,
phổ biến nhất, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Do đó, thước đo trình
độ dân chủ của một chế độ nhà nước được xác định bằng mức độ tham gia
quá trình quản lý nhà nước như thế nào.
- Dân chủ là thành quả của quá trình hoạt động tự giác của quần
chúng nhân dân, dân chủ XHCN với tư cách là quyền của nhân dân; đồng
thời với tư cách là chế độ chính trị sẽ từng bước hoàn thiện và phát huy vai
trò, động lực to lớn trong tiến trình cách mạng, dưới sự lãnh đạo duy nhất

của Đảng mác xít Lêninít. Tất nhiên trình độ chín muồi của dân chủ XHCN
tùy thuộc vào trình độ trưởng thành về “tính” XHCN của các mối quan hệ
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; trong đó quan hệ kinh tế có vai trò quan
trọng nhất, quyết định nhất.

12


Dân chủ XHCN là một hình thái dân chủ do nhân dân lao động chủ
động thiết lập trong tiến trình đấu tranh cách mạng, dưới sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân, thông qua đội tiền phong chính trị của mình là Đảng cộng sản.
Trong tác phẩm “ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
chỉ rõ: “Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải tự mình giành lấy chính
quyền, phải tự mình vươn lên thành giai cấp dân tộc” [7,tr. 623-624], phải
giành lấy dân chủ với ý nghĩa trực tiếp là giành lấy quyền lực nhà nước
(quyền lực dân chủ về chính trị) và tổ chức quyền lực đã giành được đó thành
nhà nước vô sản, nhà nước dân chủ vô sản, chế độ dân chủ vô sản, một chế độ
dân chủ tiến bộ, khác về chất so với chế độ dân chủ tư sản.
Ở nước ta, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được
thiết lập. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nhà nước ta là Nhà
nước của dân, do dân, vì dân, chế độ ta là chế độ do nhân dân làm chủ. Mỗi
công dân đều có quyền và nghĩa vụ tham gia làm chủ đất nước, làm chủ xã
hội, và làm chủ bản thân mình. Những luận điểm cơ bản ấy đã được nêu rõ
trong các nghị quyết của Đảng, trong các hiến pháp của Nhà nước, và được
thể hiện trong nhiều văn bản pháp luật, nhiều chính sách được ban hành từ
trước đến nay. Những điều đó cũng khẳng định dân chủ là vấn đề thuộc bản
chất của chế độ XHCN nói chung, của Nhà nước ta nói riêng.
1.2. Xây dựng QCDC ở cơ sở là yêu cầu cấp bách trong việc xây dựng
nền dân chủ XHCN ở Việt Nam

Những yếu tố dân chủ, tinh thần dân chủ, truyền thống “ lấy dân làm
gốc”, coi trọng dân vốn đã hình thành trong lịch sử mấy ngàn năm dựng nước
và giữ nước, được Đảng ta kế thừa và phát huy trong điều kiện mới. Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, đã có nhận thức rất sớm
và sâu sắc về vấn đề dân chủ và vai trò của việc phát huy quyền làm chủ của

13


nhân dân. Theo Người, dân chủ, thứ nhất là: dân là chủ: “Nước ta là nước dân
chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ” [10, tr.515]; thứ hai, dân chủ là dân
làm chủ: “nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ”
[11, tr.452]; dân chủ là toàn bộ quyền lực, lợi ích đều thuộc về nhân dân:
“Nước ta là một nước dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của dân mà làm.
Khắp nơi có đoàn thể nhân dân, như Hội đồng nhân dân, Mặt trận, Công
đoàn, Hội nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc,....Những đoàn thể ấy là tổ
chức của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với chính phủ” [10, tr.66].
Hồ Chí Minh cũng sớm nhận thức sâu sắc về sức mạnh của quần chúng
nhân dân; coi dân là gốc của nước, của cách mạng. Người nói:
“Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được.
Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên” [9, tr.293].
Bởi vậy, theo Người, dân chủ là dựa vào lực lượng quần chúng, đi đúng
đường lối quần chúng. Dân chủ đối lập với quan liêu: “Chống tham ô, lãng
phí, quan liêu là dân chủ”.
Không những chỉ có quan điểm dân chủ đúng đắn, mà Người còn nhận
thấy vai trò, tầm quan trọng của việc thực hành dân chủ. Dân chủ XHCN
không có mục đích tự thân; hiểu dân chủ, thực hành dân chủ trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội là vì mục tiêu đem lại hạnh phúc ấm no, tự
do, bình dẳng cho mọi người dân lao động trong đời sống một cách đích thực.
Bởi vậy, Người nói: “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải

quyết mọi khó khăn”. [12, tr.249].
Trước lúc “đi xa”, trong bản Di chúc, với muôn vàn tình thương yêu để
lại cho muôn đời con cháu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Toàn Đảng,
toàn dân ta, đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
cách mạng thế giới”. Như vậy, dân chủ luôn là nội dung quan trọng trong tư

14


tưởng Hồ Chí Minh. Đây chính là cơ sở tư tưởng, lý luận giúp Đảng Cộng
Sản Việt Nam vận dụng trong xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, ở giai đoạn cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân trước đây cũng như giai đoạn cách mạng XHCN ở nước
ta hiện nay, Đảng ta luôn xác định dân chủ là một trong những mục tiêu và
động lực cơ bản của cách mạng Việt Nam. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
trước đây đã cơ bản hoàn thành với việc đánh đuổi thực dân, đế quốc, giành
lại độc lập cho dân tộc, đánh đổ chế độ phong kiến, nhưng nhiều nội dung của
cách mạng dân chủ vẫn phải tiếp tục. Do vậy, bước vào công cuộc đổi mới,
Đảng ta xác định xây dựng và phát triển nền dân chủ XHCN là yêu cầu khách
quan của công cuộc đổi mới.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực
hiện Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Hai mục tiêu dân tộc và dân chủ
gắn bó chặt chẽ với nhau ngay từ buổi khởi đầu sự nghiệp cách mạng do
Đảng lãnh đạo. Nội dung dân chủ trong giai đoạn cách mạng trước chủ yếu
là đem lại ruộng đất cho dân cày - thành phần đông đảo nhất trong dân cư.
Sau cách mạng dân tộc dân chủ thành công, Đảng ta lãnh đạo đất nước
chuyển sang giai đoạn cách mạng mới - cách mạng XHCN. Làm cách mạng
XHCN chính là giải phóng xã hội, giải phóng con người, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân ở trình độ hoàn thiện và toàn diện hơn, xây dựng một

xã hội dân chủ, công bằng, đem lại ấm no, hạnh phúc, và những gía trị cao
cả, tiến bộ cho con người.
Từ Đại hội Đảng lần thứ IV, Đảng ta đã xác định việc xây dựng chế độ
làm chủ tập thể XHCN là một trong bốn mục tiêu cơ bản của cách mạng
XHCN, và cũng là một trong bốn đặc trưng của cách mạng XHCN ở nước ta.
Quan điểm đó được tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa từng bước trong nghị
quyết của Đại hội V của Đảng.

15


Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Đại hội mở đầu của sự
nghiệp đổi mới ở nước ta. Quan điểm lấy dân làm gốc, phát huy sức mạnh
của các thành phần kinh tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất; đổi mới
nội dung và phương pháp lãnh đạo của Đảng trên cơ sở nắm vững nguyên
tắc, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và
phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những thành tựu văn
minh nhân loại, bảo đảm quá trình đổi mới diễn ra đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ... Bởi vậy, trên thực tế, quyền làm chủ của nhân dân đã từng
bước được khơi dậy và phát huy.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng với việc thông qua
cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên CNXH đã nhấn mạnh:
“Xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm
chủ”, và “Toàn bộ tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị nước ta giai đoạn
mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân” [20, tr.19], “Thực hiện dân chủ XHCN là thực
chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của công cuộc đổi mới” [20, tr.90].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng(6/1996), tiếp tục
khẳng định “ Xây dựng nền dân chủ XHCN là một nội dung cơ bản của đổi

mới hệ thống chính trị ở nước ta. Phải có cơ chế và cách làm cụ thể để thực
hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ
trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Thực hiện tốt cơ chế làm chủ
của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện, làm chủ trực tiếp và các hình thức
tự quản tại cơ sở” [3, tr.43]. Việc ban hành Chỉ thị 30 CT/TW của Bộ Chính
trị và Nghị định 29 NĐ/CP (năm 1998) là sự cụ thể hóa quan điểm đó của
Đảng và Nhà nước ta.

16


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001), được xem là
đâị hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết và đổi mới. Tại Đại hội này, nội dung dân
chủ lại càng được coi trọng. Dân chủ đã được đặt trong những mục tiêu của con
đường đi lên CNXH ở nước ta, đó là: “độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” [5, tr.22].
Như vậy, nội dung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân luôn
là nội dung quan trọng và nhất quán trong toàn bộ đường lối cách mạng của
Đảng ta từ trước đến nay, và được phát triển, nâng cao thêm qua các giai đoạn
cách mạng. Dân chủ gắn liền với “dân sinh”, “dân trí”; dân chủ vừa là mục tiêu,
vừa là động lực cách mạng nói chung, của công cuộc đổi mới nói riêng.
Thực hiện các Nghị quyết của Đảng, quyền làm chủ của nhân dân đã
được phát huy thêm một bước; nhờ vậy mà tiềm năng to lớn về vật chất, tinh
thần và trí tuệ của nhân dân được khơi dậy. Dân chủ đã đem lại cho nhân dân
không phải những giá trị dân chủ trừu tượng, mà bằng những kết quả cụ thể
trên nhiều lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. Dân chủ đã trở thành nhu
cầu khách quan đi liền với yêu cầu của nền kinh tế thị trường, là yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; dân chủ cũng là vấn đề
nhạy cảm, hết sức phức tạp. Trong những năm qua, mặc dầu đã có những
thành tựu nhất định. Song, “quyền làm chủ của nhân dân vẫn bị vi phạm ở

nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, sách
nhiễu vẫn diễn ra phổ biến và nghiêm trọng. Đây là nguy cơ lớn của Đảng
cầm quyền. Quan liêu và tham nhũng làm xoí mòn bản chất cách mạng của
Đảng, của Nhà nước, đục ruỗng bộ máy tổ chức, làm suy thoái đội ngũ đảng
viên, cán bộ, công chức về đạo đức và chính trị, phá hoại mối liên hệ mật thiết
giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân” [13, tr.4]. Phương châm “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra” chưa được cụ thể hóa thành pháp luật, thành cơ
chế, chế độ nên chậm đi vào cuộc sống.

17


Trong rất nhiếu vấn đề đặt ra của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay nổi lên hai vấn đề lớn vừa có ý nghĩa lý luận, cơ bản
và lâu dài, vừa có ý nghĩa thực tiễn và có tính thời sự, bức xúc. Đó là:
- Đổi mới với dân chủ hóa toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội
để thực hiện và phát huy dân chủ, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
- Dân chủ của nông dân với việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
nông thôn làng xã hiện nay.
Vấn đề thứ nhất liên quan trực tiếp đến những bước tiến và thành tựu
của đổi mới để phát triển xã hội ta, đến tất cả mọi tầng lớp nhân dân, đến việc
phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, tạo ra nội lực thúc đẩy công
nghiệp hóa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân
chủ, văn minh.
Vấn đề thứ hai là sự cụ thể hóa vấn đề thứ nhất, nội dung của nó hướng
tới một đối tượng xã hội đặc thù của nước ta trên con đường phát triển. Đó là
dân chủ của nông dân, là thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nông dân
bằng Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn và làng xã. Đây là vấn đề có tính
thời sự, tính bức xúc và cấp thiết.
Trong điều kiện đổi mới xã hội và phát triển kinh tế thị trường như hiện

nay nhất là trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hóa nông thôn và nông nghiệp
với cơ cấu kinh tế, phân công và phân công lại lao động xã hội, ttoor chuwacs
và xây dựng đời sống văn hóa của cộng đồng nông thôn, với xu hướng đô thị
hóa nông dân và nông thôn làng xã ở nước ta đang diễn ra những biến đổi
mạnh mẽ. Quy mô số dân ở nước ta thường chia làm 3 loại: xã nhỏ dưới 5.000
dân, xã trung bình từ 5.000 đến 7.000 dân, xã lớn có tới 10.000 dân. Lại có xã
có số dân rất lớn tới 15.000 - 20.000 và trên 30.000. Có những xã mà số dân
lên đến 44.707 người như xã Trung Nhất, huyện Thốt Nốt tỉnh Cần Thơ và
cũng có xã có 136 người như xã Tân Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng

18


Bình. Đây là xã đông dân nhất và ít dân nhất nước ta. Hiện nay, ở nước ta còn
khoảng 1.700 xã nghèo, trong đó có gần 1.000 xã đặc biệt khó khăn về giao
thông, về kết cấu hạ tầng, về trình độ phát triển kinh tế- xã hội và sự lạc hậu
về phong tục, tập quán, lối sống chưa được cải tạo, khắc phục. Điều đó chứng
tỏ tầm quan trọng của dân chủ cho nông dân và sự cần thiết phải thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở ở làng xã nước ta. Sự việc Thái Bình từ 1994 đến
1997 là một ví dụ điển hình, một sự cảnh báo đối với thể chế.Vì vậy, chỉ có
mở rộng dân chủ XHCN, phát huy sức mạnh quyền làm chủ của nhân dân,
chống tiêu cực, chống suy thoái, chống tham nhũng, củng cố Đảng, làm trong
sạch bộ máy nhà nước, lành mạnh hóa các quan hệ xã hội...mới có thể tạo
động lực to lớn xây dựng và phát triển đất nước.
Nhận thức được những vấn đề trên, Đảng và Nhà nước ta đã không
ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, của các tổ chức chính trị xã hội.
Việc thực hiện dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân được
tiến hành dưới nhiều cấp độ, nhiều hình thức. Trong đó, thực hiện dân chủ cơ
sở nói chung, ở phường, xã nói riêng là vấn đề hết sức quan trọng; có ý nghĩa
vừa cấp bách, vừa lâu dài.

1.3. Nội dung thực hiện QCDC ở cơ sở
1.3.1. Vị trí, vai trò của xã, phường
Xã, phường là đơn vị hành chính cơ sở của nhà nước, là cấp trực tiếp
nhất, gần dân nhất.
Ngày nay, hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy
định: “Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương- Tỉnh chia
thành huyện, thành phố trực thuộc tỉnh và thị xã. Thành phố trực thuộc
Trung ương chia thành quận, huyện và thị xã. Huyện chia thành xã, thị
trấn. Thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã. Quận chia
thành phường” [6, tr.184].

19


×