Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Khóa luận tốt nghiệp Phương pháp dạy học các tác phẩm văn học nước ngoài trong chương trình Ngữ văn 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1003.75 KB, 103 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI
------

NGUYỄN THỊ KHÁNH HÕA

PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC CÁC TÁC PHẨM
VĂN HỌC NƢỚC NGOÀI TRONG CHƢƠNG
TRÌNH NGỮ VĂN 12

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH: SƢ PHẠM NGỮ VĂN
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: 2015 – 2019

Quảng Bình, năm 2019
1


Lời Cảm Ơn
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến giảng viên Th.S Nguyễn
Thị Quế Thanh đã tận tình hƣớng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu nhà trƣờng, các thầy cô
giáo khoa Khoa học – Xã hội trƣờng Đại học Quảng Bình đã giảng
dạy tôi trong 4 năm học vừa qua, đồng thời tạo những điều kiện thuận
lợi nhất giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
Xin đƣợc gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, ngƣời thân và
bạn bè đã luôn sát cánh, ủng hộ, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian học tập và thực hiện khóa luận tốt nghiệp.


Đồng Hới, tháng 5 năm 2019
Tác giả

Nguyễn Thị Khánh Hòa

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài khóa luận tốt nghiệp “Phương pháp dạy học các
tác phẩm văn học nước ngoài trong chương trình Ngữ văn 12” là kết quả nghiên
cứu của tôi, dƣới sự hƣớng dẫn của Th.S Nguyễn Thị Quế Thanh. Nội dung của
đề tài nghiên cứu có tham khảo và sử dụng tài liệu, tôi đã trích đầy đủ trong mục
tài liệu tham khảo của khóa luận. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội
dung khoa học của công trình nghiên cứu này.
Tác giả

Nguyễn Thị Khánh Hòa

ii


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ i
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................ ii
MỤC LỤC ........................................................................................................... iii
A. MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 4

4. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................... 4
5. Đóng góp của đề tài ........................................................................................... 5
6. Kết cấu của đề tài .............................................................................................. 5
B. NỘI DUNG ...................................................................................................... 6
CHƢƠNG 1. VĂN HỌC NƢỚC NGOÀI TRONG CHƢƠNG TRÌNH NGỮ
VĂN 12 ................................................................................................................. 6
1.1. Vai trò, vị trí của văn học nƣớc ngoài trong chƣơng trình Ngữ văn THPT ... 6
1.2. Văn học nƣớc ngoài trong chƣơng trình Ngữ văn 12 .................................... 9
1.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lƣợng dạy học tác phẩm văn học nƣớc
ngoài trong chƣơng trình Ngữ văn 12 ................................................................. 22
CHƢƠNG 2. PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC
NƢỚC NGOÀI TRONG CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12 ........................ 29
2.1. Phƣơng pháp đọc sáng tạo............................................................................ 31
2.2. Phƣơng pháp so sánh .................................................................................... 37
2.3. Phƣơng pháp dạy học nêu vấn đề................................................................. 39
2.4. Phƣơng pháp gợi mở .................................................................................... 44
2.5. Phƣơng pháp giảng bình............................................................................... 46
CHƢƠNG 3. ỨNG DỤNG CÁC PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC VĂN VÀO
GIẢNG DẠY CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC NƢỚC NGOÀI TRONG
CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12 ................................................................... 52
iii


3.1. Thuốc của Lỗ Tấn ........................................................................................ 52
3.2. Số phận con ngƣời của Sô-lô-khốp .............................................................. 67
3.3. Ông già và biển cả của Hê-minh-uê ............................................................. 80
C. KẾT LUẬN ................................................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 94

iv



A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong xu thế hội nhập của đất nƣớc hiện nay, cùng với những đòi hỏi từ
thực tiễn giảng dạy, cho thấy vấn đề đổi mới phƣơng pháp dạy học ở nƣớc ta vô
cùng cấp thiết. Đứng trên quan điểm chỉ đạo đúng đắn của Đảng, điều 4 luật
giáo dục năm 1998 đã nêu rõ phƣơng pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động, tƣ duy sáng tạo ngƣời học; bồi dƣỡng lòng say mê học tập và
ý chí vƣơn lên.
Nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, việc dạy học văn trong nhà trƣờng
theo phƣơng pháp mới đem lại hiệu quả thiết thực ở nƣớc ta trong những năm
gần đây. Đổi mới phƣơng pháp dạy học là một vấn đề mang tính thời sự, một
trong những khâu đột phá để tạo nên sức mạnh cho giáo dục, nâng cao chất
lƣợng của đào tạo. Phan Trọng Luận đã từng nói: “Một phương pháp dạy học,
một phương thức giáo dục trì trệ, cổ hủ, giáo điều sẽ là những trở lực cho bước
đi của nhân loại và của mỗi dân tộc trong cuộc chạy đua về sức mạnh siêu quốc
gia” [7].
Mikhancốp viện sĩ Liên Xô trƣớc đây, ngƣời đạt hai lần danh hiệu anh
hùng đã nhắc nhở nhà trƣờng rằng: “Điều quan trọng không phải là dạy cái gì
mà là dạy nhƣ thế nào”. Văn học và cuộc sống con ngƣời luôn có mối quan hệ
hữu cơ gắn kết với nhau. “Học văn là học nhân, văn học là nhân học”. Thông
qua những “đứa con tinh thần” của nhà văn, nhà thơ, ta học đƣợc cách làm
ngƣời, học cách sẻ chia, đau xót trƣớc những nỗi thống khổ của đồng loại.
Văn học nƣớc ngoài đƣợc chọn giảng ở trƣờng THPT chiếm một lƣợng
không nhiều nhƣng mang giá trị nhân văn sâu sắc. Có nhiều tác phẩm nổi tiếng
tiêu biểu cho các nền văn hóa qua các thời kỳ văn học khác nhau. Ta bắt gặp
những tác giả với các tác phẩm thơ ca đỉnh cao, mang màu sắc của dân tộc và
âm hƣởng của cả thời đại. Nếu Lỗ Tấn là nhà văn cách mạng vĩ đại của Trung
Quốc thì Puskin đƣợc xem là “mặt trời của thi ca Nga”. Và rất nhiều nhà thơ,

nhà văn khác nhƣ: Sêch-xpia, Lí Bạch, Đỗ Phủ, Thôi Hiệu, Vanmiki, Sô-lôkhốp, Hê-minh-uê… Đó là những tên tuổi đã vƣợt qua sự thử thách khắc nghiệt
1


của thời gian, đƣợc bạn đọc nhiều thế hệ gọi tên.
Đặc biệt trong chƣơng trình Ngữ văn 12 (ban cơ bản và nâng cao), số lƣợng
tác phẩm văn học nƣớc ngoài khá nhiều, đan xen với văn học Việt Nam, giúp
học sinh có cái nhìn toàn diện hơn về văn học nƣớc nhà, có cơ hội so sánh đối
chiếu với nền văn học thế giới, thấy đƣợc sự ảnh hƣởng sâu rộng của văn học
nƣớc ngoài đến văn học nƣớc nhà và thấy đƣợc vị trí của văn học dân tộc trong
kho tàng văn chƣơng vô giá của nhân loại; giúp học sinh thanh lọc tâm hồn và
bồi đắp những giá trị nhân cách cao đẹp. Từ đó, thấy đƣợc tầm quan trọng của
văn học nƣớc ngoài trong chƣơng trình Ngữ văn 12 và chƣơng trình THPT.
Để cho nhà trƣờng vƣơn tới hiện đại hóa phƣơng pháp, chúng ta phải đồng
thời đi vào cả hai phƣơng diện lí luận và hành động. Giáo dục muốn phát triển,
những nhà giáo dục cần phải năng động, sáng tạo và không ngừng đổi mới. Vì
vậy, chúng tôi đã nghiên cứu đề tài “Phương pháp dạy học các tác phẩm văn
học nước ngoài trong chương trình Ngữ văn 12” nhằm tìm ra những phƣơng
pháp giảng dạy tích cực, góp phần đổi mới vào nghiên cứu chƣơng trình dạy
học. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để chúng tôi làm quen với nghiên cứu khoa
học. Hi vọng công trình nghiên cứu thành công sẽ góp phần vào quá trình giảng
dạy tác phẩm văn học nƣớc ngoài nói riêng và giảng dạy bộ môn Ngữ văn nói
chung, giúp cho nền giáo dục nƣớc nhà ngày càng phát triển vững mạnh và
thành công hơn nữa.
2. Lịch sử vấn đề
Văn học nƣớc ngoài tồn tại và phát triển nhƣ một dòng chảy. Hiểu tác
phẩm nghệ thuật là hiểu cái sáng tạo luôn luôn có tính kế thừa. Nhà văn luôn
luôn tiếp nhận và tỏ rõ thái độ của mình với các khuynh hƣớng văn học, phong
cách văn học đã hình thành trƣớc đó.
Dạy – học văn học nƣớc ngoài trong nhà trƣờng đã đƣợc nhiều giáo viên,

nhiều nhà văn, nhà giáo dục quan tâm, bàn bạc. Số lƣợng đề tài nghiên cứu khá
phong phú và đa dạng nhƣng cho đến nay vẫn là một vấn đề mang tính thời sự
của giáo dục. Công cuộc đổi mới phƣơng pháp dạy học văn ở nhà trƣờng phổ
thông là một quá trình đổi mới lâu dài với những biện pháp vững chắc và hữu
2


hiệu, trong đó có việc nâng cao chất lƣợng dạy học văn học nƣớc ngoài. Đã có
nhiều công trình nghiên cứu về văn học nƣớc ngoài và những giải pháp nâng cao
chất lƣợng giảng dạy văn học nƣớc ngoài.
Giáo trình “Phương pháp dạy học văn (1)” của Phan Trọng Luận có đề cập
đến phƣơng pháp dạy học văn tích cực, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới
phƣơng pháp dạy học.
Giáo trình “Phương pháp dạy học văn (2)” của Phan Trọng Luận (chủ
biên) – Trƣơng Dĩnh đề cập đến lí thuyết tiếp nhận văn chƣơng. Giáo sƣ đã nói
đến việc đổi mới phƣơng pháp giảng dạy học văn với tƣ cách là phƣơng pháp
luận cần dựa trên cơ sở của lí thuyết tiếp nhận.
Giáo trình nghiên cứu về “Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương
(theo thể loại)” của Nguyễn Viết Chữ cung cấp cho ngƣời đọc những tài liệu về
phƣơng pháp dạy học văn theo đặc trƣng của từng thể loại để đạt đƣợc kết quả
cao trong giảng dạy.
Công trình nghiên cứu “Văn học nước ngoài” của Hội nhà văn Việt Nam,
đã chỉ ra một số nguyên tắc và thực trạng hoạt động dạy học văn học nƣớc ngoài
trong nhà trƣờng hiện nay.
Giáo trình “Lí luận văn học nước ngoài hiện nay và phương hướng biên
soạn giáo trình lí luận văn học Việt Nam trong tương lai” của Trần Đình Sử hay
“Cảm thụ và giảng dạy văn học nước ngoài” của giáo sƣ Phùng Văn Tửu đều
cung cấp những kiến thức giúp giáo viên nắm vững khi giảng dạy văn học nƣớc
ngoài.
Khóa luận tốt nghiệp đại học của sinh viên Nguyễn Thái Phong với đề tài

“Phương pháp dạy học tác phẩm văn học nước ngoài ở trường phổ thông dưới
lí thuyết tiếp nhận”, đã chỉ ra những yêu cầu cần thực hiện khi giảng dạy một
tác phẩm văn học nƣớc ngoài ở cả ba khâu: tiền tiếp nhận, tiếp nhận và hậu tiếp
nhận.
Lê Huyền Ái Mỹ với khóa luận tốt nghiệp “Dạy học tác phẩm văn học
nước ngoài từ góc độ lí thuyết tiếp nhận” của mình đã chỉ ra những phƣơng
pháp giảng dạy văn học nƣớc ngoài từ góc độ lí thuyết tiếp nhận.
3


Ngoài ra còn có nhiều công trình của các chuyên gia đầu ngành khác nhƣ:
Nguyễn Thanh Hùng, Nguyễn Đăng Mạnh, Đỗ Kim Hồi… Các công trình
nghiên cứu đã đƣa đến cho đọc giả cái nhìn khái quát về văn học nƣớc ngoài
trong chƣơng trình THPT, phƣơng pháp nâng cao hiệu quả dạy học văn. Tuy
nhiên, chƣa đi sâu vào ứng dụng giảng dạy tác phẩm văn chƣơng cụ thể.
Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài “Phương pháp giảng dạy các tác phẩm
văn học nước ngoài trong chương trình Ngữ văn 12” hi vọng đến một cái nhìn
khái quát, hệ thống hơn về văn học nƣớc ngoài trong nhà trƣờng phổ thông,
đồng thời, ứng dụng một số phƣơng pháp dạy học tích cực nhằm nâng cao hiệu
quả dạy học tác phẩm văn học nƣớc ngoài.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Phƣơng pháp dạy học các tác phẩm văn học nƣớc ngoài trong chƣơng trình
Ngữ văn 12.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của khóa luận tốt nghiệp, đề tài “Phương pháp dạy học
các tác phẩm văn học nước ngoài trong chương trình Ngữ văn 12” tập trung vào
các phƣơng diện sau:
- Vai trò, vị trí của văn học nƣớc ngoài trong chƣơng trình Ngữ văn 12.
- Nghiên cứu về phƣơng pháp giảng dạy các tác phẩm văn học nƣớc ngoài.

- Ứng dụng phƣơng pháp dạy học tích cực vào giảng dạy 3 tác phẩm cụ thể

trong chƣơng trình Ngữ văn 12: Thuốc, Số phận con người, Ông già và biển cả.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài khoa học của mình, chúng tôi đã sử dụng
kết hợp các phƣơng pháp nghiên cứu sau đây:
- Phƣơng pháp khảo sát
- Phƣơng pháp thống kê
- Phƣơng pháp phân tích – tổng hợp
- Phƣơng pháp đối chiếu so sánh
- Phƣơng pháp xã hội học
4


5. Đóng góp của đề tài
Từ kết quả của nghiên cứu “Phương pháp dạy học các tác phẩm văn học
nước ngoài trong chương trình Ngữ văn 12”, đề tài có thể xem là công trình
khảo sát tƣơng đối có tính hệ thống về các tác phẩm thuộc bộ phận văn học nƣớc
ngoài trong chƣơng trình Ngữ văn 12;
Đƣa đến một cái nhìn tổng thể về thực trạng dạy học văn học nƣớc ngoài
trong chƣơng trình THPT hiện nay;
Chỉ ra các giải pháp khắc phục những khó khăn trong việc dạy và học để
không ngừng nâng cao chất lƣợng dạy học văn học nƣớc ngoài nói riêng và hoạt
động dạy học nói chung.
Đề tài có tính ứng dụng, góp phần vào việc xây dựng hệ thống phƣơng
pháp dạy học văn có hiệu quả, áp dụng vào việc giảng dạy trong thực tiễn. Đồng
thời, công trình nghiên cứu còn là tài liệu tham khảo cho các giáo viên và học
sinh THPT trong việc học tập và giảng dạy bộ phận văn học nƣớc ngoài.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Phần nội dung của

khóa luận gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1. Văn học nƣớc ngoài trong chƣơng trình Ngữ văn 12
Chƣơng 2. Phƣơng pháp dạy học các tác phẩm văn học nƣớc ngoài trong
chƣơng trình Ngữ văn 12
Chƣơng 3. Ứng dụng phƣơng pháp dạy học văn vào giảng dạy các tác
phẩm văn học nƣớc ngoài trong chƣơng trình Ngữ văn 12.

5


B. NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. VĂN HỌC NƢỚC NGOÀI TRONG CHƢƠNG TRÌNH
NGỮ VĂN 12
1.1. Vai trò, vị trí của văn học nƣớc ngoài trong chƣơng trình Ngữ văn
THPT
Văn học nƣớc ngoài trong chƣơng trình Ngữ văn phổ thông đã bao quát
hầu hết văn học của các châu lục trên thế giới: Châu Á(với các đại diện nhƣ
Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản), Châu Âu(với các đại diện nhƣ Anh, Pháp, Đức,
Nga, Hy lạp, Áo), Châu Mỹ (với đại diện là Mỹ), Châu Phi (với đại diện là Nam
Phi). Trong cấu trúc của chƣơng trình có nhiều tác phẩm của các tác giả nổi
tiếng tiêu biểu cho các nền văn học qua các thời kỳ văn học khác nhau. Điều đó
đã tạo điều kiện cho học sinh có thể mở rộng và nâng cao vốn văn hóa hiểu biết
của mình.
Giáo sƣ Phùng Văn Tửu trong bài viết “Chỗ đứng của văn học nước ngoài
trong nhà trường phổ thông” đã nêu lên nhận định vị trí của văn học nƣớc ngoài
trong chƣơng trình văn học nhà trƣờng là rất quan trọng. Môn văn ngày càng
khẳng định đƣợc nhiều ƣu thế. Lời giới thiệu sách giáo khoa văn học lớp 10 tập
hai năm 2001 viết: “Văn học là lịch sử tâm hồn mỗi dân tộc, vì thế nó là nhịp
cầu hữu nghị giúp giao lƣu văn hoá của các dân tộc vốn đã diễn ra từ nghìn xƣa.
Dù vô cùng đa dạng, song văn học của các dân tộc đều có nét chung là hƣớng tới

“ chân, thiện , mĩ ”, giúp con ngƣời sống tốt hơn, nhân ái hơn” [ 26;5]. Bởi thế,
những hiểu biết về di sản văn hoá tinh thần quý giá đó không thể thiếu trong
hành trang tri thức của con ngƣời hiện đại.
Các tác phẩm đƣợc đƣa vào giảng dạy đều là những tác phẩm nổi tiếng, kết
tinh tƣ tƣởng và phong cách nghệ thuật của tác giả. Với những bộ tiểu thuyết lớn
học sinh sẽ đƣợc học các trích đoạn tiêu biểu, còn phần lớn là đƣợc tiếp nhận
trọn vẹn tác phẩm. Tác phẩm đƣợc lựa chọn giảng dạy nhiều cũng thể hiện một
điều, đó là sự đa dạng phong phú về thể loại nhƣ: sử thi, thơ, kịch, tiểu thuyết,
chân dung văn học, văn nghị luận...Đây cũng là cơ sở quan trọng để học sinh đối
chiếu với các tác phẩm văn học trong nƣớc có cùng thể loại. Cũng là cơ sở để
6


cung cấp thêm kiến thức khi tiếp cận các tác phẩm theo đặc trƣng thi pháp thể
loại.
Nội dung của chƣơng trình đƣợc sắp xếp theo tiến trình văn học của các
dân tộc đó trong tiến trình văn học thế giới (trong đó có Việt Nam), đặc biệt
đƣợc sắp xếp đan xen với văn học Việt Nam. Cách sắp xếp nhƣ vậy sẽ giúp học
sinh có cái nhìn so sánh mang tính chất tổng thể với văn học nƣớc nhà.
Không chỉ đối sánh với văn học Việt Nam về tiến trình, thể loại mà khi tiếp
cận chúng ta vẫn tìm đƣợc tiếng nói chung giữa các nền văn học về những vấn
đề lớn lao nhƣ chiến tranh, hòa bình, quyền sống của con ngƣời...Và rõ ràng đó
chính là những chất keo kết dính làm nên mối quan hệ mật thiết giữa nền văn
học các dân tộc. Và tất nhiên, khi đặt trong sự đối sánh đó, chúng ta vẫn nhận
thấy sự khác biệt lớn về các trào lƣu văn học. Chẳng hạn, chủ nghĩa nhân văn,
vấn đề con người cá nhân đã xuất hiện ở phƣơng Tây từ thời Phục hƣng nhƣng
vấn đề này chỉ thực sự xuất hiện ở Việt Nam vào nửa cuối thế kỉ XVIII, nửa đầu
thế kỉ XIX.
Với mục tiêu đem đến cho học sinh một cái nhìn tổng thể về tinh hoa của
văn học thế giới cũng nhƣ xây dựng con ngƣời Việt Nam hiện đại, Văn học Việt

Nam trong sách giáo khoa (SGK) phổ thông đã có một vị trí tƣơng đối thích hợp
trong toàn bộ khung chƣơng trình. Văn học nƣớc ngoài chiếm 15,2% khung
phân phối chƣơng trình của môn Ngữ văn khối 12.
Xét một cách tổng thể thì văn học là tiếng nói của dân tộc, nên khi ta tiếp
cận với một tác phẩm cũng có nghĩa là ta đang tiếp cận với một nền văn hóa. Vì
vậy, khi tiếp nhận văn học nƣớc ngoài theo tinh thần đối thoại thì mỗi một học
sinh sẽ đƣợc nâng cao tầm nhận thức, hiểu biết cơ bản về các giá trị tinh thần
đặc sắc của nhân loại để từ đó tạo cho mình một điểm tựa vững chắc khi giao
lƣu học hỏi. Trên cơ sở hiểu đƣợc ngôn ngữ, tƣ tƣởng và tâm hồn của các dân
tộc khác nhau trên thế giới thì cơ hội để chúng ta xích lại gần nhau trong xu thế
hội nhập là dễ dàng hơn rất nhiều.
Nhìn chung, nội dung, cấu trúc và thời lƣợng chƣơng trình Văn học nƣớc
ngoài ở SGK phổ thông đã có sự đổi mới, tƣơng đối phù hợp tầm tiếp nhận của
7


học sinh qua từng lớp học. Từ nội dung chƣơng trình nhƣ thế có thể thấy rằng
văn học nƣớc ngoài đã khẳng định đƣợc vai trò của mình. Đó thực sự là sự nỗ
lực không ngừng của những nhà soạn sách.
Chƣơng trình Ngữ văn THPT của Bộ Giáo dục – Đào tạo hiện hành, bên
cạnh văn học Việt Nam, mảng văn học nƣớc ngoài chiếm vị trí không kém phần
quan trọng. Nhìn chung, các tác phẩm nƣớc ngoài chứa đựng những nội dung đa
dạng về cuộc sống, con ngƣời, lịch sử đất nƣớc, văn hóa tinh thần, nét văn minh,
tƣ tƣởng, tâm hồn của các dân tộc trên thế giới. Các tác phẩm văn học nƣớc
ngoài đã có tác động sâu sắc, lâu bền đến đời sống tâm hồn và trí tuệ của các thế
hệ bạn đọc, các thế hệ học sinh. Tác phẩm văn học nƣớc ngoài đã trang bị cho
học sinh THPT tri thức bộ môn Ngữ văn, bồi đắp năng lực cảm thụ, nâng cao
nhu cầu, khả năng thẩm mỹ cho học sinh, giúp các em tiếp thu những giá trị tinh
thần phong phú và những đặc sắc văn hóa – lịch sử của các nền văn minh trên
thế giới.

Các tác phẩm văn học nƣớc ngoài đƣợc giảng dạy trong chƣơng trình
THPT ngoài việc cung cấp tri thức văn học, tri thức về đời sống thực tiễn của
các vùng đất trên thế giới còn giúp học sinh bồi dƣỡng nhân cách và rèn luyện
kỹ năng sống, có những hành động đúng đắn, cao đẹp, tránh xa lối sống thực
dụng và ích kỷ. Bồi dƣỡng tâm hồn là một vai trò nồng cốt của văn học chân
chính trong mọi thời đại, đặc biệt nƣớc ta đang bƣớc vào kỷ nguyên mới, vai trò
của việc bồi dƣỡng trí tuệ và nhân cách thế hệ trẻ ngày càng quan trọng. Mục
tiêu của giáo dục chính là đào tạo ra những con ngƣời vừa có tài vừa có đức.
Trong chƣơng trình Ngữ văn 12: Ở đoạn trích Ông già và biển cả, nhân vật
Ông lão đánh cá Santiago, chính là biểu tƣợng của những ngƣời lao động –
những con ngƣời luôn luôn hăng hái đi tìm kiếm và chinh phục ƣớc mơ của bản
thân mình. Phải đƣơng đầu với giông tố cuộc đời, với những kẻ thù, với những
mối nguy hiểm khó đoán định, và phải tự mình vƣơn lên để khẳng định chỗ
đứng trong xã hội. Cho dù nhƣ vậy, họ là những con ngƣời không bao giờ chịu
khuất phục. Dù có rơi vào cảnh ngộ sức cùng lực kiệt đến đâu chăng nữa, chỉ
cần còn sống, họ vẫn dốc toàn lực ra mà chiến đấu để có thể tồn tại đúng nghĩa
một con ngƣời. Họ sống để khẳng định một điều, ngay cả lúc khốn cùng nhất
8


của số phận, con ngƣời vẫn biết ngẩng cao đầu, kiên trì chịu đựng để vƣợt qua.
Giáo dục cho học sinh tính kiên cƣờng, chịu khó, mƣu trí, gan dạ, bản lĩnh, dám
đƣơng đầu và không chùn bƣớc trƣớc khó khăn để đến đƣợc với giấc mơ. Và
đây là ý nghĩa sống tích cực nhất cho mọi lẽ sống : Con ngƣời có thể bị hủy diệt
chứ không bao giờ chịu khuất phục.
Chƣơng trình Ngữ văn THPT hiện nay, các tác phẩm văn học nƣớc ngoài
đƣợc dạy học đan xen với các tác phẩm văn học Việt Nam, phần Tiếng Việt,
Tập làm văn. Đồng thời, quán triệt đƣợc các yêu cầu về dạy học của Bộ Giáo
dục – Đào tạo: phát huy tính tích cực, chủ động, rèn luyện kỹ năng sống và kỹ
năng sáng tạo cho ngƣời học, giảm tải một số tác phẩm chƣa phù hợp, để xây

dựng đƣợc khung chƣơng trình hoàn chỉnh và hợp lí nhất.
1.2. Văn học nƣớc ngoài trong chƣơng trình Ngữ văn 12
Trong chƣơng trình Ngữ văn 12, bộ phận văn học nƣớc ngoài tiếp tục đƣợc
đan xen với văn học Việt Nam. Học sinh có thể thấy đƣợc ảnh hƣởng sâu rộng
của văn học nƣớc ngoài đến văn học nƣớc nhà và thấy đƣợc vị thế của văn học
dân tộc trong kho tàng văn chƣơng vô giá của nhân loại. Văn học nƣớc ngoài
trong chƣơng trình Ngữ văn 12 chính là bức tranh phản ánh hiện thực sinh động
về cuộc sống các dân tộc trên thế giới. Văn học là nhịp cầu đƣa các đất nƣớc
xích lại gần nhau hơn, đồng thời, thúc đẩy tình hữu nghị, giao lƣu văn hóa của
các dân tộc.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tôi đã thực hiện khảo sát, thống kê
các tác phẩm văn học nƣớc ngoài trong chƣơng trình Ngữ văn 12 để có cái nhìn
khách quan
và bao quát hơn về bộ phận văn học nƣớc ngoài trong chƣơng trình Ngữ
văn 12 nói riêng và chƣơng trình THPT nói chung.
Dƣới đây là bảng thống kê, tổng hợp các tác phẩm văn học nƣớc ngoài
trong sách giáo khoa Ngữ Văn 12 của cả hai ban (cơ bản và nâng cao).

9


TT
1

Tác phẩm
Đọc thêm: Đôt-xtôiep-xki

Tác giả

Thể loại

Tiểu thuyết

Xvai-gơ

Quốc gia
Áo

Thông điệp nhân ngày
2

thế giới phòng chống Cô-phi An-na

Bản thông điệp Nam Phi

AIDS, 1-12-2003
3

Đọc thêm: Tự do

Pôn Ê-luy-a

Thơ

4

Thuốc

Lỗ Tấn

Truyện ngắn


5

Số phận con ngƣời

Sô-lô-khốp

Tiểu thuyết

Nga

6

Ông già và biển cả

Hê-minh-uê

Tiểu thuyết

Mỹ

Pháp
Trung
Quốc

Theo bảng thống kê, ta thấy đây là các tác phẩm thuộc giai đoạn văn học cổ
đại và trung đại thế giới. Các tác giả, tác phẩm đƣợc chọn giảng dạy trong
chƣơng trình đều có tính tiêu biểu cho giai đoạn, trƣờng phái, trào lƣu văn học
mà nó thể hiện. Đều là những tác phẩm văn chƣơng giá trị của nhân loại. Theo
khảo sát, thống kê gồm 06 tác phẩm văn học nƣớc ngoài. Số lƣợng các tác phẩm

thuộc văn học nƣớc ngoài không nhiều, nhƣng đều mang giá trị tiêu biểu. Các
tác phẩm mang đặc sắc của nhiều thể loại, phong phú đa dạng: Tiểu thuyết (Số
phận con người và Ông già và biển cả); Thơ (Tự do); Truyện ngắn (Thuốc); Bản
thông điệp(Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS, 1-12-2003).
Qua quá trình khảo sát và thống kê, chúng ta có thể thấy các tác phẩm văn
học nƣớc ngoài đƣợc đƣa vào chƣơng trình giảng dạy hiện hành ngày càng đƣợc
bổ sung về số lƣợng, đa dạng, phong phú về thể loại. Chƣơng trình văn học ở
trƣờng phổ thông trong những năm gần đây lại có nhiều đổi mới qua đợt cải
cách giáo dục, tiếp theo đó là đợt thực nghiệm hệ phổ thông phân ban…Có
những tác giả mới hoặc trích đoạn mới đƣợc bổ sung vào chƣơng trình. Công
trình nghiên cứu chƣa có khả năng tìm hiểu sâu từng tác phẩm cụ thể, chỉ tìm
hiểu khái quát nhất và tập trung vào một số tác phẩm tiêu biểu trong chƣơng
trình Ngữ văn 12.
Để tạo cơ sở thực tiễn cho việc nghiên cứu đề tài chúng tôi đã phát phiếu
10


tham khảo ý kiến cho giáo viên và học sinh ở một số trƣờng THPT thuộc địa bàn
huyện Bố Trạch, đồng thời dự giờ rút kinh nghiệm của các đồng nghiệp ở
trƣờng THPT Lê Qúy Đôn trong năm học: 2018 – 2019; với 120 học sinh các
lớp khối 12, và 25 Thầy/Cô giảng dạy trong phân môn văn học nƣớc ngoài ở
trƣờng THPT.
Đối với việc khảo sát về “Nhận thức của giáo viên và học sinh về sự
yêu thích, hứng thú với tác phẩm văn học nƣớc ngoài”, chúng tôi nêu câu hỏi:
“ Các em có yêu thích các tác phẩm văn học nước ngoài trong chương
trình Ngữ văn 12 không?” với ba sự lựa chọn: có, không, bình thƣờng. Kết quả
thu đƣợc nhƣ sau:
120
100
100

80

70.8

60
40

22.8

20

6.4

0

0

0
Không


Học sinh

Bình thƣờng

Giáo viên

1.2.1. Biểu đồ: Nhận thức của giáo viên và học sinh về sự yêu thích,
hứng thú với tác phẩm văn học nước ngoài
Qua biểu đồ trên chúng ta thấy sự yêu thích, hứng thú của giáo viên đạt

100%, điều đó cho thấy mỗi giáo viên đều mang trong mình nhiệt huyết, hứng
thú với văn học nƣớc ngoài. Tỉ lệ yêu thích, hứng thú của học sinh còn quá ít, tỉ
lệ không thích văn học nƣớc ngoài chiếm 70,8%, có yêu thích chiếm 6,4% và
bình thƣờng chiếm 22,8%. Điều đó cho thấy các em chƣa có hứng thú với văn
học nƣớc ngoài. Đó là vấn đề cần suy nghĩ để tìm ra biện pháp khắc phục tình
trạng “chán”học của văn học nƣớc ngoài.
* Đối với việc khảo sát về “Nhận thức của giáo viên và học sinh về mức
độ khó/ dễ của văn học nƣớc ngoài” chúng tôi nêu câu hỏi:
“ Theo Thầy/Cô và các em văn học nước ngoài khó hay dễ”với ba mức độ
11


trả lời là: rất khó, khó, dễ. Kết quả thu đƣợc nhƣ sau:
70

64.1
58.7

60
50
40

33.4

32.5

30
20
10


7.9

3.4

0
Rất khó

Khó
Học sinh

Dễ

Giáo viên

1.2.2. Biểu đồ: Nhận thức của giáo viên và học sinh về mức độ khó/ dễ
của văn học nước ngoài
Văn học nƣớc ngoài thật sự khó đối với học sinh cũng nhƣ ngƣời tiếp nhận
văn bản, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau mà văn học nƣớc ngoài khi
đến với bạn đọc lại gặp nhiều trở ngại. Đối với học sinh, văn học nƣớc ngoài rất
khó chiếm tỉ lệ 64,1% trên tổng số 100% , khó chiếm 32,5% và dễ chiếm tỉ lệ rất
thấp chiếm 3,4%. Cho thấy học sinh còn ngại tiếp nhận văn học nƣớc ngoài và
chƣa mở lòng để tiếp nhận văn học một cách chủ động .
* Đối với việc khảo sát các phƣơng pháp giáo viên thƣờng sử dụng trong
dạy học, chúng tôi nêu câu hỏi:
“Những phương pháp chính Thầy/Cô sử dụng trong quá trình giảng dạy là
gì?” với bốn phƣơng pháp lựa chọn: Phƣơng pháp đọc sáng tạo; phƣơng pháp
nêu vấn đề; phƣơng pháp gợi mở; phƣơng pháp giảng bình. Kết quả thu đƣợc
nhƣ sau:

12



Giáo viên
37.7

40
35
27.5

30
25
20

18.2

16.6

15
10
5
0
PP.Đọc sáng tạo

PP.Nêu vấn đề

PP.Gợi mở

PP.Giảng bình

Giáo viên


1.2.3. Biểu đồ: Những phương pháp giáo viên sử dụng trong giảng dạy
Qua biểu đồ “những phƣơng pháp giáo viên sử dụng trong giảng dạy”, ta
thấy cả bốn phƣơng pháp đều đƣợc giáo viên sử dụng vào giảng dạy văn học
nƣớc ngoài. Đây là những phƣơng pháp đóng vai trò quan trọng trong việc lĩnh
hội và tiếp nhận tri thức từ các tác phẩm văn học nƣớc ngoài đến với học sinh.
Tỉ lệ phƣơng pháp đọc sáng tạo chiếm 16,6%, phƣơng pháp nêu vấn đề chiếm
27,5%, phƣơng pháp gợi mở chiếm18,2% và phƣơng pháp giảng bình chiếm
37,7% trong tổng số 100%. Cả bốn phƣơng pháp trên nếu đƣợc giáo viên vận
dụng linh hoạt vào giảng dạy thì sẽ gây hứng thú, sự tò mò của học sinh đối với
tiết học. Và giáo viên sẽ đạt hiệu quả cao trong việc truyền cảm hứng văn học
nƣớc ngoài cho học sinh.
* Đối với việc khảo sát về “Mức độ hài lòng với phƣơng pháp giảng dạy
văn học nƣớc ngoài của giáo viên”, chúng tôi nêu câu hỏi:
“ Thầy/Cô và các em có hài lòng với phương pháp giảng dạy văn học nước
ngoài của giáo viên không?”với ba mức độ trả lời: hài lòng, không hài lòng,
không có ý kiến. Kết quả thu đƣợc nhƣ sau:

13


100

93.1

90
80
70

65.9


60
50
40
27.3

30
20
10

2.6

6.8

4.3

0
Hài lòng

Không hài lòng
Giáo viên

Không ý kiến

Học sinh

1.2.4. Biểu đồ: Mức độ hài lòng với phương pháp giảng dạy của giáo
viên
Giáo viên qua nhiều năm giảng dạy văn học nƣớc ngoài ở trƣờng phổ thông
đã đúc rút đƣợc nhiều kinh nghiệm và phƣơng pháp dạy học tích cực. Về mức

độ hài lòng của giáo viên và học sinh chiếm tỉ lệ rất cao, giáo viên chiếm tỉ lệ
93,1%, học sinh chiếm 65,9%. Tỉ lệ phần trăm rất cao, chứng tỏ học sinh đã tiếp
thu đƣợc kiến thức từ những phƣơng pháp mà giáo viên truyền đạt cho mình.
Mức độ không hài lòng chiếm tỉ lệ % rất thấp, không ý kiến chiếm tỉ lệ% ở mức
trung bình. Từ đó, ta cũng thấy đƣợc giáo viên đã sử dụng các phƣơng pháp
đúng cách và đạt hiệu quả cao trong quá trình giảng dạy.
Từ việc xử lí phiếu khảo sát, chúng ta có thể thấy khối lƣợng các tác phẩm
văn học nƣớc ngoài chiếm số lƣợng ít, thƣờng dao động trong khoảng 15% tổng
số lƣợng tác phẩm văn học trong chƣơng trình học (riêng trong chƣơng trình
Ngữ văn lớp 12 chiếm 15.2%). Từ kết quả khảo sát, từ thực tiễn việc giảng dạy
của bản thân và dự giờ đồng nghiệp, chúng tôi thấy thực trạng dạy học văn học
nƣớc ngoài hiện nay bắt nguồn từ hai phía: cả giáo viên và học sinh. Đồng thời,
thực tiễn cũng cho thấy rằng cùng một văn bản văn học nhƣng mỗi cá nhân học
sinh có cách tiếp nhận khác nhau, mỗi giáo viên cũng không ai đi chung một con
đƣờng khi khám phá tác phẩm.
Từ những trao đổi, phỏng vấn, chúng tôi rút ra đƣợc những thuận lợi và
khó khăn cơ bản đối với giáo viên và ngƣời học ở trƣờng Trung học phổ thông:
14


Thuận lợi:
Thứ nhất, khi giảng dạy các tác phẩm văn học nƣớc ngoài, học sinh vừa
đƣợc cung cấp các tri thức về văn chƣơng, đồng thời có cơ hội cho các em tiếp
xúc với những nền văn hóa lớn của các quốc gia trên thế giới. Một mặt, mở rộng
vốn tri thức, hiểu biết sâu rộng cho ngƣời học, một mặt mở rộng thêm những
vùng đất, phong tục
tập quán mới, thế giới quan, nhân sinh quan đƣợc sinh động hơn. Chính vì
lí do đó, văn học nƣớc ngoài tạo ra những nét mới lạ, gây hứng thú cho học sinh.
Khi học các tiểu thuyết của văn học Trung Quốc tạo điều kiện cho ngƣời
dạy và ngƣời học nắm bắt đƣợc những nét tinh hoa, nghệ thuật độc đáo của tiểu

thuyết Trung Quốc, đồng thời tái hiện những giá trị văn hóa Trung Hoa. Phong
tục tập quán, con ngƣời của đất nƣớc này cũng hiện lên một cách sinh động,
thấy rõ đƣợc sự ảnh hƣởng của văn học Trung Quốc tới văn học Việt Nam và
mối liên hệ giữa văn học Trung Quốc với nền văn học dân tộc.
Thứ hai, đội ngũ giáo viên có năng lực chuyên môn, đạt chuẩn và trên
chuẩn ngày càng nhiều, tận tâm, nhiệt huyết với nghề giáo. Hiện nay, ngành
Giáo dục đang tiến hành việc đổi mới nội dung, chƣơng trình và phƣơng pháp
dạy học. Để quá trình đổi mới này đạt đƣợc chất lƣợng và kết quả cao cần có đội
ngũ nhân lực giàu chất xám, giỏi về nghiệp vụ sƣ phạm. Chính vì thế, những
năm gần đây đội ngũ nhà giáo có nhiều cơ hội để học hỏi, nâng cao năng lực
chuyên môn qua các khóa học, các chuyên đề, các cuộc thi giáo viên dạy giỏi
cấp trƣờng, cấp tỉnh... Nhiều giáo viên có cơ hội đƣợc đi du học ở các nƣớc trên
thế giới, nâng cao năng lực sƣ phạm cho bản thân, thấy đƣợc tốc độ phát triển
giáo dục của các nƣớc phát triển, mở rộng đƣợc cái nhìn về con ngƣời, phong
tục tâp quán, nét văn hóa đặc trƣng của các dân tộc trên thế giới. Những nhận
thức trên đây của giáo viên cũng chính là một yếu tố thuận lợi trong việc giảng
dạy các tác phẩm văn học nƣớc ngoài.
Một số bộ phận giáo viên đã bắt kịp với nhịp độ cải tiến để nâng cao chất
lƣợng đào tạo, đổi mới phƣơng pháp dạy học có hiệu quả hơn. Tiếp tục vận
dụng những ƣu điểm của phƣơng pháp dạy học truyền thống kết hợp với tinh
15


hoa của các phƣơng pháp dạy học tiến bộ, tích hợp và tích cực. Trong dạy học
tích hợp, giáo viên không những phải phối hợp các tri thức, kỹ năng thuộc từng
phân môn của Ngữ văn mà còn phải tích hợp nhiều bộ môn khác (tích hợp liên
môn). Phát huy tính chủ động sáng tạo của ngƣời học trong việc tiếp thu kiến
thức.
Thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Một dân tộc dốt là một dân
tộc yếu”, vì thế từ xa xƣa giáo dục luôn dƣợc xem là quốc sách hàng đầu, chú

trọng phát triển giáo dục để tạo ra đƣợc nguồn nhân lực chất lƣợng và giàu chất
xám nhất. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục khẳng định giáo
dục là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi
dƣỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục trang bị kiến thức sang
phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất ngƣời học. Những năm gần đây, đất
nƣớc đang trong thời kỳ Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa, bƣớc vào một kỷ
nguyên mới, nền kinh tế ngày một tăng trƣởng nhanh chóng, nền giáo dục của
nƣớc nhà có những điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh mẽ về cả số lƣợng và
chất lƣợng, đồng thời, có cơ hội học hỏi những tinh hoa của các nền giáo dục
tiên tiến trên thế giới. Chính vì thế, bộ phận văn học nƣớc ngoài trong nhà
trƣờng cũng có những điều kiện thuận lợi để phát triển. Ngay từ lúc bƣớc vào
bậc THCS học sinh đã đƣợc tiếp xúc với văn học nƣớc ngoài. Số lƣợng tác giả
và tác phẩm trong chƣơng trình THPT ngày càng đƣợc đa dạng hóa. Các đầu
sách tham khảo và tƣ liệu cung cấp cho việc giảng dạy và học tập về văn học
nƣớc ngoài, tài liệu về phƣơng pháp dạy học Ngữ văn ngày càng đƣợc đầu tƣ
phong phú.
Thứ tư, trong những năm gần đây, sự phát triển của công nghệ thông tin đã
mang lại hiệu quả to lớn cho nhiều ngành nghề khác nhau, ngày càng nhiều
những công cụ, phƣơng tiện mới đáp ứng mọi mặt đời sống xã hội trong đó có
cả quá trình dạy học. Các phƣơng tiện dạy học ngày càng tiến bộ, phong phú và
đa dạng: Hình vẽ trên bảng, tranh, ảnh, máy tính, máy chiếu, băng đĩa, băng ghi
âm, phiếu học tập, sự bùng nổ và phát triển của công nghệ thông tin, các phƣơng
16


tiện truyền thông, sách, báo, tivi,… góp phần thuận lợi cho việc tiếp xúc với văn
học nƣớc ngoài. Giúp học sinh dễ hiểu bài, hiểu bài sâu sắc hơn và nhớ đƣợc lâu
hơn, làm sinh động nội dung học tập, nâng cao hứng thú học văn của học sinh,
đồng thời, giúp giáo viên tiết kiệm đƣợc thời gian trên lớp trong mỗi tiết học,

giúp giáo viên điều khiển đƣợc hoạt động nhận thức của học sinh, kiểm tra và
đánh giá kết quả học tập của các em đƣợc thuận lợi và có hiệu quả cao.
Khó khăn :
Bên cạnh những thuận lợi thì việc học văn học nƣớc ngoài trong nhà trƣờng
trung học phổ thông có những khó khăn nhất định.
- Dạy và học tác phẩm văn học nƣớc ngoài ở trƣờng THPT hiện nay chủ
yếu thông qua các bản dịch. Ngƣời dịch văn học đứng trƣớc một yêu cầu khó, đó
là phải dịch làm sao truyền tải đƣợc hết tâm tƣ, tình cảm và đặc sắc trong bút
pháp nghệ thuật. Ngôn ngữ của mỗi dân tộc lại có những nét đặc thù khác nhau,
tạo nên mối quan hệ khá phức tạp giữa lớp vỏ ngôn từ và nội dung tƣ tƣởng tình
cảm. Vì vậy, dạy và học tác phẩm văn học nƣớc ngoài chính là một trở ngại đối
với giáo viên và học sinh. Có một số ý kiến đã bàn về vấn đề này, trong đó
PGS.TS. Nguyễn Viết Chữ từng cho rằng: việc sử dụng bản dịch của một tác
phẩm văn học nƣớc ngoài để đƣa vào giảng dạy ở nhà trƣờng phổ thông nƣớc ta
có điều gì đó chƣa hợp lý. Giáo viên trong nhà trƣờng của ta hầu nhƣ chỉ giảng
dạy bản dịch nhƣ nguyên tác, thậm chí cả khi khai thác từ ngữ. Trong chƣơng
trình Ngữ Văn 12, học sinh đƣợc học những tác phẩm văn học nƣớc ngoài đều
thông qua các bản dịch. Vấn đề tiếp nhận văn bản thƣờng qua các bản dịch hay
còn gọi là “hàng rào ngôn ngữ” nên gây ra một số khó khăn trong việc phân
tích đánh giá tác phẩm.
- Những khác biệt về điều kiện lịch sự, địa lí, văn hoá, phong tục tập quán
cũng là một trong những khó khăn mà giáo viên và học sinh gặp phải. Thực chất
tƣ duy của học sinh thực tế đến mức thực dụng, đi theo hƣớng tiêu cực, học sinh
không chịu đọc trƣớc tác phẩm, có những em còn hiểu ngô nghê sai lệch về nội
dung tác phẩm. Ví dụ: khi hỏi “Cảm nhận của em về Puskin khi đọc Tôi yêu em
? thì học sinh trả lời rằng “Đó là một ngƣời hèn nhát không đấu tranh vì tình
17


yêu”.

- Một thực tế cho thấy rằng trong những năm qua, việc tổ chức kiểm tra,
đánh giá đề thi dƣờng nhƣ khá chủ quan. Các tác phẩm văn học nƣớc ngoài rất ít
đƣợc đề cập, thậm chí có những thời điểm bị lãng quên. Đây cũng chính là một
trong những nguyên nhân, khiến cho ngƣời dạy và ngƣời học ít quan tâm đến
vấn đề này. Trong lúc đó, nhƣ chúng ta biết khâu kiểm tra đánh giá đƣợc xác
định là khâu then chốt, thúc đẩy quá trình dạy học.
- Hiện nay học sinh đa số đều muốn tiếp cận với công nghệ hiện đại, hứng
thú với các môn khoa học tự nhiên mà xem nhẹ các môn khoa học xã hội. Điều
này không chỉ thể hiện rõ ở quá trình học mà còn ở xu hƣớng chọn ngành nghề.
Điều này dẫn đến thực trạng đáng buồn khi các em đến với văn học một cách
hời hợt.
- Một nguyên nhân nữa cũng không kém phần quan trọng là sự tác động
của thực tế xã hội. Do nền kinh tế thị trƣờng phát triển nhanh nên hiện nay học
sinh đa số đều muốn tiếp cận với công nghệ hiện đại, hứng thú với các môn
khoa học tự nhiên mà xem nhẹ khoa học xã hội, không chỉ thể hiện rõ ở quá
trình học và ở xu hƣớng chọn nghành nghề. Điều này dẫn đến thực trạng đáng
buồn khi các em đến với văn học một cách hời hợt.
- Một số ít giáo viên chƣa chuẩn bị tốt cho bài dạy, chƣa nắm bắt đúng tinh
thần của việc tiếp nhận. Giáo viên không chú ý đến việc hƣớng dẫn học sinh tiếp
nhận một tác phẩm văn học mà chỉ chú tâm đến việc mình chỉ truyền đạt đƣợc
bao nhiêu kiến thức mà không chú ý đến việc cung cấp chìa khoá cho học sinh
để mở ra cánh của mới. Rất nhiều giáo viên đã không chú ý đến đổi mới phƣơng
pháp giảng dạy. Phƣơng pháp chủ yếu của giáo viên chủ yếu vẫn là thuyết
giảng- giáo viên làm thay công việc của học sinh. Điều này hoàn toàn đi ngƣợc
lại mục tiêu của đổi mới phƣơng pháp dạy học văn hiện nay. Cũng bởi thực tế
đó nên các tiết học chƣa tạo đƣợc hứng thú cho học sinh khi tiếp cận, cắt nghĩa
tác phẩm. Điều này đã tạo ra sự bị động cho học sinh và không thực hiện các
tính chất của quá trình tiếp nhận văn chƣơng. Thông thƣờng trong các tiết dạy,
giáo viên chỉ chú trọng chuyển tải về mặt nội dung mà ít hƣớng dẫn cho học
18



sinh tạo ra một chìa khóa để có thể mở bất cứ tác phẩm nào cùng thể loại. Đây
cũng là tồn tại chung hiện nay. Do tiếp cận theo hƣớng này mà chúng ta đôi khi
tìm hiểu tác phẩm chỉ ở góc độ xã hội học chứ chƣa đi theo đặc trƣng thi pháp
thể loại. Không chỉ thế, khi hƣớng dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm, rất nhiều
giáo viên không chú ý đến tính tích hợp, không tìm ra mối liên hệ giữa các tác
phẩm, các nền văn học với nhau. Một thực tế nữa cũng dễ nhận thấy là rất ít GV
sử dụng các phƣơng tiện hỗ trợ dạy học tích cực. Dƣờng nhƣ xuất phát từ quan
điểm không thi, không nằm trong phạm vi kiểm tra đánh giá nhiều lắm nên GV
cũng chỉ dạy qua loa, chiếu lệ.
- Trong thực tế giảng dạy, giáo viên không đặt tác phẩm vào vào bầu không
khí văn hóa, lịch sử của dân tộc sản sinh ra nó. Văn học là sản phẩm tinh thần
của một nhà văn nhƣng nhà văn lại kí thác trong đó nhƣng ƣớc mơ, khát vọng
của mình, của dân tộc mình và thời đại mình đúng nhƣ O.Banzac từng nói "Nhà
văn là ngƣời thƣ kí trung thành của thời đại". Bởi lẽ đó một tác phẩm văn học
bao giờ cũng đƣợc sản sinh trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể và chính hoàn
cảnh đó sẽ chi phối nhiều đề tài, chủ đề, tƣ tƣởng của tác phẩm. Nhƣng nhiều
giáo viên đã lãng quên mất điều này. Không phải là chúng ta sa đà vào khám
phá tác phẩm theo hƣớng xã hội học nhƣng đó vẫn là yếu tố cần thiết. Hơn nữa,
mỗi một dân tộc, mỗi một vùng miền đều mang những nét văn hóa khác nhau.
Giáo viên phải nắm vững điều này để tạo điểm tựa vững chắc khi tiếp cận tác
phẩm. Chẳng hạn, về phƣơng thức sống, nếu phƣơng Tây hƣớng ngoại thì
phƣơng Đông lại hƣớng nội. Nhƣng một số giáo viên do ngại đọc, ngại vận động
nên kiến thức nền ở vấn đề này vẫn còn hạn hế. Và một lẽ tất nhiên, khi những
vấn thuộc về kiến thức nền tảng mà giáo viên không vững thì chắc chắn khả
năng giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức sẽ giảm đi rất nhiều.
Giáo trình Phương pháp dạy học văn (1), tác giả Phan Trọng Luận có viết:
“Bình tâm nhìn vào thực trạng dạy học văn ở nhà trường phổ thông và cả đại
học, chúng ta không thể không thừa nhận một bước tụt hậu khá dài về nhận thức

cũng như thực hành sư phạm so với bước đi của một số nước tiến tiến nhất là so
với yêu cầu chiến lược của thời đại” [7;7]. Trong dạy học các tác phẩm văn học
19


nƣớc ngoài ở chƣơng trình Ngữ văn THPT còn có nhiều vấn đề bất cập và đáng
chú ý:
-

Để giúp học sinh chinh phục đƣợc những tri thức văn chƣơng có giá trị là

một việc làm khó, đòi hỏi ngƣời giáo viên phải có kiến thức, tâm huyết với nghề
giáo và lựa chọn đƣợc những phƣơng pháp truyền đạt khoa học nhất.
-

Chất lƣợng và năng lực chuyên môn của đội ngũ giáo viên còn chƣa đồng

đều. Việc đổi mới nội dung chƣơng trình và phƣơng pháp dạy học ít nhiều gây
sự lung túng cho giáo viên. Trƣớc đây, giáo viên giảng dạy theo lối truyền
thống, sử dụng phƣơng pháp thuyết trình và bình giảng là chủ yếu. Hiện nay,
theo yêu cầu đổi mới của phƣơng pháp dạy học văn nói riêng và phƣơng pháp
dạy học nói chung thì ngƣời dạy giữ vai trò hƣớng dẫn ngƣời học chủ động lĩnh
hội tri thức, “học sinh là trung tâm”, “học sinh chủ động, tích cực”. Nội dung
bài học, thời gian, cách trình bày bảng, cách tổ chức hoạt động cho học sinh,
cách đặt câu hỏi có thay đổi, đòi hỏi ngƣời dạy phải linh hoạt, sáng tạo và giàu
năng lực chuyên môn mới đáp ứng đƣợc các yêu cầu trên vừa tạo đƣợc tâm thế
chủ động vừa truyền đạt kiến thức tới ngƣời học một cách hiệu quả nhất.
-

Việc ứng dụng phƣơng pháp dạy học tích cực còn diễn ra một cách chạm


chạp hoặc chƣa đồng đều. Ở một số vùng miền, giáo viên ít chú ý đến đổi mới
phƣơng pháp giảng dạy, việc dạy – học văn vẫn nặng nề về trang bị kiến thức.
Phƣơng pháp thuyết trìnhvẫn là phƣơng pháp chủ đạo. Thầy thuyết giảng theo
kiểu đọc, trò chép. Giáo trình Phương pháp dạy học văn (tập 1) của Phan Trọng
Luận nhắc tới vấn đề GS. Đặng Thai Mai lên án lối dạy “thôi miên”, lối học
“vểnh tai cho người ta ngoáy” [7;18]. “Cách dạy và học này không còn phù hợp
với mục tiêu của đổi mới phương pháp dạy học văn hiện nay. Khuynh hướng
giảng văn chỉ nhấm nháp, khai phá văn bản cho dù là khám phá một cách tài
hoa vẫn là một khuynh hướng cũ kĩ về khoa học và ít hiệu quả giáo dục” [7;19].
Cũng bởi thực tế đó nên các tiết học chƣa tạo ra đƣợc hứng thú cho học sinh khi
tiếp nhận tác phẩm.
Kiến thức còn mang tính chất lý thuyết, chƣa tạo đƣợc điều kiện để học
sinh áp dụng những lý thuyết đó vào thực tiễn nhằm rèn luyện kỹ năng sống, kỹ
20


×