Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

giá trị thặng dư 06

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.11 KB, 36 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU:
Kinh tế chính trị Mác- Lênin có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, yêu cầu học tập, nghiên cứu kinh tế
chính trị Mác- Lênin càng được đặt ra một cách bức thiết, nhằm khắc phục lạc
hậu về lý luận kinh tế, sự giáo điều, tách rời lý luận với cuộc sống, góp phần
hình thành tư duy kinh tế mới. Nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường
theo định hướng XHCN, mà nền kinh tế thị trường thì luôn gắn liền với các
phạm trù và các quy luật kinh tế của nó. Trong đó có phạm trù giá trị thặng dư
hay nói cách khác " Sự tồn tại giá trị thặng dư là một tất yếu khách quan ở Việt
Nam khi mà ở Việt Nam ta đang áp dụng nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN". Tuy nhiên hiện nay chúng ta đang thực hiện nền kinh tế thị trường
nhiều thành phần theo định hướng XHCN nhưng trong chừng mực nào đó vẫn
tồn tại thành kiến đối với các thành phần kinh tế tư bản, tư nhân, coi các thành
phần kinh tế này là bóc lột. Mà theo lý luận của Mác thì vấn đề bóc lột lại liên
quan đến "giá trị thặng du". Vì thế, việc nghiên cứu về chất và lượng của giá trị
thặng dư sẽ giúp chúng ta có những nhận thức đúng đắn về con đường đi lên xây
dựng CNXH ở Việt Nam mà Đảng và Nhà nước ta đã chọn.
Do thời gian có hạn, bài viết này chỉ nêu ra những nội dung cơ bản của
"giá trị thặng dư", cùng một vài ý nghĩa thực tiễn rút ra được khi nghiên cứu vấn
đề này và một số ý kiến về việc vận dụng "giá trị thặng dư" trong nền kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN ở nước ta. Trong quá trình thực hiện bài viết em
đã nhận được nhiều sự động viên, giúp đỡ của các thầy cô giáo, gia đình, bạn bè,
và em xin gửi lời cảm ơn đặc biệt đến thầy giáo Phan Văn Bình - Thầy giáo phụ
trách bộ môn Những nguyên lý cơ bản của CN Mác- Lênin II đã giúp đỡ em
hoàn thành bài tiểu luận này.

1


Bài viết này được chia thành 3 chương:
Chương I : Mặt chất và mặt lượng của giá trị thặng dư. Ý nghĩa thực tiễn


của vấn đề nghiên cứu đối với nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN.
Chương II : Thực trạng việc nghiên cứu và vận dụng giá trị thặng dư ở
nước ta hiện nay.
Chương III: Một số giải pháp để vận dụng lý luận giá trị thặng dư nhằm
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.

2


PHẦN NỘI DUNG:
Chương I: Mặt chất và mặt lượng của giá trị thặng dư. Ý nghĩa thực
tiễn của vấn đề nghiên cứu này đối với nước ta khi chuyển sang nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN.
Cần phải nghiên cứu về giá trị thặng dư bởi sự tồn tại của giá trị thặng dư
trong nền kinh tế thị trường XHCN ở nước ta là một tất yếu khách quan, có
nghiên cứu về giá trị thặng dư ta mới thấy rõ những đặc tính phổ biến của sản
xuất và phân phối giá trị thặng dư nhằm phát triển kinh tế thị trường đinh hướng
XHCN ở nước ta, theo mục tiêu đã được Đảng và Nhà nước ta vạch ra, làm dân
giàu nước mạnh, xây dựng thành công XHCN ở Việt Nam.
Khi nghiên cứu về phàm trù giá trị thặng dư, Mác đã sử dụng nhuần
nhuyễn phương pháp duy vật biện chứng để nghiên cứu. Người đã gạt bỏ những
cái không bản chất của vẫn đề để rút ra bản chất của nó, đi từ cái chung đến cái
riêng, từ trừu tượng đến cụ thể và đặc biệt là việc sử dụng phương pháp trừu
tượng hóa khoa học.
A. Mặt chất của giá trị thặng dư:
Mối quan hệ kinh tế giữa người sở hữu tiền và người sở hữu sức lao động
là điều kiện tiên quyết để sản xuất ra giá trị thặng dư. Vì vậy, việc phân tích của
Mác về quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư và bản chất và nguồn gốc là một
vấn đề đáng lưu ý.

I. Sự chuyển hóa của tiền thành tư bản:
1. Công thức chung của tư bản:
Tiền là sản phẩm cuối cùng của quá trinh lưu thông hàng hóa. Đồng thời
tiền cũng là hình thức biểu hiện đầu tiên của tư bản. Song bản thân tiền không
phải là tư bản mà tiền chỉ trở thành tư bản khi chúng được sử dụng để bóc lột lao
động của người khác. Tiền được coi là tiền thông thường thì vận động theo công
thức H-T-H, còn tiền được coi là tư bản thì vận động theo công thức T-H-T. Ta
thấy hai công thức này có những điểm giống và khác nhau:

3


Giống nhau: Cả hai sự vận động đều bao gồm hai nhân tố là tiền và hàng,
và đều có hai hành vi là mua và bán, có người mua, người bán.
Khác nhau: Trình tự hai giai đoạn đối lập nhau (mua và bán) trong hai
công thức lưu thông là đảo ngược nhau. Với công thức H-T-H thì bắt đầu bằng
việc bán (H-T) và kết thúc bằng việc mua (T-H), bán trước mua sau nhưng tiền
chỉ đóng vai trò trung gian và kết thúc quá trình đều là hàng hóa. Ngược lại, với
công thức T-H-T thì bắt đầu bằng việc mua (T-H) và kết thúc bằng việc bán (HT). Ở đây, tiền vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm kết thúc, còn hàng hóa đóng
vai trò trung gian, tiền ở đây chỉ để chi ra để mua rồi lại thu lại sau khi bán.
Từ đó ta thấy giá trị sử dụng là mục đích cuối cùng của vòng chu chuyển
H-T-H giá trị sử dụng tức là nhằm thảo mãn những nhu cầu nhất định. Như vật
quá trình này là hữu hạn, nó sẽ kết thúc khi nhu cầu được thỏa mãn. Động cơ và
mục đích của vòng chu chuyển T-H-T là bản thân giá trị trao đổi trong lưu thông
điểm đầu và điểm cuối đều là tiền, chúng không khác nhau về chất. Do vậy nếu
số tiền thu về bằng số tiền ứng ra thì quá trình vận động trở nên vô nghĩa. Mà
như ta đã biết, một món tiền chỉ có thể khác với một món tiền khác về mặt số
lượng. Kết quả là qua lưu thông, số tiền ứng trước không những được bảo tồn
mà còn tự tăng thêm giá trị. Nên công thức vận động đầy đủ của tư bản là T-HT'. Trong đó T'=T+∆t số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra là ∆t, Các Mác gọi
giá trị thặng dư số tiền ứng ra ban đầu chuyển hóa thành tư bản. Vậy tư bản là gá

trị mang lại giá trị thặng dư nên sự vận động của tư bản lầ không có giới hạn vì
sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn.
Từ phân tích trên, Mác đã phân biệt õ ràng tiền thông thường và tiền tư
bản. Tiền thông thường chỉ đóng vai trò trung gian trong lưu thông. Còn tiền tư
bản là giá trị vận động, nó ra khỏi lĩnh vực lưu thông rồi lại trở lại lưu thông, tự
duy trì và sinh sôi nảy nở trong lưu thông quay trở về dưới đạng đã lớn lên và
không ngừng bắt đầu lại cùng một vòng chu chuyển ấy. T-H-T' mới nhìn thì nó
là công thức vận động của riêng tư bản thương nghiệp nhưng ngay cả tư bản
công nghiệp và tư bản cho vay thì cũng vậy. Tư bản chủ nghĩa cũng là tiền được
4


chuyển hóa thành hàng hóa thông qua sản xuất rồi lại chuyển hóa thành một số
tiền lớn hơn bằng việc bán hàng hóa đó. Tư bản cho vay thì lưu thông T-H-T'
được biểu hiện dưới dạng thu ngắn lại là T-T' một số tiền thành một số tiền lớn
hơn. Như vậy T-H-T' thực sự là công thức chung của tư bản.
Nhưng bên cạnh đó, công thức: T-H-T' mâu thuẫn với tất cả các quy luật
về bản chất của hàng hóa, giá trị, tiền và bản thân lưu thông.
2. Những mâu thuẫn của công thức chung:
Trong lưu thông có thể có hai trường hợp xảy ra: một là trao đổi tuân theo
quy luật giá trị (trao đổi ngang giá); hai là trao đổi không tuân theo quy luật giá
trị (trao đổi không ngang giá).
Trường hợp trao đổi ngang giá: Nếu hàng hóa được trao đổi ngang giá thì
chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị, từ T-H và H-T còn tổng giá trị cũng như
phần giá trị nằm trong tay mỗi bên tham gia trao đổi, trước sau không đổi. Tuy
nhiên về giá trị sử dụng thì cả hai bên đều có lợi. Ở đây không có sự hình thành
giá trị thặng dư.
Trường hợp trao đổi không ngang giá: Nếu hàng hóa bán cao hơn giá trị
của chúng khi đó người bán được lợi một khoản là một phần chênh lệch giữa giá
bán và giá trị thực của hàng hóa, còn người mua bị thiệt một khoản đúng bằng

giá trị mà người bán được lợi.
Tiền đưa vào lưu thông, qua lưu thông thì thu được giá trị thặng dư mà
lưu thông không tạo ra giá trị nên không tạo ra giá trị thặng dư, tiền rút khỏi lưu
thông làm chức năng lưu thông thì làm chức năng cất trữ thì không thu được giá
trị thặng dư. Như vậy cùng với lưu thông và lại không cùng với lưu thông đây
chính là mâu thuẫn của công thức chung của tư bản.
Để giải quyết vẫn đề này ta phải đứng trên các quy luật của lưu thông
hàng hóa và lưu thông tiền tệ. Vấn đề cơ bản là nhà tư bản đã gặp trên thị trường
một loại hàng hóa đặc biệt mà khi tiêu dùng nó sẽ đem lại giá trị thặng dư đó là
sức lao động.

5


3. Hàng hóa- sức lao động:
a. Sức lao động và điều kiện tạo ra hàng hóa:
Sức lao động bao gồm toàn bộ sức thần kinh, sức cơ bắp, thể lực, trí lực
ttoonf tại trong bản thân con người sống, nó chỉ được bộc lộ qua lao động và là
yếu tố chủ thể không thể thiếu được của mọi quá trình sản xuất xã hội.
Sức lao động không phải bao giờ cũng là hàng hóa, nó chỉ biến thành
hàng hóa khi có đủ hai điều kiện:
Thứ nhất: Người lao động phải được tự do về thân thể, tự do về năng lực
lao động của mình và chỉ bán sức lao động đó trong một thời gian nhất định. Bởi
vì sức lao động chỉ có thể xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hóa khi
nó được đưa ra thị trường tức là bản thân người có sức lao động đó đem bán nó.
Muốn vậy người lao động phải được tự do về thân thể, có quyền sở hữu sức lao
động của minhf thì mới có thể đem bán sức lao động được. Người sở hữu sức
lao động chỉ nên bán sức lao động trong một thời gian nhất định, nếu bán hẳn
sức lao động đó trong một lần thì người đó sẽ trở thành nô lệ.
Thứ hai: Người lao động phải bị tước hết tư liệu sản xuất, muốn sông họ

phải bán sức lao động của mình. Vì nếu người lao động được tự do về thân thể
mà lại có tư liệu sản xuất thì họ sẽ sản xuất ra hàng hóa và bán hàng hóa do
mình sản xuất ra chứ không bán sức lao động.
Khi sức lao động trở thành hàng hóa, nó cũng có hai thuộc tính là giá trị
và giá trị sử dụng nhưng nó là hàng hóa đặc biệt, vì vậy, giá trị và giá trị sử dụng
của nó có những nét đặc thù so với những hàng hóa khác.
b. Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động:
Hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng.
*Giá trị của hàng hóa sức lao động:
Giá trị hàng hóa sức lao động do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản
xuất và tái sản xuất ra sức lao động quyết định. Mà sức lao động lại gắn liền với
cơ thể sống. Do đó việc sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động cũng bao hàm
việc duy trì cuộc sống của con người đó. Muốn duy trì cuộc sống của bản thân
6


mình, con người cần có một số tư liệu sinh hoạt nhất định. Mặt khác số lượng
của những nhu cầu cần thiết ấy, cũng như phương thức thảo mãn những nhu cầu
đó ở mỗi một người, nhóm người lao động lại khác nhau, do các yếu tố lịch sử,
tinh thần, nên giá trị của sức lao động còn mang tính tinh thần, thể chất lịch sử.
Nhưng những người sở hữu sức lao động có thể chết đi, do vậy muốn người ấy
không ngừng xuất hiên trên thị trường hàng hóa sức lao động thì người bán sức
lao động ấy phải trở nên vĩnh cửu bằng cách sinh con đẻ cái. Vì vậy tổng số
những tư liệu sinh hoạt cho những người thay thế đó tức là con cái của những
người lao động. Gía trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết
để tái sản xuất sức lao động , duy trì đời sống cong nhân. Muốn cho người lao
động có kiến thức và sức lao động vận dụng khoa học trong một ngành lao động
nhất định thì cần phải tốn ít nhiều chi phí đào tạo.
*Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động:
Nó cũng giống như các hàng hóa thông thường khác ở chỗ là nó cũng phải

thảo mãn nhu cầu nào đó của người mua. Còn khác ở chỗ các hàng hóa thông
thường qua tiêu dùng thì giảm dần còn sức lao động qua tiêu dùng tức là qua lao
động thì nó tạo ra lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó do người công
nhân theo thời gian đã tích lũy được kinh nghiệm sản xuất. Và phần lớn hơn đó
chính là giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Đến đây ta đã hiểu được mâu thuẫn
chung của tư bản là cùng lưu thông và không cùng với lưu thông. Từ đó ta thấy
khi sức lao động trở thành hàng hóa, tiền tệ thành tư bản.
II. Sản xuất ra giá trị thặng dư:
Khi người có sức lao động đem bán sức lao động thì người mua sẽ tiêu
dùng sức lao động của họ bằng cách bắt người đó phải lao động. Mà giá trị sử
dụng của sức lao động chỉ thể hiện trong quá trình tiêu dùng sức lao động tức là
quá trình lao động và trong quá trình ấy sức lao động tạo ra giá trị thặng dư. Do
đó để nghiên cứu quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư sẽ bắt đầu nghiên cứu quá
trình lao động.

7


1. Quá trình lao động:
Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay
đổi những vật thể tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu con người
Như vậy quá trình lao động là sự kết hợp của 3 yếu tố: Đối tượng lao
động, tư liệu lao động và sức lao động.
- Sức lao động: Như đã nói ở trên thì nó là yếu tố cơ bản của quá trình lao
động vì sức lao động gắn với con người mà con người luôn sáng tạo ra tư liệu
lao động, đối tượng lao động đồng thời sử dụng chúng để phục vụ lợi ích của
mình.
Lao động và sức lao động khác nhau ở chỗ sức lao động mới chỉ là khả
năng của lao động còn lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong hiện thực.
Trong quá trình lao động, sức lao động kết hợp với dụng cụ lao động tác động

với đối tượng lao động và chuyển toàn bộ giá trị của những tư liệu sản xuất vào
sản phẩm được tạo ra.
- Đối tượng lao động: là bộ phận của giới tự nhiên mà lao động của con
người tác động vào làm thay đổi hình thái của nó cho phù hợp với mục đích của
con người.
Đối tượng lao động có hai loại: Loại có sẵn như gỗ, rừng, quặng trong
lòng đất, tôm cá dưới sông biển…lao động của con người tác động và phục vụ
ngay cho nhu cầu của con người. Và một loại qua chế biến được gọi là nguyên
vật liệu.
- Tư liệu lao động: là những vật hoặc hệ thống những vật mà con người
dùng để tác động vào đối tượng lao động cho phù hợp với nhu cầu con người.
Trong tư liệu lao động trước hết phải kể đến công cụ lao động, đây là yếu tố trực
tiếp cải biến đối tượng lao động.
Tư liệu lao động và đối tượng lao động có sự phân biệt tương đối. Đối
tượng lao động và tư liệu lao động trong quá trình lao động sản xuất hợp thành
tư liệu sản xuất. Do đó, có thể nói rằng: Qúa trình lao động là sự kết hợp của hai
yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất.
8


Đi từ cái chung là việc nghiên cứu quá trình lao động, Mác đã đi đến phân
tích quá trình sản xuất giá trị thặng dư dưới CNTB.
2. Sản xuất ra giá trị thặng dư:
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà
là giá trị, hơn nữa cũng không phải là giá trị đơn thuần mà là giá trị thặng dư.
Nhưng để sản xuất giá trị thặng dư trước hết nhà tư bản phải sản xuất ra một giá
trị sử dụng nào đó, vì giá trị sử dụng là vật mang giá trị và giá trị thặng dư.
Để hiểu rõ hơn quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Chúng ta lấy việc sản
xuất sợi của một nhà tư bản làm ví dụ:
Giả sử để có sợi bán nhà tư bản đã mua (giả định theo đúng giá trị) 20kg

bông giá 20đôla; tiền hao mòn máy móc 3 đôla, tiền thuê công nhân là 4đôla
(ngang bằng tư liệu sinh hoạt để họ sống trong một ngày) và giả sử họ kéo hết số
bông trên trong 4 giờ và mỗi giờ tạo ra một lượng giá trị mới là 1 đôla. Việc mua
bán trên là đúng giá trị và điều kiện sản xuất trung bình của xã hội.
Quá trình sản xuất được tiến hành trong 4 giờ lao động với tư cách là lao
động cụ thể công nhân kéo hết 20 kg bông thành sợi. Giá trị của bông và hao
mòn máy móc được lao động cụ thể của công nhân chuyển dịch và bảo tồn vào
giá trị của sợi, hình thành ra bộ phận giá trị cũ (C) là 23 đôla. Như vậy để sản
xuất ra 20 kg sợi thì nhà tư bản phải ứng trước một số tiền là 23 đôla. Để sản
xuất ra 20 kg sợi thì cần phải có 20 kg bông và sự hao mòn của máy móc, khi
5kg sợi được sản xuất ra thì không có nghĩa là giá trị của 5 kg bông và phần máy
móc bị hao mòn mất đi mà phần giá trị đó được chuyển nguyên vẹn vào giá trị
của 20kg sợi. Như vậy, giá trị của những tư liệu sản xuất 20kg bông và hao mòn
máy móc được biểu hiện bằng 23 đôla, là những bộ phận cấu thành giá trị của
20kg sợi. Chú ý là người ta chỉ chi phí một thời gian lao động cần thiết trong
những điều kiện sản xuất xã hội nhất định mà thôi, vì vậy dù nhà tư bản có sử
dụng những tư liệu sản xuất nào có giá trị lớn hơn 23 đôla như trên đi nữa thì giá
nhập vào của giá trị của 5kg sợi cũng chỉ là 23 đôla, tức là số lao động xã hội
cần thiết của nền sản xuất mà thôi.
9


Xét về phần giá trị mà lao động của người công nhân đã kết hợp vào
bông. Giả định muốn sản xuất một lượng trung bình những tư liệu sinh hoạt cần
thiết hàng ngày cho một người lao động thì mất 4 giờ lao động trung bình và giả
sử 4 giừ lao động trung bình đã được vật hóa trong 4 đôla.
Việc nhà tư bản trả 4 đôla cho một ngày lao động của người công nhân là
đúng giá trị của sức lao động. Trong quá trình lao động, lao động không ngừng
chuyển hóa từ hình thái hoạt động sang hình thái tồn tại, từ hình thái vận động
sang hình thái vật thể. Như vậy 4 giờ lao động xã hội cần thiết, vận động kéo sợi

sẽ biểu hiện ra trong một lượng sợi nhất định là 20kg sợi. Do đó thành phần giá
trị lao động của người công nhân kết hợp vào giá trị của 20kg là 4 giờ lao động
xã hội cần thiết và chỉ là lượng vật chất hóa của số giờ lao động xã hội đó mà
thôi. Vậy cũng với 4 giờ lao động trên với tư cách là lao động trừu tượng sức lao
động của công nhân tạo ra lượng giá trị mới (V+m) là 4 đôla, kết tinh vào giá trị
của sợi.
Bây giờ ta thấy tổng giá trị cuuar 20kg sợi gồm giá trị của 20kg bông là
20 đôla, với hao mòn máy móc là 3 đôla và 4 giờ lao động của người công nhân
kéo sợi biểu hiện là 4 đôla. Vậy giá trị của 20kg sợi là 27 đôla. Họ ứng ra 27
đôla thu về 27 đôla như vậy họ không đạt được mục đích. Nhà tư bản suy nghĩ
công nhân lao động được trả tiền, họ cũng lao động nhưng không được gì. Họ
suy nghĩ công nhân lao động được trả 4 đôla ngang bằng với tư liệu sinh hoạt
sống trong một ngày do đó không thể chỉ lao động 4 giờ mà nhiều hơn nữa là 8
giờ chẳng hạn, 4 giờ sau nhà tư bản chỉ phải mua 20kg bông trị giá 20 đôla, hao
mòn máy móc là 3 đôla. Vậy tổng số tiền nhà tư bản ứng trước để sản xuất 40kg
sợi là 40 đôla cho 40 kg bông, 6đôla cho hao mòn máy móc, 4đôla để thuê công
nhân. Tổng là 50 đôla thì thu được lượng trội hơn là 4đôla (54-50) là giá trị
thặng dư của nhà tư bản.
Để làm sáng tỏ thêm Các Mác đã lấy ngày công của công nhân để chứng
minh. Ông chia ngày lao động của công nhân làm hai phần là thời gian lao động
cần thiết và thời gian lao động thặng dư. Công nhân làm việc trong phần thời
10


gian lao động cần thiết tạo sản phẩm cần thiết với tiền công của mình còn làm
việc trong thời gian lao động thặng dư là tạo ra sản phẩm thặng dư cho nhà tư
bản. Nhà tư bản bán nó thu về giá trị thặng dư.
Từ đó cho ta biết được nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư: là một
bộ phận của giá trị mới, bộ phận giá trị dôi ra ngoài sức lao động của công nhân.
Do lao động của công nhân làm thuê sáng tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không là

lao động không công của công nhân cho tư bản. Là quá trình sản xuất ra giá trị
thặng dư, quá trình sản xuất ra giá trị đến một thời hạn mà ở đó giá trị sức lao
động của công nhân được hoàn lại bằng một bộ phận của giá trị mới.
Tư bản ứng trước của nhà tư bản được chia làm hai bộ phận. Một là bộ
phận tư bản được chi ra để mua tư liệu sản xuất ( tư bản bất biến) ký hiệu là C.
Hai là bộ phận tư bản được chi ra để mua sức lao động ( tư bản khả biến) ký
hiệu là V, bộ phận tư bản này cũng chỉ là một số tiền như tư bản chi ra để mua tư
liệu sản xuất nhưng nhờ mua được sức lao động là loại hàng hóa đặc biệt mà khi
tiêu dùng nó tạo ra giá trị thặng dư nên tạo thành lượng khả biến. Việc phân chia
này càng chỉ rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư là sức lao động chứ không phải là
máy móc hay tư liệu sản xuất khác.
Có hai phương thức sản xuất ra giá trị thặng dư:
a. Phương thức sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:
Đây là phương thức sản xuất giá trị thặng dư bằng cách kéo dài tuyệt đối
ngày lao động trong khi phần thời gian lao đông cần thiết của công nhân không
đổi. Phần thời gian giá trị thặng dư kéo dài bao nhiêu lầ được hưởng bấy nhiêu.
Ví dụ: Ngày lao động là 8 giờ trong đó gồm thời gian lao động cần thiết là
4 giờ và 4 giờ thời gian lao động thặng dư. Nay ngày lao động kéo dài tuyệt đối
thành 10 giờ mà thời gian lao động cần thiết không đổi thì thời gian lao động
thặng dư tăng từ 4 giờ đến 6 giờ. Điều này dẫn đến việc đấu tranh của công nhân
và sự đấu tranh đó buộc nhà tư bản phải rút ngắn thời gian lao động. Khi đó độ
dài ngày lao động được xác định và nhà tư bản phải tìm phương thức khác để
sản xuất ra giá trị thặng dư đó là phương thức sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
11


b. Phương thức sản xuất giá trị thặng dư tương đối:
Là giá trị thặng dư thu được bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần
thiết của công nhân trong khi thời gian lao động của người công nhân không đổi
dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội.

Ví dụ: Người lao động làm việc 8 giờ trong đó 4 giờ là thời gian lao động
cần thiết và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Nay ngày lao động vẫn giữ
nguyên là 8 giờ nhưng thời gian lao động cần thiết của công nhân rút ngắn
xuống còn 2 giờ nên thời gian lao động thặng dư tăng lên từ 4 giờ đến 6 giờ.
Như vậy muốn rút ngắn thời gian lao động của công nhân phải tăng năng suất
lao động xã hội và năng suất lao động xã hội tăng lên làm cho giá trị hàng hóa
tiêu dùng giảm xuống kéo theo sức lao động giảm. Vì vậy 2 giờ lao động cần
thiết cũng đảm bảo khối lượng tư liệu sinh hoạt để công nhân tái sản xuất sức
lao động, đồng thời để tăng năng suất lao động phải cải tiến sản xuất, đổi mới
công nghệ. Những doanh nghiệp nào đi đầu trong đổi mới công nghệ sẽ thu
được giá trị thặng dư siêu ngạch. Gía trị thặng dư siêu ngạch chính là giá trị
thặng dư tương đối vì nó đều do tăng năng suất lao động mà có. Nhưng khác ở
chỗ giá trị thặng dư tương đối do tăng năng suất lao động xã hội do đó tất cả các
nhà tư bản đều được hưởng. Còn giá trị thặng dư siêu ngạch là do tăng năng suất
lao động cá biệt nên chỉ có những nhà tư bản nào có năng suất lao động cá biệt
hơn năng suất lao động xã hội thì mới được hưởng giá trị thặng dư siêu ngạch. Ở
đây máy móc công nghệ tiên tiến không tạo ra giá trị thặng dư mà nó tạo điều
kiện để tăng sức lao động, hạ giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá của thị
trường. Nhờ đó mà giá trị thặng dư tăng lên.
B.Mặt lượng của giá trị thặng dư:
Mặt lượng của giá trị thặng dư biểu hiện ở tỷ suất giá trị thặng dư, ở khối
lượng giá trị thặng dư, và ở trong các hình thức của giá trị thặng dư.
I. Tỷ suất giá trị thặng dư:
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lê so sánh giữa giá trị thặng dư và tư bản khả
biến (ký hiệu là m').
12


Tỷ suất giá trị thặng dư chỉ rõ trong tổng giá trị mới do sức lao động tạo ra
thì công nhân được hưởng bao nhiêu, nhà tư bản chiếm được bao nhiêu đồng

thời nó còn chỉ rõ trong một ngày lao động, phần thời gian lao động thặng dư mà
người công nhân làm cho tư bản chiếm bao nhiêu phần trăm so với thời gian lao
động tất yếu làm cho mình. Nói lên sự bóc lột của nhà tư bản với công nhân làm
thuê, nó chưa nói rõ quy mô bóc lột. Để phản ánh quy mô bóc lột, Các Mác sử
dụng phạm trù khối lượng giá trị thặng dư.
II. Khối lượng giá trị thặng dư:
Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng
số tư bản khả biến được sử dụng. Ký hiệu là M.
Như vậy, khối lượng giá trị thặng dư có thể biểu hiện bằng công thức:
M = m'.V
( Trong đó. V là tổng số tư bản khả biến được sử dụng.)
Nhìn vào công thức trên ta thấy, ở cùng một trình độ bóc lột (m') nhất
định, nếu nhà tư bản sử dụng càng nhiều tư bản khả biến thì khối lượng giá trị
thặng dư thu được sẽ càng lớn. Như vậy có thể thấy giá trị thặng dư phản ánh
quy mô của sự bóc lột, hay đó là sự bóc lột theo chiều rộng.
III. Sự thay đổi trong đại lượng của giá trị thặng dư:
Khi ta bán hàng hóa thì giá cả phải luôn cao hơn giá trị của nó. Trong giá
cả của hàng hóa gồm giá trị của nó và phần giá trị thặng dư, mà vần giá trị thặng
dư được quyết định bởi ba nhân tố là độ dài ngày lao động, cường độ bình
thường của lao động và sức sản xuất của lao động
1. Đại lượng của ngày lao động và cường độ lao động không đổi (cho
sẵn), sức sản xuất của lao động thay đổi:
Đại lượng của ngày lao động không đổi, có nghĩa là giá trị của ngày lao
động đó không đổi, hay giá trị mới được tạo ra trong ngày lao động là không
đổi. Gía trị mới tạo ra này bao gồm giá trị sức lao động và giá trị thặng dư. Mà
giá trị của sức lao động không giảm xuống, thì giá trị thặng dư không tăng lên,
nên để có sự thay đổi đó cần phải thay đổi sức sản xuất.
13



Gỉa định: thời gian lao động cần thiết là 4 giờ, nếu sức sản xuất của lao
động tăng hàng ngày cần thiết mà trước đây phải cần 4 giờ để sản xuất. Do đó,
giá trị của sức lao động sẽ giảm xuống. Ngược lại, nếu sức sản xuất của lao động
giảm xuống, thì giá trị của sức lao động tăng lên. Như vậy, việc tăng năng suất
lao động sẽ làm giảm giá trị của sức lao động, và đồng thời làm tăng giá trị
thặng dư mà việc tăng hay giảm của giá trị thặng du luôn là mối quan tâm hàng
đầu của các nhà sản xuất, nó là kết quả chứ không phải là nguyên nhân của việc
tăng hay giảm tương ứng của giá trị sức lao động.
2. Ngày lao động không đổi, sức sản xuất của lao động không đổi,
cường độ lao động thay đổi:
Khi cường độ lao động cao thì sản phẩm làm ra trong ngày sẽ nhiều hơn
so với số lượng sản phẩm làm ra trong một ngày có cường độ lao động thấp hơn
mà số giờ lao động thì như nhau.
Trong trường hợp này cũng gần giống như trên là đều đem lại số lượng
sản phẩm lớn hơn trong cùng một thời gian lao động. Song cũng có điểm khác là
giá trị của mỗi đơn vị sản phẩm trong trường hợp này không đổi vì trước cũng
như sau, để làm ra một sản phẩm đều hao phí một lượng lao động như nhau còn
trong trường hợp tăng sức sản xuất của lao động giá trị của mỗi đơn vị sản phẩm
giảm đi vì nó tốn ít lao động hơn trước.
Việc tăng cường độ lao động, làm khối lượng sản phẩm sản xuất ra khi đó
tăng lên, giá trị lại không giảm, làm tổng giá trị tăng, trong khi đó giá trị của sức
lao động không đổi, do đó, làm giá trị thặng dư tăng lên. Việc đó khác với việc
tăng sức sản xuất của lao động, làm cho giá trị của sức lao động giảm đi, mà
tổng số giá trị không tăng lên ( vì tuy khối lượng sản phẩm tăng, nhưng giá trị
của mỗi sản phẩm lại giảm đi tương ứng), do đó giá trị thặng dư tăng lên.
3. Sức sản xuất của lao động và cường độ lao động không thay đổi,
ngày lao động thay đổi:
Ngày lao động có thể thay đổi theo hai chiều, nó có thể được rút ngắn lại
hay kéo dài ra.
14



Việc rút ngắn ngày lao động, trong điều kiện năng suất lao động và cường
độ lao động không thay đổi, không làm thay đổi giá trị của sức lao động, hay
không làm thay đổi số thời gian lao động cần thiết, vì thế nó làm thời gian lao
động thặng dư bị rút ngắn, hay làm giá trị thặng dư giảm. Đại lượng tuyệt đối
của giá trị thặng dư giảm làm đại lượng tương đối của nó so với đại lượng không
đổi của giá trị sức lao động cũng giảm xuống. Nên chỉ có bằng cách giảm giá cả
của sức lao động xuống thì nhà tư bản mới không bị tổn thất. Nếu không thì việc
rút ngắn thời gian lao động bao giờ cũng gắn liền với sự thay đổi của năng suất
lao động và cường độ lao động.
Kéo dài thời gian lao động: Gỉa sử thời gian lao động cần thiết là 4 giờ,
hay giá trị của sức lao động là 4 đồng, thời gian lao động thặng dư là 4 giờ và
giá trị thặng dư là 4 đồng. Toàn bộ ngày lao động là 8 giờ, và biểu hiện trong sản
phẩm là 8 đồng. Nếu ngày lao động được kéo dài thêm 2 giờ, và giá cả sức lao
động không thay đổi, thì đại lượng tương đối của giá trị thặng dư tăng lên cùng
với đại lượng tuyệt đối của nó. Mà vì giá trị của sức lao động không đổi, giá trị
thặng dư lại tăng lên, do đó, đại lượng tương đối của giá trị sức lao động so với
giá trị thặng dư sẽ giảm xuống. Như vậy, giá trị thặng dư tăng lên là nguyên
nhân làm đại lượng tương đối của giá trị sức lao động giảm. Khi kéo dài ngày
lao động cho đến một điểm nhất định, thì sự hao mòn sức lao động tăng lên,
người lao động cần nhiều tư liệu sinh hoạt hơn để bù đắp hao mòn đó, do đó, giá
cả của sức lao động phải tăng lên, nhưng ngay cả khi giá cả của sức lao động có
tăng lên thì giá trị của sức lao động cung giảm đi tương đối so với giá trị thặng
dư.
4. Sự thay đổi cùng lúc của ngày lao động, sức sản xuất và cường độ
của lao động:
Có hai trường hợp quan trọng sau cần phải nghiên cứu:
Sức sản xuất của lao động giảm xuống, đồng thời ngày lao động bị kéo
dài.


15


Chúng ta nói đến sức sản xuất của lao động giảm xuống là nói đến những
ngành lao động mà sản phẩm quyết định giá trị của sức lao động, như ngành
nông nghiệp, sức sản xuất của lao động đã giảm xuống do độ màu mỡ của đất
kém đi, và giá cả sản phẩm đó đắt lên một cách tương ứng.
Khi sức sản xuất của lao động giảm đi, thì như phân tích ở trên, giá trị của
sức lao động sẽ tăng lên, thời gian lao động cần thiết tăng lên, làm thời gian lao
động thặng dư giảm đi, giá trị thặng dư cũng vì thế mà giảm xuống. Nếu như
ngày lao động được kéo dài để giá trị thặng dư được sinh ra khi đó đúng bằng
lượng giá trị thặng dư trước đó, thì đại lượng của nó vẫn giảm xuống tương đối
so với giá trị sức lao động. Và nếu tiếp tục kéo dài thời gian lao động thì có thể
cả hai đại lượng tuyệt đối và tương đối ccuar giá trị thặng dư có thể tăng lên.
Cường độ và năng suất lao động tăng lên cùng với việc rút ngắn ngày lao
động.
Khi cường độ và sức sản xuất của lao động tăng lên có nghĩa là thời gian
lao động cần thiết được rút ngắn lại, đồng thời, thời gian lao động thặng dư được
kéo dài ra, giá trị thặng dư được sinh ra tăng lên. Và do đó, có thể rút ngắn ngày
lao động đến khi thời gian lao động thặng dư không còn nữa, nhưng cả khi sức
sản xuất và cường độ lao động có tăng đi nữa, giới hạn thời gian lao động cần
thiết vẫn sẽ được nới rộng, bới vì, càng ngày con người càng có nhu cầu sinh
sống, hoạt động phong phú hơn, đồng tời một phần lao động thặng dư ngày nay
sẽ được tính vào lao động cần thiết, cụ thể là phần lao động cần thiết cho việc
hình thành lập quỹ dự trữ và quỹ tích lũy xã hội. Năng suất lao động càng phát
triển, thì lại càng có thể rút ngắn ngày lao động, và ngày lao động càng rút ngắn
lại thì cường độ lao động càng có thể tăng lên
IV. Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư:
Gía trị thặng dư là một phạm trù nói lên bản chất của nền sản xuất TBCN.

Trong đời sống thực tế của xã hội tư bản, giá trị thặng dư chuyển hóa và biểu
hiện thành lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi nhuận ngân
hàng, lợi tức cho vay, địa tô TBCN.
16


1. Lợi nhuận:
Muốn tạo ra giá trị hàng hóa tất yếu phải chi ra một số lao động nhất định
gọi là chi phí lao động, bao gồm lao động quá khứ và lao động hiện tại. Lao
động quá khứ (lao động vật hóa) tức là giá trị của tư liệu sản xuất (C), lao động
hiện tại (lao động sống) tức là lao động tạo ra giá trị mới (V+m). Chi phí lao
động đó là chi phí thực tế của xã hội, chi phí tạo ra giá trị hàng hóa (W).
W+C+V+m
Song đối với nhà tư bản họ không phải chi phí lao động đẻ sản xuất hàng
hóa cho nên họ không quan tâm đến còn trên thực tế họ chỉ quan tâm đến việc
ứng tư bản để mua tư liệu sản xuất (C) và mua sức lao đông (V). Do đó nhà tư
bản chỉ xem hao phí hết bao nhiêu tư bản chứ không tính đến hao phí hết bao
nhiêu lao động xã hội. Các Mác gọi chi phí đó là chi phí sản xuất tư bản chủ
nghĩa (k) (k=C+V). Như vậy chi phí sản xuất tư bản chủ nghiã là chi phí về tư
bản mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng hóa. Như vậy giá trị hàng hóa là W=
C+V+m sẽ chuyển thành W= k+m. Nhìn vào công thức trên thì ta thấy sự phân
biệt giữa C và V đã biến mất , người ta thấy dường như k sinh ra m. Chính ở đây
chi phí lao động bị che lấp bới chi phí tư bản (k) lao động là thực thể, là nguồn
gốc của giá trị thì bị biến mất và giờ đây hình như toàn bộ chi phí sản xuất tư
bnar chủ nghĩa sinh ra giá trị thặng du.
Giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn có
một khoảng cách chênh lệch cho nên sau khi bán hàng (giá cả bằng giá trị) nhà
tư bản không những bù đắp đủ số tư bản đã ứng ra mà còn thu được một số tiền
lời ngang bằng với m, số tiền này được gọi là lợi nhuận (p) do đó cơ cấu sản
phẩm là W=k+p.

Giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận có sự khác nhau cơ bản về chất và
lượng. Gía trị thặng dư thì sinh ra từ V ( tức là lao động của công nhân) còn lợi
nhuận thì được coi là đã được sinh ra từ C+V (tư bản ứng trước). Nhưng chúng
cũng có sự giống nhau ở chỗ đều có chung một nguồn gốc là kết quả lao động
không công của công nhân làm thuê. Thực chất lợi nhuận và giá trị thặng dư đều
17


là một, lợi nhuận chẳng qua chỉ là một hình thái thần bí hóa của giá trị thặng dư.
Như Các Mác viết:" Gía trị thặng dư hay lợi nhuận chính là phần giá trị dôi ra ấy
của giá trị hàng hóa so với chi phí sản xuất của nó nghĩa là phần dôi ra của tổng
số lượng lao động chứa đựng trong hàng hóa so với số lượng lao động được trả
công chứa đựng trong hàng hóa. Nếu như nhà tư bản bán hàng hóa với giá cả
bằng giá trị thì khi đó m=p, nếu bán với giá cao hơn giá trị thì khi đó mbán với giá cả nhỏ hơn giá trị thì khi đó m>p. Nhưng trong toàn xã hội thì tổng
giá cả luôn bằng tổng lợi nhuận bằng tổng giá trị thặng dư. Chính sự không nhất
trí giữa m và p nên càng che dấu thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
Trong nền kinh tế tư bản mặc dù lợi nhuận là mục đích tực tiếp và tối cao
của các nhà tư bản nhưng khi bắt đầu đầu tư vào một ngành sản xuất kinh doanh
nào đó thì cái mà nhà tư bản quan tâm đến trước hết đó là tỷ suất lợi nhuận. Tỷ
suất lợi nhuận là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư mà nhà tư bản đã
bóc lột được của công nhân làm thuê so với tổng tư bản ứng trước ký hiệu là
p'(C+V) vì thế có công thức p'=m x 100%. p' không phản ánh trình độ bóc lột
mà nó chỉ phản ánh nơi đầu tư vốn có lợi nhất cho nhà tư bản về lượng. Do đó
việc thu lợi nhuận và theo đuổi tỷ suất lợi nhuận là động lực thúc đẩy, là mục
tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản. Sự thèm khát lợi nhuận không thỏa mãn
được lòng tham vô đáy của chúng. Nhưng tỷ suất lợi nhuận lại phụ thuộc vào
những yếu tố khách quan: Tỷ suất giá trị thặng dư càng cao thì tỷ suất lợi nhuận
càng lớn và ngược lại, tỷ suất giá trị thặng dư không đổi, cấu tạo hữu cơ tư bnar
càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm và ngược lại. Nếu tốc độ chu chuyển

của tư bản càn lớn thì tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm càng tăng lên do đó tỷ
suất lợi nhuận cũng càng tăng. Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư và tư bản
khả biến không đổi nếu tư bản khả biến càng nhỏ thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn.
2. Lợi nhuận thương nghiệp:
Đối với tư bản thương nghiệp trước chủ nghĩa tư bản thì lợi nhuận thương
nghiệp được coi là do mua rẻ bán đắt mà có. Các Mác nói: lợi nhuận thương

18


nghiệp không những là kết quả việc ăn cắp và lừa đảo mà đại bộ phận lợi nhuận
thương nghiệp chính là do nhưng việc ăn cắp lừa đảo mà ra cả.
Đối với tư bản thương nghiệp, tư bnar chủ nghĩa thì nhìn bề ngoài hình
như là lợi nhuận thương nghiệp là do mua rẻ bán đắt mà có do lưu thông tạo ra.
Nhưng về bản chất thì lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư sáng
tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản
thương nghiệp. Vậy tại sao nhà tư bản công nghệp lại nhường một phần giá trị
thặng dư của mình cho nhà tư bnar thương nghiệp. Sở dĩ như vậy là do nhà tư
bản thương nghiệp đã đứng ra đảm nhiệm khâu bán hàng để nhà tư bnar công
nghiệp rảnh tay tập trung vào sản xuất. Nhờ đó mà nhà tư bản công nghiệp rút
ngắn được vòng tuần hoàn vốn (tư bản), nhờ đó thu được nhiều lợi nhuận hơn.
Hơn nữa khi tham gia vào quá trình đó nhà tư bản thương nghiệp cũng phải ứng
vốn ra để kinh doanh do họ cũng muốn có lợi nhuận.
Nhường bằng cách nào? Nhà tư bản công nghiệp nhường bằng cách bán
hàng hóa cho nhà tư bản thương nghiệp với giá bán buôn hay giá trị công
nghiệp, giá bnas này nhỏ hơn giá trị hàng hóa, bằng chi phí sản xuất cộng lợi
nhuận công nghiệp rồi nhà tư bản thương nghiệp đem hàng hóa bán cho người
tiêu dùng theo giá bàn lẻ bằng giá trị hàng hóa hay chi phí sản xuất cộng lợi
nhuận công nghiệp và tư bản thương nghiệp.
3. Lợi tức:

Tư bản cho vay là tư bản sinh lợi tức. Đứng về phía nhà tư bản cho vay thì
do họ nhường quyền sử dụng tư bản của mình cho người khác trong một thời
gian nhất định nên thu được lợi tức. Về bản chất của lợi tức là một phần giá trị
thặng dư được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà các nhà tư bản hoạt động trả
cho nhà tư bản cho vay về món tiền mà nhà tư bản cho vay đã bỏ ra cho nhà tư
bản hoạt động sử dụng. Như vậy lợi tưc chỉ là một phần lợi nhuận mà nhà tư bản
hoạt động thu được nhờ sử dụng tư bản đi vay, phải trả cho nhà tư bản cho vay.
Trên thực tế lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay phải

19


trả cho nhà tư bản cho vay, căn cứ vào số tư bản mà nhà tư bản cho vay đã đưa
cho nhà tư bản đi vay sử dụng.
4. Địa tô tư bản chủ nghĩa:
Dưới chủ nghĩa tư bản có hình thức sở hữu độc quyền về đất đai, nó cho
phép địa chủ có quyền chiếm hữu một phần giá trị thặng dư do những hoạt động
diễn ra trên mảnh đất ấy sinh ra, không kể đất đai đó được dùng trong nông
nghiệp, cho xây dựng, cho đường sắt hay cho bất kỳ một mục đích sản xuất nào
khác. Địa tô chỉ là một phần của giá trị thặng dư sau khi đã trừ đi phần lợi nhuận
của tư bản kinh doanh nông nghiệp.
Như thế, có thể nói lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi
tức, địa tô chỉ là các phần khác nhau của giá trị thặng dư- được sinh ra từ lao
động của người công nhân làm thuê- phân giải thành.
C. Ý nghĩa thực tiễn rút ra được khi nghiên cứu về giá trị thặng dư
đối với nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đinh hướng XHCN:
1. Nghiên cứu để có nhận thức đúng về giá trị thặng dư là nhằm tránh
những nghi ngờ về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà nước ta đang thực
hiện:
Sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các học

giả tư sản đã thừa cơ đẩy mạnh công kích, phủ nhận chủ nghĩa Mác- Lênin;
nhiều nhà khoa học ở các nước XHCN cũng hoài nghi, thậm chí phê phán, đòi
xét lại các nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin, trong đó có học thuyết giá trị
thặng dư. Họ làm như vậy là bởi vì họ không hiểu được cốt lõi lý luận của Mác,
nhất là không nắm được phương pháp lý luận duy vật biện chứng của Mác trong
nghiên cứu và trình bày học thuyết giá trị thặng dư. Do đó, việc nghiên cứu về
giá trị thặng dư sẽ giúp tránh được những sai lầm như thế.
Hơn nữa, như Ph. Ăng-ghen đã nói:" Nhờ hai phát hiện ấy ( chủ nghĩa
duy vật lịch sử và lý luận giá trị thặng dư), chủ nghĩa xã hội đã trở thành một
khoa học, và giờ đây vấn đề trước hết là phải tiếp tục nghiên cứu nó trong mọi
chi tiết và mọi mối quan hệ tương hỗ của nó", điều đó có nghĩa là việc nghiên
20


cứu về giá trị thặng dư không bao giờ là thừa. Đặc biệt, hiện nay, chủ nghĩa tư
bản đã và đang có sự thay đổi, có sự điều chỉnh để bảo vệ cho chính mình, mà
những chính sách điều chỉnh ấy đã làm cho sự bóc lột càng trở nên tinh vi hơn,
bản chất bóc lột được che giấu. Nếu như không nghiên cứu về lý luận giá trị
thặng dư này và đặt nó trong tình hình mới, nhằm bổ sung, hoàn chỉnh lý luận
giá trị thặng dư, cho phù hợp với tình hình mới, thì chúng ta rất dễ có những
nghi ngờ.
2. Việc nghiên cứu về mặt chất và mặt lượng của giá trị thặng dư giúp
chúng ta thấy được thực chất của giá trị thặng dư, từ đó không đồng nhất
giá trị thặng dư với sự bóc lột, tránh có những nhận thức sai lầm về nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN đang được áp dụng ở nước ta hiện nay:
Qúa trình đi lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một quá trình phấn đấu lâu
dài và gian khổ. Từ khi chuyển từ kinh tế tập trung bao cấp chuyển sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chúng ta đã đạt được rất nhiều
thành tựu về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa…
Nâng cao và cải thiện đời sống của nhân dân. Do Đảng và Nhà nước ta đã

áp dụng những chính sách để kích thích sản xuất, khuyến khích tinh thần lao
động sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất thúc đẩy công
nghiệp hóa- hiện đại hóa. Với những biện pháp như trên đã làm hoạt động kinh
tế nước ta ngày càng tăng trưởng thu được nhiều lợi nhuận, đang từng bước
tham gia và hội nhập, đuổi kịp các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc
nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư sẽ cho ta những giải pháp để tăng khối lượng
giá trị thặng dư của nền kinh tế. Nó góp phần thay đổi nhận thức sai lầm trước
đây về giá trị thặng dư, coi nó là phạm trù riêng của chủ nghĩa tư bản. Việc
nghiên cứu sẽ nhận thức đúng rằng: giá trị thặng dư là phạm trù chung của bất kì
chế độ xã hội nào có thời gian lao động xã hội lớn hơn thời gian lao động cần
thiết. Từ đó chúng ta có được những quan niệm tốt phá bỏ được nhiều định kiến
không hay, để có thể mở rộng khả năng kinh doanh và phát triển nền kinh tế,
phát huy hết tiềm năng của mình.
21


3. Nghiên cứu giá trị thặng dư có ý nghĩa trong việc đề ra các chính
sách kinh tế phù hợp:
Với lý luận giá trị thặng dư và thực tiễn của nó, không những giúp chúng
ta phá vỡ những định kiến về kinh tế tư nhân mà còn giúp đưa ra các chính sách
kinh tế phù hợp như áp dụng kĩ thuật và sản xuất sẽ giúp xây dựng hoàn thiện
các chính sách chiến lược phát triển khoa học công nghệ thực hiện công nghiệp
hóa- hiện đại hóa đất nước.
Giúp chúng ta thấy được sự tác động của quy luật giá trị thặng dư sẽ dẫn
tới cạnh tranh gay gắt, hình thành độc quyền, do đó làm cho sự phân hóa giàu
nghèo càng trở nên rõ rệt hơn. Song song với việc phát triển kinh tế có nhiều
mặt tích cực, vẫn cò tồn tại rất nhiều những tiêu cực theo sự phát triển kinh tế.
Vì vậy cần phải có những chính sách để khắc phục những hạn chế ( xóa đói
giảm nghèo, điều tiết thu nhập dân cư…)


22


Chương II: Thực trạng việc nghiên cứu và vận dụng phạm trù giá trị
thặng dư ở nước ta hiện nay
A. Quan điểm của Đảng về việc nghiên cứu và vận dụng học thuyết
giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay:
Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn
mang nặng tính tự túc tự cấp. Vì vậy sản xuất hàng hóa phát triển sẽ phá vỡ dần
kinh tế tự nhiên và chuyển dần thành nền kinh tế hàng hóa, thúc đẩy sự xã hội
hóa sản xuất. Chính trên cơ sở này, Đản và Nhà nước ta đã xác định:" Mô hình
kinh tế ở Việt Nam được xác định là nền kinh tế nhiều thành phần, vận động
theo cơ chế thị tường có sự quản lý của nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa
đồng thời sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là những
thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho
công cuộc xây dựng chủ nghĩa và cả khi chủ nghĩa xã hội được xác định". Điều
này cho thấy Đảng ta thừa nhận sự tồn tại của các phạm trù kinh tế trong đó có
phạm trù giá trị thặng dư.
Trong Cương lĩnh thông qua tại Đại hội VII, Đảng ta đã khẳng định:" Chủ
nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng và kim chỉ nam cho mọi
hoạt động của Đảng". Thế có nghĩa là việc vận dụng giá trị lý luận về thặng dư
của Mác vào nền kinh tế nước ta đã được khẳng định. Chúng ta vận dụng một
quan điểm nào đó của Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải nắm chắc bối
cảnh ra đời, phạm vi nhiêm vụ, không nên vận dụng cứng nhắc vào tình hình
thực tiễn. Từ đó khi vận dụng lý luận giá trị thặng dư của Mác vào hoạt động
của nền kinh tế nước ta phải nghiên cứu để nắm vững lý luận này. Để hạn chế
bớt mặt tiêu cực của sự hoạt động quy luật giá trị thặng dư đó là sự phân hóa
giàu nghèo, tình trạng cạnh tranh gay gắt thì theo Đại hội IX nhấn mạnh:" Thực
hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực
hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất

khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp".

23


B. Thực trạng nghiên cứu và vận dụng lý luận giá trị thặng dư ở nước
ta hiện nay:
I. Tình hình nghiên cứu lý luận giá trị thăng dư hiện nay ở nước ta:
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng, nghiên cứu,
vận dụng học thuyết kinh tế của Mác và cụ thể là học thuyết giá trị thặng dư.
Trong điều kiện hoàn cảnh mới hiện nay các nghiên cứu đã chứng minh luận
điểm đúng đắn của Mác:" Chỉ có lao động mới tạo ra giá trị và giá trị thặng dư,
máy móc tuy có vai trò không thể thiếu trong quá trình sản xuất, là điều kiện để
sản xuất giá trị thặng dư song nó không làm tăng giá trị mà chỉ chuyển dần giá
trị của nó vào trong sản phẩm mới; phân tích rõ đặc điểm vai trò của lao động trí
tuệ, lao động quản lí trong quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thặng dư;
khẳng định sản xuất tạo ra giá trị thặng dư hay lợi nhuận vẫn là quy luật tuyệt
đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn
là chế độ xã hội dựa trên cơ sở bóc lột lao động làm thuê…". Điều này cho thấy
lý luận giá trị thặng dư của Mác trong điều kiện mới của thời đại được khẳng
định.
II. Thực trạng sản xuất giá trị thặng dư ở nước ta:
Vận dụng lý luận giá trị thặng dư trong quá trinh chuyển sang nền kinh tế
thị trường theo định hướng XHCN là việc phát triển nguồn nhân lực, khuyến
khích đầu tư và sử dụng vốn có hiệu quả kinh tế, áp dụng khoa học công nghệ
vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động, và việc phân phối giá trị thặng dư.
1. Phát triển và sử dụng nguồn nhân lực ở nước ta:
Nước ta có nguồn lao động dồi dào, số người trong độ tuổi lao động
chiếm phần đa số, ngoài ra còn phải kể đến hàng triệu người già vẫn còn khả
năng lao động và mong muốn được lao động. Thêm vào đó người lao động Việt

Nam lại cần cù, chăm chỉ, năng động, có khả năng thích ứng thị trường cao,
nhanh chóng nắm bắt kĩ thuật mới ứng dụng vào sản xuất kinh doanh. Tuy đây
là một thuận lợi lớn của nước ta song chất lượng lao động và trình độ kĩ thuật,
tay nghề của lao động Việt Nam còn thấp, cơ cấu ngành không hợp lý, tỷ lệ
24


người trong độ tuổi lao động không có việc làm cao. Muốn khắc phục được
nhược điểm này ta phải biết tăng chất luwowgj của nguồn lao động như nâng
cao trình độ học vấn của nhân dân nhất là phhoor cập tiểu học, trung học cơ sở,
mở trường dạy nghề, học phải gắn với thực hành. Trước tình hình đó, Đảng ta đã
có chủ trương:" Xã hội hóa giáo dục nhằm đa dạng hóa các loại hình giáo dục,
đào tạo với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm". Với những chủ
trương đó, chất lượng nguồn lao động đã có những sự biến đổi so với trước đây.
2. Khuyến khích đầu tư và sử dụng vốn có hiệu quả:
Đứng trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế và sự tác động của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ, nền kinh tế nước ta không thể là một nền kinh tế
khép kín mà phải tích cực mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Chúng ta " mở
cửa" nề kinh tế, tiến hành đa dạng hóa đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế
nhằm thu hút các nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế
trong nước làm thay đổi mạnh mẽ công nghệ, cơ cấu ngành và sản phẩm…mở
rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh liên kết hợp tác để tạo
điều kiện khuyến khích sản xuất trong nước phát triển bắt kịp với trình độ thế
giới.
Từ năm 1991, nguồn vốn dầu tư trong nước liên tục tăng, tổng số đầu tư
trong nước năm 1991 mới là 11545 tỷ đồng, đến năm 1996 là 54912 tỷ đồng,
tăng gần 5 lần. Đến năm 1998, con số này là 72084 tỷ đồng, tăng gần 7 lần so
với năm 1991 và tăng 31% so với năm 1996. Trong đó, vốn đầu tư khu vực quốc
doanh thường cao hơn khu vực ngoài quốc doanh. Ở giai đoạn 1999- 2001, tổng
số vốn đầu tư vẫn tiếp tục tăng, riêng năm 2001 tăng lên hơn 10.000 tỷ đồng so

với năm 2000.
Đối với việc thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài ta đã tranh thủ được nguồn
viên trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng lớn. Cho đến nay, tổng mức cam
kết tài trợ là 13,04 tỷ USD, trong đó vốn đã được ký là gần 10 tỷ USD và số vốn
đã giải ngân tới cuối 1999 là gần 6 tỷ USD. Nhà nước đã ban hành "Luật đầu tư

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×