Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Hợp tác kinh tế của các quốc gia tại châu á có gì khác biệt với việc hợp tác kinh tế của các quốc gia châu âu trình bày khả năng hình thành và phát triển liên minh tiền tệ châu á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.68 KB, 39 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
----------------

ĐỀ BÀI: Hợp tác kinh tế của các quốc gia tại Châu Á có gì khác
biệt với việc hợp tác kinh tế của các quốc gia châu Âu. Trình bày
khả năng hình thành và phát triển liên minh tiền tệ châu Á

Nhóm thực hiện: Nhóm 2

Hà Nội, 2019

1


2

BẢNG PHÂN CHIA CƠNG VIỆC NHĨM 2
Nội dung cơng việc thực hiện
2. Điều kiện để hình thành liên minh tiền
tệ
Làm slide
3.2 Tác động của việc hình thành liên
minh tiền tệ tại châu Á đối với nền kinh tế
khu vực nói riêng và nền kinh tế nói
chung
Tổng hợp words + Thuyết trình
1.3. Các hình thức và cấp độ liên kết quốc
tế


2.2. Thực trạng hợp tác kinh tế của các
quốc gia tại châu Á
3.1 Bối cảnh ra đời, mục tiêu, nguyên tắc
hội nhập
Làm slide+ Thuyết trình
1.1 Khái niệm
1.2. Nguyên nhân hình thành liên kết quốc
tế
2.1 Thực trạng hợp tác kinh tế của các
quốc gia tại châu Âu
3.2 Trình độ và mức độ hợp tác kinh tế
quốc tế
3.3 Châu Á đã sẵn sàng cho việc hình
thành một đồng tiền chung?
3.4 Những bước tiến cần thực hiện để hình
thành đồng tiền chung châu Á
và bài học từ EU
Nhóm trưởng + Phân chia cơng việc +
Thuyết trình
1.Khái niệm và vai trị hợp tác tiền tệ quốc
tế
3.1 Sự cần thiết của việc hình thành một
đồng tiền chung?
Làm slide+ Đề cương chi tiết

2


3


ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
I. Sự khác biệt giữa hợp tác kinh tế châu Á và hợp tác châu Âu
1. Một số lý thuyết về hợp tác kinh tế quốc tế.
1.1 Khái niệm
1.2. Nguyên nhân hình thành liên kết quốc tế
1.3. Các hình thức và cấp độ liên kết quốc tế
2. Thực trạng về hợp tác kinh tế
2.1 Thực trạng hợp tác kinh tế của các quốc gia tại châu Âu
a) Quá trình hình thành liên minh châu Âu
b) Thực trạng hợp tác kinh tế của các quốc gia tại châu Âu
2.2. Thực trạng hợp tác kinh tế của các quốc gia tại châu Á
3. Sự khác biệt về hợp tác kinh tế tại các quốc gia Châu Á và Châu Âu
3.1 Bối cảnh ra đời, mục tiêu, nguyên tắc hội nhập
3.2 Trình độ và mức độ hợp tác kinh tế quốc tế
II. Khả năng hình thành và phát triển liên minh tiền tệ châu Á
1. Khái niệm và vai trò hợp tác tiền tệ quốc tế
1.1 Khái niệm
1.2 Vai trò của hợp tác tiền tệ quốc tế
2. Điều kiện để hình thành liên minh tiền tệ (nhấn mạnh)
2.1. Điều chỉnh kinh tế của các nước thành viên để hội nhập theo tiêu chí thống nhất.
2.2. Thiết lập một cơ chế liên kết tỷ giá
2.3. Tạo lập một đồng tiền khu vực và hình thành Ngân hàng Trung ương độc lập với
chính sách tiền tệ thống nhất.
3. Khả năng hình thành và phát triển liên minh tiền tệ châu Á
3.1 Sự cần thiết của việc hình thành một đồng tiền chung?
3.2 Tác động của việc hình thành liên minh tiền tệ tại châu Á đối với nền kinh tế khu vực
nói riêng và nền kinh tế nói chung
3.3 Châu Á đã sẵn sàng cho việc hình thành một đồng tiền chung?
a) Những tiềm năng của khu vực
b) Những thách thức gặp phải

3.4 Những bước tiến cần thực hiện để hình thành đồng tiền chung châu Á
và bài học từ EU
3


4

a) Những bước tiến đã đạt được trong tiến trình hình thành và phát triển liên minh tiền tệ
châu Á
b) Những bài học rút ra từ EU

I. Sự khác biệt giữa hợp tác kinh tế châu Á và hợp tác châu Âu
1. Một số lý thuyết về hợp tác kinh tế quốc tế.
1.1 Khái niệm
Liên kết kinh tế quốc tế là quá trình hợp tác về mặt kinh tế giữa các quốc gia nhằm
phát triển kinh tế của các quốc gia nói riêng và của tồn bộ khu vực nói chung, đồng thời
tăng cường phối hợp và điều chỉnh lợi ích giữa các bên tham gia, giảm bớt sự khác biệt
về điều kiện phát triển giữa các chủ thể tham gia khối liên kết. Liên kết kinh tế quốc tế
được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng dựa trên các hiệp định thỏa
thuận và ký kết giữa các bên tham gia phù hợp với khuôn khổ pháp luật quốc tế. Mục tiêu
của hợp tác kinh tế quốc tế là tạo ra mối quan hệ kinh tế ổn định cũng như diễn ra q
trình xã hội hóa sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng mang tính chất quốc tế nhằm khai
thác tốt tiềm năng của các thành viên để cùng nhau tạo thị trường chung, phân định hạn
mức sản lượng cho từng đơn vị thành viên, giá cả cho từng loại sản phẩm nhằm bảo vệ
lợi ích lẫn nhau.
1.2. Nguyên nhân hình thành liên kết quốc tế

 Xu hướng quốc tế đời sống toàn cầu ngày càng phát triển, nền kinh tế của các
nước ngày càng phụ thuộc lẫn nhau nên sự hình thành liên kết kinh tế quốc tế là
một điều tất yếu, phù hợp với xu hướng của thị trường thế giới.


 Sự hình thành liên kết kinh tế quốc tế nhằm chống lại sự bảo hộ mậu dịch giữa các
nước cũng như tối ưu hóa các chính sách ngăn chặn/khuyến hích của hàng rào thuế
quan.
4


5

 Sự cạnh tranh ngày càng gay gắt thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật,
nhiều ngành nghề mới được ra đời như công nghệ sinh học, điện tử, tin học,… đòi
hỏi về vốn, kỹ thuật cao cấp mà cơng ty, tập đồn của một quốc gia khơng thể đáp
ứng. Những thiếu hụt này làm tăng nhu cầu liên kết, hợp tác giữa các cơng ty, tập
đồn của các nước để tạo ra một cơ sở hạ tầng giao thơng giá rẻ và tăng cường vai
trị của các công ty đa quốc gia trong phân công quốc tế, từ đó nâng cao năng suất
lao động dẫn đến việc hình thành liên kết kinh tế quốc tế
1.3. Các hình thức và cấp độ liên kết quốc tế
Khu vực mậu dịch tự do (Free Trade Area/Zone-FTA)
Giảm hoặc xóa bỏ hàng rào thuế quan và các biện pháp hạn chế về số lượng đối
với một phần các loại sản phẩm và dịch vụ khi bn bán với nhau.
Tiến đến hình thành một thị trường thống nhất về hàng hóa và dịch vụ.
Các nước thành viên vẫn giữ được quyền độc lập tự chủ trong quan hệ buôn bán
với các nước thành viên ngồi khu vực. Việt Nam cũng có tham gia Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN (AFTA), ngồi ra cịn những liên minh khác như: NAFTA gồm 3 nước Bắc
Mỹ, …

Liên minh về thuế quan (Customs Union-CU)
Các nước tham gia bị Khơng thể hồn tồn được tự do trong quan hệ mua bán với
các nước ngoài khối.
Lập ra biểu thuế quan chung áp dụng cho tồn khối khi bn bán hàng hóa với các

nước ngồi khối.
Thỏa thuận lập ra chính sách ngoại thương thống nhất khi quan hệ buôn bán với các nước
ngoài khối.
Trường hợp: Liên minh thuế quan Nam Phi (the Southern African Customs UnionSACU), bao gồm các nước: Botswana, Lesotho, Namibia, South Africa and Swaziland.
Thị trường chung (Common Market-CM)
5


6

Xóa bỏ những trở ngại liên quan đến q trình bn bán: thuế quan, hạn ngạch, giấy
phép, ….
Xóa bỏ những trở ngại cho quá trình tự do di chuyển tư bản, sức lao động, ….
Lập ra chính sách ngoại thương thống nhất khi quan hệ với các nước ngoài khối.
Trường hợp: Thị trường chung Nam Mỹ (The Southern Common Market –
MERCOSUR) và Thị trường chung Đông và Nam Phi (The Common Market of Eastern
and Southern Africa – COMESA).
Liên minh về kinh tế (Economic Union-EU)
Xây dựng chính sách phát triển kinh tế chung cho các nước hội viên của khối, xóa bỏ
kinh tế riêng của mỗi nước.
Trường hợp: Liên minh kinh tế (Eurasian Economic Community – EAEC) bao gồm các
nước: Belarus, Kazakhstan, Kyrgyz, Nga, Tajikistan.
Liên minh về tiền tệ (Monetary Union-MU)
- Xây dựng chính sách kinh tế chung.
- Xây dựng chính sách ngoại thương chung.
- Hình thành một đồng tiền chung thống nhất.
- Quy định chính sách lưu thơng tiền tệ thống nhất.
- Xây dựng ngân hàng chung thay thế ngân hàng thế giới của mỗi thành viên.
- Xây dựng quỹ tiền tệ chung.
- Xây dựng chính sách quan hệ tài chính tiền tệ chung đối với các nước ngồi đồng

minh và các tổ chức tài chính quốc tế.
- Tiến tới thực hiện liên minh về chính trị.
Trường hợp: Cộng đồng Châu Âu (European Communities – EC), gồm 25 quốc gia.
2. Thực trạng về hợp tác kinh tế
2.1 Thực trạng hợp tác kinh tế của các quốc gia tại châu Âu
a) Quá trình hình thành liên minh châu Âu
Cách đây 60 năm, ngày 25/3 tại thủ đô Roma của Italy đánh dấu một sự kiện quan
trọng: Hiệp ước Rome được ký kết với 6 thành viên gồm: Bỉ, Đức, Hà Lan, Italy,

6


7

Luxembourg và Pháp, tạo nền móng cho sự ra đời của Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC)
và Liên minh châu Âu (EU) sau này.
Liên minh Châu Âu là một liên minh kinh tế chính trị bao gồm 27 quốc gia thành
viên thuộc Châu Âu với hơn 500 triệu dân. Đây là một thể chế đa phương gần giống như
một nhà nước liên bang rộng lớn với vị thế là một trong các trung tâm chính trị, kinh tế,
thương mại, tài chính lớn mạnh.
Hồn cảnh của châu Âu sau Chiến tranh thế giới thứ 2, phải khôi phục nền kinh tế từ
đống đổ nát, đồng thời ngăn ngừa một cuộc xung đột mới, dẫn tới nhu cầu các nước phải
hợp tác về kinh tế, thương mại và chính trị để cùng nhau phát triển và ngăn ngừa chiến
tranh.
Từ Cộng đồng Than thép châu Âu, được thành lập từ năm 1951 đơn thuần vì mục
đích hợp tác kinh tế, với Hiệp ước Rome và sự ra đời của EEC rồi EU, các nước châu Âu
đã tiến tới một liên minh kinh tế - chính trị.
Qua thời gian, lợi ích của sự hợp tác, liên kết kinh tế, chính trị đã thu hút đông đảo
các nước châu Âu tham gia EU. Từ 6 thành viên sáng lập, tới nay EU bao gồm 28 nước ở
cả Tây, Đông và Bắc Âu, với diện tích là 4.422.773 km², dân số 492,9 triệu người (2006),

GDP là 11.600 tỉ Euro (16.000 tỉ USD).
Với cơ cấu tổ chức quy củ có Nghị viện, Ủy ban, Hội đồng, Ngân hàng Trung tâm,
với tự do giao thương bằng một đồng tiền chung (đồng Euro) và với quyền tự do đi lại
giữa các nước thành viên theo Hiệp ước Schengen...
EU đã huy động được nhiều nguồn lực, không ngừng lớn mạnh, trở thành một trong 3
cực kinh tế - chính trị lớn nhất thế giới, và được coi như một liên minh thành cơng nhất,
làm hình mẫu cho những liên minh ở nhiều nơi trên thế giới noi theo.
b) Thực trạng hợp tác kinh tế của các quốc gia tại châu Âu
Mặc dù kinh tế khu vực châu Âu tăng trưởng tốt trong những năm qua, song những
rủi ro xuất phát từ chu kỳ tài chính vĩ mơ của Mỹ, tình trạng căng thẳng gia tăng tại các
thị trường đang nổi liên quan tới đồng USD mạnh hơn và tranh chấp thương mại leo
thang, cùng mối lo về khả năng xử lý nợ của các nền kinh tế được xem là 3 vấn đề lớn có

7


8

thể đe dọa sự ổn định tài chính ở châu Âu. Bên cạnh đó, nhiều nguy cơ đang kìm hãm
hoạt động của các ngân hàng và công ty bảo hiểm châu Âu.
Một trong những thách thức được đề cập nhiều tại Tuần lễ Tài chính Euro 2018 là
vấn đề tấn công mạng.
Trong vài năm gần đây, các cuộc tấn công mạng không ngừng gia tăng, và một phần
rất đáng kể nhắm vào hệ thống tài chính-ngân hàng, vốn là lĩnh vực hết sức nhạy cảm,
ảnh hưởng nhanh chóng đến các lĩnh vực khác của nền kinh tế trên quy mô lớn. Hơn một
nửa số ngân hàng hàng đầu ở Đức nhận ra rằng họ đang phải đối mặt với những "nguy
hiểm đến từ thế giới mạng."
Theo dòng chảy phát triển, "chuyến tàu" số hóa đang là xu thế thời đại mà khơng một
nước châu Âu nào muốn mình bị "bỏ lại trên sân ga."
Trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng, những thay đổi đã diễn ra mạnh mẽ trong nhiều

năm qua, và tiếp tục được thúc đẩy ở nhiều lĩnh vực mới, ví dụ như đồng tiền kỹ thuật số.
Các đồng tiền ảo dạng như Bitcoin, Ethereum hay Litecoin... đang làm đảo lộn và trở
thành đối thủ cạnh tranh với hoạt động tài chính-ngân hàng truyền thống.
Điều này buộc các nhà hoạch định chính sách phải có những bước đi cần thiết để
thích nghi với nền kinh tế kỹ thuật số mới. Việc tối ưu hóa cơ sở dữ liệu trong lĩnh vực tài
chính-ngân hàng được các chuyên gia cho rằng sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu phân tích và
quản trị trong tình hình mới.
Đối với ngành tài chính-ngân hàng, lãi suất là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng và
nhạy cảm. Hiện Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) vẫn áp dụng chính sách lãi suất
bằng 0, song tăng lãi suất là xu hướng tất yếu, và giới chuyên gia đều nhận định rằng điều
đó sẽ sớm xảy ra trong thời gian tới.
Việc tăng lãi suất ln có tính hai mặt, và điều này dự báo sẽ khiến thị trường tài
chính - ngân hàng ở châu Âu biến động, ảnh hưởng đến nhiều ngành kinh tế khác.
Chính sách lãi suất tiền gửi âm như hiện nay, với rất nhiều quy định nghiêm ngặt, sẽ
kết thúc, mang lại niềm vui cho các ngân hàng thương mại. Khi chính sách được nới
lỏng, các ngân hàng có thể thu được nhiều lợi nhuận hơn từ tiền gửi của khách hàng.

8


9

Ở chiều ngược lại, những người đi vay tiền sẽ đối mặt với lãi suất cao hơn. Trên bình
diện tồn cầu, các thị trường mới nổi sẽ phải chịu sức ép lớn hơn từ lãi suất cao của đồng
euro cũng như đồng USD. Vốn từ đồng euro vì thế sẽ đắt hơn so với hiện tại.
Trong bối cảnh chiến tranh thương mại và chính sách bảo hộ gia tăng, điều này sẽ
gây áp lực lớn lên các nền kinh tế châu Âu.
Tỷ giá hối đoái của đồng euro đối với các đồng nội tệ khác cũng sẽ cao hơn, ảnh
hưởng đến ngành xuất khẩu của các quốc gia thuộc Khu vực đồng tiền chung châu Âu
(Eurozone), đặc biệt là Đức. Trong trường hợp này, các ngân hàng cũng lâm vào tình thế

khó xử, khi phải vừa đạt được mục tiêu lợi nhuận, song vẫn phải làm sao không gây ra
quá nhiều gánh nặng cho các khách hàng.
Nội bộ Liên minh châu Âu (EU) cũng tồn tại những bất đồng liên quan vấn đề tài
chính, ví dụ như kế hoạch ngân sách của Italy. Chính phủ của Thủ tướng Giuseppe Conte
cương quyết bảo vệ kế hoạch ngân sách 2019 với chương trình chi tiêu khổng lồ dẫn đến
mức thâm hụt Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) có thể tăng lên 2,4%, cao gấp 3 lần so với
mức 0,8% như chính quyền tiền nhiệm từng cam kết, bất chấp những cảnh báo từ EU về
nguyên tắc các quốc gia thành viên có trách nhiệm phải tuân thủ các quy định chung về
tài chính.
Cũng ở Frankfurt, khi các thống kê cho thấy tốc độ tăng trưởng của kinh tế Đức đã
chậm lại trong quý III/2018, giảm 0,2% - lần đầu tiên giảm kể từ năm 2015, các chuyên
gia tài chính - ngân hàng cũng bắt đầu cảm thấy lo ngại. Đức là nền kinh tế lớn nhất châu
Âu, và việc kinh tế Đức "giảm tốc" sẽ ảnh hưởng đến cả khu vực.
Trong dự báo mới nhất, Ủy ban châu Âu (EC) cho rằng xu thế thương mại tồn cầu
khơng rõ ràng cùng với những căng thẳng thương mại gia tăng sẽ làm chậm tốc độ tăng
trưởng kinh tế của Eurozone trong năm 2019 và những năm sau đó.
Trong khi đang phải cùng lúc đối mặt với quá nhiều thách thức từ cả truyền thống lẫn
phi truyền thống, cả xuất phát từ bên trong và từ ngồi vào, thì bản thân các quốc gia
thành viên EU lại rất khó khăn trong việc tìm được một tiếng nói chung trong vấn đề tài
chính-ngân hàng.

9


10

Điều đó dự báo sẽ tác động tiêu cực tới sự ổn định tài chính và hoạt động của hệ
thống ngân hàng châu Âu trong thời gian tới, khi "bóng ma" khủng hoảng tài chính theo
chu kỳ 10 năm đang có dấu hiệu quay trở lại./.
Một thách thức nữa của EU ở thời điểm hiện tại là tiến trình Anh rời EU, hay còn gọi

tắt là Brexit, hiện vẫn “mắc kẹt” ở Quốc hội Anh và tương lai của thỏa thuận này vẫn là
một ẩn số. Đàm phán Brexit đã diễn ra khó khăn và nhiều thời điểm tưởng như sẽ “dậm
chân tại chỗ” trong năm qua. Tuy nhiên, Anh và EU cuối cùng đã đạt được một thỏa
thuận vào trung tuần tháng 11/2018. Theo thỏa thuận mới nêu trên, hai bên thống nhất
được ý kiến về vấn đề “hóc búa” nhất đó là biên giới giữa Anh và Ireland hậu Brexit.
Nhưng, Brexit vẫn khơng thể “về đích” đúng hạn và đang bế tắc vì bị phản đối tại Quốc
hội Anh. Làn sóng chỉ trích gay gắt tại Hạ viện đã buộc Chính phủ Anh tun bố hỗn bỏ
phiếu trưng cầu ý kiến của các nghị sĩ về thỏa thuận Brexit nói trên sang thời điểm sau
tháng 1/2019, thay vì ngày 21/1/2019.
Trước triển vọng không chắc chắn của Brexit, cả Anh và EU hiện đã chuẩn bị sẵn
phương án “phòng thân”. Người phát ngôn của Thủ tướng Anh hôm 17/12 vừa xác nhận
Thủ tướng Anh Theresa May đang chuẩn bị kế hoạch để nước Anh rời khỏi EU mà không
đạt được thỏa thuận với chi phí 2 tỷ Bảng. Trong khi đó, hơm 19/12, Ủy ban châu Âu
(EC) cho biết đang “thực hiện các bước cần thiết” để đảm bảo những biện pháp ứng phó
nhanh chóng được triển khai vào ngày 30/3/2019 giúp hạn chế những thiệt hại nghiêm
trọng trong trường hợp Brexit không thỏa thuận. Kế hoạch bao trùm 14 lĩnh vực mà EU
cho rằng sẽ chịu tác động mạnh, ảnh hưởng lớn tới các công dân và các doanh nghiệp
như lĩnh vực dịch vụ tài chính, vận tải hàng khơng, chính sách khí hậu và các hoạt động
thương mại khác.
Một khi “cuộc ly hôn” giữa Anh và EU này chưa ngã ngũ, kinh tế Anh và EU sẽ vẫn
đối mặt những nguy cơ lớn trong năm tới. Trong một báo cáo mới đây, Fitch đánh giá nếu
Luân Đôn “trắng tay” rời EU, điều này sẽ phá vỡ các hoạt động hải quan, thương mại và
trở thành “ác mộng” đối với kinh tế Anh. Bloomberg mới đây ước tính, với kịch bản
Brexit "cứng" như trên, GDP của nước này vào năm 2030 sẽ giảm 7% so với thời điểm
vẫn là thành viên của EU. Trong khi đó, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo, tiến trình
10


11


Brexit đổ vỡ sẽ khiến những nền kinh tế mở hơn của EU, trong đó có Bỉ, Hà Lan và
Ireland, sẽ “cảm nhận rõ nhất tác động với kinh tế”. GDP của Anh sẽ sụt giảm 4% trong
khi GDP của 27 nước thành viên EU giảm 0,5%.
Tình thế nêu trên cho thấy, dù “cuộc khủng hoảng kép” là khủng hoảng kinh tế,
khủng hoảng di cư ở châu Âu đã là quá khứ, song di chứng của nó vẫn chưa thể “ngủ
yên”. Theo đó, một loạt khó khăn, thách thức hiện vẫn đang “bủa vây” EU trước ngưỡng
cửa năm mới 2019.
Tuy nhiên, với sức mạnh của sự đồng lòng trong Khối, tình hình chung của EU cũng
đang có những dấu hiệu khả quan bên cạnh những khó khăn, thách thức. Đây là những tín
hiệu đáng mừng sau một loạt những biến động lớn trong nền kinh tế Châu Âu thời gian
vừa qua.
Theo CNN trích dữ liệu ban đầu từ cơng ty nghiên cứu Capital Economics, tăng
trưởng kinh tế của khu vực đồng tiền chung euro đạt 2,4% trong năm ngoái, cao hơn so
với mức 2,3% được dự đốn trước đó.
“Các số liệu thống kê tình hình kinh doanh mới nhất cho thấy châu Âu đang có sự
tăng trưởng mạnh mẽ hơn so với Mỹ vào thời điểm này. Tuy nhiên, xét về tổng thể thì các
chỉ số niềm tin kinh tế ở cả hai khu vực đều phù hợp với mức tăng trưởng lạc quan trong
những tháng tới”, Stephen Brown, chuyên gia kinh tế tại Capital Economics, nhận định.
Sự tự tin đang tăng lên. Theo kết quả một cuộc khảo sát được Ủy ban châu Âu công
bố hôm 8.1, mức độ tự tin kinh tế của 19 quốc gia thuộc khu vực đồng tiền chung euro
đang ở mức cao nhất trong hơn 17 năm. Người châu Âu cảm thấy hài lòng về nền kinh tế
ở thời điểm hiện tại. Các cuộc điều tra khác cũng cho thấy cùng một kết quả.
“Mức độ tin cậy tăng lên ở tất cả các lĩnh vực được khảo sát và sự tự tin công nghiệp
đã lên đến ngưỡng cao nhất kể từ khi cuộc khảo sát bắt đầu vào năm 1985”, Carsten
Hesse, nhà kinh tế học của ngân hàng tư nhân hàng đầu châu Âu Berenberg, cho biết.

11


12


Tỷ lệ thất nghiệp giảm. Tỷ lệ thất nghiệp của khu vực đồng euro đã giảm tháng thứ tư
liên tiếp trong tháng 11.2017, xuống còn 8,7%, mức thấp nhất kể từ tháng 1.2009. Số
người thất nghiệp ở thời điểm hiện tại ít hơn khoảng 1,6 triệu người so một năm trước.
Song, sự phục hồi trong thị trường lao động vẫn chưa thực sự đồng đều. Tỷ lệ thất
nghiệp ở Đức giảm xuống mức thấp kỷ lục 3,6% vào tháng 11.2017. Trong khi đó, tỷ lệ
này ở Tây Ban Nha là 16,7%. Và mặc dù đang được cải thiện, nhưng tỷ lệ thất nghiệp ở
người trẻ tại châu Âu hiện vẫn ở mức 18,2%.
Các quốc gia phía nam eurozone cũng đi lên mạnh mẽ kể từ khủng hoảng nợ quốc gia
năm 2012, cuộc khủng hoảng kéo theo nhiều gói cứu trợ tài chính quốc tế, và cuối cùng
là một gói kích thích tiền tệ lớn chưa từng có từ Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB).
Các nước phía nam eurozone được thay đổi thứ bậc xếp hạng nợ trong năm 2017. Trong
tháng 10, S&P bất ngờ nâng xếp hạng tín nhiệm của Ý lần đầu tiên trong ba thập niên.
Tháng 11, S&P tiếp tục nâng xếp hạng tín nhiệm của Bồ Đào Nha.
Một trong những tín hiệu tươi sáng nhất của eurozone là Hy Lạp. Chỉ hai năm sau
ngày gần như bị đẩy ra khỏi eurozone khi cố gắng nhận cứu trợ, Hy Lạp giờ đây trở lại
thị trường trái phiếu và được Fitch, Moody’s thăng xếp hạng tín nhiệm. Ngân hàng UBS
của Thụy Sĩ cho rằng nợ chính phủ Hy Lạp là một trong các khoản đầu tư dài hạn trong
năm 2018.
Các thơng tin tích cực về sự hồi phục kinh tế Hy Lạp hiện đang được cập nhật liên
tục lúc đất nước Hy Lạp chuẩn bị thốt khỏi gói cứu trợ thứ ba của mình vào tháng
8.2018. Số liệu GDP được công bố gần đây cho thấy sự tăng trưởng đạt tốc độ nhanh nhất
kể từ quý 3.2017. Cải thiện tình cảnh của người dân nước này sau nhiều năm đất nước
gặp khủng hoảng. Sự hồi phục của thị trường lao động khả năng cao sẽ giúp thúc đẩy nền
kinh tế Hy Lạp tăng trưởng trong năm nay. GDP tăng trưởng 1,9% vào năm 2018 và được
dự đoán đạt mức 2,1% vào năm 2019.
2.2. Thực trạng hợp tác kinh tế của các quốc gia tại châu Á
12



13

Châu Á - Thái Bình Dương - khu vực phát triển năng động nhất và đóng vai trị đầu
tàu trong liên kết kinh tế thế giới. Nhìn tổng thể, trong một thế giới có nhiều chuyển biến
mang tính bước ngoặt, diễn biến nhanh chóng, phức tạp và khó lường, khu vực châu Á Thái Bình Dương đã chứng tỏ tính năng động, khả năng thích ứng và chuyển đổi để trở
thành động lực của tăng trưởng và liên kết kinh tế tồn cầu.
Hiện tại, châu Á đã có Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC),
được thành lập hơn 30 năm là cơ chế liên kết kinh tế khu vực hàng đầu, khởi xướng và đi
đầu thúc đẩy xu thế tự do hóa kinh tế, thương mại, đầu tư trong khu vực và trên thế giới,
đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế,duy trì hịa bình, ổn định, hợp tác, phát triển
ở châu Á - Thái Bình Dương.
Trong số 21 nền kinh tế thành viên APEC, có 3 nền kinh tế lớn nhất thế giới, 9 thành
viên Nhóm 20 nền kinh tế lớn (G20) và nhiều nền kinh tế mới nổi, phát triển năng động,
đại diện khoảng 39% dân số thế giới, đóng góp 59% GDP và 49% thương mại toàn cầu.
Đến nay, APEC đã đạt nhiều thành tựu nổi bật và thực chất trên cả 3 trụ cột hợp tác.
Về tự do hóa thương mại, đầu tư, từ năm 1989 đến năm 2015, tổng giá trị thương mại
APEC tăng 7 lần (từ gần 3 nghìn tỷ USD lên khoảng 20 nghìn tỷ USD). Mức thuế trung
bình của khu vực giảm gần 3 lần (từ 17% xuống 5,6%). Về thuận lợi hóa kinh doanh, chi
phí giao dịch thương mại trong khu vực giảm đáng kể qua các lần cắt giảm 5% vào các
năm 2006, năm 2010 và 10% vào năm 2015. Về hợp tác kinh tế - kỹ thuật, mỗi năm,
APEC hỗ trợ kinh phí cho khoảng 150 dự án hợp tác và nâng cao năng lực với tổng giá trị
lên đến 23 triệu USD.
Cũng như nhiều khu vực khác trên thế giới, trong năm 2017, châu Á - Thái Bình
Dương bị tác động bởi tình trạng kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự kiến, thương mại
toàn cầu suy giảm và chủ nghĩa bảo hộ gia tăng. Song, năm 2017 đã ghi dấu những nỗ lực
bền bỉ của khu vực mà thành tựu được xem là rất nổi bật đó chính là sự thành công của
Năm APEC 2017, với đỉnh cao là Tuần lễ Cấp cao APEC lần thứ 25, diễn ra tại thành phố
Đà Nẵng. Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) hội tụ 21 nền kinh
tế thành viên đã trở thành động lực của tăng trưởng và liên kết toàn cầu, là trung tâm đầu
tư, khoa học - cơng nghệ, đóng góp gần 50% tổng đầu tư, thương mại và gần 60% GDP

13


14

tồn cầu. Đây cũng là khu vực có hơn một nửa trong số 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới
và dự báo sẽ chiếm tỷ trọng gần 70% GDP tồn cầu vào năm 2050.
Bên cạnh đó, sự ra đời của Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương (CPTPP) thay thế Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) cũng mở ra
hướng đi mới cho hợp tác kinh tế các nước thành viên. Việc Mỹ rút lui khỏi TPP tuy làm
giảm đáng kể sức mạnh kinh tế của hiệp định, nhưng đã tạo tiền đề để Nhật Bản trở thành
quốc gia có vai trị dẫn dắt.
Năm 2017 cũng đánh dấu mốc lịch sử 50 năm hình thành và phát triển của Hiệp hội
Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Donald Trump
tới hàng loạt các nước ASEAN đã phần nào cho thấy tầm vóc cùng những ảnh hưởng của
khu vực. Năm 2017 cũng ghi nhận sự đoàn kết của khối trong nỗ lực duy trì hịa bình, ổn
định và thượng tôn pháp luật trên Biển Đông. ASEAN và Trung Quốc đã thông qua dự
thảo khung bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) sau gần bốn năm đàm phán.
Năm 2017, ASEAN cũng đã thể hiện rõ nỗ lực đi đầu xây dựng và đàm phán các hiệp
định thương mại chất lượng cao, với việc ký Hiệp định Thương mại tự do ASEAN Hong Kong (Trung Quốc), cũng như đạt được bước tiến mới trong đàm phán Hiệp định
Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) với 6 nước đối tác để đi đến ký kết thỏa thuận
này trong năm 2018. RCEP hứa hẹn tạo thành khối thương mại khổng lồ, chiếm 50% dân
số thế giới, 39% GDP và 25% kim ngạch xuất khẩu tồn cầu, góp phần làm cho kinh tế
khu vực châu Á - Thái Bình Dương và thế giới phục hồi ổn định và chắc chắn hơn.
3. Sự khác biệt về hợp tác kinh tế tại các quốc gia Châu Á và Châu Âu
3.1 Bối cảnh ra đời, mục tiêu, nguyên tắc hội nhập


Bối cảnh ra đời:


EU và APEC ra đời trong bối cảnh quốc tế khác nhau. Một Tây Âu đổ nát sau Thế
chiến thứ II (1945), mà nước gây chiến lại là quốc gia lớn nhất, nằm ngay giữa châu Âu
(nước Đức), vì vậy nguyện vọng được sống trong nền hồ bình vĩnh viễn để cùng nhau
phát triển kinh tế và hoá giải mối hận thù truyền thống giữa hai quốc gia to lớn nhất châu
Âu nằm cận kề nhau (Đức – Pháp), để xoá bỏ tận gốc rễ nguy cơ chiến tranh là nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến sự ra đời EU. Nó cịn phù hợp với khát vọng hồ bình, hợp tác
14


15

chính trị và kinh tế của các nước châu Âu láng giềng. Còn đối với APEC, ngay từ những
năm 1960, ý tưởng về liên kết kinh tế khu vực đã được một số học giả người Nhật Bản
đưa ra. Năm 1965, hai học giả người Nhật Kojima và Kurimoto đã đề nghị thành lập một
"Khu vực mậu dịch tự do Thái Bình Dương" mà thành viên gồm năm nước cơng nghiệp
phát triển, mở cửa cho một số thành viên liên kết là các nước đang phát triển ở khu vực
lòng chảo Thái Bình Dương tham gia. Sau đó, một số học giả khác như Tiến sĩ Saburo
Okita (cựu Ngoại trưởng Nhật Bản) và Tiến sĩ John Crawford (Đại học Tổng hợp Quốc
gia Australia) đã sớm nhận thức được sự cần thiết phải xây dựng sự hợp tác có hiệu quả
về kinh tế ở khu vực. Tư tưởng này đã thúc đẩy những nỗ lực hình thành Hội đồng Hợp
tác Kinh tế Thái Bình Dương (PECC) năm 1980. Chính PECC sau này đã cùng với
ASEAN đóng vai trị quan trọng trong việc hình thành chế độ tư vấn kinh tế rộng rãi giữa
các nền kinh tế trong khu vực cũng như thúc đẩy ý tưởng thành lập APEC.
Tháng 1 năm 1989, tại Seoul, Hàn Quốc, Thủ tướng Bob Hawke đã nêu ý tưởng về
việc thành lập một Diễn đàn tư vấn kinh tế cấp Bộ trưởng ở châu Á - Thái Bình Dương
với mục đích phối hợp hoạt động của các chính phủ nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế ở
khu vực và hỗ trợ hệ thống thương mại đa phương. Nhật Bản, Malaysia, Hàn Quốc, Thái
Lan, Philipin, Singapore, Brunei, Indonesia, New Zealand, Canada và Mỹ đã ủng hộ sáng
kiến này. Tháng 11 năm 1989, các Bộ trưởng Ngoại giao và Kinh tế của các nước nói trên
đã họp tại Australia quyết định chính thức thành lập APEC.



Mục tiêu:

Mục tiêu khi thành lập EU được đề ra là đảm bảo hoà bình bền vững cho châu Âu,
giải quyết cơ bản mâu thuẫn của hai cường quốc Đức và Pháp (ngòi nổ của các cuộc
chiến tranh trước đây), tăng cường hợp tác kinh tế, liên kết các ngành sản xuất cơ bản của
hai nước Pháp, Đức và 4 nước đồng minh khác là Bỉ, Italia, Hà Lan, Lucxămbua là than
và thép vào một cơ quan điều phối chung. Như thế, sự thống nhất châu Âu được thực
hiện bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, thương mại và trong một thị trường chưa rộng.
APEC được thành lập nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sự thịnh vượng trong
khu vực đồng thời thắt chặt các mối quan hệ trong cộng đồng Châu Á – Thái Bình

15


16

Dương. Các biện pháp được thực hiện là cắt giảm thuế và các rào cản thương mại, đẩy
mạnh xuất khẩu và xây dựng các nền kinh tế hiệu quả.
Mục tiêu dài hạn của APEC được nêu rõ trong Tuyên bố Bogor 1994 của các nhà
lãnh đạo, đó là: “Thương mại và đầu tư tự do và thơng thống trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương vào năm 2010 đối với thành viên APEC phát triển và năm 2020 đối với
các thành viên APEC đang phát triển”.


Nguyên tắc hội nhập:

EU xây dựng trên nguyên tắc liên bang, sự liên kết hội nhập được bắt đầu từ kinh tế,
dần dần chuyển sang chính trị; xây dựng các thể chế chung vững chắc, đồng thời giữ vai
trò hạt nhân, bản sắc dân tộc của các nước thành viên, trên cơ sở luật pháp vững vàng.

APEC giữ vững vai trò độc lập của các nước thành viên, theo nguyên tắc đồng thuận,
bắt đầu từ liên kết về an ninh, chính trị, sau đó dần dần chuyển sang liên kết kinh tế, văn
hoá, xã hội, nhưng chưa đạt được những hiệu quả vững chắc.
3.2 Trình độ và mức độ hợp tác kinh tế quốc tế
Căn cứ vào các hình thức liên kết quốc tế, ta có thể phân tích tiến trình liên kết được
hình thành thông qua các giai đoạn như sau : cấp độ liên kết thấp nhất của hội nhập kinh
tế khu vực là PTC, cấp độ được thành lập bởi hai hay nhiều nước khi họ thực hiện biện
pháp cắt giảm một số loại thuế quan nhất định đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hóa từ các nước thành viên. FTA là cấp độ thứ hai là liên kết giữa hay nhiều nước nhằm
mục đích tự do hóa bn bán một số mặt hàng nhất định, bãi bỏ thuế quan xuất nhập
khẩu và tất cả các hạn ngạch giữa các nước thành viên. Từ đó thành lập thị trường thống
nhất giữa các nước nhưng mỗi nước thành viên vẫn thi hành chính sách thuế quan với các
nước ngồi FTA. CU là hình thức liên kết mà ngồi việc thỏa thuận loại bỏ các hàng rào
thuế quan và các rào cản khác với toàn bộ hoặc một phần hoạt động mậu dịch tự do
trong thương mại nội bộ, các nước thành viên cịn lại thiết lập một biểu thuế quan chung,
có chính sách thuế quan chung với nước ngồi CU. CM là liên kết kinh tế có sự tự do di
chuyển hàng hóa tư bản và sức lao động giữa các nước thành viên với nhau. Liên minh
kinh tế và tliên minh tiền tệ là hai giai đoạn phát triển của cấp độ liên kết EMU. Liên
minh tiền tệ là cấp độ liên kết cao cấp nhất mà ở đó các nước thành viên phải phối hợp
16


17

chính sách tiền tệ với nhau, cùng thực hiện một chính sách tiền tệ thống nhất và cuối
cùng là sử dụng một đồng tiền chung thống nhất. Liên minh châu Âu EU đã đạt được tới
cấp độ cao nhất này kể từ khi cho ra đời đồng tiền chung châu Âu EURO vào ngày
1/1/2002.
APEC với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sự thịnh vượng trong khu vực
đồng thời thắt chặt các mối quan hệ trong cộng đồng Châu Á – Thái Bình Dương mới chỉ

đáp ứng được các yếu tố về tự do hoá thương mại và đầu tư, tạo thuận lợi cho thương mại
và đầu tư, và hợp tác kinh tế kỹ thuật với các chương trình hành động tập thể (CAP) và
chương trình hành động quốc gia (IAP) của từng thành viên hơn nữa mục tiêu mà APEC
hướng tới không phải là để xây dựng một khối thương mại, một liên minh quan thuế hay
một khu vực mậu dịch tự do như kiểu EU, mà là một diễn đàn kinh tế mở, nhằm xúc tiến
các biện pháp kinh tế, thúc đẩy thương mại và đầu tư giữa các nến kinh tế thành viên trên
cơ sở hoàn toàn tự nguyện trong khi thực sự mở cửa đối với tất cả các nước và khu vực
khác. Vì vậy, APEC khơng thuộc bất kì hình thức hội nhập kinh tế khu vực nào. Như vậy
theo quan điểm phổ biến có thể coi APEC là một thị trường chung. Hay như AEC, với
mục tiêu trở thành “một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất” AEC cũng mới chỉ đáp
ứng được hai yếu tố là sự tư do hóa thương mại và tự do di chuyển các yếu tố sản xuất.
Xét trên lý thuyết, AEC mới chỉ cao hơn mức hội nhập FTA nhưng chưa thể là một CM.
Như vậy, về mặt cấu trúc liên kết kinh tế giữa các quốc gia châu Á và châu Âu có điểm
tương đồng là các cộng đồng kinh tế có quá trình hợp tác lâu dài và tương đối ổn định,
cùng hướng tới mục tiêu hình thành và phát triển một thị trường khu vực chung duy nhất
thúc đẩy sự tự do thương mại tuy nhiên về tổng thể và mục tiêu cộng đồng kinh tế châu Á
và châu Âu này có những điểm khác biệt như sau:
Tại cộng đồng kinh tế châu Á nói chung cũng như APEC hay ASEAN nói riêng liên
minh kinh tế mới chỉ dừng lại ở mục tiêu tạo lập thị trường chung, tự do hóa thương mai
nhưng các nước thành viên khơng thực sự có sự gắn kết với nhau như một liên minh
thống nhất về kinh tế. Như APEC nội dung hoạt động xoay quanh 3 trụ cột chính là tự do
hố thương mại và đầu tư, tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, và hợp tác kinh tế kỹ
thuật với các chương trình hành động tập thể (CAP) và chương trình hành động quốc gia
17


18

(IAP) của từng thành viên. Nói cách khác, mục tiêu của APEC không phải là để xây dựng
một khối thương mại, một liên minh quan thuế hay một khu vực mậu dịch tự do như kiểu

EU, NAFTA hay AFTA, mà là một diễn đàn kinh tế mở, nhằm xúc tiến các biện pháp
kinh tế, thúc đẩy thương mại và đầu tư giữa các nến kinh tế thành viên trên cơ sở hoàn
toàn tự nguyện trong khi thực sự mở cửa đối với tất cả các nước và khu vực khác. Còn
với mục tiêu tạo lập một khu vực kinh tế có sức cạnh tranh cao, phát triển kinh tế đồng
đều để hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế thế giới của ASEAN, trên con đường hội nhập
với nền kinh tế toàn cầu liên minh này đã gần chạm được tới mức độ hợp tác CM như đã
nêu ở nội dung trên bằng cách thực hiện các hành động cụ thể như cắt giảm thuế quan
CEPT, tất cả các quốc gia trong khu vực đều phải cắt giảm thuế quan xuống từ 0%-5%
giảm thiểu biện pháp phi thuế quan, chương trình thống nhất hải quan đã được ASEAN
thực hiện một cách hiệu quả.
Ở cộng đồng kinh tế châu Âu, EU đã đạt tới hình thức liên kết cao nhất là phát hành
đồng EURO như đã nêu ở nội dung trên. Khi đạt tới mức độ liên kết này tại EU hầu như
không con rào cản đối với các yếu tố cơ bản của sản xuất như: hàng hóa, dịch vụ, vốn và
lao động có thể hồn tồn tự do di chuyển giữa các quốc gia thành viên. Đồng tiên được
thay bằng đồng tiên chung EURO và ngân hàng chung với các quyết sách tiền tệ chung
cũng như mục tiêu lạm phát chung được thực hiện, rủi ro về tiền tệ bị loại bỏ bằng việc
thực hiện đồng tiền chung, tất cả các vấn đề nằm trong phạm vi Cộng đồng được các
quốc gia thành viên chuyển giao chủ quyền cho Cộng đồng kinh tế châu Âu.

II. Khả năng hình thành và phát triển liên minh tiền tệ châu Á
1. Khái niệm và vai trò hợp tác tiền tệ quốc tế

1.1 Khái niệm
Liên minh tiền tệ là hình thức kinh tế cao nhất, tiến tới lập "quốc gia kinh tế
chung" của nhiều nước.
Có những đặc điểm sau:

18



19


Xây dựng chính sách kinh tế chung, trong đó có chính sách kinh tế đối ngoại,

chính sách ngoại thương.
• Hình thành đồng tiền chung thống nhất cho đồng tiền riêng của các nước thành




viên
Thống nhất chính sách lưu thơng tiền tệ
Xây dựng hệ thống Ngân hàng chung thay cho Ngân hàng Trung ương các nước
Xây dựng chính sách quan hệ tài chính- tiền tệ chung đối với các nước ngồi liên

minh và các tổ chức tài chính- tiền tệ quốc tế
• Tiến tới thực hiện liên minh về chính trị
1.2 Vai trò của hợp tác tiền tệ quốc tế
Qua những đặc điểm của liên minh tiền tệ, ta thấy được vai trị vơ cùng quan trọng
của liên minh tiền tệ với kinh tế khu vực, đó là: hoạch định chính sách kinh tế chung của
khu vực, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, tăng số người lao động tạo thêm việc làm giải
quyết nạn thất nghiệp; tạo điều kiện để nâng cao năng suất lao động và thúc đẩy quá trình
phát triển bền vững, bình ổn giá trong quá trình lưu hành đồng tiền chung, đảm bảo sự di
chuyển, lưu thơng tự do về người, vốn, hàng hóa và dịch vụ Thị trường nội địa nằm trong
chương trình nghị sự chính của đồng tiền chung để theo đuổi cải cách cơ cấu, được hỗ trợ
bởi chính sách của đồng tiền chung về cạnh tranh và hỗ trợ nhà nước
Liên minh tiền tệ xây dựng một khung pháp lí tốt nhất và đủ mạnh để vận hành
các chính sách kinh tế trong khu vực các quốc gia trong khu vưc phải tuân theo khung
pháp lí này

Liên minh tiền tệ hoạch định các chương trình hỗ trợ các thành viên gặp khó khăn
về kinh tế để đảm bảo sự phát triển bền vững, đồng đều trong khu vực. Đồng thời để ra
các biện pháp kịp thời bảo vệ nền kinh tế khu vực trước các yếu tố bất lợi từ bên ngồi
2. Điều kiện để hình thành liên minh tiền tệ

2.1. Điều chỉnh kinh tế của các nước thành viên để hội nhập theo tiêu chí thống
nhất.
Hiệp ước Masstricht năm 1991 đã đề ra thời gian biểu chi tiết và những điều kiện để
các nước tham gia vào giai đoạn cuối của quá trình hội nhập tiền tệ châu Âu. Mục đích
19


20

của hiệp ước Masstricht: nhằm hạn chế sự biến động của tỷ giá hối đoái thực tế giữa các
nước thành viên EMU và tránh khả năng một số nước thi hành chính sách tài khố lỏng,
dẫn đến áp lực lạm phát trong toàn bộ liên minh. Nội dung: Đạt được mức độ ổn định cao
về giá cả, thể hiện ở tỷ lệ lạm phát (trong 12 tháng trước đó) khơng quá 1,5% so với tỷ lệ
lạm phát của 3 nước thành viên có tỷ lệ lạm phát thấp nhất. Duy trì tỷ lệ lãi suất dài hạn
ổn định sao cho trung bình của thời kỳ mười hai tháng trước đó khơng q 2% so với
mức trung bình của ba nước thành viên có giá cả ổn định nhất khu vực. => Hai tiêu chí
(1) và (2) chủ yếu nhằm mục đích hạn chế sự biến động của tỷ giá thực tế khi tỷ giá danh
nghĩa đã được ấn định. Tuân thủ biên độ dao động bình thường mà cơ chế tỷ giá hối đoái
của EMS cho phép cụ thể là một nước thành viên không được chủ ý phá giá đồng tiền của
mình so với tỷ giá trung tâm với một đồng tiền của một nước khác. => Tiêu chí (3) sẽ
buộc các nước thành viên tương lai khi hoạch định chính sách tiền tệ phải cân nhắc đến
lợi ích của cả khối chứ khơng chỉ là lợi ích của nước mình. Duy trì tình hình tài chính của
chính phủ ổn định, ngân sách chính phủ thâm hụt khơng q 3% GDP và tỷ lệ nợ chính
phủ trên GDP khơng vượt quá 60%. => Mục đích của tiêu chí (4) là để tránh sự mất cân
đối của một nước thành viên ảnh hưởng tiêu cực đến một nước thành viên khác thơng qua

áp lực thực hiện chính sách tiền tệ lỏng quá mức hay thậm chí là cho vay để cứu nguy
cho chính phủ nước đó. Bên cạnh đó các điều kiện này cịn nhằm tạo ra một mơi trường
ổn định giá cả và dần dần chuyển các chính sách kinh tế vĩ mơ từ phục vụ lợi ích của
từng nước sang phục vụ lợi ích của cả liên minh. à Như vậy, điều chỉnh kinh tế để hội
nhập là một tiền đề quan trọng để tránh sự bất ổn định về kinh tế vĩ mơ và do đó, là một
yêu cầu quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị cho sự ra đời của một đồng tiền chung.
2.2. Thiết lập một cơ chế liên kết tỷ giá
Nhìn lại quá trình phát triển của cơ chế liên kết tỷ giá ở châu Âu, chúng ta có thể thấy
cơ chế này đã trải qua ba giai đoạn lớn như sau:
Giai đoạn một bắt đầu từ khi thành lập Cộng đồng vào năm 1957 cho đến khi thiết
lập Hệ thống tiền tệ châu Âu năm 1979. Sự phối hợp trên lĩnh vực tỷ giá hối đối ở giai
đoạn này nhìn chung cịn lỏng lẻo, kể cả trong khuôn khổ Hệ thống Bretton Woods cũng
20


21

như cơ chế "Con rắn tiền tệ" của các nước châu Âu. Trên thực tế, các nước đều đã nhận
thấy nhu cầu phối hợp trong lĩnh vực tỷ giá hối đối cũng như chính sách tài chính và tiền
tệ và đã thành lập một số uỷ ban nhằm mục đích thúc đẩy các hoạt động này như Hội
đồng các Bộ trưởng Tài chính, Uỷ ban châu Âu, Hội đồng các thống đốc NHTW của
Cộng đồng... Tuy nhiên, sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ và cuộc khủng hoảng
dầu lửa lần thứ nhất nổ ra năm 1973, các nước đã khơng thể thống nhất được về một biện
pháp đối phó chung. Mỗi nước tự đưa ra chính sách tài khố và tiền tệ riêng của mình để
đối phó và tỷ giá hối đoái càng trở nên bất ổn định. Cuối cùng, các nước áp dụng chính
sách kinh tế vĩ mơ lỏng đã buộc phải rút lui khỏi cơ chế "Con rắn tiền tệ" và thả nổi đồng
tiền của mình.
Giai đoạn hai được đánh dấu bằng sự ra đời của Hệ thống tiền tệ châu Âu và kéo dài
đến khi xảy ra cuộc khủng hoảng cơ chế tỷ giá ERM vào năm 1992-1993. Giai đoạn này,
các nước châu Âu đã đạt được những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực liên kết tỷ giá hối

đoái, và dần dần đã đạt được một mức độ phối hợp đáng kể trong lĩnh vực chính sách tài
chính, tiền tệ. Giai đoạn đầu của Hệ thống tiền tệ châu Âu cũng gặp phải những vấn đề
hệt như giai đoạn "Con rắn tiền tệ", các nước thành viên liên tục phải điều chỉnh tỷ giá
hối đoái. Tuy nhiên, dần dần, với một ngân hàng trung ương độc lập và chính sách tiền tệ
theo đuổi mục tiêu ổn định giá cả, đồng Mark Đức đã trở thành nước neo giá danh nghĩa
cho đồng tiền các nước trong hệ thống. Một số nước, cụ thể như Pháp, đã sử dụng tỷ giá
hối đoái so với đồng D-Mark làm phương tiện chính để ổn định kinh tế vĩ mơ. Các lần
điều chỉnh tỷ giá trở nên thưa hơn và kể từ năm 1987 cho đến cuộc khủng hoảng của
ERM vào năm 1992 thì khơng có lần điều chỉnh tỷ giá trung tâm nào. Thời kỳ cuối của
giai đoạn này đã chứng kiến một cuộc khủng hoảng tỷ giá, Italia và Anh rời bỏ cơ chế tỷ
giá còn biên độ dao động của các nước còn lại được mở rộng tới ±15%.
Giai đoạn cuối cùng bắt đầu từ năm 1993 và kéo dài cho tới nay. Đây là giai đoạn
phối hợp chính sách kinh tế vĩ mơ thành cơng với các mục tiêu chung về các chính sách
tài khố, tiền tệ, và tỷ giá hối đoái theo Hiệp ước Masstrict. Việc biên độ dao động được
mở rộng tới ±15% vào tháng 8/1993 đã cho phép các nước có được một sự linh hoạt nào

21


22

đó trong vấn đề tỷ giá hối đối, giảm bớt sự căng thẳng của thị trường ngoại hối và nguy
cơ các cuộc tấn công đầu cơ.
2.3. Tạo lập một đồng tiền khu vực và hình thành Ngân hàng Trung ương độc lập
với chính sách tiền tệ thống nhất.
Liên minh tiền tệ không thể tồn tại nếu thiếu một đồng tiền chung. Ở Liên minh tiền
tệ châu Âu, đồng tiền chung với tên gọi đồng Euro đã được phát triển từ đơn vị kế toán
của châu Âu lên thành đơn vị tiền tệ châu Âu, đồng ECU không chỉ được sử dụng để tính
tốn mà cịn được sử dụng làm giá trị trung tâm của cơ chế tiền tệ châu Âu, làm phương
tiện thanh toán trong các giao dịch giữa các NHTW trong Cộng đồng. Ngày 1/1/1999

đồng Euro đã chính thức ra đời và tồn tại với đầy đủ các chức năng của một đồng tiền, nó
được thay thế cho đồng ECU với tỷ lệ 1:1 . Mục tiêu quan trọng nhất của ECB là duy trì
sự ổn định giá cả của tồn khu vực đồng Euro, vì EU cho rằng sự ổn định giá cả sẽ là
điều kiện tiên quyết để tạo ra một môi trường ổn định để khuyến khích các hoạt động
kinh tế, tạo cơng ăn việc làm, và nói một cách tổng quát là tăng phúc lợi xã hội, do đó, sẽ
góp phần đạt được các mục tiêu chung của Cộng đồng. Ngân hàng trung ương của liên
minh và hệ thống các ngân hàng trung ương quốc gia phải đảm bảo sự độc lập trong quá
trình hoạch định và thực thi các nhiệm vụ về chính sách tiền tệ của mình. Chỉ khi có được
sự độc lập đó thì mục tiêu ổn định giá cả mới có thể được thực hiện một cách hiệu quả.
Trên thực tế, hệ thống ngân hàng trung ương châu Âu đã và đang tồn tại độc lập, không
chịu sức ép của một thế lực chính trị nào nhằm phục vụ cho các mục tiêu và lợi ích ngắn
hạn của họ.
3. Khả năng hình thành và phát triển liên minh tiền tệ châu Á
3.1 Sự cần thiết của việc hình thành một đồng tiền chung?
Xuất phát từ thực tế
• Sau khủng hoảng tài chính — kinh tế châu Á năm 1997, các nước châu Á liên tục
hợp tác chặt chẽ về kinh tế - tài chính và người ta cũng đã tính đến một hướng đi mới
trong q trình hợp tác, thậm chí hợp nhất đơn vị tiền tệ tại khu vực
• Sự trao đổi, giao lưu thương mại giữa các nước châu Á ngày càng tăng đặc biệt là
các quốc gia Đông Nam Á với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc
22


23

• Tháng 11/2002, các nhà lãnh đạo ASEAN cũng nhất trí khám phá khả năng hình
thành một Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào 2020 với sự hội nhập kinh tế ở
mức độ
cao hơn.
Xuất phát từ điều kiện khách quan:



Ý tưởng về một đồng tiền châu Á được đề xuất lần đầu tiên bởi thủ tướng

Malaysia Mahathir Mohamad tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN năm 1997.
• Năm 2003, "cha đẻ" của đồng Euro, người đã giành giải Nobel về kinh tế học, ông
Robert Mondale cũng đã gợi ý việc xây dựng một đồng tiền chung châu Á, kiểu như
đồng "Nhân dân tệ châu Á". Mục đích của việc xây dựng đồng tiền này là nhằm thúc
đẩy hợp tác và phát triển kinh tế trong khu vực lên một tầm cao mới.
• Cuộc họp của các thành viên ADB tại Manila ngày 13-1-2006 cùng với tuyên bố
về một đồng tiền chung châu Á
• Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, dự trữ bằng USD dần bị phân tán,
trong khi đồng Euro và yên Nhật đã trở thành một trong những đồng tiền đáng tin cậy
cho các nguồn vốn dự trữ. Tuy nhiên, do sức cạnh tranh của kinh tế châu Âu và Nhật
Bản bị suy giảm nên USD vẫn là đồng tiền mạnh nhất.
Do đó, nhu cầu hình thành đồng ACU càng cần thiết, đóng góp rất lớn thúc đẩy kinh
tế châu Á phát triển, củng cố thêm quá trình liên kết kinh tế châu Á, phù hợp với trào
lưu tồn cầu hóa.
3.2 Tác động của việc hình thành liên minh tiền tệ tại châu Á đối với nền kinh tế khu
vực nói riêng và nền kinh tế nói chung:


Đối với khu vực:
Những lợi thế về kinh tế:

 Thuận lợi trong việc giảm tính dễ bị tổn thương bởi sự biến động tỷ giá hối đoái.
 Cho phép phát hành trái phiếu bằng đồng tiền tệ khu vực và có lợi cho việc khắc
phục bất bình đẳng quốc tế.
 Việc xây dựng tính độc lập của Châu Á về hệ thống hỗ trợ và giám sát tài chính
riêng sẽ làm cho kinh tế tồn cầu và hệ thống tài chính thêm vững chắc hơn và có

23


24

khả năng phát triển kinh tế thị trường phù hợp với đặc điểm riêng khu vực Châu
Á.
 Thúc đẩy thương mại trong khu vực Châu Á. Lý do căn bản của việc hình thành
thỏa thuận thương mại khu vực như AFTA, hay APEC là dỡ bỏ các hàng rào đối
với thương mại, thơng qua đó tăng cường thương mại trong nội bộ của các nước
trong khu vực. Để có thể tối đa hóa lợi ích của các thương mại giữa các quốc gia
cần thiết phải có một đơn vị thanh toán chung. Tỷ giá hối đoái biến động sẽ cản trở
các dòng thương mại do tăng rủi ro cho các nhà xuất nhập khẩu.
Những lợi thế về chính trị:
Bao gồm sự thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau và phối hợp chính trị uyển chuyển trong khu vực,
đóng góp cho một ý thức về bản sắc Châu Á.


Đối với thế giới:

 Trong quá trình giới thiệu một đồng tiền chung, tiến trình tự do hóa kinh tế sẽ
được giải quyết (bao gồm tự do hóa thương mại khu vực và các giao dịch vốn),
làm cho việc tiếp cận đến thị trường Châu Á dễ dàng. Tự do hóa thương mại tồn
cầu và giao dịch vốn sẽ thúc đẩy sự ổn định nền kinh tế tồn cầu.

 Xét về lợi thế chính trị, việc giới thiệu một đồng tiền chung Châu Á sẽ làm nó khó
hơn cho xung đột chính trị để xảy ra trong khu vực, tăng ổn định chính trị trong
khu vực Châu Á, góp phần ổn định chính trị tồn cầu.

 Xét về lợi ích kinh tế, nó sẽ làm cho sự phát triển kinh tế trong khu vực Châu Á

hiệu quả hơn và ổn định hơn, và sẽ tạo ra những thị trường đầy hứa hẹn cho phần
còn lại của thế giới…Hơn nữa, đối với những nền kinh tế quy mô nhỏ hơn, lưu
hành một loại tiền tệ lớn sẽ ổn định thương mại và giao dịch vốn, làm gia tăng sự
ổn định nền kinh tế.
3.3 Châu Á đã sẵn sàng cho việc hình thành một đồng tiền chung?
Hình thành chung đồng tiền chung châu Á là vấn đề thời sự vẫn còn nhiều điều bàn cãi.
Một bên cho rằng Châu Á nên có đồng tiền riêng và khơng khó để có. Đối lập với ý kiến
đó, một bên lại cho rằng việc có được đồng tiền chung châu Á là rất khó trong tình hình

24


25

hiện nay. Qua việc đánh giá những thuận lợi và khó khăn của việc hình thành đồng tiền
chung châu Á, chúng ta sẽ có cái nhìn tồn diện hơn về vấn đề này.
a) Những tiềm năng của khu vực
Thứ nhất, nền tảng kinh tế của các nước châu Á hiện nay tương đối tốt
Mặc dù các nước châu Á cũng bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm
2008 nhưng hiện nay các nước đã dần hồi phục và phát triển. Theo dự báo của ADB,
châu Á sẽ tiếp tục dẫn đầu tăng trưởng kinh tế toàn cầu bất chấp lạm phát đang diễn ra,
những bất ổn ở Trung Đông và sự căng thẳng trong chiến tranh thương mại giữa Trung
Quốc và Mỹ với tốc độ tăng trưởng là 6% (2018). Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
(OECD) cũng dự đoán mức tăng trưởng của GDP trong 5 năm từ 2019-2023 cho
ASEAN, Trung Quốc và Ấn Độ là 6,1%. OECD đánh giá triển vọng của các nền kinh tế
thành viên và không phải thành viên OECD vẫn rất sáng lạng. Theo OECD, tiêu dùng tư
nhân là yếu tố thúc đẩy tăng trưởng ở hầu hết các nước ASEAN, Trung Quốc và Ấn Độ.
Đầu tư hướng nội, các dự án cơ sở hạ tầng và xuất khẩu đều tạo ra việc làm. Hơn nữa,
tình trạng thất nghiệp có xu hướng giảm, có nghĩa là nhiều người kiếm được tiền hơn, đặc
biệt là trong trường hợp những người chuyển từ nông thôn đến thành phố, nơi lương cao

gấp hai đến ba lần. Theo OECD, bất chấp cuộc chiến tranh thương mại, triển vọng tốt cho
các nước châu Á vì sức mạnh của nhu cầu nội địa và niềm tin ngày càng tăng. Như vậy,
nền kinh tế phát triển khả quan như trên tạo tiền đề tốt cho sự hình thành đồng tiền chung
của khu vực.
Thứ hai, sự chuyển dịch trọng tâm kinh tế toàn cầu sang khu vực châu Á - Thái Bình
Dương
Châu Á - Thái Bình Dương đã và đang nổi lên là một trong những khu vực có nền kinh tế
phát triển sơi động nhất. Khu vực này đã và đang thu hút sự quan tâm của các nước, nhất
là các cường quốc và các nước này đều có những điều chỉnh chiến lược, nhằm tăng
cường ảnh hưởng, bảo vệ lợi ích của mình ở đây. Tình hình và tương quan lực lượng ở
khu vực và trên thế giới đang diễn ra những chuyển dịch hết sức nhanh chóng và sâu sắc.
Các nước đều đang tập trung điều chỉnh mơ hình tăng trưởng, tích cực hội nhập và liên
25


×