Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Quyền trẻ em Bài tập lớn Hôn Nhân Gia Đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.57 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Nêu như kêt hôn là khởi đầu để xác lập nên quan hệ vợ chồng thì ly hôn
có thể coi là điểm cuối của hôn nhân khi quan hệ này thực sự tan rã. Khi đời
sống hôn nhân không thể duy trì được nữa thì ly hôn là một giải pháp cần
thiêt cho cả đôi bên vợ chồng cũng như cho xã hội. Ly hôn giải phóng cho
các cặp vợ chồng và những thành viên trong gia đình thoát khỏi xung đột,
mâu thuẫn bê tắc trong cuộc sống. Nhưng đằng sau những cuộc ly hôn là
những hậu quả hêt sức nặng nề. Hậu quả có thể là những tổn thất về tinh
thần đặc biệt là đối với những người con bé nhỏ trong gia đình. Những đứa
trẻ đã quen được hưởng sự yêu thương chăm sóc, sự giáo dục quý giá từ tình
cảm gia đình bời vậy nên khi cha mẹ chúng ly hôn thì cuộc sống không hạnh
ohusc, thậm chí nhiều trẻ nhỏ vì hận cha mẹ đã bỏ nhà ra đi, tinh thần suyu
sụp trở nên bất cần đời và sa vào các tệ nan xã hội. Chính vì vậy, chúng ta
cần bảo vệ quyền lợi của cha em khi cha mẹ ly hôn.
NỘI DUNG
I.Khái quát về quyền trẻ em
1. Định nghĩa quyền trẻ em
Quyền trẻ em là tất cả những gì trẻ em cần có để được sống và lớn lên
một cách lành mạnh và an toàn. Quyền trẻ em nhằm đảm bảo cho trẻ em
không chỉ là người tiêp nhận thụ động lòng nhân từ của người lớn, mà các
em là những thành viên tham gia tích cực vào quá trình phát triển.
Công ước về Quyền trẻ em là Luật quốc tê để bảo vệ trẻ em, bao gồm 54
điều
Công ước đề ra các quyền cơ bản của con người mà trẻ em trên toàn thê
giới đều được hưởng, và được Liên hiệp quốc thông qua năm 1989.
Công ước xác định trẻ em là người dưới 18 tuổi, trừ khi luật pháp ở từng
nước cụ thể quy định tuổi thành niên. Luật pháp Việt Nam quy định trẻ em là
người dưới 16 tuổi. Các nhóm quyền của trẻ em bao gồm:
Quyền được sống còn: bao gồm quyền của trẻ em được sống cuộc sống
bình thường và được đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất để tồn tại và phát
triển thể chất. Đó là mức sống đủ, có nơi ở, ăn uống đủ chất, được chăm sóc


sức khoẻ. Trẻ em phải được khai sinh ngay sau khi ra đời.
Quyền được phát triển: gồm những điều kiện để trẻ em có thể phát triển
đầy đủ nhất về cả tinh thần và đạo đức, bao gồm việc học tập, vui chơi, tham
gia các hoạt động văn hoá, tiêp nhận thông tin, tự do tư tưởng, tự do tín


ngưỡng và tôn giáo. Trẻ em cần có sự yêu thương và cảm thông của cha mẹ
để trẻ phát triển hài hoà về cả thê chất và đặc biệt là tinh thần của trẻ.
Quyền được bảo vệ: bao gồm những quy định như trẻ em phải được bảo
vệ chống tất cả các hình thức bóc lột lao động, bóc lột và xâm hại tình dục,
lạm dụng matuý, sao nhãng và bị bỏ rơi, bị bắt cóc và buôn bán. Trẻ em còn
được bảo vệ khỏi sự can thiệp vô cớ vào thư tín và sự riêng tư.
Quyền được bảo vệ bao gồm cả không bị tra tấn, đánh đập và lạm dụng
trong trường hợp trẻ em làm trái pháp luật hay bị giam giữ.
Quyền được tham gia: tạo mọi điều kiện cho trẻ em được tự do bày tỏ
quan điểm và ý kiên về những vấn đề có liên quan đên cuộc sống của mình.
Trẻ em còn có quyền kêt bạn, giao lưu và hội họp hoà bình, được tạo điều
kiện tiêp cận các nguồn thông tin và chọn lựa thông tin phù hợp.
2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền trẻ em.
Nhiều thập kỷ qua, việc chăm sóc trẻ em ở hầu hêt các quốc gia trên thê
giới đã được quan tâm ở những mức độ khác nhau , song do các yêu tố chủ
quan và khách quan như thiên tai, mất mùa, chiên tranh hoặc do trình độ dân
trí thấp…trẻ em vẫn còn phải ghánh chịu những nỗi đau, những thiệt thòi, trẻ
em vẫn bị đói rét và vẫn bị giêt hại trong những cuộc chiên, thâm chí vẫn bị
buộc cầm súng ra trận, phải tự lao động để nuôi thân hoặc bị mua bán xâm
hại,…
Để nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiêu niên và nhi đồng là
trách nhiệm của toàn xã hội. Ngày 10/2/1948 Đại hội đồng Liên hợp quốc
thong qua và tuyên bố nghị quyêt số 217A về Quyền con người. Tại điều 25,
Liên hợp quốc đã thông báo rằng : ”Trẻ em có quyền được chăm sóc và giúp

đỡ đặc biệt, tất cả trẻ em trong hay ngoài giá thú đều được hưởng bảo trợ
xã hội như nhau”.
Tháng 2/1949 Hội phụ nữ châu Á họp ở Bắc Kinh đã có sang kiên đề
nghị Hội Phụ nữ dân chủ thê giới chọn một ngày thiêu nhi quốc tê để kêu
gọi toàn thê giới đấu tranh chống chiên tranh, bảo vệ hoà bình, bảo vệ nhi
đồng và là ngày đoàn kêt thiêu nhi quốc tê. Trong một phiên họp đã quyêt
định chọn ngày 1/6 hàng năm là ngày “Quốc tế bảo vệ thiếu nhi” . Kể từ
năm 1950 trở đi ngày 1/6 đã được tổ chức khắp thé giới.
Tháng 4/1952, Hội nghị Bảo vệ thiêu nhi thê giới có 64 nước tham gia
họp tại Viên – Áo đã nhất trí chính thức lấy 1/6 là ngày Quốc tê bảo vệ thiêu
nhi, điều đó khẳng định trẻ em là “đối tượng” được nhân loại toàn thê giới


quan tâm. Vì vậy ngày 20/11/1989, Liên hợp quốc đã thong qua và phê
chuẩn “Công ước về quyền trẻ em” bao gồm 54 điều khoản có hiệu lực từ
ngày 20/11/1990. Có thể nói Công ước về quyền trẻ em là một công ước đầy
tiên bộ xã hội, với tinh thần nhân đạo sâu sắc. Công ước đã chỉ ra tất cả
những quyền lợi mà trẻ em ở bất kỳ nơi nào trên thê giới đều được hưởng
thụ để trưởng thành đúng nghĩa một con người.
Viêt Nam là quốc gia phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em vào ngày
20/2/1990 và Công ước đã được dịch, in ấn, phát hành rộng rãi bằng những
cuốn sách nhỏ có thể bỏ túi. Nội dung công ước được tuyên truyền rộng rãi
trên các phương tiện thong tin đại chúng đã góp phần giác ngộ, giáo dục, bồi
dưỡng một thái độ đúng đắn về việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Tuy nhiên
chúng ta vẫn chưa thể yên tâm về những việc đã làm được mà phải thấy hêt
những mặt còn tồn tại. Đó là những tệ nạn xã hội hoàn toàn trái ngược với
bản chất tốt đẹp của chê độ ta.
3. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền trẻ em.
Trẻ em là đối tượng được quan tâm đặc biệt của mọi quốc gia. Và VIệt
Nam cũng là quốc gia nằm trong quy luật đó. Việt Nam là một đất nước có

kêt cấu dân số trẻ đồng thời trẻ em Việt Nam thong minh, hiêu học, dung
cảm vượt khóc,…các em sẽ là những người góp phần to lớn vào sự nghiệp
xây dựng đất nước. Xuất phát từ tinh thần nhân văn, nhân đạo và từ sự coi
trọng con người, coi trọng trẻ em, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật quan trọng ghi nhận vấn đề bảo vệ quyền trẻ em, đảm bảo điều
kiện tốt nhất cho trẻ em phát triển về thể chất,, trí tuệ và đạo đức. Sự ghi
nhận này mang lại có ý nghĩa rất to lớn:
Thứ nhất, nó thể hiện được sự quan tâm sâu sắc của Nhà nước đối với
công tác bảo vệ cũng như chăm sóc, giáo dục thể hệ trẻ, hướng đên mục tiêu
điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình, cụ thể hơn là các quyền lợi chính
đáng cho con cái, cho trẻ em.
Thứ hai, đây là cơ sở pháp lý cho việc đảm bảo thực hiện quyền công
dân, quyền con người trong phạm vi quốc gia. Cơ sở pháp lý làm căn cứ xử
lý các trường hợp vi phạm đảm bảo ý thức chấp hành nghiêm chỉnh pháp
luật, đảm bảo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Qua đó điều chỉnh
pháp luật, đảm bảo sự thống nhất trong áp dụng pháp luật. Qua đó điều
chỉnh các quy định không đảm bảo tính khả thi trong thực tê. Và thể hiện sự
cam kêt về mặt pháp luật của Việt Nam với cộng đồng quốc tê trong việc


bảo vệ quyền trẻ em. Từ đó đảm bảo cho trẻ em không chỉ là người tiêp thu
thụ động của người lớn mà trở thành chủ thể có quyền, có khả năng tạo dựng
cuộc sống phù hợp.
II. Cơ sở bảo vệ quyền trẻ em khi cha mẹ ly hôn
1. Cơ sở pháp lý
Áp dụng Luật hôn nhân và gia đình 2014,Bảo vệ quyền trẻ em khi cha mẹ
ly hôn được quy định tại các Điều 58 quy định về quyền, nghĩa vụ của cha
mẹ và con sau khi ly hôn; Điều 59 quy định Nguyên tắc giải quyêt tài sản
của vợ chồng khi ly hôn; Điều 81 quy định về trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn; Điều 82 quy định về Nghĩa vụ. quyền

của cha mẹ không trực tiêp nuôi con sau khi ly hôn; Điều 83 quy định về
Nghĩa vụ, quyền của cha,mẹ trực tiêp nuôi con đối với người không trực tiêp
nuôi con sau khi ly hôn; Điều 84 quy định về Thay đổi người trực tiêp nuôi
con sau khi ly hôn; Điều 110 quy định nghĩa vụ cấp dưỡng cha, mẹ đối với
con; Điều 119 về "Người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng";
Ngoài ra còn quy định tại:
- Luật bảo vệ, chăm sóc và chăm sóc trẻ em năm 2004
- Nghị định 71/2011/NĐ- CP hướng dẫn luật bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em.
- Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT- TANDTC- VKSNDTC – BTP
về việc hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình 2014
2. Cơ sở thực tiễn.
Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ
huyêt thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng. Khi vợ chồng ly hôn, quan hệ hôn
nhân chấm dứt, tuy nhiên quan hệ huyêt thống hay quan hệ nuôi dưỡng
không hề thay đổi. Vì vậy, trên phương diện pháp lý, các quyền và nghĩa vị
của vợ chồng đối với nhau sẽ chấm dứt nhưng đối với con thì không. Khi ly
hôn, vợ chồng cảm thấy thoả mãn vì tìm thấy lối thoát cho bản than nhưng
không tránh khỏi việc gây đâu khổ cho con cái – những đứa trẻ vô tội trong
sự tan vỡ của gia đình. Cha mẹ ly hôn pháp luật quy định con chỉ được sống
chung với một người. Đó là hậu quả pháp lý mà trẻ phải chịu, vì vậy để bảo
về quyền cho trẻ em, pháp luật quy định con chỉ được sống với một người và
người đó phải đảm bảo là người có khả năng đảm bảo quyền lợi về mọi mặt
cho chúng còn người kia sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình một cách gián tiêp.


Sau khi ly hôn,quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con vẫn không hề thay
đổi nhưng do con chỉ được sống với một người nên cách thức thựuc hiện các
quyền và nghĩa vụ của cha mẹ có một số thay đổi. Đặc biệt đối với người
không trực tiêp nuôi con, trẻ chỉ nhận được sự chăm sóc, cấp dưỡng qua việc

thăm nom, cấp dưỡng. Đây chỉ là một sự cố gắng bù đắp nhưng không thể
lấp đầy khoảng trống về tình cảm trong long đứa trẻ con ngây thơ. Chính
những hậu quả pháp lý đó đã gây ra những hậu quả về mặt xã hội rất nặng
nề, ảnh hưởng tới cuộ sống và phát triển của các em.
Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước. là lớp người
kê tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nêu không được sự quan tâm
của xã hội, sự bảo vệ của pháp luật thì những mầm non của hôm nay không
thể trở thanh những công dân có ích cho xã hội mai sau được. Những trẻ có
cha mẹ ly hôn phải chịu nhiều thiệt thòi so với các bạn bè đồng lứa, hơn nữa,
chúng vẫn còn chưa thể tự lo cho mình, vì vậy cần có sự quan tâm đặc biệt
đên đối tượng này. Mặt khác, chúng đang trong quá trình hình thành và phát
triển nhân cách và nhận thức, rất cần được dạy dôc, chỉ bảo, định hướng của
những người đi trước. Đây cũng là lứa tuổi dễ bị lợi dụng, dễ sa vào cạm bẫy
nên sự quan tâm, sự định hướng của người lớn lại càng cần thiêt.
III.Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn theo Luật
HN&GĐ năm 2014
1. Các con được bảo vệ khi cha mẹ ly hôn
Khi ly hôn, vợ chồng thoát khỏi cuộc sống không hạnh phúc, căng
thẳng nhưng thiệt thòi nhất lại thuộc về những đứa con. Vì vậy khi rơi vào
cảnh cha mẹ ly hôn nhiều đứa trẻ đã trở nên thay đổi tính nêt, chúng già dặn
hơn so với tuổi hoặc trở thành những đứa trẻ trầm lặng, lầm lì vì mặc cảm
với bạn bè hoặc trở nên thù ghét cha mẹ, thù ghét cuộc đời và rất dễ hư
hỏng.. Khoản 1 Điều 81 Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định:” Sau khi ly
hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự
hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo
quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.”
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì đối tượng con mà cha mẹ có
nghĩa vụ nuôi dưỡng và được pháp luật bảo vệ quyền lợi khi cha mẹ ly hôn
có thể chia làm hai nhóm:



1.1.

Các con chưa thành niên
Theo quy định của pháp luật dân sự, người chưa thành niên là người
chưa đủ 18 tuổi. Ở lứa tuổi này, các em còn ngây thơ chưa thể tự lo cho bản
thân mình, chúng chưa đủ sức khoẻ và trình độ tham gia vào các quan hệ lao
động phức tạp để tự nuôi sống mình. Hơn nữa pháp luật cũng quy định
chúng chưa đủ quyền và nghĩa vụ của một công dân độc lập. Rất nhiều
trường hợp cần có người đại diện để thực hiện các giao dịch dân sự hoặc
tham gia vào các quan hệ pháp luật khác. Vì vậy, chúng có quyền được
hưởng những quyền mà mọi trẻ em được hưởng như học tập, vui chơi, sự
quan tâm chăm sóc,…
1.2.Các con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không
có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
Đây là những người về độ tuổi đã thoả mãn quy định của pháp luật là
một công dân độc lập nhưng họ lại bị khiêm khuyêt về thể chất hoặc nhân
thức nên không có khả năng lao động. Nêu không có tài sản đề tự nuôi mình
thì họ cũng không biêt bám víu vào ai để tồn tại được nên pháp luật quy định
việc cha mẹ chăm sóc nuôi dưỡng con trong trường hợp này là nghĩa vụ bắt
buộc. Quy định này thể hiện tính nhân văn sâu sắc, tính nhân đạo của pháp
luật.
Người mất NLHVDS quy định theo BLDS là người do bị bệnh tâm
thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của
mình và có quyêt định của Toà án tuyên bố người đó mất NLHVDS. Người
mất NLHVDS có thể có sức khoẻ nhưng họ lại không ý thức được viẹc mình
làm vì vậy họ cần phải có người trông nom, chăm sóc và đại diện trước pháp
luật.
2. Vấn đề con chưa thành niên, con đã thành niên bị tàn tật, mất

NLHVDS, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự
nuôi mình cho ai nuôi dưỡng, giáo dục trực tiếp
2.1. Nguyên tắc vì quyền lợi mọi mặt của con
Khi xác định người trực tiêp nuôi con phải dựa vào quyền lợi của con
mà không dựa trên những toan tính hay quyền lợi của cha mẹ chúng. Khoản
2 Điều 81 Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định rõ về vấn đề này, đây là một
quy định thể hiện tính ưu việt của pháp luật XHCN. Việc xác định quyền lợi
về mọi mặt của con phải căn cứ theo hoàn cảnh người trực tiêp nuôi con.
Quyền lợi về mọi mặt của con không chỉ đáo ứng nhưng nhu cầu tối thiểu


mà còn bao gồm những điều kiện cần thiêt cho sự phát triển về thể chất và
trí tuệ của con.
Xuất phát từ lợi ích của con, Khoản 2 Điều 81 Luật HN&GĐ 2014 quy
định: “ Nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của
con”. Như vậy, pháp luật đã giành cho những đứa con từ đủ 7 tuổi quyền lựa
chọn sẽ ở với chay hoặc mẹ. Ở độ tuổi này, đứa con đã có thể nhận thực
được cha hay mẹ là người quan tâm, chăm sóc mình nhiều hơn, ở với ai thì
tốt hơn cho chúng.Việc hỏi ý kiên của con giúp nói lên tâm tư, nguyện vọng
của mình, điều này hoàn toàn chính đáng và nó cũng phù hợp với tinh thần
của Điều 12 Công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ em mà Việt Nam là quốc
quốc thành viên: “Các Quốc gia thành viên phải bảo đảm cho trẻ em có đủ
khả năng hình thành quan điểm riêng của mình, được quyền tự do phát biểu
những quan điểm đó về mọi vấn đề tác động đến trẻ em, và những quan
điểm của trẻ em phải được coi trọng một cách thích đáng, tương ứng với độ
tuổi và mức độ trưởng thành của trẻ em”. Tuy nhiên, các sự lựa chọn của
con hầu như đều thiên về cảm tính, vì vậy sự lựa chọn này cũng chỉ là yêu tố
để Toà “xem xét”.
Khoản 3 Điều 81 Luật HN&GĐ 2014 còn quy định một trường hợp đặc
biệt: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường

hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích
của con.” . Dưới 36 tháng, hầu như mọi hoạt động của trẻ đều cần sự trông
chừng của người lớn. Hơn nữa ở độ tuổi này, đứa trẻ nào cũng cần nguồn
dinh dưỡng quý giá từ người mẹ. Vì vậy, người gần gũi và chăm bẵm cho trẻ
thường là mẹ. Người mẹ cũng là người khéo léo kiên nhẫn và chu đáo hơn
trong việc nuôi con, đặc biệt là khi con còn nhỏ. Vì vậy, nêu không có lý do
gì khác thì việc để cho người mẹ quyền trực tiêp nuôi con dưới 36 tháng là
vì lợi ích mọi mặt của đứa trẻ.
2.2. Trường hợp có thoả thuận của cha mẹ
Trường hợp thuận tình ly hôn, Toà án tôn trọng sự thoả thuận của hai
bên về vấn đề con cái và tài sản. Tuy nhiên, trên thực tê, không phải sự thoả
thuận nào cũng là hợp lý và quyền lợi của con. Có những trường hợp người
không đủ kiện đảm bảo cuộc sống cho con lại nhận nuôi con còn người có
đủ điều kiện lại trốn tránh trách nhiệm nuôi con hoặc có những sự thoả thuậ


về mức cấp dưỡng là không hợp lý, sống với người trực tiêp nuôi con, đứa
con sẽ không có cơ hội học hành và phát triển trí tuệ…Như vậy, thoả tuận đã
đạt được như thức tê đứa con lại không được đảm bảo quyền lợi. Toà án nên
can thiêp vào sự thoả thuận này vì dù sao đây cũng là một sự thoả thuận
không hợp lý.
2.3. Trường hợp không có sự thoả thuận của cha mẹ
Theo quy định của pháp luật, khi các bên không thoả thuận được thì
Toà án sẽ là người đưa ra quyêt định, căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con.
Toà án phải hêt sức cẩn thận xem xét tất cả các điều kiện phải căn cứ vào
nhiều yêu tố đạo đức, lối sống, điều kiện kinh tê, công tác, thời gian, môi
trường sống…của cả cha và mẹ, ai là người đã trựuc tiêp chăm sóc con trước
khi ly hôn.
Trên thực tê, yêu tố đạo đức, lối sống của người trực tiêp nuôi con được

đặt lên hàng đầu. Khi quyêt định, Toà án nên trược ly hôn thì ail à người
thường xuyên ở bên cạnh con và chăm sóc con, gắn bó với con nhiều hơn để
tránh thiệt thòi cho con. Khả năng kinh tê của người trực tiêp nuôi con cũng
là vẫn đề quan trọng. Bởi vì người trực tiêp nuôi con cũng là người có trách
nhiệm đảm bảo cuộc sống mọi mặt cho con, họ nuôi con theo khả năng của
mình , nguồn thu nhập của họ có được thường là nguồn chủ yêu và ổn định
để nuôi con. Ngoài ra môi trường suống mới cũng là một yêu tố đáng xem
xét. Bởi môi trường sống là yêu tố có tác động trực tiêp đên nhân cách cũng
như tính cách của đứa bé. Khi giải quyêt, Toà án cần tìm hiểu kỹ những lý
do dẫn đên ly hôn để quyêt định giao con cho ai trực tiêp nuôi để đảm bảo
một cuộc sống bình thường và ổn định cho trẻ.
3. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con sau khi ly hôn
3.1. Nghĩa vụ và quyền của người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con
Sau hi ly hôn, người trực tiêp nuôi dưỡng, giáo dục con là người cùng
sống với con trong một ngôi nhà, vì vậy họ không bị hạn chê quyền cha mẹ
đối với con.
3.1.1. Nghĩa vụ và quyền chăm sóc nuôi dưỡng con
Điều 12 Luật BVC&GDTE quy định : “ trẻ em có quyền được chăm
sóc và nuôi dưỡng để phát triển thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức”. Khi
vợ chồng ly hôn, việc chăm sóc, nuôi dưỡng con thuộc về người trực tiêp
nuôi con. Người không trực tiêp nuôi con chỉ được thực hiện gián tiêp thong
qua việc thăm nom và cấp dưỡng nuôi con. Như vậy, dù không cùng chung


sống nhưng nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục con vẫn được đặt ra cho cả hai
người.
3.1.2. Nghĩa vụ và quyền giáo dục con
Khoản 1 Điều 72 Luật HN&GĐ quy định: “Cha mẹ có nghĩa vụ và
quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập”. Điều này
cũng phù hợp với quy định của Luật BVCS&GDTE: “trẻ em có quyền được

học tập” (Khoản 1 Điều 16) và “Gia đình, nhà nước có trách nhiệm bảo
đảm cho trr em thực hiện quyền học tập; học hết chương trình phổ cập; tạo
điều kiện cho trẻ em theo học ở trình độ cao hơn” ( Khoản 1 Điều 28 Luật
BVCS&GDTE). Giáo dục trẻ em không chỉ là nghĩa vụ của cha mẹ chúng
mà nó là sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội: “Việc
bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình, nhà trường,
Nhà nước, xã hội và công dân” (Điều 5 Luật BVCS&GDTE). Khi giao con
cho ai nuôi dưỡng cần phải cân nhắc kỹ tới việc học tập của trẻ và vai trò
của người trực tiêp nuôi con trong việc động viên, quản lý con trong học tập
và rèn luyện là rất quan trọng.
3.1.3. Quyền đại diện cho con
Khoản 1 Điều 73 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Cha mẹ là người
đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất
năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ
hoặc có người khác đại diện theo pháp luật”. Theo quy định của pháp luật
dân sự thì cha mẹ là người đại diện đương nhiên của con, trừ một số trường
hợp. Khi cha mẹ ly hôn mà có đối tượng cần phải chăm sóc nuôi dưỡng thì
người trực tiêp nuôi con đồng thời là người đại diện theo pháp luật của con
nêu họ đủ điều kiện. Để đàm bảo quyền lợi của con, pháp luật quy định
những trường hợp mà cha mẹ không được đại diên cho con được quy định
tại Khoản 1 Điều 85 Luật HN&GĐ năm 2014.
3.1.4. Nghĩa vụ bồn thường thiệt hại do con gây ra trong trường hợp pháp
luật quy định
Theo Điều 74 Luật HN&GĐ 2014 thì “ Cha mẹ phải bồng thường thiệt
hại co con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự
gây ra theo quy định của Bộ luật dân sự”
Khi ly hôn dù cha mẹ không thể cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con
nhưng về bản chất nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con vẫn không hề



thay đổi. Vì vậy, khi con gây thiệt hại thì cả cha và mẹ đều có trách nhiệm
bồi thường theo quy định, Tuy nhiên trên thực tê nêu thiệt hại mà con gây ra
là nhỏ mà chỉ một mình người trực tiêp nuôi con có thể tự bồi thường được
thì người đó thường đứng ra thực hiệ mà không cần tới sự hỗ trợ của người
kia. Mặt khác người trực tiêp nuôi dưỡng thường là đại diện pháp luật cuar
con, nên khi có thiệt hại do con gây ra thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại
thường do người đó dảm nhận. Không ít trường hợp, người không trực tiêp
nuôi con viện lý do không quản lý con mà trốn tránh nghĩa vụ này.
3.1.5. Quyền quản lý tài sản riêng của con
Điều 76 Luật HN&GĐ 2014 có quy định về điều này,tài sản riêng của
con là để phục vụ cuộc sống hiện tại và tương lai của con, vì vậy, người trực
tiêp nuôi con thường có trách nhiệm quản lý tài sản đó. Quy định này không
nhằm hạn chê quyền của con mà thực ra là vì quyền lợi của con. Vì ở lứa
tuổi này, người con chưa thực sự chin chắn và những quyêt định quan trọng
chúng không thể tự mình quyêt định một cách chính xác mà rất cần sự
hướng dẫn, chỉ bảo của cha mẹ - những người tường trải và hiểu con mình
hơn ai hêt.
3.2.

Nghĩa vụ và quyền của người không trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục
con.

3.2.1. Quyền thăm nom, chăm sóc
Khoản 3 Điều 82 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “ Sau khi ly hôn,
người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không
ai được cản trở” Thăm nom con là một quyền cơ bản đối với người không
trực tiêp nuôi con. Đối với người con, khi không được sống cùng với cha
hay mẹ là một thiệt thòi không gì bù đắp nổi. Vì vậy, pháp luật quy định cho
người không trực tiêp nuôi con có quyền thăm nom con đã bù đắp được
phần nào sự thiêu hụt, trống trải đó, tạo điều kiện cho con cái được hưởng

tình yêu thương, chăm sóc của cả cha và mẹ, tạo cơ hội con cái được thường
xuyên gặp gỡ, tiêp xúc với người cha hoặc mẹ không sống cạnh mình.
Ngoài việc cấp dưỡng nuôi con, sau ly hộ, người không trực tiêp nuôi
con không có quyền trực tiêp nuôi con, dó đó họ thực hiệ nghĩa vụ nuôi con
của mình bằng một phương thức rẩ đặc thù, đó là đóng góp vật chất để cùng
người trực tiêp nuôi con thực hiệ nghĩa vụ làm cha mẹ.


3.2.1. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con
Khoản 2 Điều 82 Luật HN&GĐ 2014 đã quy định:”cha, mẹ không trực
tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Như vậy khác với việc tăm
nom con, luật quy định cấo cưỡng là một nghĩa vụ của người không trực tiêp
nuôi con. Thực tê thì để tồn tại, trước hêt con người phải có vật chất đảm
bảo cuộc sống tối thiểu của mình. Vì vậy, cấp dưỡng nuôi con là một nghĩa
vụ không phải bàn cãi. Có thể hiểu cấp dưỡng nuôi con khi cha mẹ ly hôn là
việc người không trực tiêp nuôi con đóng góp tiền hoặc tài sản để tự nuôi
mình. Khi ly hôn, việc chăm sóc con sẽ dồn lên vai một người, vì vậy việc
nuôi dưỡng con sẽ gặp nhiều khó khan so với trước đây, sự đóng góp vật
chất là rất cần thiêt đó không chỉ là để duy trì cuộc sống ổn định cho con mà
còn thể hiện tinh thần trách nhiệm của cha mẹ. Đây không chỉ là nghĩa vụ
mà còn là quyền lợi của người không trực tiêp nuôi con. Người trực tiêp
nuôi con không thể vì hêt tình càm hay vì tự ái mà để những đứa con phải
chịu thiệt thòi hay thiêu thốn,người không trưc tiêp nuôi con cũng không thể
viện lí do người kia có đầy đủ điều kiện nuôi con mà trốn tránh nghĩa vụ của
mình.
4. Quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng ,giáo dục con
Sau khi vợ chồng ly hôn, việc giao con cho ai nuôi phải dựa vào nguyên
tắc vì quyền lợi mọi mặt của con. Tất cả những quy định về quyền và nghĩa
vụ của cha mẹ đều nhằm mục đích đảm bảo cho con một cuộc sống tốt nhất
có thể. Quyền lợi của con cái, nghĩa vụ của cha mẹ không chỉ xác định tại

thời điểm cha mẹ ly hôn mà cả trong suốt quá trình đó, cho đên khi con có
thể trở thành một công dân độc lập theo quy định của pháp luật. Vỳ vậy, sau
khi có sự ghi nhận của Toà án về ngừoi trực tiêp nuôi con trong các bản án
ly hôn, nêu quyền lợi của con không đượ đảm bảo thì vấn đề thay đổi người
trực tiêp nuôi con sẽ được đặt ra nêu có yêu cầu. Điều 84 Luật HN&GĐ có
quy định rõ về điều kiện để Toà án thay đổi người trực tiêp nuôi dưỡng, giáo
dục con và nghĩa vụ và quyền của cha mẹ sau khi thay đổi người trực tiêp
nuôi dưỡng, giáo dục con.
IV. Thực trạng về bảo vệ quyền trẻ em khi ly hôn
1. Thành tựu:


Về vấn đề giải quyêt ly hôn ở các địa phương trong cả nước cho thấy,
toá án đã vẫn dụng tốt các quy định về việc cha mẹ cấp dưỡng cho con sau
khi ly hôn. Thông qua công tác hoà giải, toà án đã giải thích cho vợ, chồng
hiểu rõ nghĩa vụ của mỗi bên đối với con chung khi họ ly hôn. Pháp luật quy
định cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con khi ly hôn vì quyền lợi của con
cũng là quyền và nghĩa vụ của cha mẹ. Giữa sự giúp đỡ của toà án, trong
phần lớn các vụ ly hôn, vợ chồng đã thoả thuận về việc nuôi con và cấp
dưỡng cho con một cách thoả đáng. Đồng thời do ý thức được vấn đề nên
cha mẹ đều thoả thuận người trực tiêp nuôi con (chiêm 73% đên 75%), có
trường hợp cả hai bên có nguyện vọng tha thiêt nuôi con kể cả khi có 1 con
chung (20% đên 24%) đặc biệt có những cặp vợ chồng vì nhiều lí do mà cả
cha mẹ đều dứt khoát không nhận trách nhiệm nuôi con ( chiêm 0,3%0,5%).
2. Hạn chế:
Thứ nhất, về vấn đề khi ly hôn toà án hỏi ý kiện nguyện vọng của các em
từ đủ 07 tuổi trở lên trong gia đình về vấn đề lựa chọn ở với ai ( Khoản 2
Điều 81 – Luật hôn nhân gia đình 2014) các em thường dè dặt thậm chí sợ
hãi và thong thường là không thể hiện được rõ nguyện vọng của mình đặc
biệt là khi trẻ em đều có tình cảm sâu sắc với cả cha và mẹ. Đây chỉ là lựa

chọn thiên về cảm tính mà chưa đạt được mục đích nhà làm luật đặt ra.
Thứ hai, Người trực tiêp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiêp trông
nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con ( Điểm b, khoản 2, Điều 84,
BLHNVGĐ 2014) thì có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiêp nuôi con
sau khi ly hôn. Một số trường hợp vì mâu thuẫn thù ghét nhau (là cha mẹ
của con chung) đã quên lợi ích của con. Có trường hợp, người không trực
tiêp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu
đên việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con đã vi phạm Điều 82
BLHNVGĐ 2014 hoặc bên trực tiêp nuôi con cấm đoán không cho bên kia
thực hiện quyền thăm nom con đúng theo quy định pháp luật. Do đó nhiều
trường hợp toà án phải giải quyêt hoặc cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách
nhiệm hình sự gây nên tình trạng căng thẳng mất trật tự an ninh xã hội.
Thứ ba, nhiều khi toà án khó xách định thời điểm người không trực tiêp
nuôi con phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Trong thời điểm bản án ly hôn
có hiệu lực pháp luật không trùng với thời điểm người không trựuc tiêp nuôi
con không cùng chung sống và đóng góp nuôi con với ngừoi trực tiêp nuôi


con, các toà án vẫn có những quan điểm khác nhau trong việc xác định mốc
thời gian thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng bắt đầu. Một số toà án xác định từ
khi con sống dưới sự trực tiêp nuôi dưỡng của một người mà người kia
không có sự đóng góp và việc nuôi con mặc dù họ có điểu kiện. Một số toà
án xác định thời điểm này là lúc bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật.
Thứ tư, về việc đóng góp phí tổn nuôi con sau khi cha mẹ ly hôn ( từ khi
đứa con còn nhỏ đên tuổi thành niên) còn gặp nhiều khó khan khi thi hành
án, nhiều vu án không thi hành được. Vì trong suốt quá trình đứa con lớn thì
hoàn cảnh sống và mức thu nhập của mỗi người cũng có những thay đổi
thậm chí gặp nhiều khó khăn
Ngoài ra, trong thực tiễn chúng ta còn thấy xuất hiện một số hiện tượng
về việc trẻ em bị bỏ rơi, không được giáo dục nuôi dưỡng, phải sống lang

thang hoặc sống trong trại trẻ mò côi sau khi cha mẹ ly hôn, dẫn đên quyền
lợi của các em bị xâm phạm nghiêm trọng.
3. Giải pháp
3.1. Giải pháp về mặt pháp lý.
Pháp luật cần quy định một căn cứ chung để xác định thời điểm người
không trực tiêp nuôi con phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Thời điểm này
phản đảm bảo đáp ứng các nhu cầu và lợi ích hợp pháp thiêt yêu cho người
con một cách hợp lý. Chẳng hạn đó là thời điểm mà người cha hay người mẹ
không thực hiện nghĩa vụ của chính họ theo quy định của pháp luật chứ
không nhất thiêt phải là lúc bản án của toà án có hiệu lực pháp luật thì mời
buộc người không trực tiêp nuôi con phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của
mình.
Toà án cần có sự can thiệp trong trường hợp thoả thuận của các cặp vợ
chồng tại khoản 2 Điều 81 về việc ai sẽ sẽ là người trực tiêp nuôi con, quyền
và nghĩa vụ của mỗi bên. Đó là sự can thiệp nhằm đảm bảo tính hợp pháp,
hợp lý về mặt nội dung của các thoả thuận nhưng sự can thiệp này không
phải sự áp đặt mà chỉ có tính chất gợi mở, hướng dẫn, giải thích sao cho
người cha, người mẹ hiểu cần phải làm gì để đem lại lợi ích tốt nhất cho
con.
Hơn nữa, pháp luật cần quy định rõ hơn về trường hợp có người thúe ba
chăm sóc, nuôi dưỡng con chung khi cha mẹ ly hôn mà không thể nuôi
dưỡng chăm sóc trưc tiêp cho con chung đó.
3.2. Giải pháp về mặt xã hội


Trong mỗi gia đình, bên cạnh việc nuôi dưỡng giáo dục và bồi đặp về
thể chất trí tuệ cho các con, bậc làm cha làm mẹ phải là tấm gương đạo đức
tốt cho con cái noi theo ngay cả khi đã ky hôn. Hơn nữa, các thành viên
trong gia đình đều cần phải tích cực tìm hiểu các quy định của pháp luậy về
hôn nhân và gia đình để bảo vệ tốt nhất cho quyền lợi của con cái.

Nhà nước, các ban nghành đoàn thể phải có sự quan tâm chỉ đạo thường
xuyên trong việc thực hiện các quyền trẻ em nhát là sau khi ca mẹ đã ly hôn
thong qua việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luậy, các văn bản đã
chỉ đạo điều hành, các chưng trình kê hoạch xã hội cụ thể.
Tích cực vận động và tạo cơ hội cho các tổ chức đoàn thể, các tổ chức xã
hội, tổ chức phi chính phủ, tổ chức kinh tê và tổ chức quốc tê giải quyêt các
nhu cầu bức xúc và đảm bảo các quyền trẻ em. Đồng thời, tổ chức phối hợp
công tác gia đình giữa các cơ quan nhà nước đoàn thể nhân dân và các tổ
chức các nhân tham gia công tác hỗ trợ xây dựng và tạo điều kiện để gia
đình phát triển bền vững hạn chê hiện tượng ly hôn diễn ra phổ biên trong xã
hội
Nâng cao năng lực trong việc xây dựng các chính sách, kê hoạch hằng
năm, các chương trình và dự án cụ thể về bảo vệ và chăm sóc trẻ em và thực
thi chính sách kê hoạch có hiệu quả.
Giáo dục và tuyên truyền sâu rộng của các chủ trương của Đảng, chính
sách của Nhà nước và pháp luật. Đặc biệt là pháp luật hôn nhân và gia đình,
luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nhằm nâng cao nhận thức pháp luật
của mỗi gia đình và trẻ em về quyền và nghĩa vụ của chính mình nhằm bảo
vệ lợi ích chính đáng mà mỗi trẻ em được hưởng.
KẾT LUẬN
Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn là một nộiy dung quan trọng
của Luật HN&GĐ năm 2014. Trẻ em là tương lai của đất nước, là lực lượng
nòng cốt góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước nên quyền lợi
của trẻ em phải được bảo vệ, nhất là khi cha mẹ chúng ly hôn. Chính vì vậy
cần phải hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của tre nhất là trong hôn nhân
gia đình.
DANH MỤC THAM KHẢO


1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình

Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2009
2. Nguyễn Thị Hường, chê định cấp dưỡng trong luật Hôn nhân và gia
đình- vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiên sĩ luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội
3. Luật Hôn nhân và gia đình 2014, NXB Lao Động
4. Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004
5. Nghị định 71/2011/NĐ- CP hướng dẫn luật bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em.
6. Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT- TANDTC- VKSNDTC – BTP về
việc hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình 2014
7. Nguồn internet:
/> />http:/www.dantri.com
http:/lyhon.vn

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………..1
NỘI DUNG...................................................................................................1
I.Khái quát về quyền trẻ em........................................................................1
1. Định nghĩa quyền trẻ em.........................................................................1
2. Sự cần thiết bảo vệ quyền trẻ em……………………………………...2
3. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền trẻ em…………………………………3


II. Cơ sở bảo vệ quyền trẻ em khi cha mẹ ly hôn……………………….4
1. Cơ sở pháp lý…………………………………………………………..4
2. Cơ sở thực tế…………………………………………………………….4
III.Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn theo Luật
HN&GĐ năm 2014………………………………………………………...5
1. Các con được bảo vệ khi cha mẹ ly hôn………………………………..5

2.
Vấn đề con chưa thành niên, con đã thành niên bị tàn tật, mất
NLHVDS, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
mình cho ai nuôi dưỡng, giáo dục trực tiếp……………………………..6
2.1. Nguyên tắc vì quyền lợi mọi mặt của con………………………….6
2.2. Trường hợp có thoả thuận của cha mẹ……………………………….7
2.3. Trường hợp không có sự thoả thuận của cha mẹ…………………….8
3 .Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con sau khi ly hôn…………8
3.1 Nghĩa vụ và quyền của người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con…...8
3.2 Nghĩa vụ và quyền của người không trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục
con…………………………………………………………………………10
4. Quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng ,giáo dục con...11
IV. Thực trạng về bảo vệ quyền trẻ em khi ly hôn………..……………12
1.Thành tựu………………………………………………………………12
2.Hạn chế………………………………………………………………….12
3.Giải pháp………………………………………………………………..13
KẾT LUẬN……………………………………………………………….14



×