Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Văn hóa chính trị của thanh niên huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay (Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (970.39 KB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THẢO

VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA THANH NIÊN
HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THẢO

VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA THANH NIÊN
HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY

Ngành: Chính trị học
Mã số: 8310201

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS CAO THU HẰNG

HÀ NỘI, 2019


LỜI CAM ĐOAN



Đề tài nghiên cứu “Văn hóa chính trị của thanh niên huyện Yên Lạc,
tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay” của luận văn này là kết quả của sự nỗ lực cố
gắng, tìm tòi và nghiên cứu của riêng bản thân tôi cùng với sự hướng dẫn tận
tình của người hướng dẫn khoa học PGS.TS Cao Thu Hằng. Tôi xin cam
đoan, kết quả nghiên cứu này chưa hề được công bố trong bất cứ công trình nào.
Nếu có gì sai sót tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng … năm 2019
Học viên

Nguyễn Thị Thảo


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM
HIỆN NAY: ...................................................................................................... 8
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ........................................................................ 8
1.1. Văn hóa và văn hóa chính trị .................................................................. 8
1.2. Cấu trúc, đặc điểm, chức năng của văn hóa chính trị ........................... 15
1.3. Thanh niên Việt Nam và vai trò của văn hóa chính trị đối với sự phát
triển của thanh niên Việt Nam hiện nay ...................................................... 25
Chương 2. VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA THANH NIÊN HUYỆN YÊN
LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.................. 32
2.1. Môt số đặc điểm huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc và thanh niên trong
huyện ............................................................................................................ 32
2.2. Thực trạng văn hóa chính trị thanh niên huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc
hiện nay ........................................................................................................ 38
2.3. Một số giải pháp cơ bản nâng cao văn hóa chính trị cho thanh niên
huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc ................................................................... 57

KẾT LUẬN .................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 68


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
VHCT : văn hóa chính trị
BTV : Ban Thường vụ
TNCS : thanh niên cộng sản
CNH: công nghiệp hóa
HĐH: hiện đại hóa
Nxb: nhà xuất bản
XHCN: xã hội chủ nghĩa
KT- XH: kinh tế - xã hội
KHHGĐ: kế hoạch hóa gia đình
ATGT: an toàn giao thông
UBND: ủy ban nhân dân
ĐVTN: đoàn viên thanh niên
GDTX và DN: giáo dục thường xuyên và dạy nghề
THPT: trung học phổ thông
LLCT: lực lượng chính trị


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định: “Văn hóa vừa
là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội” [16- tr 128].
Chính vì vậy, nhận thức đúng đắn về văn hóa là một điều kiện không thể thiếu
trong hành trang tri thức tiến về tương lai của mỗi người, đặc biệt là thế hệ
thanh niên.
Hiện nay, Văn hóa chính trị có vai trò rất to lớn đối với mỗi quốc gia,

mỗi dân tộc trong việc tổ chức xã hội, định hướng điều chỉnh các hành vi và
quan hệ xã hội. Và văn hóa chính trị còn thúc đẩy hoạt động của giai cấp, của
cá nhân, góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng của hoạt động chính trị.
Bối cảnh xu thế toàn cầu hóa hiện nay đã mở ra nhiều cơ hội phát triển mọi
mặt song cũng tạo ra những thách thức mới cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc.
Từ đó sẽ tạo động lực cho sự hòa nhập, phát triển và ổn đinh của đất nước. Do
vậy, các quốc gia trên thế giới đã và đang chú trọng nâng cao văn hóa chính
cho người dân nói chung, trong đó đặc biệt là thanh niên.
Văn hóa chính trị ở nước ta có một quá trình hình thành và phát triển lâu
dài, gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, dựa trên nền tảng
chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, hướng tới mục tiêu “Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Điều đó, đảm bảo
định hướng xã hội chủ nghĩa, thống nhất giữa tính cách mạng và khoa học,
truyền thống với hiện đại. Cũng chính từ đó đã tạo nên nét đặc sắc trong văn
hóa chính trị ở nước ta.
Với vai trò là một tổ chức chính trị xã hội rộng lớn của thanh niên, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã không ngừng đổi mới về phương thức
và tổ chức hoạt động để đáp ứng ngày càng tốt hơn những đòi hỏi của thanh
niên cũng như của thực tiễn, góp phần đào tạo con người mới cho đất nước.

1


Tuy nhiên, công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu niên còn nhiều mặt hạn
chế; hoạt động của Đoàn còn nhiều lúng túng, hệ thống tổ chức Đoàn trong hệ
thống chính trị và các phong trào thanh niên chưa gây được ảnh hưởng sâu
rộng; nội dung, phương thức hoạt động chậm được đổi mới, chưa có biện
pháp thiết thực để lôi cuốn, tập hợp thanh niên. Tăng cường công tác tập hợp
vận động thanh niên, xây dựng tổ chức Đoàn vững mạnh toàn diện là một
trong những nội dung quan trọng, cấp bách của cấp bộ Đoàn trong thời kỳ đẩy

mạnh CNH, HĐH. Bên cạnh đó, lực lượng thanh niên ngày nay cũng đang phải
đối diện với nhiều thách thức và khó khăn cùng sự tác động của mặt trái kinh tế
thị trường.
Yên Lạc là một huyện của tỉnh Vĩnh Phúc. Hiện nay, trên địa bàn huyện
có 17 xã, thị trấn gồm: Đồng Văn, Tề Lỗ, Tam Hồng, Văn Tiến, Nguyệt Đức,
Hồng Phương, Liên Châu, Đại Tự, Trung Nguyên, Thị trấn Yên Lạc, Yên
Đồng, Đồng Cương, Trung Hà, Hồng Châu, Yên Phương, Bình Định, Trung
Kiên. Đây là một huyện tương đối lớn của Vĩnh Phúc. Nơi đây đang có những
bước phát triển vượt bậc nhờ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại
hóa nông thôn. Đây cũng là vùng đất chứa đựng nhiều giá trị văn hóa truyền
thống của Vĩnh Phúc nói riêng và của Việt Nam nói chung.
Thực tiễn hiện nay cho thấy, văn hóa chính trị của thanh niên Yên Lạc
có những điểm tích cực nhất định. Thanh niên Yên Lạc ngày nay đa phần là
những bạn có lý tưởng chính trị đúng đắn, có niềm tin vào con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; luôn đấu tranh chống lại những biểu hiện sai
trái của các thế lực thù địch; tham gia nhiệt tình các phong trào xã hội. Tuy
nhiên, bên cạnh đó, còn có một bộ phận thanh niên còn chưa có ý thức chính
trị đúng đắn, một số bạn còn đua đòi, dao động, chưa tin tưởng vào các hoạt
động của chính quyền, đoàn thể,... Tất cả những điều này ảnh hưởng đến sự
phát triển không chỉ của Yên Lạc, mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển chung

2


của tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng, Việt Nam nói chung. Mục tiêu xây dựng một
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, tạo
những tiền đề vững chắc đi lên chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thành công khi
chúng ta xây dựng được một tầng lớp thanh niên có tình cảm, tri thức văn hóa
chính trị đúng đắn, có niềm tin vào sự tất yếu về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và cùng tham gia các

hoạt động xã hội, chính trị...
Trước thực trạng văn hóa chính trị của thanh niên Yên Lạc như đã trình
bày trên và trước những nnhiệm vụ, vai trò quan trọng của thanh niên Yên
Lạc đối với sự phát triển của địa phương, của đất nước thì việc nâng cao hơn
nữa văn hóa chính trị cho thanh niên huyện Yên Lạc là một yêu cầu tất yếu,
nhằm đáp ứng những đòi hỏi bức thiết của sự nghiệp xây dựng đất nước. Vì lý
do đó tôi chọn đề tài: “Văn hóa chính trị của thanh niên huyện Yên Lạc,
tỉnh Vĩnh Phúc” để triển khai nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Văn hóa chính trị là một trong những vấn đề được giới nghiên cứu đào
sâu, tìm hiểu nhiều. Hiện nay, trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, nội dung
nói trên được đề cập nhiều ở nhiều các công trình khác nhau, cụ thể:
Tác giả Phạm Ngọc Quang đã cho xuất bản cuốn: “Văn hóa chính trị và
việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay” (1995). Trong
cuốn này, tác giả đã đi sâu bàn về lý luận văn hóa là gì và văn hóa chính trị là
gì. Đồng thời, tác giả còn chỉ ra thực trạng và giải pháp trong việc nâng cao
đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay.
Năm 2006, tác giả Lâm Quốc Tuấn đã xuất bản cuốn “Nâng cao văn
hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay”, (Nxb Văn hóa
Thông tin). Công trình đã đề cập đến một số khái niệm văn hóa, văn hóa
chính trị, đặc điểm của nó. Công trình cũng đã đánh giá được thực trạng văn

3


hóa chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý ở Việt Nam hiện nay và
nguyên nhân của chúng; từ đó, đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm
nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay.
Bên cạnh các công trình nói trên, còn có một số công trình khác bài viết
liên quan đến văn hóa chính trị như:

Công trình “Vai trò của văn hóa trong hoạt động chính trị của Đảng ta
hiện nay” (1996) (GS.TS Trần Văn Bính chủ biên, Nxb Lao động, Hà Nội):
trong công trình này, tác giả đã làm rõ được vai trò của văn hóa trong hoạt
động chính của Đảng trong thực tiễn và từ đó, tác giả đưa ra các phương
hướng cũng như đề xuất một số giải pháp để nâng cao vai trò của văn hóa
trong việc tác động đến các hoạt động chính trị của đảng.
“Một số cách tiếp cận về văn hóa chính trị” (2008), TS. Lưu Văn
Quảng, đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Viện Chính trị học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội: Trong đề tài, tác giả đã làm rõ được
các khái niệm, cấu trúc, đặc điểm cũng như phân loại được các cách tiếp cận
về văn hóa chính trị của các nhà nghiên cứu đi trước để từ đó có được những
nhận thức về cách tiếp cận văn hóa chính trị một cách hợp lý nhất.
“Bước đầu tìm hiểu những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Việt
Nam” (2009), GS.TS Nguyễn Văn Huyên, PGS.TS. Nguyễn Văn Vĩnh và TS.
Nguyễn Hoài Văn (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội): Nội dung cuốn sách
phân tích nhiều giá trị cốt lõi của VHCT truyền thống Việt Nam trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
Bài viết của tác giả Hoàng Chí Bảo - “Xây dựng văn hóa trong chính
trị, quan niệm và giải pháp thực hiện” (đăng trên Báo điện tử của bộ Xây
Dựng năm 2015) cho rằng: xây dựng văn hóa chính trị là làm cho văn hóa
thẩm thấu vào chính trị, văn hóa và chính trị phải luôn song hành cùng nhau,
có văn hóa khắc sẽ có ý thức chính trị. Văn hóa chính trị là một trong những

4


một những nội dung của nền dân chủ pháp quyền, người dân có quyền làm
chủ mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội.
Tác giả Tạ Thành Chung cũng đi sâu nghiên cứu về văn hóa chính trị
thông qua luận án Tiến sĩ “ Văn hóa chính trị của công an nhân dân trong điều

kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay” năm 2017.Trong
luận án, tác giả cũng đi vào trình bày khái niệm, chỉ ra vai trò , đặc điểm , cấu
trúc của văn hóa chính của lực lượng công an nhân dân. Từ đó, tác giả đưa ra
giải pháp nhằm nâng cao văn hóa chính trị của đội ngũ công an nhân dân
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, còn có một số công trinh khoa học đăng trên tạp chí chuyên
ngành: “Văn hóa chính trị, một bình diện hợp thành của đối tượng và nội
dung nghiên cứu của chính trị học” của Hoàng Chí Bảo trong “ Một số vấn đề
về khoa học chính trị” (1992), Viện Mác – Lênin; “Văn hóa chính trị- một
cách nhìn trong thời kỳ đổi mới” (1998) của Trần Đình Huỳnh, Tạp chí Xây
dựng Đảng, số 10, 11; “Tiếp cận triết học về VHCT Việt Nam hiện nay”
(2005) của Nguyễn Văn Huyên, Thông tin Chính trị học, số 1; “Hệ giá trị văn
hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập” (2009) của Hoàng Chí
Bảo, Tạp chí cộng sản số 7/97; “Tư tưởng về một nền chính trị pháp quyền
trong VHCT truyền thống Việt Nam” (2010) của Nguyễn Hoài Văn, Tạp chí
Lý luận Chính trị, số 3...
Các công trình này đều đưa ra cách hiểu của mình về văn hóa chính trị.
Dù có sự tiếp cận khác nhau, song các công trình đều khẳng định, văn hóa
chính trị là một phương diện của văn hóa, xuất hiện cùng với sự xuất hiện của
các giai cấp. Các công trình cũng khẳng định vị trí, vai trò của văn hóa chính
trị, văn hóa chính trị truyền thống đối với đời sống xã hội, khẳng định sự cần
thiết nâng cao văn hóa chính trị cho các tầng lớp nhân dân.

5


Tuy nhiên, với những điều đã trình bày trên cho thấy, chưa có một công
trình nào nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống về văn hóa chính trị của thanh
niên huyện Yên Lạc. Song, các công trình khoa học nêu trên đều là những tài
liệu tham khảo hữu ích phục vụ công tác nghiên cứu của luận văn của tác giả.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Trên cơ sở làm rõ lý luận chung về văn hóa chính trị của
thanh niên, thực trạng văn hóa chính trị của thanh niên huyện Yên Lạc, tỉnh
Vĩnh Phúc, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao văn hóa
chính trị của thanh niên huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
- Nhiệm vụ: Đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận về văn hóa chính trị của thanh niên Việt
Nam hiện nay.
+ Phân tích thực trạng văn hóa chính trị của thanh niên huyện Yên Lạc,
tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
+Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nâng cao văn hóa chính trị của
thanh niên huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: văn hóa chính trị của thanh niên huyện Yên
Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là: từ năm 2005ss đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận của đề tài là sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh những
quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác Lênin , các quan điểm của Đảng về
chính trị, văn hóa, văn hóa chính trị, về thanh niên...
- Phương pháp nghiên cứu khoa học:

6


Đề tài sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử và hệ thống các phương pháp cụ thể như: logic, lịch sử,
diễn dịch và quy nạp, phân tích và tổng hợp, so sánh và đối chiếu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

- Ý nghĩa lý luận: góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về
văn hóa chính trị, vai trò của văn hóa chính trị đối với thanh niên Việt Nam
hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn: những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng
làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về những vấn đề
liên quan đến văn hóa chính trị, văn hóa chính trị của thanh niên. Kết quả
nghiên cứu của luận văn cũng có ý nghĩa khuyến nghị trong việc nâng cao
văn hóa chính trị của thanh niên Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng, thanh
niên Việt Nam nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn có phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, và
2 chương, 6 tiết.

7


Chương 1
VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Văn hóa và văn hóa chính trị
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Ở phương Tây, từ văn hóa xuất hiện vào khoảng thế kỉ III TCN. Văn
hóa trong tiếng Latinh bắt nguồn từ chữ “Cultus” có nghĩa gốc là trồng trọt,
cày cấy, vun trồng. Vậy xét về nguồn gốc, văn hóa là khái niệm gắn với sự
phát triển nông nghiệp. Về sau, thuật ngữ văn hóa mở rộng thành “Cultus
animi” và được chuyển nghĩa, đề cập đến sự vun trồng tinh thần, trí tuệ, bồi
dưỡng tâm hồn con người. Văn hóa được người Hy Lạp cổ hiểu là một dạng
đặc thù của hoạt động con người, là tự nhiên đã được con người cải tạo và
qua đó khẳng định mình với tư cách là con người.
Lý luận văn hóa Mác -Lênin xem văn hóa là hiện tượng xã hội. Hoạt

động văn hóa làm một bộ phận của hoạt động thực tiễn xã hội. Mỗi một hình
thái kinh tế xã hội có một kiểu văn hóa xác định. Văn hóa mang tính lịch sử.
Văn hóa là dấu hiệu phân biệt giữa con người với động vật. Nó xuất hiện và
phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Và tương ứng với hai
loại sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần, văn hóa cũng được chia thành văn
hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Trong đó, văn hóa vật chất là cơ sở, là nền
tảng, xét đến cùng có vai trò quyết định đối với sự phát triển của văn hóa tinh
thần. Song, ngược lại, văn hóa tinh thần cũng có tính độc lập tương đối, có vai
trò đối với sự phát triển xã hội.
Ở Việt Nam, có nhiều quan niệm khác nhau về văn hóa :Theo tác giả
Phạm Văn Đồng, văn hóa là “hiểu biết, khám phá và sáng tạo”, “văn hóa là
quá trình con người và cộng đồng con người ở từng nơi và ở mọi nơi đoàn kết
và phấn đấu qua biết bao gian khổ và hy sinh để từng bước, từng phần tự

8


khẳng định mình, từng bước, từng phần thoát khỏi thân phận bị tha hóa, dần
dần trở thành con người tự do”.[19- tr.11]
Tác giả Đào Duy Anh quan niệm rằng: “Người ta thường cho văn hóa
chỉ là những học thuật, tư tưởng của loài người, nhân thế mà xem văn hóa có
tính chất cao thượng đặc biệt. Thực ra không phải như vậy. Học thuật, tư
tưởng cố nhiên là ở trong phạm vi của văn hóa, nhưng phàm sự sinh hoạt về
kinh tế, về chính trị, về xã hội cùng hết thảy các phong tục tập quán tâm
thường lại không phải là ở trong phạm vi văn hóa hay sao? Hai tiếng văn hóa
chẳng qua là chỉ chúng tất cả các phương diện sinh hoạt của loài người, cho
nên có thể nói rằng văn hóa tức là sinh hoạt”[1].
Tác giả Trần Ngọc Thêm đưa ra quan niệm văn hóa như sau: “Văn hóa
là một hệ thống hữu cơ có giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con

người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”. [46- tr.20-tr.24]
Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả
ở nước ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa
do UNESCO đưa ra vào năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo
hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì “Văn hóa là một phức
hệ- tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình
cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng,
miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương
mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá
trị, những truyền thống, tín ngưỡng…” [8]; còn hiểu theo nghĩa hẹp thì “Văn
hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và
giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng” [33- tr.314 ]
Từ các cách tiếp cận khác nhau về văn hóa ta có thể đi tới một khái
niệm về văn hóa: Văn hóa là trình độ phát triển lịch sử nhất định của xã hội,

9


trình độ phát triển năng lực và khả năng sáng tạo của con người biểu hiện
trong các phương thức tổ chức đời sống xã hội và hoạt động của con người
cũng như toàn bộ giá trị tinh thần và vật chất do loài người sáng tạo nên trong
tiến trình lịch sử vì lẽ sinh tồn và mục đích của cuộc sống.
1.1.2. Văn hóa chính trị
Trước khi đề cập đến văn hóa chính trị, cần thiết phải hiểu chính trị là
gì.
Theo Max Weber, nhà xã hội học Đức đầu thế kỉ XX, chính trị là khát
vọng tham gia quyền lực hay ảnh hưởng đến sự phân chia quyền lực giữa các
quốc gia, bên trong quốc gia, giữa các tập đoàn trong một quốc gia. Nghĩa là,
chính trị chỉ là những mong muốn, khát vọng và những tương tác khách quan,
sự ảnh hưởng của cộng đồng người đối với quyền lực, không phải là hoạt

động theo đuổi quyền lực.
Xuất phát từ quan niệm mang tính chức năng của chính trị, một số học
giả khác đã xem khả năng của con người đóng những vai trò khác nhau, hoàn
thành những chức năng khác nhau trong khuôn khổ của một thể chế chính trị.
Từ đó, họ cho rằng, bản chất chính trị là sự phân chia thẩm quyền và trách
nhiệm cũng như đảm bảo hiệu quả của chính trị và sự bền vững của chính thể.
Như vậy ở đây, chính trị được hiểu như sự khéo léo, khả năng đạt được sự
phân chia chức năng mà vẫn đảm bảo duy trì sự tác động qua lại của chúng.
Các quan niệm trên, tuy có chứa một số những nhân tố hợp lý nhất
định, nhưng chưa nêu được nội dung cơ bản nhất của phạm trù chính trị, đó
là: chính trị là một thực thể tồn tại trong đời sống với những cấp độ khác nhau
(cá nhân, cộng đồng, giai cấp, dân tộc, nhân loại), liên quan đến công việc của
nhà nước.
Từ Nghiên cứu các quan điểm trước đó về chính trị, đồng thời vận
dụng một cách khoa học các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện

10


chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các nhà kinh điển của chủ nghĩa MácLênin đã đề xuất những nhận định đúng đắn về chính trị như sauː
“Chính trị là lợi ích, là quan hệ lợi ích, là đấu tranh giai cấp trước hết vì
lợi ích giai cấp. Cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chức quyền lực nhà
nước, là sự tham gia vào công việc Nhà nước, là định hướng cho nhà nước,
xác định hình thức, nội dung, nhiệm vụ của Nhà nước. Chính trị là biểu hiện
tập trung của kinh tế. Đồng thời, chính trị không thể không chiếm vị trí hàng
đầu so với kinh tế. Chính trị là lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm nhất, liên quan tới
vận mệnh hàng triệu người. Giải quyết những vấn đề chính trị vừa là khoa
học, vừa là nghệ thuật. Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các
giai cấp, cũng như các dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức
và sử dụng quyền lực Nhà nước; là sự tham gia của nhân dân vào công việc

của Nhà nước và xã hội, là hoạt động chính trị thực tiễn của giai cấp, các đảng
phái chính trị, các nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đương
lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích”.[13- tr.6]
Quan điểm của Hồ Chí Minh về chính trị: “giữ vững và phát huy vai trò
lãnh đạo của Đảng. Củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, nòng
cốt là liên minh công nhân, nông dân và trí thức, do Đảng cộng sản lãnh đạo;
củng cố và tăng cường sức mạnh toàn bộ hệ thống chính trị cũng như từng
thành tố của nó”[21- tr72-75]
Như vậy, với những điều đã trình bày như trên, có thể xem chính trị là
hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các dân tộc, giai cấp, cũng như giữa
các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước; là
hoạt động chính trị của thực tiễn giai cấp; là sự tham gia của nhân dân vào
công việc nhà nước và xã hội;, các đảng phái chính trị, các nhà nước nhằm
tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra
nhằm đạt được lợi ích.

11


Về khái niệm văn hóa chính trị
Văn hóa chính trị là một phương diện của văn hóa trong xã hội có giai
cấp. Nó thể hiện khả năng, năng lực của con người trong việc giác ngộ lợi ích
dân tộc, lợi ích giai cấp, trong việc tổ chức, hoàn thiện hệ thống tổ chức
quyên lực, nhằm hiện thực hóa lợi ích của nhân dân hay lợi ích của giai cấp
phù hợp với mục tiêu chính trị và sự tiến bộ xã hội.
Quan điểm nổi bật nhất và đặc sắc nhất trong tư tưởng VHCT của Hồ
Chí Minh là xã hội mới phải có con người mới đại diện cho nó: “Muốn
XHCN, phải có: người XHCN. Muốn có người XHCN, phải có tư tưởng
XHCN” [32- tr.288 ] . Đối với Hồ Chí Minh, xây dựng thành công con người
mới XHCN là xác lập cơ sở bền vững của VHCT mới. Sự lựa chọn con

đường kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp vô sản là sự lựa
chọn mang tính VHCT sâu sắc. Quan điểm về một xã hội mới phải là một xã
hội không có áp bức dân tộc, áp bức giai cấp, áp bức con người.
Tác giả Lâm Quốc Tuấn trong bài “ Văn hóa chính trị và sự phát triển
con người xã hội” định nghĩa : “Văn hóa chính trị là một phương diện của văn
hóa trong xã hội có giai cấp nói lên tri thức năng lực sáng tạo trong hoạt động
chính trị dựa trên nhận thức sâu sắc các quan hệ chính trị hiện thực để thực
hiện lợi ích cơ bản của giai cấp hay của xã hội phù hợp với sự phát triển lịch
sử, được phản ánh trong các hình thức, các kiểu tổ chức hoạt động chính trị
trong các thiết chế chính trị, trong các giá trị vật chất cũng như tinh thần do
chính trị sáng tạo”[48].
Hai nhà chính trị học người Mỹ là G.Almond và S.Verbas, những
người đầu tiên đưa ra khái niệm chính trị, đã chú trọng vào việc nghiên cứu
hoạt động chính trị và gắn liền quá trình chính trị với hành vi của con người.
Theo các ông, hành vi chính trị là một phần của hành vi xã hội, cho nên khi
phân tích hành vi chính trị phải gắn chặt với sự xem xét các nhân tố văn hóa,
tâm lý của cá nhân và toàn xã hội. Xuất phát từ hành vi chính trị của các cá
12


thể, các ông cho rằng: “Văn hóa chính trị là tập hợp các lập trường và xu
hướng cá nhân của những người tham gia một hệ thống nào đó, là lĩnh vực
chủ quan làm cơ sở hành động chính trị và làm cho hoạt động chính trị có ý
nghĩa”[24-tr.216]
Văn hóa chính trị chỉ là một khía cạnh, một lĩnh vực của văn hóa. Hoạt
động chính trị được coi là văn hóa thì đều phải có một niềm tin chính trị và
một thể chế chính trị. Do vậy, văn hóa chính trị có thể được hiểu là hệ thống
các niềm tin về quyền lực, quyền và thẩm quyền - những yếu tố gắn với thiết
chế nhà nước. Cũng có thể hiểu rằng, văn hóa chính trị là những định hướng
chính trị, thái độ chính trị của chủ thể đối với hệ thống chính trị cũng như đối

với vai trò của bản thân chủ thể đó trong hệ thống chính trị. Còn theo Lucian
Pye và Sidney Verba - các nhà khoa học người Mỹ, thì “Văn hóa chính trị là
một hệ thống các niềm tin được hình thành trong thực tiễn chính trị”[tr25 26]
Con người khi tham gia đời sống chính trị, hoạt động chính trị phải có
sự hiểu biết nhất định. V.I.Lênin quan niệm: “Người không biết chữ là người
đứng ngoài chính trị” [54 – tr.218] . Trên cơ sở sự hiểu biết về chính trị và
những tri thức, các chủ thể chính trị mới có thể giác ngộ về lập trường, quan
điểm giai cấp đúng đắn, qua đó xác định đúng mục tiêu, thái độ và động cơ
chính trị, phát huy lòng quyết tâm, tính tự giác sự sáng tạo cả trong hoạt động
thực tiễn cũng như ở hành vi chính trị.
Tri thức về chính trị bao gồm tri thức lý luận chính trị và tri thức kinh
nghiệm chính trị. Tri thức kinh nghiệm chính trị là sản phẩm của một quá
trình quan sát, trải nghiệm, đúc rút tích lũy thông qua hoạt động thực tiễn của
các chủ thể chính trị, tạo thành vốn sống, thói quen, linh cảm, sự nhạy bén
chính trị, là cơ sở thực tiễn cho bước phát triển thành tri thức lý luận. Tri thức
lý luận chính trị là sự hệ thống hóa, khái quát hóa, chỉ ra cái bản chất, cái tất
yếu được nâng lên thành lý luận, thành quy tắc từ những kinh nghiệm chính
trị thực tiễn. Như vậy, hai cấp độ, hai hệ thống tri thức chính trị có mối quan
13


hệ hữu cơ, bổ sung cho nhau, đòi hỏi trong hoạt động chính trị, các chủ thể
chính trị không được coi nhẹ hoặc tuyệt đối hóa mặt nào. Như vậy coi trọng
hóa tri thức lý luận, xem nhẹ kinh nghiệm thực tiễn sẽ dẫn đến chủ nghĩa
giáo điều và lý luận suông. Ngược lại, coi trọng hóa kinh nghiệm, xem
thường lý luận sẽ dẫn đến chủ nghĩa kinh nghiệm, hành động mù quáng, cảm
tính.
Như vậy, văn hóa chính trị là bộ phận của văn hóa chỉ ra tác động của
một loại hình văn hóa xã hội nhất định đối với hành vi chính trị của công dân
và đối với hệ thống chính trị. Văn hóa chính trị thể hiện qua sự hiểu biết chính

trị, tình cảm chính trị, giá trị chính trị, niềm tin và thái độ chính trị của các
công dân đối với các hiện tượng và hệ thống chính trị. Tinh thần cốt lõi của
văn hóa chính trị là các giá trị nhân văn trong xử lý chính trị. Chính trị giải
phóng con người khỏi sự áp bức bóc lột về phương diện giai cấp, dân tộc và
xã hội, phấn đấu để ngày càng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân là chính trị có văn hóa hay xử lý chính trị nhân văn. Như vậy văn
hóa chính trị được xây dựng trên nền tảng củatư tưởng Hồ Chí Minh và chủ
nghĩa Mác-Lênin .
Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
nước ta đòi hỏi việc xây dựng văn hóa chính trị đang đặt ra những yêu cầu
mới, như Văn kiện Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định:
“Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế. Chú trọng chăm lo xây dựng
văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và đoàn thể; coi đây là nhân
tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”[16tr.128]. Nghị quyết cũng xác định phải làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi
lĩnh vực của đời sống, trong phát triển kinh tế - xã hội, trong tổ chức và hoạt
động chính trị, trong lãnh đạo, quản lý điều hành, kiểm tra, giám sát quyền
lực của nhân dân, lẫn tham chính chính trị của các cán bộ và công chức, của
công dân và mọi người dân.

14


1.2. Cấu trúc, đặc điểm, chức năng của văn hóa chính trị
1.2.1. Cấu trúc của văn hoá chính trị
1.2.1.1. VHCT với tư cách là hệ thống các giá trị
Những giá trị chính trị là lí do, là định hướng và lí giải hành động của chủ
thể chính trị, thể hiện trạng thái, nhu cầu và triển vọng phát triển của xã hội cũng
như của các thành viên, các nhóm trong xã hội. Với ý nghĩa đó, VHCT là kết
quả tổng hợp của các giá trị sau.
Thứ nhất, tri thức và sự hiểu biết chính trị:

Là giá trị nền tảng của VHCT, được định lượng một cách phổ biến bởi tri
thức chính trị. Tri thức chính trị là sự hiểu biết của con người về chính trị và
trình độ học vấn chính trị. VHCT luôn cần và cần phải có học vấn chính trị. Tuy
văn hóa và học vấn là hai khái niệm không đồng nhất với nhau, nhưng lại có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Trình độ học vấn giúp cho các chủ thể hiểu biết
và nhận thức rõ hơn về các giá trị văn hóa, từ đó xác định các nguyên tắc, lý
tưởng sống cho bản thân mình, lúc đó trình độ học vấn đã trở thành một khía
cạnh của nhân cách văn hóa. Ngược lại, văn hóa lại khẳng định những giá trị xã
hội của học vấn, chủ thể nào có trình độ học vấn mà không cống hiến cho xã
hội, thậm chí phá hoại xã hội thì học vấn đó đứng ngoài văn hóa. Như vậy Có
trình độ học vấn, quần chúng nhân dân đã nâng cao được ý thức và tự giác
,trách nhiệm, tham gia tích cực và có hiệu quả trong thực hiện chủ trương ,đường
lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Thứ hai, niềm tin và tình cảm chính trị
Muốn xây dựng VHCT tiến tiến, cách mạng - VHCT XHCN thì phải
xây dựng được niềm tin trên cơ sở khoa học, chính nghĩa, tiến bộ, phù hợp
với xu thế phát triển của nhân loại. Nếu chỉ có tri thức, mà không có tình
cảm, không tin vào hệ thống chính trị đương thời thì người ta cũng sẽ
không hành động. Chính vì vậy, bên cạnh việc nâng cao trình độ học vấn,
đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho các chủ thể chính trị,

15


đặc biệt là cho quần chúng nhân dân; thì việc nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho quần chúng; cán bộ thật sự là những tấm gương sáng vì nhân
dân chính là những cơ sở cho niềm tin của quần chúng vào sự lãnh đạo của
giới cầm quyền.
Thứ ba, các truyền thống chính trị
Cơ sở lịch sử xã hội của VHCT được hình thành từ những nhân tố như:

truyền thống, các giá trị chính trị đã được các thế hệ trước tạo ra trong quá trình
lịch sử, địa chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, tôn giáo.... Vậy tất cả những nhân tố
này quan hệ với nhau một cách biện chứng, bổ sung cho nhau, , hỗ trợ cho việc
hình thành VHCT của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Đối với mỗi quốc gia, mỗi dân
tộc trong lịch sử hình thành và phát triển đều tạo nên những giá trị nhất định (tập
tục, truyền thống, thói quen chính trị) được cả cộng đồng thừa nhận.
Trong thời đại ngày nay, khi mà sự giao lưu giữa các nền văn hóa trở nên
cần thiết và mạnh mẽ thì những giá trị truyền thống là căn cứ để phân biệt những
giá trị đích thực của nền văn hóa dân tộc với các nền văn hoá khác. Khi đó tính
dân tộc trong VHCT càng phải đề cao hơn bao giờ hết.
Thứ tư, những lý tưởng cao đẹp mà con người phấn đấu đạt tới trong
chính trị
Những lý tưởng cao đẹp vừa đóng vai trò là xung lực nội tại để hoàn thiện
tư chất của chủ thể chính trị vươn tới những giá trị chân, thiện, mỹ trong hoạt
động chính trị. vừa đóng vai trò là động lực kích thích họat động chính trị,
Lý tưởng chính trị phụ thuộc phần lớn vào đạo đức và trí tuệ của chủ
thể. Ví dụ như lý tưởng chính trị cao cả, tột bậc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
“là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”[34- tr.161-162]
Để thực hiện lý tưởng chính trị của mình, chủ thể chính trị phải biết lựa
chọn những phương thức, phương tiện hoạt động chính trị phù hợp. Cách

16


mạng XHCN nhằm thực hiện lý tưởng, mục tiêu giải phóng triệt để con người
thì những phương tiện mà chủ thể (giai cấp công nhân và nhân dân lao động)
sử dụng phải đáp ứng được những nhu cầu, khát vọng giải phóng đó.
Thứ năm, hệ tư tưởng chính trị
Với tư cách là nhân tố phản ánh khái quát lợi ích của giai cấp cũng như

phương thức, con đường để thực hiện lợi ích cơ bản của giai cấp, liên minh
giai cấp hoặc của nhân dân lao động nói chung (trong điều kiện của CNXH),
“hệ tư tưởng là yếu tố cốt lõi nhất, là định hướng cơ bản cho đời sống tinh
thần xã hội”[14]. Đóng vai trò quan trọng của VHCT, có tác dụng chi phối
các nhân tố khác trong VHCT, giữ vị trí trung tâm, cũng như trong toàn bộ
nền VHCT nói chung của một thể chế chính trị. Nó qui định nội dung, tính
chất, khuynh hướng phát triển và tính tích cực của VHCT trong một xã hội
nhất định. Ngoài ra còn có nhiều yếu tố khác tham gia vào sự hình thành
VHCT, đóng góp vào cấu trúc của VHCT như: bầu không khí tâm lý - đạo
đức, tôn giáo; bối cảnh yêu cầu của thời đại.
Như vậy, với tư cách là hệ thống các giá trị, VHCT không tồn tại thuần
túy mà luôn gắn liền với các chủ thể chính trị xác định. Do vậy, những yếu tố
cấu thành VHCT cũng như phương thức vận động của VHCT của các chủ thể
tuy thống nhất nhưng cũng có sự khác biệt nhất định.
Với ý nghĩa đó, VHCT là tổng hợp các giá trị như: tri thức, kinh nghiệm
hoạt động thực tiễn, tình cảm, niềm tin chính trị được hình thành trong thực tiễn
chính trị, tạo thành ý thức chính trị của các chủ thể, chi phối hành vi của các chủ
thể trong quá trình hiện thực hóa lợi ích chính trị căn bản của giai cấp mình, phù
hợp với xu thế phát triển của lịch sử, của tiến bộ xã hội.
1.2.1.2. VHCT với tư cách là sản phẩm hoạt động chính trị của các chủ
thể chính trị (cá nhân và tổ chức)

17


VHCT là do con người trong quan hệ với chính trị sáng tạo nên. Các giá trị
chính trị thể hiện bản chất của các hoạt động chính trị của các chủ thể trong quá
trình thực hiện lợi ích giai cấp. Chính trong thực tiễn chính trị, các chủ thể tạo cho
mình hệ thống các giá trị VHCT, tạo nên đặc trưng, bản chất VHCT cho mình
Một là, VHCT cá nhân

VHCT cá nhân thường được nhìn nhận, đánh giá qua những yếu tố như:
trình độ hiểu biết và sự giác ngộ chính trị của mỗi cá nhân trong tư cách con
người chính trị của nó (công dân, một người cán bộ, một thủ lĩnh). Trình độ đó
được biểu hiện ở ý thức chính trị, thái độ, lập trường quan điểm chính trị; mức
độ nhận thức, đánh giá các sự kiện, các diễn biến chính trị; sự lựa chọn tham gia
của cá nhân vào các hoạt động chính trị thực tiễn; thái độ và mức độ phản ứng
hay hưởng ứng trước một tình huống chính trị nào đó trong đời sống xã hội.
VHCT cá nhân vừa góp phần tạo lập các giá trị, vừa góp phần hình thành dư
luận xã hội tích cực đấu tranh chống những hành vi gây tổn hại tới lợi ích chung
của xã hội.
Như vậy, VHCT cá nhân là chất lượng tổng hòa của nhiều giá trị và sự thực
thi các giá trị thông qua hoạt động của cá nhân mà trực tiếp và quan trọng nhất là
quá trình tiếp thu nền giáo dục của xã hội và sự rèn luyện trong thực tiễn lao động
và đấu tranh cách mạng.
Hai là, VHCT của tổ chức (văn hóa tổ chức)
VHCT của tổ chức do VHCT của cá nhân hợp thành. Nhưng để tạo nên
sự thống nhất giữa VHCT của các tổ chức,cá nhân thì văn hóa tổ chức phải là,
sự phối hợp, sự đoàn kết, sự thống nhất trong lý tưởng, mục tiêu và trong hành
động chính trị. Do vậy, để duy trì, phát triển văn hóa tổ chức thì phải thực hiện
và giữ vững các nguyên tắc chính trị với ý nghĩa là những chuẩn giá trị VHCT.
Văn hóa tổ chức gồm 2 phần đó phần vô hình và hữu hình trong đó gồm
niềm tin và các giá trị - được thừa nhận và thực hành bởi số đông các thành

18


viên trong tổ chức. Và vì vậy, bất kỳ cá nhân nào cũng vừa hội tụ những giá trị
qui định phẩm chất cá nhân, vừa mang một phần, một khía cạnh, một yếu tố
trong văn hóa tổ chức.
1.2.2. Đặc điểm của văn hoá chính trị

Thứ nhất là, VHCT bao giờ cũng mang tính giai cấp
VHCT được hình thành trong thực tiễn đấu tranh giai cấp, do đó, nó
luôn bị chi phối bởi hệ tư tưởng, thế giới quan, những quan điểm chính trị của
giai cấp nhất định và nó phục vụ lợi ích của mỗi giai cấp. Không bao giờ có
những giá trị chính trị chung chung. Những quan hệ quyền lực là sự gắn bó
của phạm vi hoạt động chính trị và công việc nhà nước. Do vậy, bất cứ hành
vi nào của chủ thể chính trị khi đã chịu sự điều chỉnh của các chuẩn giá trị
VHCT cũng là hành vi hướng tới thực hiện lợi ích giai cấp và bảo vệ lợi ích
của giai cấp ấy một cách nhân văn.
Thứ hai là, VHCT mang tính lịch sử - cụ thể
VHCT được qui định bởi những nhân tố chủ quan và điều kiện khách
quan. Hai loại nhân tố này có nội dung, tính chất và phương thức qui định khác
nhau trong các thời kỳ lịch sử khác nhau, điều đó qui định tính lịch sử của
VHCT.
Sự truyền dẫn VHCT từ thế hệ này sang thế hệ khác cũng được thực
hiện theo khuôn mẫu và định hướng nhất định, thích hợp với nhận thức và
nhu cầu của mỗi cá nhân và toàn xã hội trong đời sống chính trị ở mỗi giai
đoạn lịch sử. Do vậy, VHCT còn phụ thuộc vào khả năng tạo lập, kế thừa và
sử dụng các giá trị VHCT của mỗi chủ thể nào đó trong từng giai đoạn lịch sử
nhất định.
Tính lịch sử, cụ thể của VHCT thể hiện cả ở chỗ: trong các điều kiện
lịch sử khác nhau, tính chất, nội dung, mức độ phát triển của VHCT không
giống nhau. Mặt khác cũng cho thấy, giá trị VHCT luôn có sự vận động và

19


phát triển chứ không phải là cái gì bất biến. Mỗi thời đại khác nhau, văn hóa
chính trị có những biểu hiện, yêu cầu khác nhau. Văn hóa chính trị thời kỳ
phong kiến là trung quân, ở Việt Nam hiện nay là trung thành với Đảng, Nhà

nước và nhân dân. Tính lịch sử, cụ thể của văn hóa chính trị ảnh hưởng lớn
đến những thay đổi trong nhân cách xã hội của con người.
Thứ ba là, VHCT mang tính kế thừa
Tính kế thừa của VHCT trong sự phát triển được kết tinh từ những thành
tựu văn hóa, những di sản tinh thần của thời đại, của truyền thống, kết hợp với
kinh nghiệm thực tiễn, từ đó làm cho VHCT không ngừng được nâng lên.
Trong quá trình vận động và phát triển, các giá trị truyền thống không
biến mất, mà nó hóa thân vào các giá trị của thời sau theo qui luật kế thừa và
tái tạo. Các giá trị trước trở thành truyền thống khi được các thế hệ sau lựa
chọn, tiếp nhận và phát triển, đó chính là quan hệ giữa truyền thống và hiện
tại. Sự thích nghi của những giá trị cũ đối với sự thay đổi của thời đại là biểu
hiện tính liên tục của văn hóa. Bởi vậy, trong chính trị cũng phải luôn có sự
kế thừa về mặt giá trị, quay lưng với những giá trị truyền thống cũng có nghĩa
quay lưng lại với lịch sử dân tộc. Điều đó vừa là sự sa sút về bản lĩnh văn hóa
vừa trái với qui luật vận động và phát triển của văn hóa, và như thế ắt có sự
trả giá.
1.2.3. Chức năng của văn hoá chính trị
VHCT có những chức năng rất quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng của chủ thể chính trị. Ý nghĩa động lực của VHCT biểu hiện qua các
chức năng của nó, đó là:
1.2.3.1. Chức năng điều chỉnh
VHCT góp phần định hướng , điều chỉnh cho hành vi và các quan hệ
xã hội, giáo dục, nâng cao nhận thức cho các chủ thể chính trị

20


×