Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tại sao nói khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa tác động của cách mạng công nghiệp 4 0 đến sự phát triển của việt nam theo anh chị chúng ta nên làm gì để tận dụng cơ hội để rút ngắn quá tr

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503.58 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


Bộ môn: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TIỂU LUẬN
Đề tài: Tại sao nói khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa? Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến sự phát triển của Việt Nam? Theo anh
chị chúng ta nên làm gì để tận dụng cơ hội để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa?

Lớp: NT15A1
Niên khóa: 2018-2019

TP HCM ngày…..tháng…..năm 2019



MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
3. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I : TẠI SAO NÓI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÀ NỀN TẢNG VÀ
ĐỘNG LỰC CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA?
I.1. Quan niệm về Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa, Khoa học và công nghệ
I.1.a. Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
I.1.b. Về khoa học- công nghệ
I.2. Tính tất yếu phải phát triển khoa học công nghệ của đất nước ta sau giải phóng
I.2.a. Tác dụng của công nghiệp hoá hiện đại hoá
I.2.b. Thực trạng xã hội Việt Nam sau giải phóng và những yêu cầu cấp bách được đặt ra


I.3. Vai trò của khoa học công nghệ trong quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước
CHƯƠNG II: TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 ĐẾN SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA VIỆT NAM
II.1. Giới thiệu cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
II.2. Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đến sự phát triển của Việt Nam
II.2.a. Vai trò của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển toàn cầu
II.2.b. Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của VN
1


CHƯƠNG III : CHÚNG TA NÊN LÀM GÌ ĐỂ TẬN DỤNG CƠ HỘI RÚT NGẮN
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA?
III.1. Một số điều kiện rút ngắn quá trình CNH- HĐH ở nước ta
III.2. Một số giải pháp thực hiện rút ngắn quá trình CNH- HĐH ở nước ta
III.3. Trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và công dân trong việc thực hiện rút ngắn quá trình CNHHĐH
III.3.a. Trách nhiệm của Đảng và Nhà nước
III.3.b. Trách nhiệm của công dân
C. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

2


A.ĐẶT VẤN ĐỀ
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nước ta đã giành được độc lập vào ngày 30/4/1975, từ đó cho đến nay, chúng ta luôn cố
gắng để thực hiện nhiệm vụ phát triển đất nước. Có thể nói, bên cạnh việc bảo vệ toàn vẹn lãnh
thổ thì việc phát triển đất nước là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng và được đặt lên hàng đầu
hiện nay. Nước ta đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất kĩ
thuật thấp kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa cao, quan hệ sản xuất mới chưa hoàn

thiện. Vì vậy, công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH) là một xu hướng khách quan, phù
hợp với xu thế của thời đại và hoàn cảnh đất nước góp phần tạo dựng cơ sở vật chất kĩ thuật
cho Chủ Nghĩa Xã Hội, hoàn thiện quan hệ sản xuất. Do CNH-HĐH có ý nghĩa vô cùng to lớn
với nước ta. Để đạt được mục tiêu đó, phải sử dụng cả nội lực và ngoại lực của một quốc gia
để có thể vừa nâng cao trình độ chuyên môn, năng suất lao động,chất lượng sản phẩm,...vừa
tiếp thu và lĩnh hội các thành tựu khoa học kỹ thuật từ các nước đi trước trên thế giới, đặc biệt
là trong quá trình Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa của nước ta và sự bùng nổ của Công nghệ
4.0 hiện nay.
Nhận thấy được tầm quan trọng của vấn đề trên nên em đã lựa chọn “Tại sao nói khoa học
và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa? Tác động của cách
mạng công nghiệp 4.0 đến sự phát triển của Việt Nam? Theo anh chị chúng ta nên làm gì để tận
dụng cơ hội để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa?” làm đề tài nghiên cứu và báo cáo cho bộ
môn “ Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam”.
phạm vi đề tài rộng nên trong mà tầm hiểu biết của em còn hạn chế nên không tránh khỏi
những sai sót , mong cô chỉ dẫn để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
Làm rõ các luận điểm:
-

Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa

-

Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đến sự phát triển của Việt Nam

3


Tìm ra những giải pháp, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và mỗi công dân nhằm rút ngắn quá
trình Công nghiệp hóa

3. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
Hiểu rõ hơn về quá trình Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa, về Khoa học- công nghệ, về
các cuộc cách mạng công nghiệp, đặc biệt là Cách mạng công nghiệp 4.0, nắm được vai trò và
tác động của các thành phần trên đến việc phát triển kinh tế.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đề tài trên dựa trên cơ sở phương pháp luận chung khoa học của chủ nghĩa
Mác-Lê nin, các quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận của Hồ Chí Minh và các quan điểm
của Đảng. Bên canh đó kết hợp sử dụng các phương pháp như lịch sử, logic là cơ bản
nhất,..Ngoài ra, còn phải sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp so sánh, liệt kê,…

B. NỘI DUNG
I. CHƯƠNG 1: TẠI SAO NÓI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÀ NỀN TẢNG VÀ
ĐỘNG LỰC CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA?

I.1. Quan niệm về Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa, Khoa học và công nghệ
I.1.a. Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quan niệm khác nhau về công nghiệp hóa, dưới đây là hai
quan niệm cơ bản nhất:
-

Quan niệm của tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO):

CNH là quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn
của cải của quốc dân được động viên để phát triển một cơ cấu kinh tế nhiều ngành nghề trong
nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận luôn luôn thay
đổi để sản xuất ra tư liệu sản xuất và hàng hoá tiêu dùng và có khả năng bảo đảm cho toàn bộ
nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao và đạt tới sự tiến bộ của nền kinh tế và xã hội.
-

Quan niệm của Đảng cộng sản Việt Nam:

4


CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ và quản lí kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ
biến sức lao động, cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên
sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội
cao.
I.1.b. Về khoa học công nghệ
Khoa học là một hệ thống tri thức về tự nhiên, xã hội, con người, tư duy của con người. Nó
nghiên cứu và vạch ra những mối quan hệ nội tại, bản chất của các sự vật, hiện tượng, quá
trình, từ đó chỉ ra những quy luật khách quan của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã
hội và tư duy.
Công nghệ theo nghĩa chung nhất có thể coi đó là tập hợp tất cả những sự hiểu biết về con
người vào việc biến đổi, cải tạo thế giới nhằm đáp ứng nhu cầu sống của con người sử tồn tại
và phát triển của xã hội.
I.2. Tính tất yếu phải phát triển khoa học công nghệ của đất nước ta
I.2.a. Tác dụng của công nghiệp hoá hiện đại hoá
-

Nó tạo điều kiện để biến đổi về chất lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng sức
chế ngự của con người đối với tự nhiên, tăng trưởng và phát triển kinh tế. Do đó góp
phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân.

-

Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố vai trò kinh tế của nhà nước, nâng cao năng lực
tích lũy, nhờ đó làm tăng sự phát triển tự do và toàn diện trong mọi hoạt động kinh tế
của con người.


-

Tạo điều kiện vật chất cho việc tăng cường củng cố an ninh và quốc phòng.

-

Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế dân tộc tự chủ, đủ sức thực hiện sự
phân công và hợp tác quốc tế.
I.2.b. Thực trạng xã hội Việt Nam sau giải phóng và những yêu cầu cấp bách
được đặt ra

Sau khi giành được độc lập, nước ta có nguyện vọng sử dụng những thành tựu của cuộc cách
mạng Kỹ thuật- công nghệ hiện đại. Muốn tiến hành cuộc cách mạng đó để phát triển kinh tế,
văn hóa, khoa học và kỹ thuật để đưa nước ta ra khỏi tình trạng nghèo nàn và lạc hậu. Nguyện

5


vọng đó là hoàn toàn chính đáng. Tuy nhiên, việc tiến hành cách mạng Khoa học- công nghệ ở
nước ta gặp phải những khó khăn lớn do nhiều nguyên nhân:
-

Nước ta còn đang trong tình trạng lạc hậu về mặt kinh tế, khoa học và công nghệ. Nông
nghiệp và công nghiệp chưa kết hợp thành một cơ cấu thống nhất, sự mất cân đối trong
các ngành kinh tế quốc dân trở nên trầm trọng.

-

Về văn hóa, phần lớn đồng bào vẫn còn bị mù chữ, thiếu lực lượng lao động có trình độ
chuyên môn cao, thiếu cán bộ văn hóa kỹ thuật. Thêm vào đó, sự tăng dân số quá nhanh

đã gây ra những khó khăn cho việc đảm bảo lương thực, giải quyết công ăn việc làm cho
những người lao động. Bên cạnh đó, nước ta còn chịu ảnh hưởng nặng nề do sự nô dịch
của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân để lại. Đồng thời các cường quốc lại đang
thực hiện chính sách kìm hãm sự phát triển nhằm duy trì tình trạng bất bình đẳng của họ
trong sự phân công lao động quốc tế.

-

Về trình độ kỹ thuật- công nghệ, so với các nước tiên tiến trên thế giới, nước ta lạc hậu
từ 50 đến 100 năm, so với các nước tiên tiến ở mức trung bình, ta lạc hậu từ 1 đến 2 thế
hệ.
Trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một cơ sở vật
chất – kỹ thuật cao hơn trên cả hai mặt : trình độ kỹ thuật và cơ cấu sản xuất, gắn với
thành tựu của cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện đại. xây dựng cơ sở vật chất – kỹ
thuật cho chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan và được thông qua công nghiệp
hoá hiện đại hoá. Vì cơ sở vật chất – kỹ thuật là điều kiện trọng yếu nhất, quyết định
nhất có liên quan đến sự phát triển về chất đối với lực lượng sản xuất, và năng suất lao
động.

Từ đó tạo ra những yêu cầu cấp bách:
-

Phải xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội

-

Rút ngắn khoảng cách tụt hậu xa về kinh tế, kỹ thuật và công nghệ giữa Việt Nam và
thế giới

-


Yêu cầu phải tạo ra năng suất lao động xã hội cao, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển
của xã hội.

6


=> Với thực trạng đó, việc tiến hành cuộc cách mạng khoa học- công nghệ không chỉ được coi
là tính tất yếu khách quan mà còn là một đòi hỏi để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
I.3. Vai trò của khoa học công nghệ trong quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất
nước
Trong sự nghiệp CNH- HĐH hiện nay, Khoa học công nghệ đang chiếm một vị trí quan trọng.
Bởi vì nước ta tiến lên Chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động
thủ công. Cái thiếu thốn của chúng ta là một nền đại công nghiệp. Chính vì vậy, chúng ta phải
tiến hành CNH- HĐH. Trong thời đại ngày nay, CNH phải gắn liền với HĐH. CNH- HĐH ở
nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH. Đó là nhiệm vụ trọng tâm trong
suốt thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở nước ta.
KHCN có vai trò quan trọng như sau:
- Khoa học- công nghệ là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, phát triển ngành, cụ
thể là đổi mới công nghệ sẽ thúc đẩy sự hình thành và phát triển các ngành mới đại diện
cho tiến bộ khoa học- công nghệ, dưới tác động đổi mới công nghệ, cơ cấu ngành sẽ đa
dạng, phong phú, phức tạp hơn; các ngành có hàm lượng khoa học- công nghệ sẽ phát
triển nhanh hơn so với các ngành truyền thống hao tốn nhiều nguyên liệu, năng lượng,
sức người,...
- Khoa học công nghệ sẽ cho phép nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều sản
phẩm mới, đa dạng hóa sản phẩm, tăng sản lượng, tăng năng suất lao động, sử dụng hợp
lý, tiết kiệm nguyên liệu, làm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm,... nhờ vậy
sẽ tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường, thúc đẩy tăng trưởng nhanh, nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh.

- Khoa học công nghệ sẽ giải quyết nhiệm vụ bảo vệ môi trường, cải thiện điều kiện
sống và làm việc, giảm lao động nặng nhọc, độc hại; biến đổi cơ cấu lao động theo
hướng nâng cao tỷ trọng lao động chất xám, lao động kỹ thuật, giảm lao động phổ
thông, lao động chân tay,...
- Khoa học công nghệ hạn chế ảnh hưởng của thiên nhiên, cho phép phát triển công
nghiệp ngay cả khi thời tiết không thuận lợi.

7


- Khoa học công nghệ giúp xây dựng năng lực công nghệ quốc gia, làm tăng khả năng
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế và mở rộng hơn nữa là lợi thế cạnh
tranh giữa các quốc gia trên thế giới.
Tóm lại, khoa học- công nghệ giúp tiết kiệm và thay thế sức người, sức của trong sản xuất, quy
trình sản xuất hiện đại tạo ra tác phong làm việc công nghiệp, chuyên nghiệp và kỷ luật cao.
KHCN cũng là yếu tố quyết định giúp chống lại “nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới”.
Ngay từ khi bắt đầu quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước đã quan tâm hoàn thiện và đổi mới
quan điểm, các chủ trương, chính sách trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Nghị quyết 26
của bộ Chính trị (Khóa VI ) đã nêu rõ: “Đại hội lần thứ VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới,
coi khoa học và công nghệ là một động lực mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới, ổn định tình hình
và phát triển kinh tế xã hội theo định hướng XHCN, coi những người làm khoa học công nghệ
là đội ngũ cán bộ tin cậy, quý báu của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta”. Nghị quyết của Hội
nghị lần VII BCHTW (Khóa VII) trong phần về chủ trương phát triển công nghiệp và công
nghệ đến năm 2000 đã nêu rõ quan điểm: “Khoa học, công nghệ là nền tảng của CNH- HĐH.
Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở
những khâu quyết định”. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội VIII, Đảng lại nhấn mạnh: “Khơi
dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt, quyết tâm
đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu bằng KHCN”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng đã chỉ ra: “Con đường CNH- HĐH ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian vừa

có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng
mọi khả năng để đạt được trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công
nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn
những thành tựu về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy
nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển GD và ĐT, Khoa
học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH- HĐH”.
Từ năm 1996 đất nước ta chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh CNH- HĐH, phấn đấu đến năm
2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đây cũng là một yếu tố có ý nghĩa quyết định
chống lại “nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới”.
Sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta chỉ thực sự thành công chừng nào thực hiện thành công

8


sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. KHCN nâng cao năng suất lao động, đổi mới sản phẩm, nâng
cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường, xây dựng năng lực công nghệ quốc gia.
Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định phát triển Khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Mặc dù nước ta còn nghèo, nhưng trong thời gian qua, với sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước, đặc biệt là sự nỗ lực, cố gắng của đội ngũ cán bộ Khoa học và Công nghệ
đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn xác định
KH&CN có vai trò đặc biệt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
-

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951) đã thông qua Chính cương của
Đảng Lao động Việt Nam với nội dung cơ bản: Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách
mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự
cho dân tộc; xóa bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có
ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân, xây dựng cơ sở cho chủ

nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội.

-

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960) đã xác định, ở miền Bắc, công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ nhằm xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá là con đường tất
yếu để phát triển nhanh nền kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân, thực hiện những
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá phải có kế hoạch, phải có giải pháp cụ
thể và phải giải quyết những mối quan hệ, trong đó có mối quan hệ cơ bản là giữa tích
luỹ cho công nghiệp hoá và cải thiện đời sống. Chú trọng mối quan hệ giữa công nghiệp
và nông nghiệp, nông nghiệp là cơ sở để phát triển công nghiệp, công nghiệp phát triển
lại thúc đẩy nông nghiệp, phải coi công nghiệp và nông nghiệp như hai chân của nền
kinh tế "Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp và nông nghiệp". Phát
triển kinh tế "gắn liền với phát triển khoa học và kỹ thuật, với sự phát triển văn hóa của
nhân dân". Nửa đầu thập niên sáu mươi công nghiệp hóa được đẩy mạnh trên miền Bắc
theo đường lối Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng. Do hoàn cảnh chiến
tranh nên từ 1965 phải chuyển hướng kinh tế. Tuy vậy, Đảng ta vẫn chủ trương tiếp tục
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có chiến tranh, đương nhiên quy mô tốc độ
công nghiệp hoá có sự điều chỉnh. Với đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa,
9


miền Bắc đã đầu tư xây dựng những khu trung tâm công nghiệp lớn và cũng hình thành
phát triển những ngành công nghiệp mũi nhọn của nền kinh tế như điện, than, cơ khí
luyện kim, hoá chất, v.v... Đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật, coi trọng đưa
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào các ngành kinh tế, nhất là nông nghiệp (cơ giới hóa, thủy
lợi hóa, cách mạng về giống cây trồng và vật nuôi).
-


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976) đã đề ra đường lối chung của
cách mạng Việt Nam trên phạm vi cả nước:
+

"Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách
mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hóa, trong đó cách mạng khoa
học - kỹ thuật là then chốt, đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ
trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội."

+ Về đường lối xây dựng Kinh tế, Đại hội xác định: Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội... làm cho nước
Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công - nông nghiệp hiện
đại, văn hóa và khoa học - kỹ thuật tiên tiến.
-

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện,
đã nhấn mạnh: "Một đặc điểm nổi bật của thời đại là cuộc cách mạng khoa học và kỹ
thuật đang diễn ra mạnh mẽ, tạo thành bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất và
đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa các lực lượng sản xuất". Trong tình hình ấy, nước ta cần
thực hiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, tạo ra động lực để giải phóng năng lực sản xuất,
thúc đẩy tiến bộ khoa học và kỹ thuật, phát triển kinh tế hàng hóa với năng suất, chất
lượng, hiệu quả.

-

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) đã thông qua Cương lĩnh, trong
đó có đoạn: "Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh quốc tế có những biến
đổi to lớn và sâu sắc. Cuộc cách mạng KH&CN hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút
tất cả các nước ở những mức độ khác nhau. Nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang

trong quá trình quốc tế hóa sâu sắc, ảnh hưởng lớn tới nhịp độ phát triển, lịch sử và cuộc
sống các dân tộc. Những xu thế đó vừa tạo thời cơ phát triển nhanh cho các nước, vừa đặt
ra những thách thức gay gắt, nhất là đối với những nước lạc hậu về kinh tế".

10


-

Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị (1991) về KH&CN đã nêu rõ những mặt yếu
kém của KH&CN ở nước ta, đề ra những nhiệm vụ quan trọng của KH&CN trong giai
đoạn cách mạng mới, những biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh phát triển KH&CN, đổi mới
và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, cải tiến sự quản lý của Nhà nước đối với KH&CN.
Đảng ta cho rằng: Phát triển KH&CN là nhu cầu của nước ta nhằm đuổi kịp các nước trên
thế giới bằng thực lực kinh tế.

-

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) đã xác định đưa nước ta bước
vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại... Tập trung đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, xây dựng cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp dịch vụ, tận dụng lợi thế của nước đi sau, tranh thủ công nghệ mới. Về công nghiệp, đi
vào xây dựng những khu công nghệ cao, coi trọng phát triển một số ngành công nghiệp
nặng; lấy ứng dụng, chuyển giao công nghệ là chính.

-

Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII (1996) đã ra Nghị quyết về Định hướng chiến lược phát
triển KH&CN trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000,
khẳng định vai trò động lực của KH&CN đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước... Nghị quyết còn đặt ra yêu cầu phải sớm có luật pháp về KH&CN để thể chế
hóa mọi mặt hoạt động KH&CN, phải nhanh chóng đổi mới cơ chế quản lý khoa học,
phải đầu tư thỏa đáng, bước đầu dành tối thiểu 2% chi ngân sách cho KH&CN. Năm
2000, Luật KH&CN được ban hành.

-

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) tiếp tục khẳng định, phát triển
KH&CN vừa là nền tảng, vừa là động lực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội đã
nhận định: "Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi, KH&CN sẽ có bước tiến nhảy vọt,
kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất".
Muốn rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phải nắm bắt, khai thác, sử dụng
các thành tựu KH&CN hiện đại và những yếu tố của nền kinh tế tri thức. Phát triển
KH&CN phải hướng vào việc nâng cao năng suất lao động, đổi mới sản phẩm, xây dựng
năng lực cạnh tranh của hàng hóa, xây dựng năng lực công nghệ quốc gia đi nhanh vào
một số ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ hiện đại, công nghệ cao (tin học, sinh học, vật
liệu mới, tự động hóa)... Tăng đầu tư từ ngân sách và huy động các nguồn lực khác cho
KH&CN...

11


-

Hội nghị Trung ương 6 Khóa IX (7- 2002) đã kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Trung
ương 2 Khóa VIII và xác định nhiệm vụ của KH&CN trong thời gian tới là: Đẩy mạnh
nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn; đổi mới nâng cao trình độ công nghệ trong nền
kinh tế quốc dân; xây dựng và phát triển có trọng điểm các ngành công nghệ cao đáp ứng
yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


-

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) của Đảng tiếp tục khẳng định: "Phát triển
mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN... Kết hợp chặt chẽ hoạt động KH&CN
với giáo dục và đào tạo để thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy
nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức... Đẩy mạnh nghiên cứu
và ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ, tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng
và hiệu quả trong từng ngành, từng lĩnh vực của nền kinh tế... Cùng với việc đẩy mạnh xã
hội hóa hoạt động khoa học - công nghệ, Nhà nước tập trung đầu tư vào các chương trình
nghiên cứu quốc gia, phấn đấu đạt trình độ khu vực và thế giới; xây dựng tiềm lực
KH&CN cho một số lĩnh vực trọng điểm, công nghệ cao... Thực hiện chính sách trọng
dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật
viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao...".

-

Hội nghị Trung ương 9 Khóa X (2009) đã ra Nghị quyết 31-NQ/TW "Về một số nhiệm
vụ, giải pháp lớn nhằm tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ X của
Đảng", về KH&CN, Nghị quyết ghi: "Tiếp tục đổi mới đồng bộ cơ chế quản lý và chính
sách phát triển KH&CN; nghiên cứu xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển KH&CN quốc gia và các ngành, các sản phẩm quan trọng.
Phát triểrr thị trường KH&CN. Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, gắn nghiên cứu
khoa học với sản xuất kinh doanh, giáo dục và đào tạo. Có chính sách, chế độ đãi ngộ và
điều kiện làm việc tốt hơn cho cán bộ nghiên cứu khoa học, nhất là cán bộ đầu ngành, có
trình độ cao".

-

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) đã khẳng định: “Hoạt động nghiên
cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ được đẩy mạnh, góp phần thúc đẩy phát triển

kinh tế - xã hội. Quản lý khoa học, công nghệ có đổi mới, thực hiện cơ chế tự chủ cho các
đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ. Thị trường khoa học, công nghệ bước đầu hình
thành. Đầu tư cho khoa học, công nghệ được nâng lên”.

12


-

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) đã vạch rõ những định hướng lớn về phát triển KH&CN trong thời kỳ
mới với những quan điểm cơ bản dưới đây: “KH&CN giữ vai trò then chốt trong việc
phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển
KH&CN nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển
kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Phát triển đồng bộ các lĩnh vực
KH&CN gắn với phát triển văn hóa và nâng cao dân trí. Tăng nhanh và sử dụng có hiệu
quả tiềm lực KH&CN của đất nước, nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu
KH&CN hiện đại trên thế giới. Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng
tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ”.

-

Hội nghị Trung ương 6 khóa XI đã ra Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 31/10/2012 về phát
triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã chỉ rõ: Phát triển và ứng dụng
KH&CN là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát
triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư
trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp. Sự lãnh đạo của Đảng, năng lực
quản lý của Nhà nước và tài năng, tâm huyết của đội ngũ cán bộ KH&CN đóng vai trò

quyết định thành công của sự nghiệp phát triển KH&CN. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và
đồng bộ về tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động, công tác xây dựng chiến lược, kế
hoạch phát triển KH&CN; phương thức đầu tư, cơ chế tài chính, chính sách cán bộ, cơ
chế tự chủ của các tổ chức KH&CN phù hợp với kinh tế thị trường, định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đầu tư cho nhân lực KH&CN là đầu tư cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng
tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc. Đảng và Nhà nước có chính sách phát triển, phát huy
và trọng dụng đội ngũ cán bộ KH&CN. Ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho
phát triển KH&CN. Nhà nước có trách nhiệm đầu tư, khuyến khích các thành phần kinh
tế tham gia phát triển hạ tầng, nâng cao đồng bộ tiềm lực khoa học xã hội và nhân văn,
khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ. Chú trọng nghiên cứu ứng dụng và triển khai;
coi doanh nghiệp và các đơn vị dịch vụ công là trung tâm của đổi mới, trong ứng dụng và
chuyển giao công nghệ, là nguồn cầu quan trọng nhất của thị trường KH&CN. Quan tâm
đúng mức đến nghiên cứu cơ bản, tiếp thu và làm chủ công nghệ tiên tiến của thế giới phù

13


hợp với điều kiện Việt Nam. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để cập nhật tri thức
KH&CN tiên tiến của thế giới, thu hút nguồn lực và chuyên gia, người Việt Nam định cư
ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia các dự án KH&CN của VN. Khuyến khích và
tạo điều kiện thuận lợi để sinh viên, nghiên cứu sinh, thực tập sinh sau khi được đào tạo ở
nước ngoài về nước làm việc.

II. CHƯƠNG II: TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 ĐẾN SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA VIỆT NAM
II.1. Giới thiệu cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Cho đến nay, thế giới đã trải qua ba cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lớn: Thứ nhất, cách
mạng công nghiệp 1.0 (1784) là sự xuất hiện của động cơ hơi nước. Động cơ hơi nước tác
động trực tiếp đến các ngành nghề như dệt may, chế tạo cơ khí, giao thông vận tải. Động cơ
hơi nước được đưa vào ôtô, tàu hỏa, tàu thủy, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân

loại. Thứ hai, cách mạng công nghiệp 2.0 (1870) là khi động cơ điện ra đời, mang lại cuộc
sống văn minh, năng suất tăng nhiều lần so với động cơ hơi nước. Thứ ba, cách mạng công
nghiệp 3.0 (1969) là khi bóng bán dẫn, điện tử, kết nối thế giới liên lạc được với nhau. Vệ tinh,
máy bay, máy tính, điện thoại, Internet… là những công nghệ mà hiện nay chúng ta đang thụ
hưởng.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư dựa trên nền tảng và theo đà phát triển của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ ba, nó nảy sinh với các công nghệ mới và các thiết bị mới, mà trước
hết là trí tuệ nhân tạo, công nghệ in 3D, công nghệ tự hành, thiết bị đầu cuối all in one, internet
vạn vật, điện toán đám mây- dữ liệu lớn, các công nghệ sinh học liên kết thế hệ mới, công
nghệ vật liệu cao cấp, công nghệ tự động hóa robot thế hệ mới có “trí tuệ”… Nền tảng công
nghệ chủ yếu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sự tích hợp các công nghệ của cách
mạng công nghiệp lần thứ ba và trí tuệ nhân tạo. Ở các giai đoạn tiếp theo nền tảng công nghệ
của nó có thể được bổ sung. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra những đột phá mới trong
việc giải phóng con người khỏi các chức năng thực hiện, chức năng quản lý và sẽ tạo nên
những bước nhảy vọt trong việc giải phóng con người khỏi chức năng logic khi các công nghệ
có trí tuệ nhân tạo được sử dụng rộng rãi. Nó thực sự biến khoa học thành lực lượng sản xuất
trực tiếp. Cách mạng KHCN ở giai đoạn phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0 đang dần

14


loại con người ra khỏi quá trình sản xuất trực tiếp, biến họ trở thành những chủ thể sáng tạo
thực sự, tạo tiền đề vật chất và lực lượng sản xuất mới cho một nền kinh tế mới, đang được gọi
bằng nhiều tên khác nhau, đưa nhân loại đến giai đoạn phát triển mới cùng với những tên gọi
khác nhau (Kinh tế số, kinh tế mềm, kinh tế tri thức, xã hội thông tin, xã hội tri thức…).
Cách mạng công nghiệp 4.0 hay còn gọi là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 trên thế giới
đang diễn ra tại nhiều nước phát triển.

Cuộc cách mạng 4.0 được mô tả là khoảng thời gian đánh dấu sự ra đời của một loạt các công
nghệ mới, kết hợp tất cả các kiến thức trên các lĩnh vực vật, kỹ thuật số, sinh học.. và ảnh

hưởng đến tất cả các lĩnh vực, nền kinh tế, các ngành kinh tế và ngành công nghiệp. Trọng tâm
của các ngành công nghiệp này bao gồm sự đột phá công nghệ trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo
AI, Robots, Internet vạn vật, xe tự lái, công nghệ in 3D, công nghệ Nano..
II.2. Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đến sự phát triển của Việt Nam
II.2.a. Vai trò của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển toàn cầu
Cách mạng công nghiệp 4.0 là sự tiếp nối cách mạng công nghiệp 3.0 là sản phẩm của cách
mạng KHCN đang diễn ra với quy mô ngày càng lớn hơn, sâu rộng hơn, tốc độ nhanh hơn,
dường như đồng thời trên quy mô toàn cầu, đến mức không thể kịp nhận đoán “hình dạng” của
ngày mai. Nó thể hiện vừa đồng thời, đồng loạt, cộng hưởng, đột biến, bất ngờ, ảnh hưởng dữ
dội, quy mô lớn và sâu rộng so với các giai đoạn lịch sử trước đây trong sự phát triển của khoa
học, kỹ thuật, công nghệ và công nghiệp. Do vậy cách mạng công nghiệp 4.0 có những đặc

15


tính tương đồng với cách mạng KHCN hiện đại và là sự thể hiện trên lĩnh vực công nghiệp của
cách mạng KHCN. Hai cuộc cách mạng công nghiệp này không tách rời nhau trong giai đoạn
hiện nay ở đa phần các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Minh chứng của Công nghệ 4.0 đó là Robot Sophia, cô ấy đã được cấp quyền công
dân của Saudi Arabian. Sophia được tiến sĩ người Mỹ David Hanson, nhà sáng lập công
ty robot Hanson Robotics chế tạo ra tại Hong Kong.
Cách mạng công nghiệp 4.0 đã tiếp tục tạo ra môi trường xã hội đặc biệt, chưa từng có trong
lịch sử. Đó là môi trường thông tin, trong đó phần nhiều lao động thể lực được thay thế bằng
lao động trí tuệ với những phẩm chất và năng lực tinh thần, đòi hỏi tính chất sáng tạo, độc đáo,
cá nhân hóa. Thông tin, tri thức khoa học trở thành điều kiện, môi trường, nhân tố cấu thành và
nội dung thiết yếu của quá trình sản xuất, là nguồn tạo ra của cải vô tận, là nguồn lực đặc biệt
của sự phát triển con người và xã hội. Cách mạng KHCN tạo tiền đề cho nền sản xuất xã hội ở
giai đoạn cách mạng công nghiệp 3.0 vượt qua trình độ sản xuất đại trà, đặc trưng của nền sản
xuất cũ trước đây, theo nghĩa là sản xuất đại trà không còn có thể thống trị, phổ quát. Nền sản

xuất giai đoạn cách mạng công nghiệp 4.0 tiếp nối sẽ hướng theo các nhu cầu cá nhân - cá thể,
đơn nhất, đặc thù. Nó đang làm chuyển dịch dần nền sản xuất xã hội ở quy mô toàn cầu vận
hành theo những nguyên tắc mới: phi tiêu chuẩn hóa, phi chuyên môn hóa, phi đồng thời hóa,
phi tập trung hóa, phi tối đa hóa và phi trung tâm hóa.

16


Các cuộc cách mạng công nghiệp chi phối ngày càng nhiều, ngày càng mạnh các biến đổi của
đời sống xã hội và của con người (tuổi thọ, bệnh tật, sức khoẻ, làm đẹp,…) trong mỗi quốc gia
cũng như trên phạm vi toàn cầu. Sức mạnh quân sự, quy mô và tốc độ của các cuộc chiến
tranh, sức mạnh tấn công và phòng thủ của các quốc gia phụ thuộc ngày càng lớn vào cách
mạng KHCN nói chung và cách mạng công nghiệp 4.0 nói riêng. Chúng quyết định các chiều
hướng phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, quan hệ quốc tế, giáo dục đào tạo, y tế và việc
làm… ở quy mô toàn cầu cũng như trong từng quốc gia riêng lẻ.
Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng tác động ngày càng mạnh mẽ đến những vấn đề toàn cầu.
Một mặt, nó là công cụ, phương tiện hữu hiệu để có thể giải quyết những vấn đề toàn cầu đã và
đang xuất hiện ngày một thêm căng thẳng đối với nhân loại. Mặt khác, nó cũng lại làm tăng
thêm mức độ căng thẳng của một số vấn đề toàn cầu, thậm chí theo một số học giả, có thể làm
xuất hiện những vấn đề toàn cầu mới. Những hậu quả tiêu cực do việc sử dụng những thành
tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại (cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi
trường, khủng hoảng sinh thái, vũ khí hủy diệt hàng loạt,…) đe dọa sự tồn vong và tương lai
của mỗi con người và nhân loại nói chung.
II.2.b. Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của VN
- Cách mạng công nghiệp 4.0 đóng vai trò đặc biệt trong việc rút ngắn khoảng cách về trình độ
phát triển giữa các quốc gia trên thế giới, nó mới mở ra cho chúng ta nhiều cơ hội trong việc
nâng cao trình độ công nghệ, năng lực sản xuất và cạnh tranh trong chuỗi giá trị toàn cầu; tạo
ra sự thay đổi lớn về mô hình kinh doanh bền vững hơn và cơ hội cho các doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo; mang lại tiềm năng cho các nước đang phát triển có thể rút ngắn quá trình
công nghiệp hóa bằng cách đi tắt, đón đầu, phát triển nhảy vọt lên công nghệ cao hơn. Nhưng

đồng thời nó lại trở thành một trong những thách đố khó vượt qua được đối với các nước đang
phát triển như Việt Nam chúng ta, bởi những nước phát triển có tiềm lực khoa học và công
nghệ mạnh, có thể đi vào tương lai với tốc độ nhanh hơn nhiều so với các nước có tiềm lực
khoa học và công nghệ yếu kém hơn. Nếu không có cách tiếp cận đúng và bắt kịp nhịp độ phát
triển của thế giới và khu vực, Việt Nam sẽ đối mặt với nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về công
nghệ, tình trạng dư thừa lao động kỹ năng thấp và sự bất bình đẳng trong xã hội.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, là con đẻ mới nhất của cách mạng KHCN, đang bắt
đầu diễn ra trên thế giới, đang tạo ra một thách đố và cơ hội lớn đối với dân tộc Việt Nam hiện

17


nay. Chưa bao giờ trong lịch sử nước ta lại có những điều kiện và tiền đề như hiện nay cả về
phương diện chính trị, xã hội, kinh tế, nhân lực và cả các quan hệ quốc tế để có thể vận dụng
và thực hiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nếu chúng ta biết tận dụng tối đa và có hiệu
quả những điều kiện và tiền đề đang có thì không chỉ cách mạng công nghiệp lần thứ tư nói
riêng, mà cả cách mạng KHCN nói chung, có thể được triển khai và mang lại những hiệu quả
tích cực ở nước ta trong những thập kỷ tới, có thể biến nó trở thành công cụ quyết định trong
việc rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước phát triển trên thế giới. Khoảng ba thập niên
cuối cùng của thế kỷ 20, chính nhờ sử dụng có hiệu quả các thành tựu của cách mạng KHCN
hiện đại, của cách mạng công nghiệp 3.0 mà các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và
vùng lãnh thổ Đài Loan đã “hóa rồng” một cách ngoạn mục. Ấn Độ hiện cũng đang là một
trong những quốc gia có nhiều thành công trong việc tiếp nhận và vận dụng các thành tựu của
cách mạng KHCN hiện đại và cách mạng công nghiệp 3.0 để phát triển một số lĩnh vực như
nông nghiệp, công nghiệp phần mềm, công nghiệp ô tô, công nghiệp văn hoá,…
Một trong những nguyên nhân quan trọng, được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới chỉ ra, của
sự sụp đổ của hệ thống XHCN trước đây, chính là đã không vận dụng và phát triển được cách
mạng khoa học - công nghệ hiện đại, đặc biệt là cách mạng công nghiệp 3.0, trong ba thập kỷ
cuối cùng của thế kỷ XX. Nếu không tận dụng được cơ hội do cách mạng KHCN hiện đại và
cách mạng công nghiệp 3.0 và 4.0 tạo ra, để phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa,

hiện đại hóa thì nguy cơ tụt hậu xa hơn, bị đẩy ra vùng ngoại biên của sự phát triển toàn cầu, là
một nguy cơ hiện thực và ngày càng trầm trọng, ngày càng khó vượt qua đối với nước ta trong
vài thập kỷ tới
Cuộc cách mạng KHCN hiện đại cùng với cách mạng công nghiệp 3.0 và 4.0, theo một ý nghĩa
nhất định, đang tạo ra hố ngăn cách ngày càng sâu rộng giữa các nước phát triển và các nước
đang phát triển trước hết về trình độ công nghệ và trình độ các lực lượng sản xuất. Từ đó nó
cũng tạo nên những vấn đề xã hội to lớn và khó giải quyết trong các nước đang phát triển cũng
như trong quan hệ giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển. Nếu nước ta không
chú trọng một cách nhất quán, lâu dài và có hiệu quả đối với cách mạng KHCN và cách mạng
công nghiệp lần thứ ba và lần thứ tư nói riêng, thì thách đố này có thể dẫn đến những hệ lụy
khó lường cho nhiều thế hệ con người và cho tất cả mọi thành viên của xã hội. Cách mạng
KHCN hiện đại, cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ phải là cứu cánh cho đất nước và dân tộc trong
xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, xóa bỏ khoảng cách tụt hậu với thế giới phát triển. Nhân tố quyết
18


định trong việc vận dụng và phát triển cách mạng KHCN hiện đại, cách mạng công nghiệp 4.0
không phải là nguồn lực tài chính, không phải là hệ thống máy móc thiết bị, cũng không phải
là điều kiện tự nhiên và lịch sử văn hóa, mặc dù chúng vẫn đóng vai trò quan trọng, mà là
nguồn lực con người và thể chế. Đó chính là nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực
khoa học, kĩ thuật, công nghệ và quản lý, kinh doanh. Đó là những lực lượng đầu tàu, vừa giữ
vai trò định hướng, vừa giữ vai trò động lực thúc đẩy việc xây dựng và phát triển tiềm lực khoa
học, công nghệ và công nghiệp của quốc gia. Không có nguồn nhân lực chất lượng cao trong
những lĩnh vực đó thì không thể vận dụng có hiệu quả các thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ, càng không thể tiếp nhận cách mạng KHCN hiện đại, cách mạng công nghiệp 4.0
vào nước ta. Nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực này không phải là những người có
bằng cấp cao hoặc có chức vụ quản lý trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội mà là
những chuyên gia đã có nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực chuyên môn của mình, có năng
lực, có tài năng đã được thực tiễn xác nhận, có đóng góp cho sự phát triển của khoa học, công
nghệ và công nghiệp. Đây là đội quân chủ lực của cách mạng KHCN, của cách mạng công
nghiệp lần thứ ba và lần thứ tư đang đến. Tuy nhiên, việc sử dụng, bao gồm tuyển dụng, đãi

ngộ, sắp xếp nguồn nhân lực chất lượng cao để phát triển tiềm lực khoa học, công nghệ và
công nghiệp, lại phụ thuộc vào thể chế khoa học, công nghệ và công nghiệp của đất nước.
Nhưng thể chế lại phụ thuộc vào nguồn nhân lực chất lượng cao đặc biệt là nguồn nhân lực
chất lượng cao trong lĩnh vực quản lý, mà cụ thể ở đây là quản lý khoa học, kĩ thuật, công nghệ
và công nghiệp, trong các cơ quan, tổ chức hoạt động và ứng dụng khoa học, kỹ thuật, công
nghệ. Họ là những người xây dựng các quy trình, quy tắc, luật pháp, chính sách và trực tiếp
điều hành việc vận dụng và phát triển tiềm lực khoa học, công nghệ của các cơ quan, xí
nghiệp, cơ sở đào tạo, bệnh viện, đơn vị sản xuất, dịch vụ,… Thể chế cho hoạt động khoa học,
kỹ thuật và công nghệ đóng vai trò quyết định cả về định hướng lẫn quy mô, tốc độ phát triển
tiềm lực khoa học, công nghệ và công nghiệp của quốc gia, quyết định sự thành bại của cách
mạng công nghiệp 4.0 trên đất nước ta. Đây là một loại thể chế đặc biệt vừa mang tính chất thị
trường vừa mang tính chất phi thị trường. Tính cực đoan trong tạo dựng và áp dụng thể chế,
hoặc nghiêng quá về phía thị trường, hoặc nghiêng quá về phía phi thị trường, đều không có
tác dụng thúc đẩy, mà lại có tác dụng kìm hãm, thậm chí phá hoại tiềm lực khoa học, kỹ thuật
và công nghệ của đất nước, cản trở cách mạng công nghiệp 3.0 đang diễn ra và cách mạng
công nghiệp 4.0 đang bắt đầu. Ở nước ta hiện nay, qua nhiều thập kỷ phát triển, một mặt, đội

19


ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học, kĩ thuật, công nghệ và công
nghiệp đã được xây dựng và phát triển đông đảo chưa từng có. Nhiều thành tựu khoa học, kỹ
thuật và công nghệ to lớn, thúc đẩy sự phát triển công nghiệp của đất nước gắn liền với đội ngũ
nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực này. Nhưng, trên nhiều bình diện, đội ngũ nguồn
nhân lực chất lượng cao đó vẫn chưa đáp ứng được những đòi hỏi của công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước ở giai đoạn mới hiện nay của cách mạng KHCN, đặc biệt trong giai đoạn
cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang đến. Mặt khác, việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung, hành chính, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của
Nhà nước đòi hỏi bước chuyển thể chế quản lý phải đồng bộ và thích hợp để tạo tiền đề cho sự
phát triển của các lĩnh vực khác nhau, trong đó có lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ và

công nghiệp. Thêm nữa, chính cách mạng khoa học - công nghệ và cách mạng công nghiệp
cũng đòi hỏi phải thường xuyên hoàn thiện thể chế quản lý, thì mới có thể vận dụng các thành
tựu và thúc đẩy cách mạng KHCN và cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển. Không cải cách
và hoàn thiện thể chế thường xuyên thì không thể thúc đẩy khoa học, kỹ thuật, công nghệ và
công nghiệp phát triển liên tục. Điều đó cho phép nhận định rằng trong thời đại cách mạng
KHCN, phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực hoạt
động khoa học, kỹ thuật, công nghệ và công nghiệp có ý nghĩa rất quyết định đến sự phát triển
cách mạng công nghiệp 4.0 và cách mạng KHCN. Đồng thời, chính việc vận dụng tốt các
thành tựu và thúc đẩy sự phát triển của cách mạng KHCN, của cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ
thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển của con người và xã hội. Cách mạng công nghiệp 4.0 và
cách mạng KHCN nói chung đang mang cơ hội đang đến với đất nước và con người Việt Nam,
nhưng nếu không tích cực, chủ động, tận dụng cơ hội và không nắm bắt được cơ hội thì cơ hội
sẽ không lặp lại, tàu tốc hành của nhân loại với đầu máy Cách mạng KHCN và cách mạng
công nghiệp sẽ bỏ qua chúng ta, con người và đất nước sẽ tụt hậu xa hơn.
- Bên cạnh đó, sự liên kết và gắn kết trong thời đại CMCN 4.0 dẫn tới vấn đề biên giới mềm,
quyền lực mềm, vấn đề an ninh không gian mạng và an ninh phi truyền thống, tội phạm công
nghệ cao xuyên quốc gia, từ đó đòi hỏi cần có sự ứng phó chủ động và kiểm soát tốt để bảo
đảm chủ quyền và an ninh cho người dân và đất nước.
- CMCN 4.0 cũng đang mang lại cơ hội cho nền kinh tế số, sản xuất và dịch vụ thông minh,
các loại hình nông nghiệp thông minh, du lịch thông minh, dịch vụ tài chính - ngân hàng,
logistic thông minh... giúp tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí quản lý, chi phí sản xuất,
20


mang lại lợi ích to lớn cho Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Tuy nhiên, CMCN 4.0
cũng đặt ra nhiều thách thức đòi hỏi Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những
đổi mới mạnh mẽ: Xây dựng một hành lang pháp lý chặt chẽ cho nền kinh tế số, các mô hình
sản xuất và dịch vụ thông minh; thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp về quản trị công
quốc gia và phát triển các mô hình sản xuất, dịch vụ thông minh; phát triển cơ sở hạ tầng kết
nối số; đào tạo, bổ sung nguồn nhân lực chất lượng cao; cải cách hành chính; nâng cao năng

lực cạnh tranh...
Trong 10 năm qua, nền kinh tế số Việt Nam đã phát triển không ngừng về cả nền tảng hạ
tầng kết nối số lẫn thị trường kinh doanh. Năm 2007, số người sử dụng Internet ở Việt
Nam là 17,7 triệu người. Đến năm 2017, số người sử dụng Internet ở Việt Nam đã tăng
lên mức 64 triệu, xấp xỉ 67% dân số.
Việt Nam hiện xếp thứ 13 trong top 20 quốc gia có số dân sử dụng mạng Internet đông
nhất thế giới. Các doanh nghiệp viễn thông, Internet ở Việt Nam đã phát triển liên tục và
đạt mức doanh thu 6,1 tỉ USD, góp phần tạo ra hơn 851.000 việc làm cho xã hội.

Trình diễn ứng dụng tìm kiếm vị trí cảu Công ty
gannha.com
tại Hội thảo và triển lãm Toàn cảnh Công nghệ thông tin

Truyền thông Việt Nam lần 23
Demo robot tìm kiếm nơi xảy
ra thảm hoạ thiên tai

21


- Cách mạng công nghiệp 4.0, tác động trực tiếp vào đời sống xã hội và con người, làm tăng
tuổi thọ, sức khoẻ, thể lực, trí lực nối dài và gia tăng gấp nhiều lần năng lực trí tuệ và sức
mạnh cơ bắp.
Các cuộc cách mạng công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp 4.0 cho phép tạo ra những
công dân có thể trạng tốt, nó không chỉ có tác động trong giai đoạn phát triển cho đến
trưởng thành của một con người mà còn cả trong giai đoạn hình thành trong bụng mẹ,
thậm chí ảnh hưởng đến cả sức khỏe của bố mẹ thông qua việc sử dụng các công nghệ
tiên tiến, khoa học thông qua các cuộc kiểm tra sức khỏe định kì, các đợt khám chữa
bệnh,...
Bên cạnh đó, nó còn tạo ra con người có kỹ năng, kỹ xảo lao động, có trình độ chuyên

môn, tính chuyên nghiệp, đạo đức, và nói chung là trí lực và tâm lực trong lao động và
hoạt động nói chung bằng các quá trình giáo dưỡng gồm giáo dục và đào tạo theo nghĩa
rộng. Khoa học và công nghệ tiên tiến về các phần mềm, ứng dụng, các chương trình
đào tạo,...dưới hình thức các khóa học hoặc các cuộc thi nghiên cứu được phổ cập cho
các mọi người, đặc biệt là giới trẻ. Qua đó, giúp Việt Nam tiếp cận dễ dàng hơn đến
công nghệ thế giới, chẳng hạn các phần mềm có thể liên kết thao tác sử dụng ở nhiều nơi
trên thế giới cùng một lúc ( BIM, Naviswork, Google Drive,..)
Vì thế trong thời đại cách mạng KHCN ngày nay giáo dục, đào tạo cùng với khoa học và công
nghệ phải là động lực cơ bản, là quốc sách hàng đầu của các quốc gia. Trong cách mạng công
nghiệp, cả lần thứ ba lẫn thứ tư, vòng đời các công nghệ sản xuất ngày càng rút ngắn, do vậy
vòng đời các sản phẩm công nghiệp cũng phải rút ngắn theo. Tốc độ phát triển của công nghệ,
công nghiệp, của sản xuất, đặc biệt của các lực lượng sản xuất được thể hiện qua vòng đời
công nghệ. Vòng đời công nghệ sẽ là một trong những thang đo tốc độ phát triển của công
nghiệp và của các lực lượng sản xuất. Vòng đời công nghệ càng rút ngắn, thì tương ứng, vòng
đời các sản phẩm công nghiệp cũng bị rút ngắn, tốc độ vận động của đời sống xã hội và con
người cũng tăng nhanh. Điều đó lại càng làm đảo lộn hàng loạt các giá trị, các quy tắc, chuẩn
mực hành vi của con người trong xã hội. Ở giai đoạn cách mạng công nghiệp thứ tư, những
xáo trộn này trong đời sống xã hội và trong văn hóa sẽ ngày càng mạnh mẽ, thậm chí có thể
tạo nên những cú “shock” văn hóa trên cùng chính một mảnh đất đang bắt đầu sử dụng các


thành quả của cách mạng công nghiệp lần thứ ba và thứ tư. Điều này cần được hết sức lưu ý
trong công tác quản lý, tạo dựng và hoàn thiện các thể chế văn hóa, xã hội.
- Tuy nhiên, Việt Nam được coi là nước có ưu thế về lực lượng lao động trẻ, dồi dào, điều này
sẽ không còn là thế mạnh vì Robot sẽ thay thế hết những công việc thủ công. Trong tương lai,
người dân sẽ mất việc làm, bởi công nghệ robot có thể tác động tới hết những ngành như dệt
may, dịch vụ, giải trí cho đến y tế, giao thông, giáo dục...

CHƯƠNG III : CHÚNG TA NÊN LÀM GÌ ĐỂ TẬN DỤNG CƠ HỘI RÚT NGẮN QUÁ
TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA?

III.1. Một số điều kiện để rút ngắn quá trình CNH- HĐH ở nước ta
Quá trình thực hiện sự nghiệp CNH- HĐH là một quá trình diễn ra lâu dài, liên tục trong nhiều
năm, tuy nhiên, sau một vài năm tiến hành cho thấy ở nước ta xuất hiện một số điều kiện và
yếu tố chủ quan cho phép nước ta có thể rút ngắn tiến trình CNH- HĐH của Việt Nam, sự rút
ngắn đó tạo ra rất nhiều thuận lợi cho việc đưa đất nước nhanh tiến lên XHCN
Chúng ta là một trong số các nước đi sau trong tiến trình CNH- HĐH trên thế giới, vì thế, ta
thừa hưởng được những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới đang
phát triển ở đỉnh cao. Vì vậy trong điều kiện hội nhập toàn cầu, CNH-HĐH ở nhiều quốc gia
có điều kiện rút ngắn hơn do được tiếp thu những thành tựu khoa học.Đồng thời, phải hội tụ
những thành quả bước đầu trong kinh tế, trong cơ sở hạ tầng, trong đội ngũ lao động và còn có
thể nhiều yếu tố khác nữa, cụ thể là:
-

Sau nhiều năm đổi mới kinh tế, nước ta đã có nhiều khởi sắc, tốc độ tăng trưởng liên tục
trong nhiều năm liền, nhiều công nghệ đã có khả năng thích nghi và dần dần chúng ta
đã làm chủ công nghệ tiên tiến của nước ngoài trong nhiều lĩnh vực như viễn thông,
khai thác dầu khí, năng lượng, cơ khí ô tô, điện tử, xây dựng, sinh học,.. Khoa học công
nghệ đã góp phần quan trọng trong việc huy động và sử dụng một cách có hiệu quả các
nguồn lực trong nước góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Trên cơ sở đó một số yếu tố
của nền kinh tế tri thức đã được hình thành và phát huy tác dụng.

-

Nước ta đã tạo ra hệ thống kết cấu hạ tầng khá đồng bộ, tương đối hiện đại phục vụ cho
sự nghiệp phát triển như hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, sân bay, hệ thống
cầu cảng, hệ thống cáp truyền tải điện, hệ thống thông tin liên lạc trong nước và quốc tế
đã và đang tạo tiền đề cho việc phát triển. Mặt khác có thể thấy chúng ta đã hình thành


hàng trăm khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao với hệ thống kết cấu hạ

tầng khá đồng bộ, hiện đại, đáp ứng nhu cầu đầu tư lớn ở một số tỉnh như KCN Bình
Dương, khu lọc dầu Dung Quất, Hải Phòng, Hưng Yên,... các khu này không những tạo
công ăn việc làm, tăng năng lực sản xuất, tạo thị trường xuất khẩu , tăng nguồn thu cho
ngân sách mà còn tạo ra hệ thống các doanh nghiệp với công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện
đại, quản lý tiên tiến, sức cạnh tranh khá là một trong những nhân tố đi đầu trong sự
nghiệp CNH- HĐH
-

Hệ thống luật pháp ngày càng được bổ sung và hoàn thiện để trở nên linh hoạt và mềm dẻo

hơn. Nhiều công ty luật được hình thành làm nhiệm vụ tư vấn pháp luật và hỗ trợ tốt cho các

doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh và hội nhập quốc tế. Đặc biệt, kể từ khi có

Luật Đầu tư nước ngoài đến nay đã góp phần thu hút nguồn đầu tư nước ngoài vào trong

nước, cụ thể: có hơn 3000 doanh nghiệp FDI đang hoạt động, chiếm 38% giá trị sản xuất

công nghiệp và gần 30% giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Sự tham gia của nhiều

công ty, tập đoàn nước ngoài vào Việt Nam đã tạo cho sự cạnh tranh, học hỏi cho các doanh

nghiệp trong nước giúp chúng ta nắm bắt thêm nhiều kinh nghiệm quản lý, công nghệ của

nước bạn từ đó áp dụng vào doanh nghiệp của nước mình góp phần thúc đẩy quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn của đất nước.
-

Thêm vào đó chúng ta đã từng bước hội nhập trong khu vực và quốc tế như gia nhập Hiệp hội


các nước trong khu vực Đông Nam Á ASEAN, Tổ chức Hợp tác Kinh tế Châu Á- Thái Bình

Dương APEC, tiến tới gia nhập WTO. Sự gia nhập các tổ chức lớn tạo tiền đề, điều kiện và

cũng là thách thức cho các nước huy động và phân bổ nguồn lực phát triển, đồng thời giúp

các quốc gia xây dựng nền kinh tế trên cơ sở nền kinh tế mở, đa phương lành mạnh, cởi mở,

cạnh tranh. Vì vậy, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức để các nước đi sau thực hiện
nhanh sự nghiệp CNH- HĐH đất nước.
-

Chúng ta biết rằng “ nhân lực là nguồn lực của mọi nguồn lực”, chúng ta đã tạo được nguồn

nhân lực có kiến thức khoa học, kinh nghiệm thực tế phong phú và chất lượng, từng bước đáp

ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH- HĐH. Hệ thống các trường đại học, cao đẳng, các viện,

trung tâm nghiên cứu triển khai ngày càng mở rộng và được nâng cao đáp ứng cho quá trình
CNH- HĐH ngày càng tăng của đất nước

Tóm lại sau hơn 20 năm đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã có tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định,

nguồn thu và dự trữ của ngân sách ngày càng tăng đã và đang cho phép chúng ta tăng cường cho đầu


×