Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Câu hỏi nhận định đúng sai Luật tố tụng hình sự 2015 (có đáp án)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.48 KB, 35 trang )

Câu hỏi nhận định đúng sai Luật tố tụng hình sự 2015 (có đáp án)

Phần 1: Các câu hỏi nhận định thường gặp được sắp xếp lộn xộn
1. Tất cả các Cơ quan tiến hành tố tụng đều có quyền khởi tố vụ án hình sự và
khởi tố bị can.
=> Sai, vì: Theo Đ33 BLTTHS, cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm: CQĐT,
Viện kiểm sát; Tòa án.
Theo Đ104 BLTTHS thì tất cả các cơ quan trên đều có quyền khởi tố vụ án hs. Tuy
nhiên, về thẩm quyền khởi tố bị can, theo Đ126 BLTTHS thì Tòa án không có
quyền khởi tố bị can.
Như vậy, không phải tất cả các cơ quan tiến hành tố tụng đều có quyền khởi tố bị
can.
2. Tất cả những người có quyền giải quyết vụ án hình sự đều là những người
tiến hành tố tụng.
=> Sai, vì: Những cơ quan khác không phải cơ quan tiến hành tố tụng như: Bộ đội
biên phòng, Kiểm lâm, Hải quan, Cảnh sát biển và những cơ quan khác trong


CAND và QĐND được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được
quy định tại Đ111 BLTTHS cũng có quyền tham gia giải quyết vụ án hình sự theo
những trường hợp luật định.
3. Tất cả những người tham gia tố tụng có quyền và nghĩa vụ pháp lý trong vụ
án hình sự đều có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng.
=> Sai, tại vì: Căn cứ vào Đ43 BLTTHS quy định những người có quyền đề nghị
thay đổi người tiến hành tố tụng bao gồm: Kiểm sát viên; bị can, bị cáo, người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
haị; người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự. Theo quy định trên thì những người tham gia tố tụngkhác
như người làm chứng, người giám định, người phiên dịch…không có quyền đề
nghị thay đổi người tiến hành tố tụng.
Như vậy, không phải tất cả những người tham gia tố tụng có quyền và nghĩa


vụ pháp lý trong vụ án hình sự đều có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố
tụng.
4. Trong mọi trường hợp người bào chữa phải bị thay đổi nếu là người thân
thích của người tiến hành tố tụng.
Sai, tại vì: Căn cứ vào mục 1, phần II NQ 03 thì căn cứ vào thời điểm mà người
bào chữa tham gia để quyết định thay đổi hoặc không thay đổi. Nếu người bào
chữa không tham gia trong các giai đoạn tố tụng ngay từ đầu mà có quan hệ thân
thích với người đã và đang tiến hành tố tụng thì sẽ từ chối cấp giấy chứng nhận
người bào chữa cho người được nhờ bào chữa đó. Còn nếu người bào chữa tham
gia trong các giai đoạn tố tụng ngay từ đầu thì sẽ được cấp giấy chứng nhận người
bào chữa và người bị thay đổi trong trường hợp này là người tiến hành tố tụng
có mối quan hệ thân thích với người bào chữa.
Như vậy, không phải trong mọi trường hợp, người bào chữa phải bị thay đổi nếu
là người thân thíchcủa người tiến hành tố tụng.
5. Một người khi thực hiện tội phạm là người chưa thành niên, nhưng khi
khởi tố vụ án hình sự đã đủ 18 tuổi thì họ không thuộc trường hợp quy định
tại K2 Đ57 BLTTHS.
Đúng, tại vì: Căn cứ vào điểm a mục 3 phần II NQ 03 quy định thì trường hợp
khi phạm tội là người phạm tội là người chưa thành niên, nhưng khi khởi tố, truy
tố, xét xử họ đã đủ 18 tuổi thì họ không thuộc trường hợp quy định tại điểm b,
khoản 2 điều 57 BLTTHS.


6. Trong trường hợp bào chữa bắt buộc quy định tại Điểm b K2 Đ57
BLTTHS, khi bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ yêu cầu thay
đổi người bào chữa thì yêu cầu đó luôn được chấp nhận.
Sai, tại vì: Căn cứ vào Điểm c.1 mục 3 phần II NQ 03 quy định trường hợp yêu cầu
thay đổi người bào chữa thì thẩm phán được phân công làm chủ tòa phiên tòa căn
cứ vào khoản 2 và khoản 3 Điều 56 BLTTHS, hướng dẫn tại mục 1 phần II nghị
quyết để xem xét, quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận.

7. Người làm chứng có thể là người thân thích của bị can, bị cáo.
Đúng, tại vì: Theo quy định tại K2 Đ55 BLTTHS quy định về những người không
được làm chứng không liệt kê người thân thích của bị can bị cáo. Căn cứ theo
khoản 1 Đ55 BLTTHS, nếu người thân thích của bị can bị cáo biết được tình tiết
liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm chứng.
8. Người dưới 14 tuổi không được làm chứng.
Sai, tại vì: Căn cứ vào K2 Đ55 BLTTHS không liệt kê người dưới 14 tuổi không
được làm chứng. Và căn cứ theo Khoản 1 Điều 55 BLTTHS nếu người dưới 14
tuổi biết được tình tiết liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làn chứng.
9. Người giám định có thể là người thân thích của bị can bị cáo.
Sai, tại vì: Điểm a Khoản 4 Điều 60 và căn cứ vào Khoản 1 Điều 42 BLTTHS thì
khi người giám định là người thân thích của bị can, bị cáo thì người giám định phải
từ chối hoặc bị thay đổi.
10. Người phiên dịch có thể là người thân thích của bị can, bị cáo.
Sai, tại vì: Căn cứ vào Điểm a Khoản 3 Điều 61 và Khoản 1 Điều 42 BLTTHS thì
khi người phiên dịch là người thân thích của bị can, bị cáo thì phải từ chối hoặc bị
thay đổi.
11. Trong mọi trường hợp, thẩm phán, hội thẩm phải từ chối tiến hành tố tụng
hoặc bị thay đổi nếu đã được phân công tham gia xét xử sơ thẩm hoặc phúc
thẩm vụ án đó.
Sai, tại vì: Căn cứ vào Điểm b Mục 6 Phần I NQ03, đã tham gia xét xử sơ
thẩm hoặc phúc thẩm trong vụ án là đã tham gia giải quyết vụ án và đã ra bản án sơ
thẩm hoặc bản án phúc thẩm hoặc quyết định đình chỉ vụ án. Nếu thẩm phán, hội


thẩm được phân công tham gia xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm nhưng chỉ tham gia
ra các quyết định: trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ vụ án, hủy quyết định
đình chỉ vụ án, hoãn phiên tòa thì vẫn được tiếp tục giải quyết vụ án.
12. Những người tham gia tố tụng có quyền và lợi ích pháp lý trong vụ án đều
có quyền nhờ luật sư bào chữa cho mình.

Sai, tại vì: Theo quy định tại chương IV BLTTHS về người tham gia tố tụng, thì
chỉ có người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mới có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa bởi họ là người bị buộc tội, còn những người tham gia tố tụng khác
không có quyền này.
13. Khai báo là quyền của người làm chứng.
Sai, tại vì: Căn cứ vào Điểm b, Khoản 4 Điều 55 BLTTHS quy định: khai báo là
nghĩa vụ của người làm chứng.
14. Người thân thích của thẩm phán không thể tham gia tố tụng với tu cách là
người làm chứng trong vụ án đó.
Sai. tại vì: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 55 BLTTHS về những người không
được làm chứng đã không liệt kê về người thân thích của thẩm phán. Do đó căn cứ
vào Khoản 1 Điều 55 BLTTHS nếu người than thích của thẩm phán biết được tình
tiết liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm chứng.
15. Thẩm phán và hội thẩm đều phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay
đổi nếu là người thân thích với nhau trong cùng một vụ án.
Sai, tại vì: Theo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 46 BLTTHS nếu thẩm phán, hội
thẩm trong cùng một hội đồng xét xử là người thân thích với nhau thì phải từ chối
tham gia xét xử hoặc bị thay đổi. Và theo hướng dẫn tại điểm a, mục 6 phần I
NQ03 thì khi có hai người thân thích với nhau thì chỉ có một ngừơi phải từ chối
hoặc bị thay đổi.
16. Chỉ có kiểm sát viên viện kiểm sát thực hành quyền công tố mới có quyền
trình bày lời buộc tội tại phiên tòa.
Sai, tại vì:Căn cứ vào Khoản 3 Điều 51 BLTTHS, trong trường hợp vụ án được
khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 105 BLTTHS thì người bị
hại hoặc đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa.


17. Người biết được các tình tiết liên quan đến vụ án sẽ không được làm
chứng nếu là người bảo vệ quyền lợi ích của người bị hại.
Đúng, tại vì: Căn cứ vào Khoản 2 Điều 55 BLTTHS quy định về những người

không được làm chứng không liệt kê người bảo vệ quyền lợi ích của người bị
hại.Tuy nhiên đây là một điểm thiếu sót trong phần quy định về người không được
làm chứng của BLTTHS. Bởi nếu cho phép người bảo vệ quyền lợi ích của người
bị hại làm chứng thì khi họ đưa ra những tình tiết sự thật mà tình tiết đó có thể
không có lợi chống lại người bị hại thì không phù hợp với chức năng công việc của
họ. Theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao về người bảo vệ quyền lợi của
đương sự thì người làm chứng trong vụ án không được chấp nhận làm người bảo
vệ quyền lợi của đương sự.
Như vậy, người biết các tình tiết liên quan đến vụ án sẽ không được làm chứng nếu
là người bảo vệ quyền lợi ích của người bị hại.

Phần 2: Các câu hỏi nhận định được sắp xếp theo từng chương trong học
phần Luật tố tụng hình sự

Danh mục:
 Chương I: Khái niệm chung, nhiệm vụ và các nguyên tắc của luật tố tụng
hình sự
 Chương II: Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng
 Chương III: Chứng và chứng minh trong tố tụng hình sự
 Chương IV: Những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
 Chương V: Khởi tố vụ án hình sự
 Chương VI. Điều tra vụ án hình sự
 Chương VII. Xét xử sơ thẩm
 Chương VIII: Xét xử phúc thẩm, tái thẩm, giám đốc thẩm, thủ tục rút gọn
CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM CHUNG, NHIỆM VỤ VÀ CÁC NGUYÊN TẮC
CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ


1. Chỉ có quan hệ pháp luật tố tụng hình sự mới mang tính quyền lực nhà

nước.
Sai, quan hệ pháp luật hành chính
2. Quan hệ pháp luật mang tính quyền lực nhà nước là QHPL TTHS.
Sai, phải thỏa các điều kiện khác (chủ thể: người THHT, CQ THTT, người tham
gia tố tụng; khách thể: các QH giữa các chủ thể của luật TTHS, đối tượng điều
chỉnh: QH TTHS); ngoài ra QHPL mang tính QTLNN có thể là QHPL khác
(QHPL TTHC, HS…)
3. Phương pháp phối hợp chế ước chỉ điều chỉnh các mối quan hệ giữa các
CQTHTT.
Đúng
4. Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”
là nguyên tắc đặc thù mà chỉ Luật TTHS mới có.
Đúng, điều 11 định nghĩa bị can, bị cáo… chỉ có luật TTHS có
4. Người THTT và người TGTT có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân
tộc mình trong các phiên tòa xét xử VAHS.
Đúng, điều 11 định nghĩa bị can, bị cáo… chỉ có luật TTHS có
5. Người THTT và người TGTT có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân
tộc mình trong các phiên tòa xét xử VAHS.
Sai, chỉ người tham gia tố tụng only (điều 24)
6. Nguyên tắc “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có
bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật” là nguyên tắc đặc thù của
luật TTHS?
Đúng

CHƯƠNG II: CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG, NGƯỜI TIẾN HÀNH
TỐ TỤNG VÀ NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG
1. Tất cả các CQTHTT đều có quyền khởi tố VAHS và khởi tố bị can.
=> Nhận định này sai, vì: Theo Điều 33 BLTTHS, cơ quan tiến hành tố tụng bao
gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; Tòa án. Theo Điều 104 BLTTHS thì tất cả
các cơ quan trên đều có quyền khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, về thẩm

quyền khởi tố bị can, theo Điều 126 BLTTHS thì Tòa án không có quyền khởi tố bị
can.
Như vậy, không phải tất cả các cơ quan tiến hành tố tụng đều có quyền khởi tố bị
can.


2. Tất cả những người có quyền giải quyết VAHS đều là những người tiến
hành tố tụng.
=> Nhận định này sai, vì: Những cơ quan khác không phải cơ quan tiến hành tố
tụng như: Bộ đội biên phòng, Kiểm lâm, Hải quan, Cảnh sát biển và những cơ
quan khác trong CAND và QĐND được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra được quy định tại Đ111 BLTTHS cũng có quyền tham gia giải quyết vụ án
hình sự theo những trường hợp luật định.
3. Tất cả những người tham gia tố tụng có quyền và nghĩa vụ pháp lý trong
VAHS đều có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng.
=> Nhận định này sai, tại vì: Căn cứ vào Đ43 BLTTHS quy định những người có
quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng bao gồm: Kiểm sát viên; bị can, bị
cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp của haị; người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự. Theo quy định trên thì những người tham gia tố
tụng khác như người làm chứng, người giám định, người phiên dịch…không có
quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng.
Như vậy, không phải tất cả những người tham gia tố tụng có quyền và nghĩa vụ
pháp lý trong vụ án hình sự đều có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng.
4. Trong mọi trường hợp người bào chữa phải bị thay đổi nếu là người thân
thích của người tiến hành tố tụng.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ vào mục 1, phần II NQ 03 thì căn cứ vào thời
điểm mà người bào chữa tham gia để quyết định thay đổi hoặc không thay đổi. Nếu
người bào chữa không tham gia trong các giai đoạn tố tụng ngay từ đầu mà có
quan hệ thân thích với người đã và đang tiến hành tố tụng thì sẽ từ chối cấp giấy

chứng nhận người bào chữa cho người được nhờ bào chữa đó. Còn nếu người bào
chữa tham gia trong các giai đoạn tố tụng ngay từ đầu thì sẽ được cấp giấy chứng
nhận người bào chữa và người bị thay đổi trong trường hợp này là người tiến hành
tố tụng có mối quan hệ thân thích với người bào chữa.
Như vậy, không phải trong mọi trường hợp, người bào chữa phải bị thay đổi nếu là
người thân thích của người tiến hành tố tụng.


5. Một người khi thực hiện tội phạm là người chưa thành niên, nhưng khi
khởi tố vụ án hình sự đã đủ 18 tuổi thì họ không thuộc trường hợp quy định
tại K2 Đ57 BLTTHS.
=> Nhận định này đúng, vì: Căn cứ vào điểm a mục 3 phần II NQ 03 quy định thì
trường hợp khi phạm tội là người phạm tội là người chưa thành niên, nhưng khi
khởi tố, truy tố, xét xử họ đã đủ 18 tuổi thì họ không thuộc trường hợp quy định tại
điểm b, khoản 2 điều 57 BLTTHS.
6. Trong trường hợp bào chữa bắt buộc quy định tại điểm b K2 Đ57 BLTTHS,
khi bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ yêu cầu thay đổi người
bào chữa thì yêu cầu đó luôn được chấp nhận.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ vào Điểm c.1 mục 3 phần II NQ03 quy định
trường hợp yêu cầu thay đổi người bào chữa thì thẩm phán được phân công làm
chủ tòa phiên tòa căn cứ vào khoản 2 và khoản 3 Điều 56 BLTTHS, hướng dẫn tại
mục 1 phần II nghị quyết để xem xét, quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận.
7. Người làm chứng có thể là người thân thích của bị can, bị cáo.
=> Nhận định này đúng, vì: Theo quy định tại K2 Đ55 BLTTHS quy định về
những người không được làm chứng không liệt kê người thân thích của bị can bị
cáo. Căn cứ theo khoản 1 Đ55 BLTTHS, nếu người thân thích của bị can bị cáo
biết được tình tiết liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm chứng.
8. Người dưới 14 tuổi không được làm chứng.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ vào K2 Đ55 BLTTHS không liệt kê người dưới
14 tuổi không được làm chứng. Và căn cứ theo Khoản 1 Điều 55 BLTTHS nếu

người dưới 14 tuổi biết được tình tiết liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập
đến làn chứng.
9. Người giám định có thể là người thân thích của bị can bị cáo.
=> Nhận định này sai, vì: Điểm a Khoản 4 Điều 60 và căn cứ vào Khoản 1 Điều 42
BLTTHS thì khi người giám định là người thân thích của bị can, bị cáo thì người
giám định phải từ chối hoặc bị thay đổi.
10. Người phiên dịch có thể là người thân thích của bị can, bị cáo.


=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ vào Điểm a Khoản 3 Điều 61 và Khoản 1 Điều
42 BLTTHS thì khi người phiên dịch là người thân thích của bị can, bị cáo thì phải
từ chối hoặc bị thay đổi.
11. Trong mọi trường hợp, thẩm phán, hội thẩm phải từ chối tiến hành tố tụng
hoặc bị thay đổi nếu đã được phân công tham gia xét xử sơ thẩm hoặc phúc
thẩm vụ án đó.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ vào Điểm b Mục 6 Phần I NQ03, đã tham gia xét
xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm trong vụ án là đã tham gia giải quyết vụ án và đã ra
bản án sơ thẩm hoặc bản án phúc thẩm hoặc quyết định đình chỉ vụ án. Nếu thẩm
phán, hội thẩm được phân công tham gia xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm nhưng chỉ
tham gia ra các quyết định: trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ vụ án, hủy
quyết định đình chỉ vụ án, hoãn phiên tòa thì vẫn được tiếp tục giải quyết vụ án.
12. Những người tham gia tố tụng có quyền và lợi ích pháp lý trong vụ án đều
có quyền nhờ luật sư bào chữa cho mình.
=> Nhận định này sai, vì: Theo quy định tại chương IV BLTTHS về người tham
gia tố tụng, thì chỉ có người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mới có quyền tự bào chữa
hoặc nhờ người khác bào chữa bởi họ là người bị buộc tội, còn những người tham
gia tố tụng khác không có quyền này.
13. Khai báo là quyền của người làm chứng.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ vào Điểm b, Khoản 4 Điều 55 BLTTHS quy
định: khai báo là nghĩa vụ của người làm chứng.

14. Người thân thích của thẩm phán không thể tham gia tố tụng với tu cách là
người làm chứng trong vụ án đó.
=> Nhận định này sai, vì: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 55 BLTTHS về những
người không được làm chứng đã không liệt kê về người thân thích của thẩm phán.
Do đó căn cứ vào Khoản 1 Điều 55 BLTTHS nếu người than thích của thẩm phán
biết được tình tiết liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm chứng.
15. Thẩm phán và hội thẩm đều phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay
đổi nếu là người thân thích với nhau trong cùng một vụ án.


=> Nhận định này sai, vì: Theo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 46 BLTTHS nếu
thẩm phán, hội thẩm trong cùng một hội đồng xét xử là người thân thích với nhau
thì phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi. Và theo hướng dẫn tại điểm a,
mục 6 phần I NQ03 thì khi có hai người thân thích với nhau thì chỉ có một ngừơi
phải từ chối hoặc bị thay đổi.
16. Chỉ có kiểm sát viên viện kiểm sát thực hành quyền công tố mới có quyền
trình bày lời buộc tội tại phiên tòa.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ vào Khoản 3 Điều 51 BLTTHS, trong trường hợp
vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 105 BLTTHS
thì người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa.
17. Người biết được các tình tiết liên quan đến vụ án sẽ không được làm
chứng nếu là người bảo vệ quyền lợi ích của người bị hại.
=> Nhận định này đúng, vì: Căn cứ vào Khoản 2 Điều 55 BLTTHS quy định về
những người không được làm chứng không liệt kê người bảo vệ quyền lợi ích của
người bị hại.Tuy nhiên đây là một điểm thiếu sót trong phần quy định về người
không được làm chứng của BLTTHS. Bởi nếu cho phép người bảo vệ quyền lợi ích
của người bị hại làm chứng thì khi họ đưa ra những tình tiết sự thật mà tình tiết đó
có thể không có lợi chống lại người bị hại thì không phù hợp với chức năng công
việc của họ. Theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao về người bảo vệ quyền
lợi của đương sự thì người làm chứng trong vụ án không được chấp nhận làm

người bảo vệ quyền lợi của đương sự.
Như vậy, người biết các tình tiết liên quan đến vụ án sẽ không được làm chứng nếu
là người bảo vệ quyền lợi ích của người bị hại.

CHƯƠNG III: CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG HÌNH
SỰ
1. Mọi sự vật tồn tại khách quan mà có liên quan đến VAHS thì là chứng cứ.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ vào Khoản 1Điều 64 BLTTHS: “chứng cứ là
những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do bộ luật này quy định mà
CQĐT, Viện kiểm sát và Tòa án dung làm căn cứ để xác định có hay không
có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết
khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án”. Như vậy, theo quy định trên thì
chứng cứ phải bao gồm tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Nếu một


sự vật tồn tại khách quan có liên quan đến vụ án hình sự nhưng không được thu
thập theo trình tự, thủ tục luật định (tính hợp pháp) thì không được coi là chứng cứ.
2. Kết quả thu được từ hoạt động nghiệp vụ (trinh sát, đặc tình, sổ đen) là
chứng cứ.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ vào Khoản 1 Điều 64 BLTTHS thì chứng cứ phải
có đầy đủ các đặc điểm: phải tồn tại khách quan, có tính liên quan và tính hợp
pháp. Đối với kết quả thu được từ hoạt động nghiệp vụ ( trinh sát, đặc tình, sổ đen),
đặc điểm của hoạt động nghiệp vụ này là bí mật, lén lút nên không thỏa mãn được
tính hợp pháp (được thu thập theo trình tự thủ tục luật định). Do vậy, kết quả thu
được tù hoạt động nghiệp vụ ( trinh sát, đặc tình, sổ đen) không được sử dụng làm
chứng cứ mà chỉ là căn cứ để định hướng giải quyết vụ án.
3. Tất cả những người THTT đều là những người có nghĩa vụ chứng
minh VAHS.
=> Nhận định này sai, vì: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 33 BLTTHS những
người tiến hành tố tụng gồm có: Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra, điều

tra viên; viện trưởng, phó viện trưởng viện kiểm sát, kiểm sát viên; chánh án, phó
chánh án tòa án, thẩm phán, hội thẩm, thư ký tòa án. Nhưng không phải tất cả
những người trên đều có nghĩa vụ chứng minh vụ án hình sự, như thư ký tòa án,
theo quy định tại Điều 41 BLTTHS về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của thư
ký tòa án không quy định về nghĩa vụ chứng minh vụ án hình sự. Và căn cứ vào
Điều 66 BLTTHS quy định về việc đánh giá chứng cứ_ một hoạt động quan trọng
trong chứng minh vụ án cũng không đề cập đến nghĩa vụ của thư ký tòa án.
4. Kết luận giám định là nguồn chứng cứ có thể thay thế được.
=> Nhận định này đúng, vì: Căn cứ Khoản 2 Điều 73 và Điều 159 BLTTHS thì cơ
quan THTT có thể quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại theo thủ tục
chung nếu kết luận giám định chưa rõ hoặc chưa đầy đủ. Do đó, kết luận giám định
là nguồn chứng cứ có thể thay thế được.
5. Kết luận giám định là chứng cứ trong tố tụng hình sự.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ Điểm c, Khoản 2, Điều 64 BLTTHS thì kết luận
giám định là nguồn dùng để xác định chứng cứ chứ không phải là chứng cứ. Kết
luận chỉ được coi là chứng cứ khi: thông tin trong kết luận là có thật, được tiến
hành theo trình tự thủ tục theo pháp luật quy định và được cơ quan có thẩm quyền
dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện


hành vi phạm tội cũng như những tình tiết cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn
vụ án.
6. Lời khai của người bào chữa không phải là nguồn chứng cứ trong TTHS.
=> Nhận định này đúng, vì: Căn cứ Khoản 2 Điều 64 BLTTHS quy định về nguồn
của chứng cứ không liệt kê lời khai của người bào chữa. Do vậy, lời khai của người
bào chữa không phải là nguồn của chứng cứ trong TTHS.
7. Lời khai của người tham gia tố tụng là nguồn chứng cứ có thể thay thế
được.
=> Nhận định này sai, vì: Lời khai của người tham gia tố tụng có thể xem là duy
nhất, chính họ là người biết tình tiết sự thật của vụ án do đó không thể lấy lời khai

của người này thay thế cho lời khai của người khác. Do đó, lời khai của người
tham gia tố tụng là nguồn chứng cứ không thể thay thế được. Và theo quy định của
BLTTHS thì chỉ có một nguồn chúng cứ duy nhất có thể thay thế được đó là kết
quả giám định.
8. Vật chứng là nguồn chứng cứ không thể thay thế được.
=> Nhận định này đúng, vì: Theo quy định tại Điều 74 BLTTHS thì “vật chứng: là
vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu hiệu tội phạm, vật
là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh tội
phạm và người phạm tội”. Như vậy, vật chứng chứa đựng sự thật của vụ án do đó
không thể thay thế được.
9. Vật chứng chỉ có thể trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp
khi vụ án đã được giải quyết xong.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ theo Khoản 3, Điều 76 BLTTHS thì trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan có thẩm quyền có quyền quyết định trả lại
những vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, nếu xét thấy không
ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án.
Như vậy, vật chứng không chỉ có thể trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp
pháp khi vụ án đã được giải quyết xong mà có thể trả lại trong qua trình điều tra,
truy tố, xét xử.
10. Thư ký tòa án có quyền chứng minh trong vụ án hình sự.


=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ Điều 41 BLTTHS quy định về nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của thư ký tòa án không quy định về quyền chứng minh của thư
ký trong VAHS và căn cứ vào Điều 66 BLTTHS quy định về đánh giá chứng cứ,
một hoạt động quan trọng trong quá trình chứng minh VAHS cũng không quy định
về quyền của thư ký tòa án trong hoạt động này.

CHƯƠNG IV: NHỮNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ

1. Biện pháp ngăn chặn chỉ áp dụng đối với bị can, bị cáo.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ Điều 79 BLTTHS các BPNC được áp dụng để
kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can bị cáo sẽ gây khó
khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như cần đảm
bảo thi hành án.
Theo quy định này thì trường hợp áp dụng BPNC để kịp thời ngăn chặn tội phạm
thì đối tượng bị áp dụng BPNC không phải là bị can, bị cáo. Cụ thể, đối với
BPNC bắt người trong trường hợp khẩn cấp thì đối tượng bị áp dụng không phải là
bị can, bị cáo mà khi các chủ thể thực hiện các hành vi quy định tại Khoản 1 Điều
81 BLTTHS thì có thể bị áp dụng BPNC này. Và đối với các BPNC khác như : bắt
người phạm tội quả tang, biện pháp tạm giữ cũng có thể áp dụng đối với người
chưa phải là bị can, bị cáo.
2. VKS có quyền áp dụng tất cả các biện pháp ngăn chặn trong TTHS.
=> Nhận định này sai, vì: Theo quy định tại Đ79 BLTTHS thì BPNC bao gồm: bắt,
tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị
để bảo đảm. Trong tất cả các biện pháp ngăn chặn trên không phải biện pháp nào
VKS cũng có quyền áp dụng. Theo quy định tại K2 Đ81 BLTTHS quy định về
thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp thì VKS không có quyền
áp dụng biện pháp ngăn chặn này. Và căn cứ vào k2 Đ86 BLTTHS quy định về
thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giữ thì VKS cũng không có quyền áp dụng biện
pháp này.
3. VKS không có quyền hủy bỏ BPNC trái pháp luật của Tòa án.
=> Nhận định này đúng, vì: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 94 BLTTHS thì đối
với những BPNC do VKS phê chuẩn thì việc hủy bỏ hoặc thay thế phải do VKS
quyết định. Theo quy định về thủ tục áp dụng trong các BPNC được quy định tại
chương VI BLTTHS thì các BPNC do Tòa án áp dụng không cần có sự phê chuẩn
của VKS. Do vậy VKS không có quyền hủy bỏ BPNC trái pháp luật của Tòa án.


4. Biện pháp tạm giữ vẫn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo.

=> Nhận định này đúng, vì:Căn cứ K1 Đ86 BLTTHS thì biện pháp tạm giữ có thể
được áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả
tang, người phạm tội đầu thú, tự thúhoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy
nã. Đối với trường hợp người phạm tội đã có quyết định khởi tố VAHS hoặc bị tòa
án quyết định đưa ra xét xử nhưng bỏ trốn sau đó cơ quan có thẩm quyền quyết
định ra lệnh truy nã và bị bắt thì có thể bị áp dụng biện pháp tạm giữ. Như vậy, đối
tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ trong trường hợp này là bị can, bị cáo. Do đó,
biện pháp tạm giữ có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo.
5. Biện pháp tạm giữ là biện pháp ngăn chặn duy nhất có thể được áp dụng
ngay sau khi bắt được người đang bị truy nã.
=> Nhận định này sai, tại vì: Căn cứ vào điểm a K2 Đ88 BLTTHS thì bị can bị cáo
bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã thì cũng có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam.
Và căn cứ vào K2 Đ83 thì biện pháp tạm giam có thể được áp dụng ngay sau khi
bắt được người đang bị truy nã. Cụ thể là sau khi nhận được thông báo, cơ quan đã
ra quyết định truy nã có thẩm quyền bắt để tạm giam phải ra ngay lệnh tạm giam
và gửi ngay lệnh tạm giam đã được VKS cùng cấp phê chuẩn cho CQĐT nhận
người bị bắt. Sau khi nhận được lệnh tạm giam, CQĐT nhận người bị bắt có trách
nhiệm giải ngay người đó đến trại tạm giam nơi gần nhất.
Như vậy, biện pháp tạm giữ không phải là biện pháp ngăn chặn duy nhất có thể
được áp dụng ngay sau khi bắt được người đang bị truy nã.
6. Thời hạn tạm giữ không được tính vào thời hạn tạm giam.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ K4 Đ87 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ được trừ
vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam.
7. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp có quyền ra quyết định tạm
giữ.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ Khoản 2 Điều 86 BLTTHS quy định về những
chủ thể có quyền ra quyết định tạm giữ bao gồm: những người có quyền ra lệnh bắt
khẩn cấp quy định tại k2 Đ81 BLTTHS, chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển. Và
trong các chủ thể quy định tại k2 Đ81 BLTTHS không quy định thẩm quyền của
VTVKSND các cấp.



8. Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú không áp dụng đối với người nước ngoài
phạm tội tại Việt Nam.
=> Nhận định này sai, vì: Theo quy định tại K1 Đ91 BLTTHS thì biện pháp cấm đi
khỏi nơi cư trú có thể được áp dụng đối với bị can bị cáo có nơi cư trú rõ ràng
nhằm đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của CQĐT, VKS, Tòa án. Như
vậy, việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú không căn cứ vào bị can, bị cáo
là người Việt Nam hay là người nước ngoài. Do đó, nếu người nước ngoài phạm
tội mà có nơi cư trú rõ ràng thì cũng có thể áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư
trú.
9. Biện pháp bảo lĩnh chỉ áp dụng cho bị cáo là người chưa thành niên.
=> Nhận định này sai, vì: Theo quy định tại K1 Đ92 BLTTHS thì biện pháp bảo
lĩnh là biện pháp ngăn chặn được áp dụng thay thế cho biện pháp tạm giam. Và căn
cứ vào Đ88 BLTTHS thì biện pháp tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can bị
cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng; bị can bị cáo phạm tội
nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có
căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc
có thể tiếp tục phạm tội.
Như vậy, biện pháp bảo lĩnh có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo nêu trên chứ
không phải chỉ áp dụng cho bị cáo là người chưa thành niên.
10. Biện pháp bảo lĩnh chỉ áp dụng cho bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm
trọng.
=> Nhận định này sai, vì: Giải thích tương tự câu 9.
11. Không được áp dụng biện pháp bảo lĩnh đối với bị can, bị cáo phạm tội
đặc biệt nghiêm trọng.
=> Nhận định này sai, vì: Giải thích tương tự câu 9.
12. Biện pháp đặt tiền hoặc tài sản để đảm bảo được áp dụng không phụ
thuộc vào việc bị can, bị cáo phạm loại tội gì.
=> Nhận định này đúng, vì: Căn cứ K1 Đ93 BLTTHS thì biện pháp đặt tiền hoặc

tài sản để bảo đảm được áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam mà căn cứ vào
K1 Đ88 BLTTHS thì biện pháp tạm giam có thể được áp dụng đối với mọi loại tội
phạm. Do đó biện pháp đặt tiền hoặc tài sản để đảm bảo được áp dụng không phụ
thuộc vào việc bị can, bị cáo phạm loại tội gì.


13. Mọi quyết định về việc đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm đều phải
được Viện trưởng VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
=> Nhận định này sai, vì: Theo k2 Đ93 BLTTHS thì có nhiều chủ thể có quyền
quyết định việc đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm, bao gồm những người
quy định tại K1 Đ80 BLTTHS, thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa. Tuy
nhiên, chỉ có quyết định của những người quy định tại Điểm d, K1 Đ80 BLTTHS
bao gồm: thủ trưởng, phó thủ trưởng CQĐT mới phải được VKS cùng cấp phê
chuẩn.
Do đó, không phải mọi quyết định về việc đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm đều phải được Viện trưởng VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
14. Biện pháp tạm giam có thể được áp dụng đối với tất cả các loại tội phạm.
=> Nhận định này đúng, vì: Căn cứ Đ88 BLTTHS thì biện pháp tạm giam có thể
được áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất
nghiêm trọng; bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà
bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó
có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Mặt khác, theo quy định của BLHS thì tất cả các loại tội phạm (ít nghiêm trọng,
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng) đều có khung hình phạt
trên hai năm. Do đó đối với loại tội nghiêm trọng ít nghiêm trọng mà có căn cứ cho
rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp
tục phạm tội thì có thể áp dụng biện pháp tạm giam.
Do đó, biện pháp tạm giam có thể được áp dụng đối với tất cả các loại tội phạm.
15. Lệnh bắt người của CQĐT trong tất cả các trường hợp đều phải có sự phê
chuẩn của VKS cùng cấp trước khi thi hành.

=> Nhận định này sai, vì: Theo quy định tại Đ81 BLTTHS thì lệnh bắt người của
cơ quan điều tra trong trường hợp khẩn cấp thì không cần có sự phê chuẩn của
VKS cùng cấp trước khi thi hành.
16. Lệnh bắt người của CQĐT trong tất cả các trường hợp đều phải có sự phê
chuẩn của Viện trưởng VKS cùng cấp.
=> Nhận định này đúng, vì: Theo quy định của BLTTHS thì có hai trường hợp bắt
người CQĐT phải ra lệnh bắt người đó là: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam được quy
định tại Điểm d K1 Đ80 BLTTHS và bắt người trong trường hợp khẩn cấp được


quy định tại Điểm a K2 Đ81 BLTTHS. Và cả hai trường hợp này đều phải có sự
phê chuẩn của Viện trưởng VKS cùng cấp (bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì phải
được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành còn bắt người trong trường hợp
khẩn cấp thì phải thông báo ngay cho VKS và phê chuẩn sau khi thi hành)
17. Tất cả các trường hợp bắt người đều phải có lệnh.
=> Nhận định này sai, vì: Theo quy định tại Đ82 BLTTHS về bắt người phạm tội
quả tang hoặc đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay
đến cơ quan có thẩm quyền. Do đó trong trường hợp bắt người này không cần phải
có lệnh.
18. Tất cả các lệnh tạm giam đều phải được viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn
trước khi thi hành.
=> Nhận định này sai, vì: Theo quy định tại Khoản 3 Điều 88 BLTTHS thì những
người có thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định tại Điều 80 BLTTHS thì có quyền
ra lệnh tạm giam. Tuy nhiên, không phải tất cả các lệnh tạm giam do những người
có thẩm quyền trên ra lệnh đều phải được VKS phê chuẩn trước khi thi hành mà
chỉ lệnh tạm giam của những người được quy định tại Điểm d K1 Đ80 BLTTHS
mới phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
19. Biện pháp tạm giam không được áp dụng đối với bị can, bị cáo là người
chưa thành niên.
=> Nhận định này sai, vì: Bị can, bị cáo là người chưa thành niên vẫn có thể bị áp

dụng biện pháp tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại K1, K2 Đ303 và Đ88
BLTTHS, cụ thể là :
– Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị tạm giam nếu có đủ căn cứ quy
định tại Đ88 BLTTHS nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
– Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị tạm giam nếu có đủ căn cứ quy
định tại Đ88 BLTTHS nhưng chỉ trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý,
phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
20. Biện pháp tạm giam không được áp dụng đối với bị can, bị cáo là người
chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng.


=> Nhận định này đúng, vì: Căn cứ vào Đ303 BLTTHS thì không có trường hợp
nào người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng bị áp dụng biện pháp tạm
giam.
21. Biện pháp tạm giam không được áp dụng đối với bị can, bị cáo là phụ
nữ đang mang thai, người già yếu.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ vào K2 Đ88 BLTTHS thì bị can, bị cáo là phụ nữ
có thai, người già yếu mà có nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng
BPNS khác ngoại trừ những trường hợp :
– bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã ;
– Bị can, bị cáo được áp dụng BPNC khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây
cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử.
– Bị can, bị cáo phạm tội an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm
giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Như vậy, biện pháp tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo là phụ nữ
đang mang thai, người già yếu.
22. Biện pháp tạm giam được áp dụng đối với mọi loại tội phạm.
=> Nhận định này sai, vì: Theo quy định tại Đ88 BLTTHS thì đối với bị can, bị cáo
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng ; phạm tội rất nghiêm trọng thì có thể được áp dụng

trong mọi trường hợp. Còn đối với bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội
ít nghiêm trọng thì chỉ có thể được áp dụng khi thỏa mãn điều kiện : phạm tội
nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù
trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra,
truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Như vậy, không phải biện pháp tạm giam được áp dụng đối với mọi loại tội phạm
mà đối với loại tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng phải thỏa mãn được các điều kiện
trên mới được áp dụng.
Lưu ý : Nếu biện pháp tạm giam có thể được áp dụng đối với mọi loại tội phạm thì
nhận định này là đúng.
23. Người chưa thành niên chỉ bị tạm giam khi họ phạm tội rất nghiêm trọng.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ vào Đ303 BLTTHS thì người chưa thành niên
cũng có thể bị tạm giam khi phạm tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng,
cụ thể :
– Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị tạm giam nếu có đủ căn cứ quy
định tại Đ88 BLTTHS nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm


trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
– Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị tạm giam nếu có đủ căn cứ quy
định tại Điều 88 BLTTHS nhưng chỉ trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng do
cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
24. Tất cả các trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả
tang đều phải ra quyết định tạm giữ.
=> Nhận định này sai, vì: Theo quy định tại k1 Đ83 BLTTHS sau khi bắt hoặc
nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang không phải
trong mọi trường hợp cơ quan điều tra đều phải ra quyết định tạm giữ mà còn có
thể trả tự do cho người bị bắt.
25. Trong mọi trường hợp việc hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn đã
được áp dụng đều phải do viện kiểm sát quyết định.

=> Nhận định này sai, vì: Theo quy định tai K2 Đ94 BLTTHS thì chỉ đối với
những biện pháp ngăn chặn do viện kiểm sát phê chuẩn thì việc hủy bỏ hoặc thay
thế mới phải do viện kiểm sát quyết định. Như vậy, không phải trong mọi trường
hợp việc hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn đã được áp dụng đều phải do
viện kiểm sát quyết định như trường hợp biện pháp ngăn chặn ( bắt bị can, bị cáo
để tam giam ; tạm giam ; cấm đi khỏi nơi cư trú..) do tòa án áp dụng không cần có
sự phê chuẩn của viện kiểm sát thì khi hủy bỏ hoặc thay thế không do viện kiểm
sát quyết định mà do tòa án quyết định.

CHƯƠNG V: KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1. Tố giác của công dân là căn cứ để khởi tố vụ án hình sự.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ vào K1 Đ100 BLTTHS thì tố giác của công dân
không phải là căn cứ để khởi tố VAHS mà là cơ sở để xác định dấu hiệu tội phạm.
2. Cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án là cơ quan tiến hành tố tụng.
=> Nhận định này sai, vì: Ngoài CQTHTT thì một số cơ quan khác cũng có thẩm
quyền KTVA như: Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát
biển và các cơ quan khác trong CAND, QĐND được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra được quy định tại Điều 111.


3. Mọi hành vi phạm tội do cán bộ thuộc cơ quan tư pháp thực hiện đều do cơ
quan điều tra thuộc VKSNDTC khởi tố vụ án.
=> Nhận định này sai, vì: Theo quy định tại K1 Đ18 Pháp lệnh số 23 về tổ chức
điều tra hình sự quy định về thẩm quyền điều tra của VKSNDTC thì CQĐT
VKSNDTC điều tra các VAHS về một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà
người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp khi các tội đó thuộc thẩm
quyền xét xử của TAND. Như vậy, hành vi phạm tội do cán bộ tư pháp thực hiện
không thuộc các loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp và các tội này không thuộc
thẩm quyền xét xử của TAND thì CQĐT thuộc VKSNDTC không có quyền điều
tra và do đó cũng không có quyền khởi tố vụ án.

4. Trong mọi trường hợp việc KTVAHS không phụ thuộc vào ý chí của người
bị hại.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ vào Điều 105 BLTTHS thì những vụ án về các
tội phạm quy định tại khoản 1 các Điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121,
122, 171 BLHS chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người
đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm
về tâm thần hoặc thể chất. Và trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu
cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.
5. KTVAHS theo yêu cầu của người bị hại chỉ áp dụng đối với tội ít nghiêm
trọng.
=> Nhận định này sai, vì: Theo quy định tại k1 Đ105 BLTTHS thì KTVAHS theo
yêu cầu của người bị hại được áp dụng đối với những vụ án án về các tội phạm quy
định tại khoản 1 các Điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 171 BLHS.
Mà theo quy định tại khoản 1 Điều 111 có mức hình phạt tù tối đa là 7 năm và
khoản 1 Điều 113 có mức hình phạt tù tối đa là 5 năm đã thuộc loại tội nghiêm
trọng được quy định tại Điều 8 BLHS .
Như vậy, KTVAHS theo yêu cầu của người bị hại không chỉ được áp dụng đối với
tội ít nghiêm trọng mà còn đối với tội nghiêm trọng.
6. Trong mọi trường hợp khi người bị hai rút yêu cầu trước khi mở phiên tòa
thì vụ án phải được đình chỉ.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ K2 Đ105 BLTTHS: trường hợp có căn cứ để xác
định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép
buộc cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, cơ quan có thẩm
quyền vẫn có thể tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Lưu ý: Trong mọi trường hợp khi người bị hại rút yêu cầu khởi tố một cách hợp


pháp thì cơ quan có thẩm quyền phải đình chỉ vụ án. => Nhận định này sai, vì: tùy
vào giai đoạn mà người bị hại rút yêu cầu để ra quyết định. Nếu trong giai đoạn
điều tra thì ra quyết định đình chỉ điều tra theo quy định tại đa k2 Đ164 BLTTHS.

Nếu trong giai đoạn truy tố thì ra quyết định đình chỉ vụ án theo quy định tại k1
Đ169 BLTTHS. Nếu trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thì ra quyết định đình chỉ vụ
án theo quy định tại Điều 180 BLTTHS.
7. HĐXX có thể thực hiện đồng thời việc yêu cầu VKS khởi tố và tự mình khởi
tố vụ án đó.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ đoạn 3 k1 Đ104 BLTTHS thì HĐXX ra quyết
định khởi tố hoặc yêu cầu viện kiểm sát KTVAHS nếu qua việc xét xử tại phiên tòa
mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra. Như vậy,
Tòa án chỉ có thể thực hiện một trong hai hành vi là yêu cầu VKS khởi tố hoặc tự
mình khởi tố chứ không được đồng thời thực hiện hai hành vi trên.
8. Tất cả các hoạt động chứng minh tội phạm chỉ được thực hiện sau khi
có quyết định khởi tố vụ án hình sự của cơ quan có thẩm quyền.
=> Nhận định này sai, vì: Khám nghiệm hiện trường là một hoạt động chứng minh
tội phạm và căn cứ vào k2 Đ150 thì hoạt động khám nghiệm hiện trường có thể
tiến hành trước khi KTVAHS.
9. Trong mọi trường hợp, căn cứ khởi tố vụ án hình sự là dấu hiệu tội phạm.
=> Nhận định này sai, vì: Đối với trường hợp KTVAHS theo yêu cầu của người bị
hại quy định tại Đ105 thì căn cứ để KTAHS không chỉ là dấu hiệu tội phạm mà còn
có căn cứ là yêu cầu khởi tố của người bị hại.
10. Khi thực hiện chức năng công tố, VKS có quyền hủy bỏ mọi quyết định
không khởi tố không có căn cứ của các cơ quan có thẩm quyền.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ khoản 1 Điều 108 BLTTHS thì HĐXX có quyền
ra quyết định không KTVA và căn cứ vào khoản 3 Điều 109 BLTTHS thì cũng
tương tự như quyết định KTVA không có căn cứ thì đối với quyết định không
KTVA không có căn cứ của HĐXX thì VKS không có quyền hủy bỏ mà chỉ
được kháng nghị lên Tòa án cấp trên. Tuy nhiên, trên thực tế HĐXX không
ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.


11. Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự thì có quyền

thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án không có căn cứ.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ Điều 104 BLTTHS thì cơ quan có thẩm quyền ra
quyết định KTVAHS bao gồm: CQĐT, VKS, HĐXX và ngoài ra căn cứ vào Điều
111 BLTTHS thì các cơ quan như Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực
lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác của CAND, QĐND được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra cũng có quyền ra quyết định KTVA. Cơ quan
có thẩm quyền ra quyết định KTVA nhiều như vậy nhưng không phải tất cả các cơ
quan trên đều có quyền thay đổi bổ sung mà theo quy định tại Điều 106 BLTTHS
thì chỉ có CQĐT và VKS mới có quyền thay đổi, bổ sung quyết định KTVAHS.
Mặt khác, theo quy định tại Điều 109 BLTTHS thì đối với các quyết định KTVA
không có căn cứ của HĐXX thì VKS kháng nghị với TA cấp trên còn đối với các
quyết định khởi tố không có căn cứ của các chủ thể còn lại thì VKS ra quyết định
hủy bỏ đối với các quyết định khởi tố đó chứ không phải thay đổi, bổ sung. Việc
thay đổi bổ sung chỉ áp dụng đối với những quyết định khởi tố có căn cứ nhưng
khởi tố không đúng với hành vi phạm tội được quy định tại Điều 106 BLTTHS.

CHƯƠNG VI. ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1. Mọi trường hợp thường dân phạm tội đều do CQĐT thuộc lực lượng
CAND điều tra.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ vào K2 Đ3 PLTCTAQS thì trường hợp thường
dân phạm tội nhưng phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại
cho quân đội thì TAQS có thẩm quyền xét xử. Và căn cứ vào K2 Đ110 BLTTHS
quy định: “CQĐT trong QĐND điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của
TAQS. Do đó trong trường hợp thường dân phạm tội nhưng phạm tội có liên quan
đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội thì do CQĐT trong QĐND điều
tra. Như vậy, không phải trong mọi trường hợp thường dân phạm tội đều do CQĐT
thuộc lực lượng CAND điều tra,
2. Trong mọi trường hợp, quân nhân phạm tội đều do CQĐT trong QĐND
tiến hành điều tra.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ vào Đ4 PL TCTAQS thì đối với trường hợp

người đang phục vụ trong quân đội mà phát hiện hành vi phạm tội của họ đã được
thực hiện trước khi vào quân đội nhưng tội phạm mà họ thực hiện không liên quan
đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội thì thuộc thẩm quyền xét xử
của TAND. Do đó căn cứ Khoản 2 Điều 110 BLTTHS quy định “CQĐT trong
QĐND điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS” thì trong trường


hợp này mặc dù là quân nhân phạm tội nhưng CQĐT trong QĐND không có thẩm
quyền điều tra.
Như vậy, không phải trong mọi trường hợp, quân nhân phạm tội đều do CQĐT
trong QĐND tiến hành điều tra.
3. Trong mọi trường hợp khi Cán bộ ngành tư pháp thực hiện hành vi phạm
tội xâm phạm hoạt động tư pháp đều do CQĐT trong VKSNDTC thực hiện
việc điều tra.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ Điều 18 PLTCĐTHS thì VKSNDTC điều tra các
vụ án hình sự về một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là
cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của
TAND. Do đó, nếu cán bộ ngành tư pháp thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm
hoạt động tư pháp nhưng tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS thì cơ
quan điều tra trong VKSNDTC không có thẩm quyền điều tra.
Như vậy, không phải trong mọi trường hợp khi cán bộ ngành tư pháp thực hiện
hành vi phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp đều do CQĐT trong VKSNDTC
thực hiện điều tra.
4. Tất cả các cơ quan có thẩm quyền KTVA đều có thẩm quyền điều tra vụ án.
=> Nhận định này sai, vì: Theo quy định tại Đ104 và Đ111 BLTTHS có nhiều cơ
quan có thẩm quyền khởi tố vụ án: VKS, TA, CQĐT, Bộ đội biên phòng, Kiểm
lâm, Hải quan…Tuy nhiên, căn cứ vào K1 Đ5 PLTCĐTHS thì chỉ CQĐT và cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mới được tiến hành
điều tra các VAHS. Do đó, không phải tất cả các cơ quan có thẩm quyền KTVAHS
đều có thẩm quyền điều tra vụ án.

5. Tất cả các cơ quan có thẩm quyền điều tra vụ án đều có quyền khởi tố bị
can.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ vào K1 Đ5 PLTCĐTHS thì CQĐT và cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền điều tra
VAHS. Tuy nhiên, căn cứ vào Điều 111 BLTTHS thì trong một số trường hợp cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt dộng điều tra không có thẩm
quyền khởi tố bị can. Do đó không phải tất cả các cơ quan có thẩm quyền điều tra
vụ án đều có thẩm quyền khởi tố bị can.


6. Các cơ quan khác của CAND được giao một số hoạt động điều tra có quyền
khởi tố bị can.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ vào K2 Đ111 BLTTHS thì cơ quan khác của
CAND được giao một số hoạt động điều tra không có quyền khởi tố bị can mà sau
khi khởi tố vụ án, tiên hành những hoạt động điều tra ban đầu thì phải chuyển hồ
sơ cho CQĐT có thẩm quyền trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày ra quyết định
KTVA.
7. VKS không được quyền ra quyết định khởi tố bị can.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ vào K5 Đ126 BLTTHS thì sau khi nhận được hồ
sơ và kết luận điều tra mà VKS phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm
tội trong vụ án chưa bị khởi tố thì VKS quyết định khởi tố bị can.
8. Tất cả các hoạt động điều tra chỉ được tiến hành sau khi có quyết định
KTVA
=> Nhận định này sai, vì: Khám nghiệm hiện trường là một trong những hoạt động
điều tra quan trọng. Căn cứ K2 Đ150 thì hoạt động khám nghiệm hiện trường có
thể tiến hành trước khi KTVAHS.
Như vậy, không phải tất cả các hoạt động điều tra chỉ được tiến hành sau khi có
quyết định khởi tố vụ án hình sự.
9. Việc ủy thác điều tra chỉ được tiến hành giữa các CQĐT với nhau.
=> Nhận định này đúng, vì: Căn cứ vào Đ118 BLTTHS quy đinh “khi cần thiết, cơ

quan điều tra có thể ủy thác cho cơ quan điều tra khác tiến hành một số hoạt động
điều tra”. Như vậy, việc ủy thác điều tra chỉ được tiến hành giữa các cơ quan điều
tra với nhau.
10. Trong một số trường hợp cần thiết, CQĐT được ủy thác có quyền từ chối
việc ủy thác.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ vào Đ118 BLTTHS thì CQĐT được nhận ủy thác
có trách nhiệm thực hiện đầy đử những việc được ủy thác theo thời hạn mà cơ
quan điều tra ủy thác yêu cầu. Đây là nghĩa vụ của CQĐT nhận ủy thác do đó
không được thừ chối việc ủy thác.


11. Trong mọi trường hợp kết thúc điều tra, CQĐT phải ra bản kết luận điều
tra.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ K2 Đ32 BLTTHS quy định về điều tra theo thủ
tục rút gọn thì khi kết thúc điều tra, CQĐT không phải làm bản kết luận điều tra
mà ra quyết định đề nghị truy tố và gủi hồ sơ vụ án cho VKS. Như vậy, không phải
trong mọi trường hợp kết thúc điều tra, CQĐT phải ra bản kết luận điều tra.
12. Mọi hoạt động điều tra đều phải có người chứng kiến.
=> Nhận định này sai, vì: Trong một số hoạt động điều tra như khởi tố bị can được
quy định tại Đ126 BLTTHS, hỏi cung được quy định tại Đ131 BLTTHS thì không
cần phải có người chứng kiến.
13. Người chứng kiến là người biết được tình tiết vụ án nhưng không được
triệu tập để trở thành người làm chứng.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ vào Đ123 BLTTHS thì người chứng kiến không
phải là người biết được tình tiết của vụ án nhưng không được triệu tập để trở thành
người làm chứng, mà tư cách của người chứng kiến được hiểu là người được mời
tham dự hoạt động điều tra trong một số trường hợp do BLTTHS quy định. Trách
nhiệm của người chứng kiến là xác nhận nội dung và kết quả công việc mà điều tra
viên đã tiến hành trong khi mình có mặt.
14. Mọi hoạt động điều tra đều phải lập thành biên bản.

=> Nhận định này đúng, vì: Căn cứ vào K1 Đ95 và K1 Đ125 BLTTHS thì mọi
hoạt động điều tra phải lập thành biên bản do tính chất quan trọng của nó là một
trong những loại nguồn của chứng cứ được quy định tại Đ d, K2, Đ64 BLTTHS.
15. Trong mọi trường hợp, khi khám xét phải có lệnh.
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ vào K3 Đ142 BLTTHS thì trong trường hợp bắt
người hoặc khi có căn cứ để khẳng định người có mặt tại nơi khám xét giấu trong
người đồ vật, tài liệu cần thu giữ thì có thể tiến hành khám người mà không cần có
lệnh.
16. Lệnh khám xét bao giờ cũng phải được VKS phê chuẩn
=> Nhận định này sai, vì: Căn cứ vào K1 Đ141 BLTTHS thì chỉ lệnh khám xét của
những người được quy định tại điểm d K1 Đ80 BLTTHS thì mới phải được VKS
phê chuẩn.


×