Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SÁNG KIẾN khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.24 KB, 26 trang )

Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

I. Đặt vấn đề:
Người giáo viên được ví như một diễn viên trên sân khấu mà học trò là những khán
giả thưởng thức những gì giáo viên biểu diễn. Có những thầy cơ giáo khi đến tiết lên
lớp của mình lại được học trò mong chờ, chú ý, say sưa lắng nghe. Ngược lại có
những thầy cơ giáo khi lên lớp lại làm cho học trò chán nản, cảm thấy tiết dạy kéo dài
lê thê, mong muốn tiết dạy của thầy cô giáo ấy nhanh chóng kết thúc, thậm chí có em
cịn viện lý do để bỏ tiết, từ chối ngồi học trong lớp.
Mặc dù hiện nay có rất nhiều giáo viên ln tìm mọi phương pháp để chuyển tải
kiến thức cần đạt cho các em. Việc kết hợp tranh, ảnh, tư liệu video vẫn được giáo
viên chú trọng. Tuy nhiên ở những nơi có điều kiện kinh tế khó khăn thì lại rất vất vả
cho giáo viên khi sưu tầm và chuẩn bị cho tiết dạy của mình.
Bên cạnh đó, với mơn học lịch sử dường như đa phần các em và kể cả các bậc phụ
huynh đều cho là môn phụ, ít hứng thú, ít chủ động tiếp nhận. Cùng với việc lịch sử
lâu nay được biết đến như một môn học khô khan với quá nhiều sự kiện, quá nhiều
mốc thời gian, khó ghi nhớ, khó cảm nhận.
Đó chính là những lí do khiến học sinh dần dần xa rời kiến thức lịch sử, tiếp cận
một cách qua loa, đại khái, rồi sau đó dễ dàng qn đi. Vì vậy, trong những năm học
gần đây, tỉ lệ học sinh đạt điểm rất thấp mơn lịch sử trong các kì thi tuyển sinh cao
đẳng, đại học. Là mối quan ngại rất lớn đối với toàn xã hội khi mà lịch sử dân tộc lại
được các em đón nhận một cách thờ ơ, hời hợt.
Hiện nay, với phương châm dạy học lấy học sinh làm trung tâm thì giáo viên cần
phải trở thành một đạo diễn giỏi, cốt làm sao để học sinh tích cực, chủ động lĩnh hội
kiến thức một cách đúng đắn và đầy đủ nhất. Trong dạy học lịch sử, việc làm sao để
tiết dạy không xơ cứng, khô khan, làm sao để học sinh hứng thú tiếp thu, tới giờ lại
muốn học, đã học thì u thích, càng học càng ghi nhớ, càng say mê thì người dạy
mới thành công được. Một trong những biện pháp theo tôi là hữu hiệu, đó là việc lồng
ghép thơ vào tiết dạy để tạo chất xúc tác, làm mềm hóa trong hứng thú của người học,
tạo sự hấp dẫn, luôn cuốn người học sẽ đem lại hiệu ứng cao trong việc khắc sâu kiến
thức trong đầu học sinh.


GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận

Trang 1


Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

Thế nên, tôi chọn sáng kiến “Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc
lồng ghép thơ trong dạy học” để phục vụ trong quá trình giảng dạy của mình.
II. Giải quyết vấn đề:
1. Cơ sở lí luận của vấn đề:
Luật giáo dục năm 2005 yêu cầu giáo dục hiện nay đòi hỏi phải đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng “Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của
người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say
mê dạy học và ý chí vươn lên”. Ngồi ra cịn cần phải “…bồi dưỡng phương pháp tự
học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng lý thuyết vào thực tiễn; tác động
đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập của học sinh”. Lịch sử cịn có chức
năng giáo dục chính trị, tư tưởng, tình cảm, bồi đắp lòng yêu nước, niềm tự hào dân
tộc, yêu chủ nghĩa xã hội. Qua đó kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp
của địa phương, của dân tộc mình.
Nhưng lịch sử lại là một mơn học khơ khan, khó nhớ, dễ quên với hàng loạt các
chuỗi sự kiện, ngày tháng, những nhân vật điển hình với những giai đoạn, sự kiện
lịch sử đan xen mà nếu người dạy khơng truyền lửa, khơng tích cực tìm tịi, đổi mới
phương pháp cho học sinh sẽ dễ dẫn đến sự nhàm chán, sự bị động, gượng ép tiếp
thu. Bên cạnh đó, với thời đại cơng nghệ thơng tin bùng nổ thì tâm lý học sinh lại cho
rằng học các mơn tự nhiên khác mới hợp thời, môn lịch sử vô tình bị xem nhẹ, bị coi
là mơn phụ.
Vậy làm sao để thu hút học sinh, giúp học sinh không xem nhẹ mà trái lại là hứng
thú nghe giảng, hứng thú học tập, khơng căng thẳng, khơng tìm cách đối phó, khơng
học một cách nhồi sọ thì bên cạnh việc sử dụng đồ dùng dạy học hiện đại như tranh,

ảnh, clip lịch sử…còn cần phải lồng ghép thơ trong dạy học lịch sử. Đây là một
phương pháp đem lại sự mềm mại, nhẹ nhàng nhưng luôn tạo cảm xúc trong quá trình
truyền thụ kiến thức lịch sử cho học sinh.
2. Thực trạng của vấn đề:
2.1. Thuận lợi:
- Trong quá trình thực hiện tôi được sự giúp đỡ và động viên của Ban Giám hiệu,
tổ chuyên môn và nhiều cộng sự.
GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận

Trang 2


Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

- Qua gần 10 năm trực tiếp giảng dạy bộ môn lịch sử ở trường trung học cơ sở
tôi cũng đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm về việc sử dụng phương pháp mới trong
dạy học lịch sử, do đó cũng đạt được một số kết quả đáng khích lệ.
- Học sinh đã từng bước quen với phương pháp dạy học mới, hiểu và nắm vững sự
kiện lịch sử hơn sau khi đã lồng ghép thơ trong quá trình dạy cho các em.
2.2. Khó khăn:
- Tài liệu nghiên cứu chưa đầy đủ, những câu thơ có tính sử liệu chưa sưu tầm
được nhiều.
- Do xu thế phát triển của xã hội hiện nay đã tạo tâm lý cho đa phần học sinh và kể
cả phụ huynh thường xem môn lịch sử là môn phụ nên ít quan tâm đến.
- Về khách quan mà nói tình hình học tập của học sinh chưa tích cực, tự giác.
Trường THCS Tân Nghĩa nằm trên địa bàn khó khăn về kinh tế, huyện mới tách cịn
nghèo nên tỷ lệ học sinh yếu kém vẫn còn nhiều do tốn nhiều thời gian cho lao động
phụ giúp gia đình ngồi giờ học. Do đó việc lĩnh hội và khắc sâu kiến thức lịch sử ở
các em còn gặp nhiều khó khăn.
- Do quy định thời lượng tiết dạy nên cần phải bố trí lồng ghép thơ một cách hợp lí

nếu khơng sẽ dẫn đến q tải, phản tác dụng đối với việc tiếp thu kiến thức của học
sinh.
2.3. Thực trạng:
Từ nhiều năm giảng dạy bộ môn lịch sử ở trường THCS, tơi nhận ra rằng mỗi khi
mình lồng ghép một câu thơ có nội dung lịch sử vào trong bài dạy của mình thì
gương mặt các em rất rạng rỡ, các em chăm chú lắng nghe và rất thích thú, ấn tượng
với bài học. Những tiết học như vậy trở nên hấp dẫn, lôi cuốn học sinh hơn các tiết
dạy thông thường. Tâm lý của các em thoải mái hơn, khơng khí học tập trở nên sơi
nổi hơn, mức độ hiểu bài của các em được nâng cao hơn rõ rệt.
Thơ Việt Nam gắn liền với tiến trình lịch sử dân tộc, với những tên tuổi lớn và
những tác phẩm đi cùng năm tháng được các em ít nhiều đã biết đến, đã được học
trong chương trình Ngữ văn. Với những cuộc kháng chiến gian khổ mà hào hùng của
cha ông đã tạo nguồn cảm hứng cho không biết bao tác phẩm thi ca bất hủ ra đời. Nội
GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận

Trang 3


Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

dung của nó vô cùng phong phú, đủ để người dạy học lịch sử có thể vận dụng, sưu
tầm và lồng ghép hợp lý vào chương trình giảng dạy của mình.
Trong thực tế hiện nay chương trình lịch sử lớp 9 rất nặng về nội dung với những
chuỗi sự kiện lịch sử diễn ra đều đặn, liên tục, với nhiều mốc thời gian làm cho học
sinh khó ghi nhớ dẫn đến tâm lý mất hứng thú, thụ động tiếp thu bài. Nhiều học sinh
chỉ chú trọng học các môn tự nhiên mà xem nhẹ, lơ là việc học lịch sử. Đa phần các
em học vẹt, đối phó là chủ yếu nên dễ quên và dễ chán nản dẫn đến chất lượng học
tập khá thấp. Đó là điều vơ cùng trăn trở mà tơi và các đồng nghiệp rất quan tâm
mong muốn cải thiện. Vì thế tơi quyết tâm làm sao để tạo một tiết dạy sinh động nhất
có thể, làm sao để thúc đẩy tính tự giác, tính hứng thú ghi nhớ kiến thức lịch sử cho

các em, giúp các em có cái nhìn thiện cảm hơn đối với mơn học này. Ngay từ đầu
những ngày bước vào ngành sư phạm, ngoài việc áp dụng sáng kiến “Vận dụng hệ
thống thuật ngữ lịch sử để hình thành khái niệm lịch sử cho học sinh THCS”, thì đến
năm học 2017-2018, tơi thấy giáo viên chúng ta cần thiết phải tạo một tiết dạy luôn
cuốn, sinh động hơn thông qua việc lồng ghép thơ vào bài giảng lịch sử của mình.
Trên cơ sở đó tơi tiến hành thực nghiệm bằng cách khảo sát chất lượng học sinh
trên tổng số học sinh của 5 lớp 9 trước khi triển khai đề tài này thì kết quả như sau:
Lớp Số
9A
9B
9C
9D
9E

bài
35
34
38
37
37

Giỏi
SL %

Khá
SL %

Trung bình
SL
%


Yếu
SL %

Kém
SL %

8
6
9
7
8

10
8
10
9
8

9
10
9
8
10

7
8
8
9
8


1
2
2
4
3

22.86
17.65
23.68
18.92
21.62

28.57
23.53
26.31
23.32
21.62

25.71
29.41
23.68
21.62
27.02

20
23.53
21.05
23.32
21.62


2.86
5.88
5.26
10.81
8.1

Như vậy từ kết quả đó tơi đã mạnh dạn áp dụng trên toàn bộ khối lớp 9 bắt đầu
năm học 2017-2018 đề tài “Khắc sâu kiến thức lịch sử lớp 9 cho học sinh bằng việc
lồng ghép thơ trong dạy học” để kích thích niềm đam mê lịch sử qua tiết dạy của
mình, giúp cho các em hứng thú hơn trong quá trình lĩnh hội tri thức, đồng thời tạo
cho các em tính chủ động học tập và khắc sâu bài học lịch sử hơn để từ đó đạt kết quả
cao hơn.
GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận

Trang 4


Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

3. Các biện pháp để tiến hành giải quyết vấn đề:
3.1. Mục tiêu
- Về kiến thức: Giúp học sinh đi sâu vào bản chất, nêu đặc trưng cơ bản của các sự
kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử, hiểu được các mối liên hệ nhân quả, các quy luật
vận động, chi phối sự phát triển của xã hội loài người. Học sinh hệ thống hoá được tri
thức, phân biệt được các sự kiện cùng loại, khác loại, cái chung, cái riêng, cái đơn
nhất, cái phổ biến, cái đặc thù...trong quá trình phát triển của từng biến cố lịch sử.
Khắc sâu kiến thức lịch sử chính xác.
- Về kĩ năng: Phát triển các năng lực nhận thức của mỗi học sinh, đặc biệt là các
thao tác trong khả năng tư duy để phân tích, so sánh, đánh giá, tổng hợp... và thực

hành cho học sinh.
- Về tư tưởng: Giáo dục đạo đức, tư tưởng, bồi dưỡng thế giới quan khoa học,
nhân sinh quan cách mạng, đặc biệt là lòng tin, sự say mê tiếp cận kiến thức lịch sử
cho học sinh. Thông qua việc việc lồng ghép thơ để tạo cảm xúc, chất xúc tác từ đó
củng cố một cách có hệ thống nhất về mỗi nội hàm bản chất của sự kiện, hiện tượng
và quá trình lịch sử, cải thiện chất lượng học tập và hứng thú học, tạo khả năng ghi
nhớ nhiều mà không cảm thấy chán nản.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài:
Giáo viên cần biết sưu tầm những câu thơ hay, nghiên cứu tài liệu sử liệu trong thơ
ca để lồng ghép vào nội dung bài giảng lịch sử. Biết lồng ghép một cách hợp lí để tạo
tiết dạy của mình thêm sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn người học.
Học sinh cũng từ đó biết sưu tầm những câu thơ có nội dung lịch sử để vận dụng
vào bài học. Biết tóm tắt sự kiện lịch sử, diễn biến lịch sử hay biết nhận định, đánh
giá ý nghĩa, nguyên nhân của sự kiện lịch sử bằng việc tóm tắt ngắn gọn qua những
câu thơ điển hình, đặc trưng. Giúp các em nhanh chóng khắc ghi kiến thức, hứng thú
học tập và u thích hơn đối với bộ mơn lịch sử.
3.3. Phương pháp tiến hành:
1. Khảo sát, điều tra thực tế.
2. Sưu tầm các tài liệu, các bài thơ, câu thơ, trích đoạn thơ, ca dao có tính sử liệu.
3. Lựa chọn, phân loại để vận dụng, lồng ghép cho phù hợp.
GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận

Trang 5


Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

4. Phương pháp trao đổi, thảo luận.
5. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
6. Thực nghiệm, đối chiếu, so sánh, phân tích, rút ra kết luận

3.4. Thời gian tiến hành: Đề tài được tiến hành xuyên suốt từ năm học 2017-2018
cho đến nay.
3.5. Địa điểm tiến hành: Đề tài được tiến hành tại trường THCS Tân Nghĩa,
huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận.
4. Các bước cụ thể để tiến hành giải quyết vấn đề:
Thơ Việt Nam với những ngơn từ giàu hình tượng, giàu biểu cảm, dễ gây xúc động
đến học sinh khi tiếp thu bài học lịch sử. Vì thế, chúng ta sẽ vận dụng vào trong bài
giảng của mình một đoạn, trích đoạn thơ để giới thiệu bài, để tóm tắt sự kiện, để đánh
giá kết quả, ý nghĩa của sự kiện hoặc để nêu bật công lao của nhân vật lịch sử sẽ giúp
cho tiết học trở nên sinh động, hiệu quả, giúp học sinh hiểu sâu sắc, lâu kĩ hơn bài
học lịch sử mình đang học một cách tích cực và chủ động nhất. Để làm được điều đó,
giáo viên cần sử dụng một số giải pháp sau:
- Sử dụng thơ để giới thiệu vào bài học mới hoặc chương mới, đề mục mới.
- Sử dụng thơ để nhận định, đánh giá một quá trình lịch sử.
- Sử dụng thơ để nêu bật vai trị cá nhân trong tiến trình lịch sử.
- Sử dụng thơ để kết thúc bài học.
Dưới đây là một số giải pháp minh họa để cụ thể hóa các vấn đề nêu trên.
4. 1. Sử dụng thơ để giới thiệu vào bài học mới hoặc chương mới, đề mục mới.
- Khi dạy Bài 1. Liên Xô và các nước Đông Âu từ năm 1945 đến giữa những
năm 70 của thế kỉ XX. Mục II. Đông Âu.
Giáo viên dùng đoạn thơ giới thiệu về một đất nước thuộc Đơng Âu để tạo sự lơi
cuốn, chú ý, tị mị của các em khi bước vào bài giảng chính.
Em ơi, Ba Lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn
Anh đi, nghe tiếng đàn xuân ấy
Ca ngàn năm: Ba Lan, Ba Lan...
(“Em ơi … Ba Lan” – Tố Hữu)
GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận

Trang 6



Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

- Khi dạy bài 7. Các nước Mỹ La-tinh. Mục II. Cu-Ba - Hòn đảo anh hùng.
Giáo viên đọc đoạn thơ giới thiệu về đất nước, con người Cu-Ba nhằm giúp học
sinh cảm nhận sơ lược vì sao Cu-Ba được gọi là một hịn đảo anh hùng.
Cho lũ bay rình, giương mắt trơng:
Cu ba đây, chói ngọn cờ hồng
Cu-ba đạp sóng trùng dương tiến
Oai hùng như chiến hạm Rạng Đông!
Mặc ai sợ, mặc ai run
Ta đi, đèo núi, bước không chùn
Nghĩa quân, một chiếc thuyền xưa ấy
Há chẳng tung hoành, dậy nước non?
Chào cô em gái, nữ dân quân
Súng vác ngang vai, đẹp tuyệt trần
Lóng lánh mắt đen nhìn biển biếc
Trưa hè đứng gác, giữ ngày xuân!
(“Từ Cu-Ba” – Tố Hữu)
Hay:
Từ bùn đất và từ máu lửa
Ta đứng lên và ta lớn lên
Bạn dâng tặng cho đời đường sữa
Một tên người rất đẹp: Phi-đen
Như chiến hạm Rạng Đông trên tiền tuyến
Hải đăng soi đêm biển mênh mơng
Trước vạn biến, lịng khơng lay chuyển
Hiên ngang Cu-ba, một ngọn cờ hồng!
(“Hiên ngang Cu-Ba” – Tố Hữu)

GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận

Trang 7


Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

- Dạy bài 32. Xây dựng đất nước, đấu tranh bảo vệ tổ quốc (1976-1985). Mục
I.2. Thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1981-1985).
Khi chuyển từ mục 1 sang mục 2 này, giáo viên dẫn dắt vào mục bằng mấy vần thơ
để giúp học sinh cảm nhận ban đầu những thành quả cách mạng to lớn trong quá trình
kiến thiết đất nước ta.
Chặn sông Đà, ta làm ra thác điện
Cho sáng núi rừng, sáng đến mai sau.
Sắt Thái Nguyên, hãy làm ra thép luyện
Cho tay ta vươn tới mạnh giàu!
Lại hành quân như năm nào đánh Mỹ
Những sư đồn, khơng súng, lại xung phong
Ta sẽ thắng, như những chàng dũng sĩ
Biến hoang vu thành cơm áo, hoa hồng,
(“Một khúc ca” – Tố Hữu)
- Dạy bài 18. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Giáo viên dùng khổ thơ đầu trong bài thơ “Từ ấy” của Tố hữu để mở đầu bài giảng
của mình
Từ ấy trong tơi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim...
Khi đọc xong đoạn thơ, giáo viên khắc sâu việc giới thiệu bài mới bằng hai chữ “từ
ấy” nghĩa là từ khi có Đảng cộng sản ra đời và khẳng định đó là một bước ngoặc lịch

sử trọng đại trong quá trình vùng lên đấu tranh giành độc lập dưới sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
4.2. Sử dụng thơ để nhận định, đánh giá một quá trình lịch sử.
- Dạy bài 14. Việt Nam sau chiến tranh Thế giới thứ nhất.
Nhằm giúp cho học sinh thấy được mức độ tàn bạo của thực dân Pháp khi triệt để
vơ vét, bóc lột nhân dân ta bằng vơ vàng các thứ thuế. Qua đó tơ đắp thêm cho các
GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận

Trang 8


Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

em lòng căm thù đối với thực dân Pháp xâm lược và hiểu rõ cảnh cực khổ lầm than
khi phải chịu làm nô lệ cho giặc bằng các trích đoạn thơ ca sau.
Thuế chó cũi, thuế lợn bị,
Thuế diêm, thuế tửu, thuế đị, thuế xe.
Thuế các chợ, thuế trà, thuế thuốc,
Thuế môn bài, thuế nước, thuế đèn.
Thuế nhà cửa, thuế chùa chiền,
Thuế rừng tre gỗ, thuế thuyền bán bn.
Thuế gị, thuế bãi, thuế cồn,
Thuế người chức sắc, thuế con hát đàn.
Thuế dầu mật, thuế đàn đĩ thỗ,
Thuế gạo rau, thuế lúa, thuế bơng.
Thuế tơ, thuế sắt, thuế đồng,
Thuế chim, thuế cá, khắp trong lưỡng kì.
Các thức thuế kể chi cho xiết,
Thuế xia kia mới thật lạ lùng,
Làm cho thập thất cửu không,

Làm cho xơ xác, khốn cùng chưa thôi.
(“Á tế á ca” – Phan Bội Châu)
Hay giáo viên cũng có thể nêu lên tình cảnh người dân Việt Nam giai đoạn này qua
các câu ca dao.
Cái thằng Tây nó ác quá
Nó đánh, nó đá, nó cưỡng hiếp, chửi mắng lơi thơi
Trở về nương rẫy đi thôi
Làm than khổ lắm, đấm buồi làm than
***
Cao su đi dễ khó về
Khi đi mất vợ, khi về mất con
Cu su đi dễ khó về
Khi đi trai tráng, khi về bủng beo
GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận

Trang 9


Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

***
Lỡ lầm vào đất cao su
Chẳng tù thì cũng như tù chung thân
(ca dao việt nam, NXB Đồng Nai 4/2000)
Giáo viên cũng có thể khắc họa tội ác của thực dân Pháp lên nỗi thống khổ của
nhân dân ta và cho các em thấy thân phận họ qua trích đoạn.
Nửa đêm thuế thúc trống dồn
Sân đình máu chảy, đường thơn lính đầy
Cha trốn ra Hòn Gai cuốc mỏ
Anh chạy vào Đất Đỏ làm phu

Bán thân đổi mấy đồng xu
Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng !
(“Ba mươi năm đời ta có Đảng” – Tố Hữu)
- Dạy bài 16. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài trong những năm
1919-1925.
Giáo viên gọi học sinh đứng lên đọc đoạn chử nhỏ trong sách giáo khoa: Tháng 71920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê-nin… Sau đó giáo viên có thể đánh giá, gút lại
sự kiện này bằng một câu trích đoạn thơ để khẳng định rằng đây là con đường cứu
nước và giải phóng dân tộc mà Bác Hồ đã tìm ra cho chúng ta.
Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin
Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
"Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!"
Hình của Đảng lồng trong hình của Nước
Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười
(“Người đi tìm hình của Nước” – Chế Lan Viên)
- Dạy bài 19. Phong trào cách mạng trong những năm 1930-1935.
GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận

Trang 10


Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

Giáo viên cho học sinh trình bày diễn biến của phong trào cách mạng 1930-1931
với đỉnh cao Xơ viết Nghệ-Tĩnh. Sau đó giáo viên dùng trích đoạn thơ để khắc sâu
thêm nội dung diễn biến cho học sinh.
Kìa Bến Thuỷ đứng đầu dậy trước,

Nọ Thanh Chương tiếp bước đứng lên.
Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng Ngun,
Anh Sơn, Hà Tĩnh một phen dậy rồi.
Khơng có lẽ ta ngồi chịu chết?
Phải cùng nhau cương quyết một phen.
Tổng này, xã nọ kết liên,
Ta hò, ta hét, thét lên mau nào !
Trên gió cả cờ đào phất thẳng,
Dưới đất bằng giấy trắng tung ra
Giữa thành một trận xông pha,
Bên kia đạn sắt bên ta gan vàng.
(“Bài ca cách mạng” – Đặng Chánh Kỷ)
- Dạy bài 21. Việt Nam trong những năm 1939-1945.
Với kết quả thất bại của cuộc khởi nghĩa Nam Kì. Khi nói đến những mất mát hi
sinh to lớn của cuộc khởi nghĩa, giáo viên có thể dùng đoạn trích thơ để nhấn mạnh
cho học sinh biết rằng dù nhiều cán bộ, lãnh đạo bị bắt, bị kết án tử hình, bị tù đày
nhưng ý chí và quyết tâm chiến đấu của họ vẫn không hề nao núng.
Hỡi giặc Pháp, tám mươi năm tội ác
Trên đầu bay. Sống thác ta cần chi!
Giết ta đi, lũ khốn, giết ta đi
Máu ta thấm vào mn lịng rên xiết
Bay sẽ thấy cả Việt Nam đoàn kết
Đứng phắt lên, giết chết cả lồi bay
Đứng phắt lên, chặt đứt xích xiềng này!
Một thây ngã, một trăm đầu xốc tới
Trăm đầu rụng, thì mn chân lính mới
GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận

Trang 11



Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

Sẽ xông lên! Cờ phấp phới bay cao
Sẽ không rơi xuống đất một giây nào
Kèn xung trận kêu gào muôn chiến sĩ
Quyết chiến thắng, hỡi đồng bào, đồng chí!
(“Quyết hi sinh” – Tố Hữu)
- Dạy bài 22. Cao trào cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng tám năm 1945.
Giáo viên có thể nêu lên sự kiện Bác Hồ trở về trực tiếp lãnh đạo nhân dân đấu
tranh bằng việc khắc họa một đoạn thơ sau.
Ôi sáng xuân nay, Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về... Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ...
Bác đã về đây, Tổ quốc ơi!
Nhớ thương, hòn đất ấm hơi Người
Ba mươi năm ấy, chân không nghỉ
Mà đến bây giờ mới tới nơi!
(“Theo chân Bác” – Tố Hữu)
Bên cạnh đó, giáo viên có thể nêu lên vai trò của Mặt trận Việt Minh với trích đoạn
thơ sau.
Việt Minh, hai tiếng dậy chiến khu
Truyền khắp dân gian, đuổi giặc thù
Cây đá mừng reo theo mỗi bước
Sớm hơm xóm núi bóng Già Thu....
(“Theo chân Bác” – Tố Hữu)
- Dạy bài 25. Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân
Pháp (1946-1950). Mục IV. Chiến dịch Việt Bắc Thu – Đơng 1947.
Khi nói đến quá trình 75 ngày đêm anh dũng, kiên cường đấu tranh của quân ta để

bảo vệ, giữ vững căn cứ địa Việt Bắc, bảo vệ cơ quan đầu não kháng chiến của ta,
góp phần đẩy lùi cuộc tấn cơng của thực dân Pháp. Giáo viên có thể tạo xúc cảm cho
GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận

Trang 12


Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

học sinh bằng việc lồng ghép đoạn thơ nói lên hình tượng người lính trong kháng
chiến.
Anh bạn dãi dầu khơng bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Tây tiến đoàn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
(“Tây tiến” – Quang Dũng)
- Dạy bài 28. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc
Mĩ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam (1954-1960). Mục II. Miền Bắc hồn
thành cải cách ruộng đất, khơi phục kinh tế, cải tạo quan hệ sản xuất (1954-1960).
Giáo viên cho học sinh khắc sâu thành quả cách mạng sau cải cách ruộng đất, bộ
mặt nông thôn miền Bắc đã thay đổi cơ bản, góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ

khơi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh bằng việc minh họa đoạn thơ sau.
Đường thống nhất chân ta bước gấp
Miền Bắc ta xây đắp nhanh tay
Năm năm mới bấy nhiêu ngày
Mà trơng trời đất đổi thay đã nhiều...
Dân có ruộng, dập dìu hợp tác
Lúa mượt đồng, ấm áp làng quê
Chiêm mùa, cờ đỏ ven đê
Sớm trưa tiêng trống đi về trong thôn
GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận

Trang 13


Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

Máu áo mới nâu non nắng chói
Mái trường tươi roi rói ngói son
Đã nghe nước chảy lên non
Đã nghe đất chuyển thành con sơng dài
Đã nghe gió ngày mai thổi lại
Đã nghe hồn thời đại bay cao...
Núi rừng có điện thay sao
Nơng thơn có máy làm trâu cho người
(“Ba mươi năm đời ta có Đảng” – Tố Hữu)
- Dạy bài 29. Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ cứu nước (1965-1973).
Mục I. Chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ (1965-1968).
Để khẳng định ý nghĩa lịch sử to lớn của cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu
Thân 1968, giáo viên có thể dùng trích đoạn thơ để khắc họa cho học sinh.
“Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua

Thắng trận tin vui khắp nước nhà.
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta”.
Câu thơ đầu là lời khẳng định, một niềm tin vững chắc vào chiến thắng lớn hơn
của “Xuân này” so với mấy “Xuân qua”. Câu thơ thứ hai nhẹ nhàng, hào khởi loan tin
thắng trận, niềm vui mừng chiến thắng bay xa, lan tỏa khắp nước nhà. Câu thơ thứ ba
là lời giao ước thi đua đánh giỏi hơn nữa, đánh mạnh hơn nữa giữa đồng bào và chiến
sĩ hai miền Nam Bắc. Câu kết bài tứ tuyệt vang lên như một lời hịch giục giã toàn
quân, toàn dân cùng sát cánh xông lên, tiến thẳng vào giai đoạn mới với niềm tin sắt
đá “Toàn thắng ắt về ta”.
4. 3. Sử dụng thơ để nêu bật vai trò cá nhân trong tiến trình lịch sử.
- Dạy bài 15. Phong trào cách mạng Việt nam sau chiến tranh Thế giới thứ nhất
(1919-1925). Mục II. Phong trào dân tộc, dân chủ công khai (1919-1925).
Giáo viên có thể cho học sinh nhận diện gương anh hùng Phạm Hồng Thái qua một
trong những đoạn thơ sau để nêu cao tinh thần yêu nước quên thân của anh trong vụ
ám sát tên toàn quyền Méc-lanh tại Sa Diện – Trung Quốc.
GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận

Trang 14


Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

Sống, chết, được như Anh
Thù giặc, thương Nước mình
Sống, làm quả bom nổ
Chết, như dòng nước xanh.
(“Phạm Hồng Thái” – Tố Hữu)
Hay:
Nước Việt Nam bốn ngàn năm lẻ,

…Nhớ xưa người ở Nghệ An
Là Phạm Hồng Thái cả gan anh hùng
Thẹn vì nước mắc vòng tơi tả
Giận Mặc lanh (Merlin) là đứa gian hùng.
Ra tay một tiếng sấm vang,
Năm châu dậy đất Mặc lanh đi đời.
Tám giờ tối tàu binh ghé lại,
Hắn lần lên Sa Điện rong chơi
Bây giờ cơ đã đến nơi,
Lòng người có chí thì trời cũng bênh
Ơng khi ấy một mình lẻn tới,
Một chiếc thuyền theo dõi bờ sơng.
Tồn quyền Đơng Pháp Mặc- lanh,
Hắn lên xe điện thảng dong cửa hàng.
Thành Sa Điện phố phường đón rước.
Mời vào nhà thiết tiệc hoan nghênh.
Ơng vào thám thính phân minh,
Lại gần chú lính đang canh nạt dồn.
Tám giờ tối bàn hoàn chưa định,
Việc gấp rồi phải tính mau mau,
Khen người kế hoạch mưu cao,
Tốc ngay cửa sổ ném vào một khi
Người trong tiệc còn chi đâu nữa,
GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận

Trang 15


Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học


Chúng kinh hoàng hồn rữa phách tan
Tây kia mới hết khoe khoang,
Xương tan xác pháo, thịt tan bụi hồng.
Chốn Sa Điện một vùng tối mịt,
Thuyền Châu Giang trăm chiếc đón đưa.
Hy sinh cứu nước bấy giờ,
Hồn thiêng cao phất ngọn cờ tự do.
“Anh hùng vị quốc qun khu”
Sơng Châu Giang ấy nghìn thu lưu truyền.
(“Kính dâng hương hồn liệt sĩ Phạm Hồng Thái” – Đặng Tử Kính)
Hoặc:
Ngồi trơng non nước dạ khơng đành,
Nên nhắc đồng cân chữ tử sinh.
Một tiếng lơi đình kinh vũ trụ,
Tấm gương trung nghĩa động thần minh.
Chiếc thân đã gửi cho dịng nước,
Trong sử cịn ghi mãi tính danh.
“Hết chuyện” thương cho đồ “chó chết”.
Chết mà như bác, chết quang vinh.
(“Nghe tin Phạm Hồng Thái hi sinh” – Trần Huy Liệu)
- Dạy bài 27. Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết
thúc (1953-1954).
Cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp của ta đã giành thắng lợi hồn tồn. Nhằm
nêu bật vai trị của những cá nhân góp phần quan trọng trong cuộc kháng chiến này,
giáo viên có thể khái quát bằng cách nêu lên đoạn thơ.
Hoan hơ chiến sĩ Điện Biên
Hoan hơ đồng chí Võ Ngun Giáp!
Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp!
Vinh quang Tổ quốc chúng ta
Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà

GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận

Trang 16


Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

Vinh quang Hồ Chí Minh, Cha của chúng ta ngàn năm sống mãi
Quyết chiến quyết thắng, cờ đỏ sao vàng vĩ đại
(“Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” – Tố Hữu)
- Dạy bài 29. Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ cứu nước (1965-1973). Mục
III. Chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mĩ (1969-1973).
Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của nhân dân ta ở hai miền và cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đang trên đà thắng lợi, thì Chủ tịch Hồ Chí Minh
qua đời ngày 2/9/1969. Đó là một tổn thất vơ cùng lớn đối với dân tộc ta và cách
mạng nước ta. Vì vậy, giáo viên có thể đưa vào mấy câu thơ để giáo dục niềm yêu
thương vô hạn đối với Bác trong lịng học sinh.
Suốt mấy hơm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa...
Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn cau, mấy gốc dừa!

Con lại lần theo lối sỏi quen
Đến bên thang gác, đứng nhìn lên
Chng ơi chng nhỏ cịn reo nữa?
Phịng lặng, rèm bng, tắt ánh đèn!

Bác đã đi rồi sao, Bác ơi!
Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời
Miền Nam đang thắng, mơ ngày hội

Rước Bác vào thăm, thấy Bác cười!
Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.
GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận

Trang 17


Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

Ôi Bác Hồ ơi, những xế chiều
Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu?
Ra đi, Bác dặn: “Cịn non nước...”
Nghĩa nặng, lịng khơng dám khóc nhiều
(“Bác ơi” – Tố Hữu)
4.4. Sử dụng thơ để kết thúc bài học.
- Dạy bài 23: Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 và sự thành lập
nước Việt Nam dân chủ cộng hịa.
Khi sơ kết lại tồn bài học, nhằm tạo cho học sinh khái quát lại tồn bài với trình
tự khởi nghĩa và giành thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 và ý
nghĩa lịch sử trọng đại đã mở ra cho dân tộc Việt Nam là từ đây nước Việt Nam đã
dành được độc lập, đã khai sinh ra một nước Việt Nam dân chủ cộng hịa bằng việc
khắc họa qua trích đoạn thơ sau.
Tổng khởi nghĩa! Lệnh truyền đêm trước
Sáng quân ra giải phóng Thái Ngun
Hà Nội, Huế, Sài Gịn, cả nước
Đứng lên ta giành hết chính quyền!
*

Việt Nam, ta lại gọi tên mình
Hạnh phúc nào hơn được tái sinh
Mát dạ ơng cha nghìn thuở trước
Cho đời, hai tiếng mới quang vinh!
Hơm nay sáng mồng hai tháng chín
Thủ đơ hoa, vàng nắng Ba Đình
Mn triệu tim chờ... chim cũng nín
Bỗng vang lên tiếng hát ân tình
Hồ Chí Minh! Hồ Chí Minh!
GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận

Trang 18


Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

Người đứng trên đài, lặng phút giây
Trơng đàn con đó, vẫy hai tay
Cao cao vầng trán... Ngời đôi mắt
Độc lập bây giờ mới thấy đây!
(“Theo chân Bác” – Tố Hữu)
- Dạy bài 27. Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết
thúc (1953-1954).
Cuộc kháng chiến trường kì 9 năm trời của ta đã kết thúc thắng lợi hoàn toàn bằng
một Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Giáo viên có thể kết thúc
bài học bằng việc đọc một trích đoạn thơ để tạo tái hiện cho học sinh thấy được ca
khúc khải hoàn của dân tộc ta.
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Đầu nung lửa sắt

Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan khơng núng
Chí khơng mịn!
Những đồng chí thân chơn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão,
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt, cịn ôm...
Những bàn tay xẻ núi lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện
Và những chị, những anh ngày đêm ra tiền tuyến
Mấy tầng mây gió lớn mưa to
Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ
GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận

Trang 19


Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

Đèo Lũng Lô, anh hị chị hát
Dù bom đạn xương tan, thịt nát
Khơng sờn lịng, khơng tiếc tuổi xanh...
Hỡi các chị, các anh
Trên chiến trường ngã xuống
Máu của anh chị, của chúng ta không uổng
Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam

Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng...
(“Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” – Tố Hữu)
- Dạy bài 30. Hồn thành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (19731975)
Cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước đã kết thúc 21 năm chiến đấu chống Mĩ và
30 năm đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc từ sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945; chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc ở nước ta. Trên cơ sở đó,
hồn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thống nhất đất
nước. Để kết thúc bài học với mục đích tạo hứng thú, niềm vui mừng khi nước ta
hồn tồn giải phóng, sạch bóng quân thù, giáo viên có thể lồng ghép đoạn thơ để
khắc sâu bài học cho các em.
Lịch sử sang xuân. Anh vào trận cuối cùng
Đại lộ Hồ Chí Minh, thác réo, quân đi cuồn cuộn.
Anh đánh như sét nổ, trời rung
Anh chuyển như lũ dông, bão cuốn.
Chặt Buôn Mê Thuột, rụng cả Tây Nguyên
Quét Huế - Thừa Thiên, đổ nhào Đà Nẵng.
Và Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên
Và Phan Thiết, Phan Rang, Đà Lạt, Nha Trang, lũ ngụy cuống cuồng, rũ
rượi một màu tang cờ trắng.
Đường tiến quân ào ào chiến thắng.
GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận

Trang 20


Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

Phía trước chờ Anh, người mẹ mong con.
Pháo hãy gầm lên, đỏ nòng bắn thẳng
Rộn rực xe tăng chồm tới Sài Gịn!

Ơi, buổi trưa nay, tuyệt trần nắng đẹp
Bác Hồ ơi! Toàn thắng về ta
Chúng con đến, xanh ngời ánh thép
Thành phố tên Người lộng lẫy cờ hoa
(“Toàn thắng về ta” – Tố Hữu”)
5. Hiệu quả của sáng kiến:
Trong hai năm học qua, từ khi tôi vận dụng thơ vào trong tiết dạy của mình thì kết
quả nâng lên một cách rõ rệt. Điểm kiểm tra thường xuyên và học kì của các em được
nâng lên một cách đáng kể như sau:
Năm học

Khối

SL

2017-2018
2018-2019

9
9

187
181

Giỏi
SL %
40 21.39
50 27.62

Khá

SL %
55 29.41
61 33.7

TB
SL %
86 45.99
67 37.02

Yếu
SL %
6
3.3
3
1.66

Qua thực tế đối chiếu và so sánh trong quá trình thực hiện đề tài này so với cách
dạy truyền thống trước đây, bản thân tôi nhận thấy rằng việc lồng ghép thơ trong bài
giảng lịch sử của mình đem lại một kết quả vô cùng khả quan. Các em hứng thú hơn
trong học tập, ln chào đón với một tinh thần cao nhất khi đến tiết học lịch sử. Làm
cho các em nhớ lâu, nhớ kĩ kiến thức hơn, không cịn tình trạng ngủ gật trong lớp,
cũng khơng có hiện tượng viện lý do để né tránh việc học môn lịch sử.
III. Kết quả và hiệu quả phổ biến:
Với đề tài sáng kiến này sẽ đem đến cho quý thầy cơ giáo một số tư liệu về thơ có
tính lịch sử; giúp học sinh hứng thú hơn trong quá trình học tập và qua đó các em trở
nên u thích môn lịch sử, lĩnh hội kiến thức tốt hơn. Tuy nhiên, muốn áp dụng thơ
trong việc giảng dạy lịch sử của mình, giáo viên cần phải biết chọn lọc, hiểu sâu kĩ
với những tư liệu mình đã lựa chọn. Những tư liệu này phải có giá trị lịch sử và giá trị
văn học cao, cốt sao bổ trợ cao nhất cho quá trình khắc sâu kiến thức lịch sử cho các
GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận


Trang 21


Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

em. Những câu thơ này phải là một tư liệu sinh động về hình ảnh, sự kiện, nhân vật,
hoặc những cái điển hình, ý nghĩa của lịch sử sâu sát với chương trình mà các em
đang học. Đồng thời trong quá trình lồng ghép thơ vào giảng dạy giáo viên phải đảm
bảo tính vừa sức, tính bổ trợ của thơ ca nhằm làm cho tiết dạy sinh động, hấp dẫn,
luôn cuốn cho học sinh. Cho nên phải chú ý tới tính vừa sức, không được lồng ghép
quá tải, gây nặng nề hoặc gây tác dụng ngược trở lại là nhàm chán, hay vô tình biến
tiết dạy lịch sử thành một tiết thuyết giảng về thơ ca sẽ dẫn đến đi trượt mục tiêu cần
đạt tới của việc giảng dạy là truyền thụ kiến thức lịch sử cho học sinh.
Trong q trình tích hợp, lồng ghép, minh họa vào bài giảng lịch sử, người giáo
viên cũng cần có chất giọng truyền cảm, lơi cuốn, nhẹ nhàng để chuyển tải hết chất
xúc tác, tạo rung động đến học sinh. Nếu chúng ta đọc câu thơ một cách khơ cứng
hoặc khơng có cảm xúc, đọc qua loa sẽ làm cho học sinh thêm phần chán nản, khơng
hiểu được dụng ý của người dạy.
Bên cạnh đó, giáo viên phải chú ý đến tính thích hợp, logic, đưa những câu thơ cần
đưa, đưa những câu thơ có liên quan. Và không phải lúc nào, bài dạy nào cũng nhất
thiết lồng ghép thơ vào sẽ tạo ra sự xáo mịn ở bài giảng của mình.
IV. Ý kiến đề xuất:
Thực ra để học sinh ghi nhớ kiến thức lịch sử tốt, tôi thiết nghĩ mỗi giáo viên dạy
lịch sử cần có một cuốn sổ tay thơ tự sưu tầm có tính lịch sử hoặc nếu giáo viên nào
có khả năng sáng tác thơ thì trong quá trình soạn giảng lịch sử cần thiết tự sáng tác
cho mình những câu thơ đặc trưng, phù hợp nhất có thể để ln làm phong phú bài
giảng của mình trong từng năm giảng dạy nhằm tránh làm cũ, lặp đi lặp lại nhiều lần
tư liệu thơ mà mình đã sưu tầm trước đó . Bên cạnh đó, người giáo viên dạy lịch sử
nên đề xuất với nhà trường tổ chức những sân chơi khác ngồi tiết dạy như “Theo

dịng lịch sử”, “Bàn trịn lịch sử”, “Nhà sử học tương lai”, ngoại khóa “Em yêu lịch
sử Việt Nam”…. Có như thế sẽ tạo ra một mơi trường học tập lịch sử phong phú, kích
thích niềm đam mê lịch sử cho các em hơn.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu nhà trường cùng các đồng nghiệp đã tạo
điều kiện để tơi hồn thành đề tài này.
GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận

Trang 22


Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

Tân Nghĩa, ngày 12 tháng 5 năm 2019
Người thực hiện

Phạm Văn Trang

GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận

Trang 23


Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

MỤC LỤC
TT
I
II
1
2

3
4
5
II
IV

NỘI DUNG

TRANG
1
2
2
2
5
6
21
21
22

Đặt vấn đề
Giải quyết vấn đề
Cơ sở lí luận của vấn đề
Thực trạng của vấn đề
Các biện pháp để tiên hành giải quyết
Các bước cụ thể để tiến hành giải quyết vấn đề
Hiệu quả của sáng kiến
Kết quả và hiệu quả phổ biến
Ý kiến đề xuất

ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG


……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận

Trang 24


Khắc sâu kiến thức lịch sử 9 cho học sinh bằng việc lồng ghép thơ trong dạy học

……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
ĐÁNH GIÁ CỦA PHÒNG GIÁO DỤC HUYỆN

……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………

……………………………………………………………………
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CÂP HUYỆN

……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
GV: Phạm Văn Trang – Trường THCS Tân Nghĩa – Hàm Tân – Bình Thuận

Trang 25


×