Tải bản đầy đủ (.pdf) (168 trang)

NHỮNG YẾU TỐ TRIẾT HỌC TRONG TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN CỦA NGƯỜI VIỆT VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 168 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
__________

NGUYỄN THỊ CẨM TÚ

NHỮNG YẾU TỐ TRIẾT HỌC
TRONG TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN CỦA NGƢỜI VIỆT VÙNG
ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 92.29.002

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM DUY ĐỨC

Hà Nội, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết
quả nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và
chưa từng công bố ở bất cứ hội đồng khoa học nào, các thông tin trích dẫn
trong luận án đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, năm 2018
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Thị Cẩm Tú



LỜI CẢM ƠN
Trước hết, NCS muốn bày tỏ lòng cảm kích và sự biết ơn sâu sắc đối với giảng
viên hướng dẫn PGS.TS Phạm Duy Đức đã giúp đỡ tận tình và làm việc với tất cả
tinh thần trách nhiệm, thầy đã có những ý kiến đóng góp quý báu, đồng thời sửa chữa
rất công phu để NCS hoàn thành được luận án của mình.
NCS xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến quý thầy, cô giáo trong khoa Triết học ọc Viện Khoa học xã hội, đặc biệt là GS.TS Phạm Văn Đức đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi để NCS có cơ hội thực hiện niềm đam mê khoa học của mình. NCS xin
được bày tỏ lòng cảm ơn trân thành và sâu sắc đến các thầy cô giáo trong Hội đồng
khoa học, đã tận tình đóng góp ý kiến với tinh thần khách quan và khoa học để luận
án của NCS được hoàn thiện hơn.
NCS không thể thực hiện được sự nghiệp học tập của mình nếu như không có
sự ủng hộ và tạo điều kiện mọi mặt từ phía cơ quan công tác, vì thế NCS vô cùng biết
ơn sự giúp đỡ quý báu của Ban Giám hiệu Trường Đại học Thủy lợi. Đặc biệt là sự
ủng hộ và giúp đỡ kịp thời của TS. Tô Mạnh Cường - trưởng khoa Lý luận Chính trị,
cùng các thầy cô giáo trong khoa đã tạo mọi điều kiện thuận nhất để NCS hoàn thành
luận án của mình. Bên cạnh đó, NCS muốn bày tỏ lòng cảm kích và vô cùng biết ơn
tới sự giúp đỡ tận tình GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn – nguyên Viện trưởng Viện Triết
học Việt Nam, PGS. TS Bùi Văn Dũng - trường Đại học Vinh đã giúp cho NCS đạt
được sự thành công ngày hôm nay.
NCS không xem luận án này là một công trình cá nhân, mà đằng sau luôn là
sự giúp đỡ và chia sẻ của thầy cô, bạn bè, gia đình và sự hiện diện vắng mặt vô giá
của những người NCS không thể nhắc hết tên, đặc biệt là bố mẹ hai bên nội ngoại của
NCS, người chồng mà NCS yêu thương nhất, cùng cô con gái 6 tuổi đã luôn sát cánh
bên NCS, ủng hộ NCS, chia sẻ và bao dung với NCS trong suốt quá trình NCS hoàn
thành luận án.
Hà Nội, năm 2018
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Thị Cẩm Tú



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
Chương 1 .....................................................................................................................7
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN
ÁN ...............................................................................................................................7
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến một số vấn đề lý luận chung về tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ .....................................7
1.1.1. Những công trình tiêu biểu bàn về khái niệm tín ngưỡng dân gian .............7
1.1.2. Những công trình tiêu biểu bàn về các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình
thành, tồn tại của tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ .........................11
1.1.3. Những công trình tiêu biểu bàn về một số loại hình tín ngưỡng dân gian
chủ yếu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ ..................................................16
1.2. Tình hình nghiên cứu về những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ .......................................................................27
1.2.2. Những công trình tiêu biểu bàn về các yếu tố triết học về con người trong
tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ .............................30
1.2.3. Những công trình tiêu biểu bàn về các yếu tố triết học về xã hội trong tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ ...................................32
1.3. Những vấn đề cần tập trung giải quyết trong luận án ....................................34
Chương 2 ...................................................................................................................37
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN CỦA NGƯỜI
VIỆT VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ ....................................................................37
2.1. Khái niệm tín ngưỡng dân gian ......................................................................37
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành, tồn tại của tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ ......................................................................40
2.2.1. Điều kiện địa lý - tự nhiên ..........................................................................40
2.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ............................................................................44
2.2.3. Ảnh hưởng của sự giao lưu văn hóa ...........................................................47

2.3. Phân loại và một số đặc điểm nổi bật của tín ngưỡng dân gian của người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ ........................................................................................54
2.3.1. Cơ sở phân loại tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc
Bộ ..........................................................................................................................54
2.3.2. Khái lược về một số tín ngưỡng dân gian chủ yếu của người Việt vùng
đồng bằng Bắc Bộ .................................................................................................56
2.3.3. Một số đặc điểm của tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng
Bắc Bộ ...................................................................................................................65
2.4. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu của luận án .........................................................70


Chương 3 ...................................................................................................................74
QUAN NIỆM VỀ TỰ NHIÊN, VỀ CON NGƯỜI, VỀ XÃ HỘI TRONG TÍN
NGƯỠNG DÂN GIAN CỦA NGƯỜI VIỆT VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ .....74
3.1. Quan niệm về tự nhiên trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ ..........................................................................................................74
3.1.1. Một số quan niệm về tự nhiên trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại ..74
3.1.2. Nội dung một số quan niệm về tự nhiên trong tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ ......................................................................76
3.2. Quan niệm về con người trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng
đồng bằng Bắc Bộ .................................................................................................94
3.2.1. Một số quan niệm về con người trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại
...............................................................................................................................94
3.3. Quan niệm về xã hội trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ ........................................................................................................109
3.3.1. Tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ phản ánh tư
tưởng về vai trò của người phụ nữ .....................................................................110
3.3.2. Tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ phản ánh
truyền thống yêu nước của dân tộc ta.................................................................115
Chương 4 .................................................................................................................123

GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CÁC QUAN NIỆM VỀ TỰ NHIÊN,VỀ CON
NGƯỜI, VỀ XÃ HỘI TRONG TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN CỦA NGƯỜI VIỆT
VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ.............................................................................123
4.1. Giá trị của các quan niệm về tự nhiên, về con người, về xã hội trong tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ .................................123
4.1.1. Giá trị của các quan niệm về tự nhiên ......................................................123
4.1.2. Giá trị của các quan niệm về con người ...................................................127
4.1.3. Giá trị của các quan niệm về xã hội .........................................................132
4.2. Hạn chế của các quan niệm về tự nhiên, về con người, về xã hội trong tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ .................................137
4.2.1. Tính chất duy tâm trong các quan niệm về tự nhiên.................................137
4.2.2. Tính chất duy tâm trong các quan niệm về con người .............................141
4.2.3. Tính chất duy tâm trong các quan niệm về xã hội ....................................144
Tiểu kết chương 4................................................................................................147
KẾT LUẬN .............................................................................................................149
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đồng bằng Bắc Bộ là vùng đất lịch sử lâu đời, là cái nôi hình thành văn
hóa, văn minh của người Việt. Đây cũng là nơi bảo tồn nhiều giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc. Một trong những yếu tố tạo nên giá trị văn hóa
truyền thống trong đời sống tinh thần của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
chính là tín ngưỡng dân gian. Tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ là một loại hình sinh hoạt văn hóa tinh thần ra đời và lưu truyền

trong nhân dân từ xa xưa. Trải qua bao thăng trầm, nó đã đi vào mạch sống
của từng cộng đồng người Việt, tạo nên những nét văn hóa đậm đà mang bản
sắc đặc trưng của vùng châu thổ sông Hồng.
Ra đời và tồn tại trên cơ sở của phương thức sản xuất nông nghiệp
trồng lúa nước, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
phản ánh đời sống tinh thần của con người trong quá trình lao động sản xuất,
cải tạo tự nhiên, xây dựng đất nước và góp phần giáo dục đạo đức, nhân cách,
điều chỉnh hành vi của con người. Bên cạnh đó, nó còn góp phần bảo lưu và
gìn giữ bản sắc văn hóa của người Việt, củng cố sự cố kết cộng đồng, xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
Tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ là một bộ
phận của tín ngưỡng, tôn giáo, đồng thời là bộ phận cấu thành hình thái ý thức
xã hội. Do vậy, cũng giống như các hình thái ý thức xã hội khác, tín ngưỡng
dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ chịu sự quy định của tồn tại xã hội, phản
ánh tồn tại xã hội và có những ảnh hưởng nhất định đến tồn tại xã hội đã sản
sinh ra nó. Sự ra đời của tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ đã tạo
nên bức tranh sinh động phản ánh nhận thức của con người, đặc biệt là của
người lao động về giới tự nhiên, về con người và về xã hội. Với người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ, yếu tố tự nhiên được hiểu là các yếu tố cơ bản cho


2

việc sản xuất nông nghiệp, nó được phản ánh rõ trong tín ngưỡng dân gian và
là nơi để người dân gửi gắm ước mơ, khát vọng chinh phục tự nhiên. Yếu tố
con người và xã hội được khắc họa sắc nét và sinh động trong quan niệm tâm
linh về thế giới, về sức mạnh của con người, về tinh thần đoàn kết, cố kết
cộng đồng, truyền thống yêu nước, biết ơn nguồn cội… trong quá trình dựng
nước và giữa nước. Nền tảng đó là khởi nguồn cho tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ hình thành, tồn tại một cách đa dạng,

phong phú. Từ tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu, đến tín
ngưỡng thờ Thành hoàng… giao hòa với các yếu tố tâm linh tôn giáo khác,
tạo nên một bức tranh về các vị thần đa dạng, phong phú như chính cuộc sống
xã hội của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ. Sự nhận thức đó tuy còn sơ
khai, song nó có những giá trị nhất định tác động mạnh mẽ đến đời sống tinh
thần của con người. Mặt khác, nó cũng có những tác động tiêu cực không
nhỏ, gây nên những hệ lụy đáng kể trong đời sống xã hội của vùng.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, Đảng và
Nhà nước ta khẳng định sự tồn tại của tín ngưỡng, tôn giáo là một trong
những vấn đề chính trị - xã hội mang tính quy luật trong tiến trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Do vậy, việc tăng cường nghiên cứu để thấy được tính quy
luật trong sự tồn tại của hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, góp phần khẳng
định các giá trị tích cực vốn có và chỉ ra các mặt hạn chế để có các chính sách
phù hợp trong việc giải quyết vấn đề tín ngưỡng dân gian của vùng hiện nay
là yêu cầu bức thiết.
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian nói
chung, tín ngưỡng dân gian của người Viêt vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng,
đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm ở nhiều chuyên ngành khác nhau,
như tôn giáo học, chính trị học, văn hóa học, tâm lý học, v.v.. Những nghiên


3

cứu này đã đạt được những thành tựu quan trọng góp phần làm rõ vai trò, vị
trí, chức năng của tín ngưỡng dân gian trong đời sống xã hội trước đây cũng
như hiện nay. Tuy nhiên, nghiên cứu tín ngưỡng dân gian từ góc độ triết học
nhằm rút ra những kết luận về bản chất, quy luật vận động của tín ngưỡng dân
gian, cũng như làm rõ các yếu tố triết học của tín ngưỡng dân gian, nhìn
chung còn ít và mới đạt được kết quả bước đầu. Vì vậy, việc kế thừa các

thành tựu nghiên cứu để đi sâu nghiên cứu những yếu tố triết học trong tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ là việc làm cần
thiết, để góp phần nhận thức sâu sắc hơn về loại hình tín ngưỡng này.
Với lý do trên, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Những yếu tố triết
học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” làm
đề tài luận án tiến sĩ Triết học.
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, luận án làm rõ một số yếu tố triết học
trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, rút ra giá
trị và hạn chế của các yếu tố triết học đó.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Luận án tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án.
- Luận án làm rõ một số vấn đề lý luận về tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ về cơ sở hình thành, đặc điểm, phân loại
tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ và xác định cơ
sở lý thuyết nghiên cứu của luận án.
- Luận án làm rõ nội dung của một số yếu tố triết học trong tín ngưỡng
dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ thông qua các quan niệm về
tự nhiên, về con người, về xã hội.


4

- Luận án làm rõ giá trị và hạn chế của các yếu tố triết học trong tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng

đồng bằng Bắc Bộ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi của luận án chỉ giới hạn việc nghiên cứu một số yếu tố triết
học chủ yếu trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc
Bộ ở khía cạnh yếu tố triết học về tự nhiên, về con người và về xã hội, dựa
trên cơ sở nghiên cứu một số tín ngưỡng dân gian nổi bật của người Việt vùng
đồng bằng Bắc Bộ là: tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu, tín
ngưỡng thờ Thành hoàng.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
+ Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về tín
ngưỡng, tôn giáo.
+ Luận án kế thừa một số kết quả nghiên cứu của các tác giả đã được
công bố có liên quan đến đề tài luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận chung của Chủ nghĩa duy vật biện
chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với hệ thống các phương pháp
như:
+ Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu thứ cấp. Phương pháp này
cho phép nghiên cứu sinh thu thập tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước,


5

phân tích và tổng hợp tài liệu, đánh giá các kết quả nghiên cứu đã có để tiếp
thu, kế thừa trong quá trình thực hiện luận án;
+ Phương pháp logic và lịch sử, kết hợp với phương pháp so sánh nhằm
phân loại tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, rút ra
những đặc điểm nổi bật của nó;

+ Phương pháp viện dẫn và chứng minh nhằm chỉ ra một số yếu tố triết
học cơ bản trong tín ngưỡng dân gian của người Việt ở vùng đồng bằng Bắc
Bộ;
+ Phương pháp phân tích - tổng hợp kết hợp với phương pháp đối
chiếu, so sánh nhằm rút ra những giá trị và hạn chế của các yếu tố triết học
trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng Đồng bằng Bắc Bộ.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có những đóng góp khoa học như
sau:
- Một là, luận án hệ thống hóa những vấn đề lý luận về cơ sở hình
thành, đặc điểm, phân loại tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ.
- Hai là, luận án làm rõ một số yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân
gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ trên các khía cạnh quan niệm về
tự nhiên, về con người, về xã hội.
- Ba là, luận án làm rõ những giá trị và những hạn chế của yếu tố triết
học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
+ Về mặt lý luận:
Luận án góp phần làm rõ hơn nữa các yếu tố triết học trong tín ngưỡng
dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, làm rõ những giá trị và


6

những hạn chế của các yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
+ Về mặt thực tiễn:
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần vào việc gìn giữ và phát huy
những giá trị của các yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người

Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, khắc phục những mặt hạn chế của nó.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy những môn học có liên quan tới văn hóa truyền thống, tín ngưỡng, tôn
giáo.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 4 chương, 12 tiết.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
Chương 2: Một số vấn đề lý luận về tín ngưỡng dân gian của người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
Chương 3: Quan niệm về tự nhiên, về con người, về xã hội trong tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
Chương 4: Giá trị và hạn chế của các quan niệm về tự nhiên, về con
người, về xã hội trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng
Bắc Bộ


7

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến một số vấn đề lý luận
chung về tín ngƣỡng dân gian của ngƣời Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
1.1.1. Những công trình tiêu biểu bàn về khái niệm tín ngưỡng dân
gian
Cho đến nay, khái niệm tín ngưỡng dân gian vẫn còn đang được các
nhà nghiên cứu tranh luận. Mặc dù vậy, thuật ngữ này đã được dùng phổ biến
trong các công trình khoa học, các buổi hội thảo khoa học, các sinh hoạt văn
hóa tinh thần của người dân, cũng như trên các phương tiện thông tin đại

chúng. Dù nghiên cứu ở góc độ nào chăng nữa, thì đa số các tác giả vẫn thừa
nhận tín ngưỡng dân gian là một loại hình sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng có
nguồn gốc ra đời từ chính hoạt động lao động, sáng tạo của người nông dân,
ăn sâu bén rễ từ ngàn đời nay, và nó phản ánh khát vọng, ước vọng của con
người về một cuộc sống mới tốt đẹp. Bàn về vấn đề này, có thể đề cập đến
một số công trình sau:
Trong công trình, “Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam” [79],
Nguyễn Minh San không sử dụng thuật ngữ tín ngưỡng dân gian mà sử dụng
thuật ngữ tín ngưỡng dân dã. Nhưng, thực chất, hai thuật ngữ này là giống
nhau khi đều dùng để chỉ những loại hình tín ngưỡng như: Tín ngưỡng phồn
thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng sùng bái con người [79, tr.89]. Và như vậy, có thể hiểu, tín ngưỡng dân dã, chỉ là cách gọi khác của tín
ngưỡng dân gian, ra đời do chính hoạt động sáng tạo trong lao động của
người nông dân và phản ánh ước mơ của họ.
Trong cuốn “Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam” [16], khi
bàn về khái niệm tín ngưỡng dân gian Nguyễn Đăng Duy cho rằng “… ở Việt


8

Nam từ xa xưa cho tới nay không hề có cái gọi là tôn giáo mà chỉ có các hình
thái tín ngưỡng: tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thần và tín
ngưỡng thờ Mẫu” [16, tr.24] và không thể gọi các loại hình tín ngưỡng này là
“tín ngưỡng dân gian” được; bởi “…vì không hề có cái gọi là tín ngưỡng dân
gian, tín ngưỡng bác học, tín ngưỡng quý tộc mà chỉ có tín ngưỡng nói chung
của cộng đồng người” [16, tr.25].
Theo chúng tôi, khi đã nói tới cái gọi là “dân gian” nghĩa là nói tới tính
phổ biến trong quần chúng nhân dân, ra đời từ hoạt động thực tiễn của quần
chúng nhân dân, gắn liền với sinh hoạt vật chất của người dân, mang tính
dung dị, gần gũi mà sâu sắc. Điều này cũng giống như văn học dân gian vậy,
câu chữ dễ hiểu, cách hành văn mộc mạc, dân dã, gần gũi mà vẫn mang được

tính triết lý nhân sinh sâu đậm. Do đó, trong tín ngưỡng có cái gọi là tín
ngưỡng dân gian.
Cùng với quan điểm nêu trên, trong công trình “Tín ngưỡng dân gian ở
Việt Nam” [34] do Lê Như oa (chủ biên) thừa nhận có cái gọi là tín ngưỡng
dân gian. Theo tác giả công trình, tín ngưỡng dân gian có thể hiểu “là hình
thái tôn giáo sơ khai, chúng được hình thành trên cơ sở những tâm cách
nguyên thủy (primitive mentality) để nhận thức hiện thực và tác động đến
hiện thực bằng các kĩ xảo (các biện pháp ma thuật) của thuyết hồn linh” [34,
tr.23]. Có thể thấy rằng, khi đã nói đến tính dân gian thì không thể gọi tín
ngưỡng dân gian là tôn giáo sơ khai được. Vì khi nói tới tôn giáo là nói tới
những lễ nghi, giáo lý, giáo luật, giáo hội, kể cả tôn giáo sơ khai, nguyên thủy
thì chúng đều có tất cả các yếu tố cấu thành đó. Còn tín ngưỡng dân gian, chỉ
đơn giản là một loại hình tín ngưỡng ra đời và tồn tại cùng với hoạt động thực
tiễn của con người. Nó được nảy sinh dựa trên sự phản ánh của ý thức trong
quá trình lao động sản xuất, phản ánh sự ngưỡng mộ, ngưỡng vọng và cả sự
sợ hãi trước sức mạnh của những lực lượng siêu nhiên, vô hình. Nó ăn sâu,


9

bén rễ trong lòng người dân, nó có tính chất lây lan tự phát và không có tính
ràng buộc chặt chẽ như tôn giáo. Bên cạnh đó, trên cơ sở “thuyết hồn linh”
của Tylor, tác giả công trình đã chỉ ra “thuyết hồn linh cơ sở của hệ thống tín
ngưỡng dân gian của người Việt” [34, tr.24]. Căn cứ trên thực tiễn và căn cứ
vào cách lý giải của tác giả công trình cho thấy, ở nước ta, “bằng thuyết hồn
linh, chúng ta có thể “giải mã” được vô số các hiện tượng Folklor của các tộc
người khác nhau”. Luận điểm này cung cấp cho tác giả luận án có được cách
nhìn sâu sắc hơn để có thêm cơ sở lý giải nguồn gốc cho việc hình thành tín
ngưỡng dân gian của người Việt ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ.
Xem xét dưới góc độ văn hóa học, trong cuốn “Góp phần tìm hiểu tín

ngưỡng dân gian ở Việt Nam” [66] do Nguyễn Đức Lữ chủ biên, cho rằng, tín
ngưỡng dân gian “là một nhân tố cấu thành văn hóa” [66, tr.8] và “cần được
xem như là một yếu tố, một bộ phận của văn hóa dân gian” [66, tr.8]. Các tác
giả khẳng định, tín ngưỡng dân gian “cũng có thể xem là loại hình tín
ngưỡng, tôn giáo do chính nhân dân - trước hết là nhân dân lao động - sáng
tạo ra trên cơ sở những tri thức phản ánh sai lạc dưới dạng kinh nghiệm cảm
tính từ cuộc sống thường nhật của bản thân mình” [66, tr.8]. Các tác giả chỉ rõ
sự tương đồng giữa tôn giáo và tín ngưỡng dân gian, chẳng hạn, “nhiều tôn
giáo và tín ngưỡng dân gian cũng dùng lửa, hương… làm vật xúc tác cho mối
quan hệ giữa tin và đối tượng tin; cũng dùng trang phục phù hợp với đối
tượng tin; cũng có sự kiêng kị giới tính trước ngày lễ, cũng tự xác định cho
mình một tâm thế khác ngày thường, khi thực hiện hành vi cũng bộc lộ niềm
tin trước đối tượng tin…” [66, tr.10]. Thực tế cho thấy, mọi loại hình tín
ngưỡng dân gian chưa hẳn đã là tôn giáo. Vì khi đã nói đến tôn giáo tức nói
đến một tổ chức xã hội có giáo chủ, giáo lý, giáo luật hết sức chặt chẽ và có tổ
chức nghiêm ngặt. Còn tín ngưỡng dân gian, dù được người dân lao động hay
tầng lớp xã hội nào đó sáng tạo cũng chỉ là những sinh hoạt văn hóa tinh thần


10

của cộng đồng người có thể tin hoặc không, hoặc đã tin nhưng đã từ bỏ. Tín
ngưỡng dân gian phản ánh nhận thức về tự nhiên, con người và các mối quan
hệ của con người với tự nhiên, xã hội một cách lệch lạc, cảm tính, được lý
giải bằng những câu chuyện thần thoại, những điển tích, điển cố… mang tính
chất là những dạng nhận thức sơ khai của con người về thế giới. Còn cách mà
tác giả công trình dẫn ra, đó chỉ là những biểu hiện của niềm tin, mà niềm tin
của cả hai loại hình này giống nhau là đều có niềm tin mãnh liệt vào đối
tượng chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy sự hiện hữu của nó. Còn sự khác biệt
giữa tín ngưỡng dân gian và tôn giáo không phải ở niềm tin mà ở các khía

cạnh khác.
Ngoài những công trình nghiên cứu được trình bày ở trên được xuất
bản dưới dạng sách, thì cũng có một số công trình về khái niệm tín ngưỡng
dân gian dưới dạng các bài báo trên các tạp chí nghiên cứu chuyên ngành của
các tác giả như: Nguyễn Quốc Phẩm (1998) “Góp phần bàn về tín ngưỡng dân
gian và mê tín dị đoan”, Tạp chí văn hóa nghệ thuật, số 11; Nguyễn Đăng
Duy (2000), “Cần đính chính lại cách gọi tín ngưỡng dân gian”, Tạp chí
Nghiên cứu tôn giáo, số 1; Hồng Nhuệ (2003), “Tản mạn về tín ngưỡng dân
gian”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 2; Nguyễn Tri Nguyên (2004) “Bản
chất và đặc trưng của tín ngưỡng dân gian”, Tạp chí di sản và văn hóa, số 7;
Hồ Bá Thâm (2005), “Tín ngưỡng dân gian – một lĩnh vực trong đời sống tâm
linh”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 4; Đặng Nghiêm Vạn (2007), “Tôn giáo
hay tín ngưỡng”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 1; Đỗ Thị Minh Thúy
(2010), “Biến động của tín ngưỡng dân gian Thăng Long - Hà Nội và ảnh
hưởng của nó đến đời sống văn hóa hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo,
số 86(8); Nguyễn Thọ Khang (2013), “Đặc điểm và giá trị văn hóa của tín
ngưỡng dân gian ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 6… ầu hết,
trong các công trình này, khi bàn về khái niệm tín ngưỡng dân gian đều nhất


11

trí cho rằng, đó là một loại hình tín ngưỡng ra đời trên cơ sở hoạt động sản
xuất nông nghiệp là chủ yếu. Đồng thời, các tác giả cũng chỉ rõ, tín ngưỡng
dân gian là một lĩnh vực tinh thần không thể thiếu trong đời sống của người
dân. Nó ăn sâu, bén rễ trong tiềm thức của người dân và trở thành nét văn hóa
riêng của người Việt.
Qua khảo sát cho thấy, hầu hết các tác giả đều thừa nhận, ở Việt Nam có
cái gọi là tín ngưỡng dân gian. Nó được hình thành trên cơ sở niềm tin, là bộ
phận của tín ngưỡng, văn hóa. Nó không phải là một thứ tôn giáo sơ khai. Tuy

vậy, vẫn có những ý kiến cho rằng, tín ngưỡng dân gian là một tôn giáo sơ khai
của người Việt, dựa trên quan niệm niềm tin vào một sức mạnh thiêng liêng
nào đó. Như vậy, cho đến nay, thuật ngữ tín ngưỡng dân gian vẫn chưa ngã
ngũ, vẫn còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu. Do vậy, qua việc tổng quan các
công trình nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian, là cơ sở khoa học cho tác giả
luận án sử dụng để luận giải về khái niệm tín ngưỡng dân gian với tư cách là
khái niệm công cụ để giải quyết các vấn đề có liên quan tới mục đích, nhiệm vụ
của luận án.
1.1.2. Những công trình tiêu biểu bàn về các yếu tố ảnh hưởng đến
sự hình thành, tồn tại của tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ
Có thể kể đến các công trình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự ra
đời, tồn tại của tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
như sau:
Trước hết, đó là các công trình nghiên cứu chỉ ra ảnh hưởng của các
yếu tố thuộc về địa lý - tự nhiên, kinh tế - xã hội dẫn đến sự ra đời, tồn tại của
tín ngưỡng dân gian nói chung và tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc
Bộ nói riêng. Có thể kể đến các công trình sau đây:
Công trình “Tín ngưỡng dân gian Việt Nam” [34] của Lê Như

oa.

Trong công trình này, tác giả chỉ rõ nguồn gốc hình thành của tín ngưỡng qua


12

việc phân tích điều kiện địa lý, lịch sử và phương thức sản xuất đã tác động
mạnh mẽ và là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự ra đời của các hình thái tín
ngưỡng dân gian của người Việt. Chẳng hạn, về nguồn gốc nhận thức, tác giả
chỉ rõ: “Ở thời kì sơ khai, khi mà cuộc sống con người rất gần gũi với vạn vật

của tự nhiên, con người thường xuyên, trực tiếp phải đối mặt với thiên nhiên;
đời sống của họ lệ thuộc chủ yếu vào tự nhiên thì thiên nhiên là đối tượng
nhận thức chính của họ” [34, tr.31] và “… bởi chính môi trường tự nhiên đã
quy định môi trường nông nghiệp (chăn nuôi hay trồng trọt); và do đó, nó đã
định hướng ứng xử cho các cư dân sống trong môi trường ấy; làm nảy sinh
những tín ngưỡng đặc thù của từng môi trường” [34, tr.31]. Về nguồn gốc xã
hội, tác giả chỉ rõ: “… tính chất đặc thù của một bán đảo… nông nghiệp ra
đời… trồng lúa được đẩy lên vị trí đứng đầu của nền nông nghiệp trồng trọt
trên lãnh thổ Việt Nam… Đây chính là mầm mống dẫn tới những nhận thức
và những ứng xử, tức mầm mống của những tín ngưỡng…” [34, tr.31-32] và
“… tín ngưỡng của cư dân Việt Nam, với tư cách là sự nhận thức được tập
trung vào cây lúa và công việc trồng lúa” [34, tr.34]. Quan điểm đó của Lê
Như

oa đã chỉ ra điều kiện địa lý - tự nhiên có ảnh hưởng lớn đến sự hình

thành tín ngưỡng dân gian nói chung và tín ngưỡng dân gian của người Việt
nói riêng.
Tương tự quan điểm của Lê Như oa, trong công trình “Tín ngưỡng và
văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” [96], tuy không trực tiếp bàn về các yếu tố
ảnh hưởng đến sự tồn tại của tín ngưỡng dân gian nói chung, và tín ngưỡng
dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng, song Ngô Đức Thịnh cũng có
quan điểm thống nhất coi các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa và lịch
sử là xuất phát điểm cho sự ra đời và tồn tại của tín ngưỡng. Trong công trình
này, ông trình bày cụ thể từng loại tín ngưỡng và cơ sở hình thành của nó.
Công trình này giúp cho tác giả luận án có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn


13


về nguồn gốc ra đời, cũng như cơ sở hình thành nên tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Công trình “Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” [81] của Trần Đăng Sinh là một
trong số ít công trình chuyên nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian vùng đồng
bằng Bắc Bộ tiếp cận dưới góc độ triết học. Trong công trình này, khi bàn về
nguồn gốc, cơ sở hình thành, tồn tại của tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tác giả
coi nó là một trong các loại hình sinh hoạt tín ngưỡng dân gian phổ biến của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tác giả cho rằng, sự ra đời của nó là do
chính phương thức sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước quyết định. Cùng với
đó, yếu tố xã hội, kết cấu tổ chức làng - nước cũng có ảnh hưởng không nhỏ
đến sự ra đời của tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Trong công trình “Đại cương lịch sử Triết học Việt Nam” [31],
Nguyễn Hùng Hậu cũng chỉ rõ các yếu tố ảnh hưởng đến sự ra đời của tín
ngưỡng dân gian nói chung, tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ nói
riêng. Tác giả chỉ rõ, xét về mặt kinh tế “sở hữu chỉ tồn tại với tư cách là sở
hữu tập thể về ruộng đất... không có sở hữu tư nhân về ruộng đất và đó là tất
cả các hiện tượng của phương Đông, là chìa khóa để hiểu toàn bộ phương
Đông” [31, tr.43]. Đó chính là phương thức sản xuất Á châu mà tác giả nhắc
tới. Khi đi nghiên cứu phân tích phương thức sản xuất đó, tác giả kết luận, đó
chính là một trong những nguyên do cơ bản để hiểu, để giải thích về sự ra đời
của các hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có tín ngưỡng dân gian.
Công trình “Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ” [106] của Nguyễn Hữu Thụ cũng bàn về cơ sở hình
thành tín ngưỡng thờ Mẫu, và tác giả coi đó là một trong những sinh hoạt tín
ngưỡng nổi bật của vùng. Tác giả chỉ rõ, sự ảnh hưởng của các yếu tố địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa và lịch sử thúc đẩy sự ra đời và tồn tại của


14


tín ngưỡng thờ Mẫu,là một trong những loại hình tín ngưỡng dân gian của
vùng.
Tiếp theo, khi bàn về sự ảnh hưởng của sự giao lưu văn hóa, tư tưởng
đến sự ra đời, tồn tại của tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng
Bắc Bộ, hầu hết các công trình mà tác giả luận án lựa chọn để khảo sát đều
chung một quan điểm, khẳng định sự ảnh hưởng mạnh mẽ của ba tôn giáo lớn
đó là Phật Giáo, Nho giáo và Đạo giáo. Có thể kể đến một số công trình sau:
Công trình “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” [96], Ngô Đức
Thịnh chỉ ra rằng, các tín ngưỡng bản địa, nhất là tín ngưỡng thờ cúng Tổ
tiên, đều cởi mở “…tiếp thu ảnh hưởng của tôn giáo, tín ngưỡng, nhất là Đạo
Khổng” [96, tr.21], ngoài ra nó còn chịu ảnh hưởng của cả các tôn giáo khác
như Đạo giáo, Phật giáo [96, tr.33]. Bên cạnh đó, tác giả còn khẳng định ảnh
hưởng “… của đạo hiếu - một trong những tư tưởng cốt lõi nhất của Nho giáo
trong việc xây dựng hệ nguyên lý cho việc thờ cúng tổ tiên. Cùng quan điểm
nêu trên, trong công trình “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian Việt
Nam” [66], Nguyễn Đức Lữ chủ biên, khẳng định, khi có sự du nhập của các
tôn giáo ngoại lai như Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo đã có ảnh hưởng lớn đến
sự tồn tại của tín ngưỡng dân gian nhất là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên: “…khi
Nho giáo vào Việt Nam, với tư tưởng đề cao gia đình, dòng tộc, biến nước
thành nhà, xem chữ hiếu là nền tảng đạo lý… thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
được nâng lên một tầm cao mới” [66, tr.81]. Theo nghiên cứu của các tác giả
trong công trình này, thì tín ngưỡng, trong đó tín ngưỡng thờ anh hùng dân
tộc cũng chịu ảnh hưởng của các tôn giáo như Phật giáo, Lão giáo. Trong đó,
theo tác giả, “các hội đền mang dáng dấp nghi lễ của Nho giáo đồng thời cũng
có dấu hiệu của Phật giáo ở hội chùa” [66, tr.102]. Ảnh hưởng của các tôn
giáo đến sự ra đời, tồn tại của tín ngưỡng dân gian nói chung trong đó có tín
ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ được công trình “Các hình thái tín


15


ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam” [16] của Nguyễn Đăng Duy phân tích và khẳng
định rằng, sự giao lưu tiếp biến giữa các tôn giáo và tín ngưỡng dân gian là
khách quan trong quá trình tồn tại. Do có sự ảnh hưởng của các tôn giáo đã
nêu trên nên các nghi lễ, nội dung tín ngưỡng dân gian được đầy đủ hơn, được
nâng lên một tầm cao mới. Dưới góc độ triết học, nghiên cứu về ảnh hưởng
của tôn giáo đến sự tồn tại của tín ngưỡng dân gian phải kể đến công trình
“Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ” [81] của Trần Đăng Sinh. Tác giả khẳng định rằng,
“các tín ngưỡng, tôn giáo ngoại nhập, trong đó đặc biệt là tam giáo có vai trò
to lớn trong sự hình thành và tồn tại của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” [81, tr.96].
Ngoài những công trình vừa nêu trên, còn có thể kể đến các công trình
khác như: Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát
triển của xã hội Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Đăng
Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Văn hoá
thông tin, Hà Nội; Trần Ngọc Thêm (2011), Cơ sở Văn hóa Việt Nam,
Nxb.Giáo dục, Hà Nội; Nguyễn Văn Minh (2013), Tôn giáo, tín ngưỡng các
dân tộc Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; Nguyễn Hữu Thụ (2013),
Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng bằng
Bắc Bộ, Luận án Tiến sĩ Triết học, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn,
Đ QG

à Nội; Nguyễn Hữu Thụ (2012), “Về cơ sở hình thành và phát triển

của tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ”, Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo, số 1, tr.20-32, v.v… và nhiều công trình khác có đề
cập, nghiên cứu đến cơ sở hình thành, tồn tại của tín ngưỡng dân gian nói
chung trong đó có tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc
Bộ. Hầu hết trong số các công trình được khảo sát ít có các công trình nghiên

cứu khái quát về sự ảnh hưởng của tôn giáo đến sự ra đời, tồn tại của tín


16

ngưỡng dân gian trong đó có tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Tuy nghiên, từ việc nghiên cứu các quan điểm về sự ảnh hưởng của các tôn
giáo đến các loại hình tín ngưỡng cụ thể là cơ sở cho tác giả luận án có cơ sở
dữ liệu khoa học phụ vụ cho quá trình nghiên cứu vấn đề đặt ra trong luận án.
Tóm lại, tính đến thời điểm hiện tại, qua sự khảo sát của tác giả luận án,
chưa có bất cứ công trình khoa học độc lập nào chuyên nghiên cứu về tín
ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nhìn chung, những nghiên cứu về
tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ được đan xen
trong các nghiên cứu về tín ngưỡng, văn hóa tín ngưỡng, tín ngưỡng dân gian
cả nước nói chung. Do vậy, khi tổng quan các công trình nghiên cứu đề cập tới
các yếu tố ảnh hưởng đến sự ra đời của tín ngưỡng dân gian của người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ, tác giả luận án lấy dữ liệu dựa trên kết quả của các
công trình nghiên cứu chung về tín ngưỡng dân gian, từ đó bóc tách các nghiên
cứu về tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ về cơ sở hình thành.
1.1.3. Những công trình tiêu biểu bàn về một số loại hình tín ngưỡng
dân gian chủ yếu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
Qua khảo sát về các công trình nghiên cứu có đề cập đến tín ngưỡng
dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ cho thấy, hầu hết các công
trình chủ yếu đề cập tới ba loại hình tín ngưỡng dân gian nổi bật của vùng là
tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng thờ Thành
hoàng. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, những công trình nghiên cứu về tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên
của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
Xoay quanh vấn đề về tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên nói chung, trong đó
có tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, có

nhiều công trình đề cập tới. Cụ thể như sau:


17

Khi bàn về nguồn gốc hình thành của tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, cho
đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi. Có ý kiến cho rằng, thờ cúng Tổ tiên của
người Việt bắt nguồn từ sự thờ cúng Tổ tiên của người án. Đó là quan điểm
của

à Văn Tăng, Trương Thìn. Trong công trình, “Tín ngưỡng và mê tín”

[82], các tác giả chỉ rõ, “Thờ cúng tổ tiên có thể lúc đầu cử hành trong người
Hán, rồi lan sang người Việt. Và đến một thời điểm nào đó thì trở thành
phong tục phổ biến của người Việt” [82, tr.150]. Đó cũng là quan điểm của
Nguyễn Đức Lữ. Song, phủ nhận quan điểm đó, trong công trình, “Văn hóa
tâm linh” [14], Nguyễn Đăng Duy cho rằng, “việc thờ cúng tổ tiên của người
Việt đã có cái gốc, cái nền nội sinh chứ không phải do từ Trung Quốc xâm
nhập vào như nhiều sách báo từ trước tới nay đã khẳng định” [14, tr.181].
Các quan điểm trên tuy trái ngược nhau, song hầu hết, các tác giả đều
nhất trí cho rằng, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt được hình thành
trên cơ sở quan niệm tâm linh của con người về thế giới. Nói như Ngô Đức
Thịnh, nó bắt nguồn từ tín ngưỡng Tô tem, được thể chế hóa, hợp pháp hóa
nhờ hệ tư tưởng Nho giáo [96, tr.48]. Đó cũng là quan điểm của Nguyễn Đức
Lữ trong công trình “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam”
[66], ông cho rằng, “tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là sản phẩm của sự kết hợp
giữa ba yếu tố cơ bản: ý niềm về linh hồn bất tử của người chết, tổ tiên Tô
tem và tổ tiên thật che chở cho gia đình thị tộc phụ quyền” [66, tr.74].
Khi bàn về bản chất của tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, trong công trình
“Nếp cũ - Tín ngưỡng Việt Nam” [4], Toan Ánh viết, “thờ phụng tổ tiên

không phải là một thứ tôn giáo… mà là lòng thành kính và biết ơn của con
cháu đối với người đã khuất” [4, tr.23-24]. Đó cũng là quan điểm của Ngô
Đức Thịnh trong công trình “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam”,
ông cho rằng, “thờ cúng Tổ tiên là một tín ngưỡng dân gian của dân tộc có
nguồn gốc từ xa xưa và mang đạo lý nhân ái uống nước nhớ nguồn” [96,


18

tr.67]. Còn trong công trình “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt
Nam”, Nguyễn Đức Lữ chủ biên, cho rằng, về bản chất, tín ngưỡng thờ cúng
Tổ tiên là một hiện tượng xã hội có tính phổ biến [66, tr.68]. Trong công trình
“Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ” [81], qua việc phân tích nguồn gốc, Trần Đăng Sinh
rút ra bản chất của tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên là “một bộ phận của ý thức xã
hội, là một loại hình tín ngưỡng dân gian được hình thành từ thời nguyên thủy
với niềm tin thiêng liêng rằng, tổ tiên đã chết sẽ che chở, phù giúp con cháu”
[81, tr.57]. Như vậy, hầu hết các tác giả đều nhất trí cho rằng, bản chất của tín
ngưỡng thờ cúng Tổ tiên là một hiện tượng xã hội, có tính phổ biến, dựa trên
cơ sở niềm tin tâm linh của con người, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn.
Khi bàn về các hình thức thờ cúng Tổ tiên ở nước ta, trong đó có tín
ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt, hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra
rằng: có hai hình thức cơ bản về thờ cúng Tổ tiên của người Việt là thờ cúng
trong phạm vi gia đình và thờ cúng phạm vi đất nước. Đó là quan điểm của
Ngô Đức Thịnh, Trần Đăng Sinh. Trong công trình, “Tín ngưỡng và văn hóa
tín ngưỡng ở Việt Nam”, Ngô Đức Thịnh cũng cho rằng, tín ngưỡng thờ cúng
Tổ tiên của nười Việt có hai hình thức là thờ cúng Tổ tiên trong gia đình và
dòng tộc và thờ cúng Tổ tiên ở phạm vi quốc gia (Lễ giỗ Tổ

ùng Vương)


[96, tr.68-79]. Trong công trình, “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở
Việt Nam”, do Nguyễn Đức Lữ chủ biên cũng nhận định, thờ cúng Tổ tiên
được thể hiện dưới ba hình thức: gia đình, làng xã và đất nước [66, tr.91].
Ngoài ra, còn nhiều bài viết được công bố trên các tạp chí như: Nguyễn
Đức Lữ (2000), “Thờ cúng Tổ tiên - một hiện tương xã hội có tính phổ biến”,
Tạp chí Sinh hoạt Lý luận số xuân Canh Thìn (1/2000); Trần Đức Dương
(2010), “Phát huy những giá trị tích cực trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên


19

hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo;… cũng đề cập đến vấn đề tín
ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, nhưng dưới các góc độ tiếp cận khác nhau.
Như vậy, trên cơ sở khảo sát các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng
thờ cúng Tổ tiên của người Việt nói chung, trong đó có người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ, là cơ sở khoa học cho tác giả luận án tìm hiểu về nguồn gốc, quá
trình hình thành, bản chất, và các hình thức thờ tự của tín ngưỡng thờ cúng Tổ
tiên ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Khi bàn về nguồn gốc hình thành, hầu hết các
tác giả đều cho rằng, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên bắt nguồn từ quan niệm vạn
vật đều có linh hồn, từ hình thức sơ khai của tín ngưỡng Tô tem, cho đến khi
nó được hợp thức hóa nhờ vào sự ủng hộ của Nho giáo. Hình thức cũng như
nội dung sinh hoạt tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt có sự khác biệt
so với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Trung Quốc. Và do vậy, tác giả
luận án cũng đồng quan điểm với các tác giả Nguyễn Đăng Duy, Ngô Đức
Thịnh, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt là tín ngưỡng nội sinh, bắt
nguồn từ cội rễ văn hóa truyền thống của dân tộc, có sự giao thoa ảnh hưởng
trong quá trình tồn tại của nó. Điểm đáng chú ý, qua việc khảo sát các công
trình nghiên cứu cho thấy, các tác giả đều thừa nhận tín ngưỡng thờ cúng Tổ
tiên là một loại hình tín ngưỡng dân gian phổ biến của người Việt, trong đó có

vùng đồng bằng Bắc Bộ. Do đó, kết quả nghiên cứu về tín ngưỡng thờ cúng Tổ
tiên của các nhà khoa học đi trước là cơ sở khoa học để tác giả luận án tiếp tục
nghiên cứu, khái quát về tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt vùng
đồng bằng Bắc Bộ, làm cơ sở cho việc nghiên cứu các yếu tố triết học cơ bản
ẩn chứa trong loại hình tín ngưỡng nổi bật này.
Thứ hai, những công trình nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
Cho tới nay, có nhiều tư liệu nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu nói
chung, nhưng có ít công trình nghiên cứu độc lập về tín ngưỡng thờ Mẫu của


20

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Vì vậy, khi khảo sát về vấn đề này, tác
giả luận án dựa trên việc tổng quan các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng
thờ Mẫu của Việt Nam, trong đó, có đề cập tới tín ngưỡng thờ Mẫu của vùng.
Khi bàn về cơ sở của việc hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu của Việt
Nam nói chung, trong đó có thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ,
trong công trình “Nếp cũ - Tín ngưỡng Việt Nam”, Toan Ánh chỉ ra rằng, việc
thờ Mẫu nảy sinh và phát triển trên cơ sở thờ Nữ thần [4, tr.110]. Đó cũng là
quan điểm của Ngô Đức Thịnh. Trong công trình “Đạo Mẫu ở Việt Nam”,
ông chỉ rõ, tục thờ Mẫu và Tam tòa Thánh Mẫu có liên quan mật thiết với tục
thờ Nữ thần [95, tr.14]. Tiếp tục bàn về quan điểm này, trong công trình “Tín
ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam”, Ngô Đức Thịnh kết luận rằng,
“các Mẫu - Thánh Mẫu vừa có nguồn gốc thiên thần, vừa có nguồn gốc nhân
thần, là hình thức tín ngưỡng “nâng cao”, “lên khuôn” từ cái nền thờ Nữ thần
và rất phổ biến và cổ xưa của dân tộc ta” [96, tr.172]. Trong công trình “Văn
hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt Nam” [48], Đinh Gia
Khánh cho rằng, “nguyên nhân khởi phát tín ngưỡng thờ Mẫu là từ chế độ
mẫu hệ. Trong thời kỳ nguyên thủy khi mà người phụ nữ đóng vai trò là chủ

gia đình, là người có quyền quyết định mọi vấn đề to lớn trong gia đình, bộ
tộc thì họ cũng góp phần quyết định vào sự tồn tại của xã hội” [48, tr.12].
Trong công trình “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng thờ dân gian ở Việt Nam”
[66] do Nguyễn Đức Lữ chủ biên nhận định rằng, “tín ngưỡng thờ Mẫu là một
hình thức tín ngưỡng dân gian để tôn vinh người phụ nữ làm Thánh Mẫu,
Vương Mẫu,…” [66, tr.140]. Trong bài viết “Tín ngưỡng thờ Mẫu của người
Việt”, Nguyễn Thị Thọ nhận định rằng, “tín ngưỡng thờ Mẫu là sản phẩm của
xã hội nông nghiệp, ở đó còn những tàn dư của xã hội mẫu hệ, và vai trò của
người phụ nữ được đề cao” [103, tr.49]. Đó cũng là quan điểm của Trần Ngọc
Thêm, Nguyễn Hữu Thụ… khi nghiên cứu về nguồn gốc của tín ngưỡng thờ


×