Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Một số giải pháp hướng dẫn học sinh lớp 4A học tốt môn Tiếng Việt ở trường, năm học 2018-2019.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.45 KB, 15 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Mã số:……….
1.Tên sáng kiến: Một số giải pháp hướng dẫn học sinh lớp 4A học tốt môn
Tiếng Việt ở trường, năm học 2018-2019.
2.Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Tác nghiệp trong giáo dục.
3.Mô tả bản chất của sáng kiến:
* Nhiệm vụ được giao: Giáo viên chủ nhiệm lớp 4A, Trường Tiểu học
3.1.Thực trạng trước khi đổi mới:
- Học sinh lớp 4 trường tôi đang tham gia giảng dạy và công tác.
- Chương trình, nội dung tài liệu hướng dẫn học theo mô hình trường học mới
Việt Nam.
- Tiếng Việt là một trong những môn học có tầm quan trọng trong các môn
học ở Tiểu học (được xem là môn học công cụ). Bởi lẽ Tiếng Việt không những dạy
cho các em biết kiến thức về ngôn ngữ trong giao tiếp mà còn giúp các em giữ gìn
tiếng mẹ đẻ. Tiếng Việt có nhiệm vụ làm giàu vốn từ cho học sinh và trang bị cho
các em một số kiến thức về từ, câu, cách sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp. Để học
sinh nắm vững và có nhiều cơ hội thực hành giao tiếp về Tiếng Việt cần có sự đổi
mới nhất là mặt tổ chức lớp học, phương pháp dạy học và mô hình VNEN là một cơ
hội để chúng ta biến lý luận thành thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo
dục.
Thực hiện mô hình trường học mới VNEN đã góp phần vào việc đổi mới
phương pháp, hình thức tổ chức học tập, tập trung phát triển các năng lực của người
học. Tuy nhiên đây là mô hình mới nên người giáo viên trực tiếp giảng dạy mặc dù
đã được tham dự các đợt tập huấn nhưng vẫn có những lúng túng nhất định. Mặc dù
đã được giáo viên rèn các kĩ năng học tập theo nhóm nhưng khi trực tiếp thực hiện


các hoạt động tìm hiểu, chiếm lĩnh kiến thức của từng bài học ở các tiết học môn


Tiếng Việt học sinh vẫn gặp khó khăn, lúng túng, dẫn đến việc chậm tiến độ, chưa kể
đến một số nhóm làm qua loa để báo cáo nhanh và như thế là chất lượng học tập của
học sinh không đạt yêu cầu đề ra.
* Ưu điểm:
-Về phía học sinh: Học sinh được trang bị đầy đủ tài liệu hướng dẫn học và đồ
dùng học tập.
+ Học sinh thích học theo mô hình này (vì lớp được trang bị đẹp, các em được
bày tỏ những suy nghĩ, thể hiện những niềm vui của các em trong cuộc sống)
- Về phía giáo viên: Được nhà trường quan tâm đến mọi hoạt động của lớp
học VNEN, trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị và đồ dùng khá đầy đủ.
+ Thường xuyên được tập huấn bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ.
- Về phía phụ huynh: Phụ huynh quan tâm quá trình học tập của con em nên
đã cùng giáo viên trang trí lớp học, chuẩn bị các đồ dùng cần thiết cho học sinh, tạo
điều kiện ban đầu về cơ sở vật chất cho quá trình học tập được diễn ra một cách
thuận lợi nhất.
* Hạn chế:
- Về phía học sinh: Học sinh thuộc vùng nông thôn nên kỹ năng giao tiếp còn
hạn chế, các em còn thiếu tự tin. Kỹ năng học nhóm chưa thành thạo, kỹ năng tự học
của các em còn hạn chế.
- Về phía giáo viên: Một số giáo viên kỹ năng quán xuyến lớp còn hạn chế
nên khó phát hiện học sinh gặp khó khăn để giúp đỡ.
+ Do giáo viên mới tiếp cận với chương trình nên chưa nắm bắt được bản chất
của chương trình VNEN nên không giải quyết kịp thời những vướng mắt.
+ Kỹ năng của một số giáo viên còn non: Kỹ năng tổ chức, Kỹ năng quan sát,
đánh giá nhanh, Kỹ năng hướng dẫn, Kỹ năng điều chỉnh tài liệu,…
-Về phía phụ huynh: Một số phụ huynh vẫn còn tâm lí e ngại khi con em mình
học mô hình mới này; Phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em
mình.



3.2.Nội dung của giải pháp đề nghị đề nghị công nhận là sáng kiến:
3.2.1. Mục đích của giải pháp:
- Mục tiêu chung: Một số giải pháp hướng dẫn học sinh lớp 4A học tốt môn
Tiếng Việt ở trường năm học 2018-2019 nhằm giúp học sinh biết cách tự học môn
Tiếng Việt, có kỹ năng làm việc nhóm hiệu quả, từ đó hình thành kỹ năng tự học để
học tốt môn Tiếng Việt và các môn học khác. Qua đó góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, góp phần vào sự thành công trong việc thực hiện mô hình trường
học mới VNEN.
- Mục tiêu cụ thể: Năm học 2018-2019 này, tôi được phân công giảng dạy lớp
4 (lớp học theo mô hình VNEN). Trong quá trình thực hiện, bản thân tôi không khỏi
lo lắng. Nội dung kiến thức lớp 4 có thể nói là khá nhiều, liệu phương pháp dạy học
mới này có hiệu quả hơn cách dạy truyền thống hay không? Liệu tôi có hoàn thành
tốt mục tiêu sau mỗi tiết dạy, môn học?
Từ thực tế dạy học, tôi luôn suy nghĩ làm thế nào để học sinh học theo phương
pháp dạy học VNEN có hiệu quả? Làm thế nào để chất lượng môn Tiếng Việt nói
riêng và các môn học khác nói chung ở lớp tôi được đảm bảo? Đó là điều tôi luôn
trăn trở, băn khoăn. Từ đó tôi tập trung nghiên cứu và áp dụng một số giải pháp để
hướng dẫn học sinh học tốt Tiếng Việt nhằm năng cao chất lượng dạy học môn
Tiếng Việt theo mô hình trường học mới VNEN. Cụ thể như sau:
- 100% học sinh biết cách tự học môn Tiếng Việt, có kỹ năng làm việc nhóm
hiệu quả. Từ đó hình thành kĩ năng tự học để học tốt môn Tiếng Việt.
- 100% học sinh tự tin trong trong học tập, phát triển kỹ năng giao tiếp của
mình.
- Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, góp phần vào sự thành công trong
việc thực hiện mô hình trường học mới ở Tiểu học.
1.2.2. Nội dung giải pháp.
3.2.2.1.Tên giải pháp.
- Giải pháp 1: Tìm hiểu cấu trúc môn Tiếng Việt.
- Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh học đối với từng phân môn.



- Giải pháp 3: Phối hợp với Ban đại diện cha mẹ để hướng dẫn các em học ở
nhà.
3.2.2.2.Triển khai giải pháp.
- Giải pháp 1:Tìm hiểu cấu trúc môn Tiếng Việt.
Để thực hiện tốt nội dung dạy học người giáo viên cần nắm vững cấu trúc
môn Tiếng Việt để từ đó định hướng cho mình trong việc giảng dạy đồng thời hướng
dẫn học sinh thực hiện các yêu cầu từng bài đạt được mục tiêu đề ra.
Môn Tiếng Việt ở mô hình VNEN được trên 2 cuốn (Tập1, tập 2). Mỗi tuần
gồm 3 bài đó là bài A, B, C, được chia như sau:
Bài A: Gồm 3 tiết
Tiết 1: Chính là tiết Tập đọc của chương trình cũ
Tiết 2: Chính là tiết Luyện từ và câu của chương trình cũ
Tiết 3: Chính là tiết Chính tả của chương trình cũ
Bài B: Gồm 3 tiết
Tiết 1: Chính là tiết Tập đọc của chương trình cũ
Tiết 2: Chính là tiết Tập làm văn của chương trình cũ
Tiết 3: Chính là tiết Kể chuyện của chương trình cũ
Bài C: Gồm 2 tiết.
Tiết 1: Chính là tiết Luyện từ và câu của chương trình cũ
Tiết 2: Chính là tiết Tập làm văn của chương trình cũ
- Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh học đối với từng phân môn.
* Tiết có nội dung Tập đọc: Thực hiện mô hình VNEN là coi quá trình tự
học của học sinh là trung tâm của hoạt động giáo dục, nên học sinh cần nhận biết
được hoạt động nào là trọng tâm của tiết học để phân chia thời gian hợp lí để việc
lĩnh hội kiến thức trở nên nhẹ nhàng.Ở môn Tiếng Việt tất cả các tiết 1 của bài A, bài
B (Chính là nội dung Tập đọc) gồm các hoạt động sau:
+ Hoạt động 1: Trò chơi( quan sát )
+ Hoạt động 2: Nghe thầy cô hoặc bạn đọc bài
+ Hoạt động 3: Thay nhau đọc từ ngữ và lời giải nghĩa



+ Hoạt động 4: Cùng luyện đọc từ khó, câu , đoạn.
+ Hoạt động 5: Trao đổi trả lời câu hỏi.
Với 5 hoạt động trên, ban đầu khi thực hiện chương trình bản thân tôi gặp
những khó khăn sau: Học sinh mất nhiều thời gian cho hoạt động này nên việc luyện
đọc đoạn, bài còn ít cả về thời gian và số lượng học sinh đọc trong nhóm; Tại hoạt
động 5 này kết quả hoạt động của một số nhóm không cao( câu trả lời của các em
chưa chính xác, đang băn khoăn chưa trả lời được nhưng bỏ qua không tìm kiếm sự
trợ giúp của cô giáo kịp thời dẫn đến hổng kiến thức). Ví dụ Bài 6A: Dũng cảm nhận
lỗi. Để khắc phục tình trạng trên tôi đã tiến hành hướng dẫn cho học sinh học ngay
từ những bài học đầu tiên, cụ thể như sau:
+ Xác định nội dung trọng tâm của tiết học: Hoạt động này hoạt động trọng
tâm là hoạt động 4 (luyện đọc), ở đây giáo viên cần hướng dẫn các nhóm thực hiện
đúng quy trình: Cá nhân, cặp đôi, nhóm. Tuy nhiên ở hoạt động này thì mỗi cá nhân
lại tiếp tục được đọc từ, câu, đoạn, toàn bài một lần nữa, có như vậy học sinh mới
được luyện đọc nhiều và tiết học mới đạt hiệu quả.
+ Giáo viên lưu ý hướng dẫn học sinh một số nội dung: Biết đưa ra thắc mắc
khi không hiểu; Biết trao đổi, phản biện thống nhất câu trả lời; Biết tìm kiếm sự hỗ
trợ của thầy cô giáo một cách kịp thời.Ví dụ ở câu hỏi 4: Nhà vua truyền ngôi cho
cậu bé Chôm vì cậu là người như thế nào? Đây là một câu hỏi mở và chắc chắn các
em có sự lựa chọn riêng của mình. Chính vì vậy học sinh cần có kỹ năng đưa ra
quyết định đề nghị sự giúp đỡ từ cô giáo nếu không dẫn đến quyết định mang tính
chất cá nhân và không đạt yêu cầu. Mặc khác, giáo viên luôn phải nắm bắt tình hình
học tập của từng nhóm, các nhóm đã đến hoạt động nào? Tình hình hoạt động ra
sao?... Để có thể chủ động giúp đỡ.
+ Rèn kỹ năng tổ chức học tập theo nhóm: Để đạt hiệu quả và dễ hiểu nhất là
đối với học sinh nông thôn các kĩ năng còn non thì khi ban đầu mới thực hiện giáo
viên cho một nhóm làm mẫu cho cả lớp cùng quan sát nội dung này. Sau khi quan
sát xong giáo viên yêu cầu học sinh nhận xét theo các câu hỏi: Nhóm bạn đã thực

hiện đúng yêu cầu của cô chưa? Cần bổ sung chỗ nào? Nhóm trưởng điều hành như


thế nào?...Khi học sinh trả lời được những câu hỏi trên thì cũng đồng nghĩa là các
em đã biết cách tổ chức lĩnh hội kiến thức thông qua việc học nhóm.
* Tiết học có nội dung Luyện từ và câu: Trong các tiết học này, nội dung
chính là Mở rộng vốn từ, củng cố các mẫu câu, cách đặt câu,…Đây là môn mà học
sinh gặp khá nhiều khó khăn vì dạy học theo chương trình VNEN thì học sinh phải
biết tự học dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên để chiếm lĩnh kiến thức. Vậy
câu hỏi đặt ra cho bản thân tôi là làm thế nào không đi chệch hướng yêu cầu. Qua
quá trình thực hiện tôi bắt gặp những khó khăn sau: Học sinh thường không đọc kĩ
yêu cầu; Học sinh còn lúng túng khi vận dụng vào thực hành; Phân bố thời gian
không hợp lí giữa các hoạt động;…
Để hoạt động nhóm đạt hiệu quả và mỗi học sinh đều chiếm lĩnh được kiến
thức thực sự, tôi tiến hành các hoạt động sau:
+ Hướng dẫn học sinh làm việc cá nhân: Cá nhân đọc đến yêu cầu nào thì thực
hiện ngay yêu cầu đó, không thực hiện nhiều yêu cầu cùng một lúc.
+ Hướng dẫn học sinh rút ra bài học: Sau khi thực hiện hoạt động cá nhân, cặp
đôi, nhóm, thì giáo viên cần hướng dẫn học sinh rút ra bài học.
Sau đó giáo viên đến các nhóm gợi ý thông qua những câu hỏi nhằm vừa
khắc kiến thức cho học sinh và cũng để các em biết rằng thầy cô luôn đồng hành
cùng các em trong quá trình các em tự học chiếm lĩnh kiến thức. Như vậy các em sẽ
tự tin hơn, thoải mái hơn và luôn cố gắng để hoàn thành nội dung các hoạt động.
* Tiết học có nội dung Chính tả: Đây là tiết học có nội dung khá nhẹ nhàng
trong môn Tiếng Việt cả về kiến thức lẫn số lượng các hoạt động. Thông qua tiết hoc
này, học sinh rèn được kĩ năng nghe viết và củng cố kiến thức về luật chính tả thông
qua các bài tập điền âm đầu, từ, dấu câu,…
Ở tiết học này đa số thì hoạt động đầu tiên là học sinh nghe viết hoặc nhớ viết
một đoạn văn hay một đoạn thơ mà nội dung bài viết có thể các em đã được học
cũng có thể là các em chưa học.Chính vì vậy giáo viên cần chú ý hoạt động chung cả

lớp, với hoạt động này tôi tiến hành như sau:
+ Hướng dẫn tìm hiểu đoạn chính tả: Nếu nội dung bài viết là bài mà học sinh


đã được học tôi cho học sinh đọc bài lần 1 trước lớp. Nếu bài viết có nội dung mà
học sinh chưa học thì giáo viên đọc (đọc để giúp học sinh hình dung ra bài viết chứ
không phải đọc cho học sinh viết). Sau đó tôi hỏi qua về nội dung bài. Ví dụ: Đoạn
văn nói về cái gì?...Tiếp theo những lưu ý khi viết chính tả như viết tên người, tên
địa lí nước ngoài có trong bài,…
+ Hướng dẫn học sinh tự đánh giá bài của mình và đánh giá bài của bạn: Sau
khi viết bài xong hướng dẫn học sinh tự soát lỗi và chữa lỗi.Tiếp theo tiến hành “Đôi
bạn cùng chữa lỗi”.
Qua quá trình áp dụng tôi thấy học sinh học bài rất nhẹ nhàng mà hiệu quả lại
rất cao. Các em rất thích thú với việc mình được làm “giáo viên”.Việc soát lỗi cho
bạn và được bạn chữa lỗi sẽ thoải mái hơn khi người soát lỗi là cô giáo. Sau đó giáo
viên trắc nghiệm kết quả một số cá nhân.
* Tiết học có nội dung Tập làm văn: Đây là tiết học mà bản thân tôi gặp khá
nhiều khó khăn khi thực hiện chương trình, đó là những khó khăn sau: Vốn từ của
học sinh chưa phong phú; Một vài học sinh chưa hăng say học tiết này; Kinh nghiệm
của giáo viên về tổ chức trò chơi…để tạo hứng thú trong tiết học còn hạn chế nên
tiết học nhàm chán. Để khắc phục những khó khăn trên tôi đã tiến hành như sau:
+ Tìm tòi, nghiên cứu và tổ chức các trò chơi hoặc đưa ra các tình huống có
vấn đề tạo hứng thú cho học sinh bắt đầu tiết học.Ví dụ: Bài 7B:Thế giới ước mơ
(tiết 3)
Trò chơi: Khởi động( Vẽ mặt trăng đêm trăng rằm)
Mục đích: Tạo hứng thú cho học sinh trước khi vào tiết học
Cách chơi: Thi đua giữa các tổ.
Cách tính điểm: Nhanh, phối màu đẹp, hình ảnh ngộ nghĩnh, hợp tác nhóm
tốt,…
+ Hỗ trợ kịp thời học sinh khi gặp khó khăn: Phân môn Tập làm văn là phân

môn khó thực hiện đạt yêu cầu cao đối với học sinh, đặc biệt đối với học sinh chưa
đạt chuẩn. Chính vì vậy người giáo viên luôn phải theo sát việc học của các em, tập
trung theo dõi, quán xuyến lớp học để phát hiện và hỗ trợ kịp thời giúp học sinh


hoàn thành nội dung các bài học.
* Tiết học có nội dung Kể chuyện: Là tiết học rèn rất nhiều kĩ năng cho học
sinh. Đặc biệt thông qua tiết học này sẽ giúp các em tự tin , cởi mở hơn trong học
tập, đó là điều giúp cho quá trình tự học được tốt hơn. Bản thân tôi thấy, một tiết học
có nội dung kể chuyện thành công đòi hỏi ở học sinh rất nhiều yếu tố như: Trí nhớ
( nhớ truyện), sự tự tin, kĩ năng giao tiếp( biểu thị sắc thái, cử chỉ điệu bộ, kĩ năng kể
chuyện, phân vai,…) nhưng những kĩ năng đó đối với học sinh nông thôn là cả một
vấn đề và đây là khó khăn chung. Chính vì vậy mà khi thực hiện tiết học tôi đã áp
dụng các biện pháp sau:
+ Chuẩn bị và kể mẫu thật tốt.
+ Lựa chọn học sinh kể tốt để kể lần 2.
+ Động viên , khuyến khích để các em tự tin đứng kể trước nhóm, lớp.
+ Luôn tạo một không khí học sôi nổi, thân thiện để các em chưa mạnh dạn
phần nào quên đi sự nhút nhác của bản thân mà hòa vào không khí chung cả lớp dần
dần sẽ mạnh dạn, tự tin hơn.
- Giải pháp 3: Phối hợp với Ban đại diện cha mẹ để hướng dẫn các em học ở
nhà.
Ban đại diện cha mẹ học sinh là tổ chức có quan hệ mật thiết với nhà trường
có khả năng lớn trong việc dạy các em học ở nhà vì 2/3 thời gian học sinh ở nhà với
gia đình. Là cầu nối giữa phụ huynh với giáo viên để thống nhất mục tiêu giáo dục.
Phụ huynh tích cực trong hoạt động nhà trường cũng góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục. Vì thế, ngay từ đầu năm nhà trường tổ chức cho giáo viên họp phụ
huynh học sinh để tuyên truyền thông tin cũng như thu thập thông tin và đó chính là
cầu nối liên kết để cùng nhau hướng dẫn các em cách học đạt hiệu quả. Song, giáo
viên cũng thường xuyên phối hợp với các giáo viên bộ môn, đội Thiếu niên Tiền

phong Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội có liên quan trong hoạt động giảng dạy để
cùng giáo dục học sinh của lớp mình chủ nhiệm đạt hiệu quả cao nhất.
* Tính mới và sáng tạo của giải pháp: Học sinh có kĩ năng tự học, tự nghiên
cứu tài liệu để chiếm lĩnh kiến, có kỹ năng làm việc nhóm hiệu quả. Lớp học do học


sinh tự quản và được tổ chức theo hình thức: Cá nhân, cặp đôi, nhóm, lớp. Trong đó,
hình thức nhóm là chủ yếu. Các em học tập trong môi trường thân thiện, học sinh
giỏi đượcphát huy, học sinh yếu kém được giúp đỡ kịp thời. Góp phần tích cực vào
việc đào tạo con người mới, tự tin, năng động, sáng tạo nhằm đáp ứng yêu cầu của
thời đại mới.
3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp:
- Giải pháp này đã được áp dụng thành công trong dạy học Tiếng Việt lớp 4,
nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh trường Tiểu học và đã áp dụng có
hiệu quả tại trường Tiểu học. Có khả năng áp dụng nhân rộng ra các trường Tiểu học
trong toàn tỉnh.
3.4. Hiệu quả lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
giải pháp.
- Hiệu quả kĩ thuật: Với sáng kiến này tôi đã áp dụng tại trường Tiểu học đã
đạt được kết quả rất khả quan. Khả năng đọc của các em tiến bộ rõ rệt, hạn chế rất
nhiều tình trạng đọc chậm, đọc sai do phương ngữ địa phương. Nhiều em biết đọc
diễn cảm thể hiện nội dung bài đọc. Điều đáng nói là học sinh tiếp thu kiến thức một
cách thoải mái.Các em có được niềm vui khi học môn Tiếng Việt. Các em được chơi,
được nói, được thể hiện nhận xét của mình được trao đổi với thầy cô, với bạn bè
trong tiết học. Có thể thấy rõ sự tiến bộ của các em hàng ngày qua sự giao tiếp, qua
bài làm các môn học khác các em trình bày sáng sủa, rõ nghĩa, dễ nhận thấy nhất là
bài làm phân môn Tập làm văn. Qua khảo sát giữa kì 1, Kết quả đạt được như sau:
Tổng số học sinh 27/18 nữ, Trong đó Hoàn thành tốt 6 em (chiếm tỉ lệ 22,2%); Hoàn
thành 16 em (chiếm tỉ lệ 59,3%) ; Chưa hoàn thành 5 em (chiếm tỉ lệ 18,5%). Giữa
học kì 2: Hoàn thành tốt 7 em (chiếm tỉ lệ 25,9%); Hoàn thành 17 em (chiếm tỉ lệ

62,9%); Chưa hoàn thành 3 em (chiếm 11,2%) .
Từ sự tiến bộ đó, giúp các em tự tin hơn trong học tập. Qua đó giúp các em
thêm yêu môn Tiếng việt, yêu thiên nhiên, yêu đất nước, con người. Việc học tốt
môn Tiếng việt còn là cơ sở, là nền tảng giúp các em học tốt các môn học khác.
- Hiệu quả kinh tế: Mô hình trường học mới, ngoài việc đổi mới phương pháp


dạy học, hình thức tổ chức lớp học, việc trang trí, xây dựng các góc của lớp cũng có
vai trò rất quan trọng và phát huy tính cộng đồng trong việc xây dựng lớp học. Giáo
viên chủ nhiệm đã huy động phụ huynh học sinh cùng tham gia trang trí các góc của
lớp. Các phụ huynh phần lớn là nông dân có những thời điểm khá bận rộn song đều
rất nhiệt tình cùng tham gia trang trí lớp học, làm các sản phẩm đặc trưng của địa
phương để trưng bày góc cộng đồng. Mặc khác chính bản thân học sinh tự tin tham
gia học tập, có khả năng tự quản, tự điều hành các hoạt động học tập cũng như các
hoạt động khác.
- Hiệu quả xã hội: Dạy Tiếng Việt mô hình trường học mới là thực hiện đổi
mới đổi mới phương pháp dạy học. Lớp học do học sinh tự quản và được tổ chức
theo hình thức: Cá nhân, cặp đôi, nhóm, cả lớp. Trong đó hình thức nhóm là chủ yếu,
học sinh được học tập trong môi trường thân thiện, thoải mái, luôn được gần gũi với
bạn bè, thầy cô, học sinh giỏi được phát huy, học sinh còn hạn chế, yếu kém được
giúp đỡ kịp thời ngay tại lớp. Góp phần tích cực vào việc đào tạo con người mới tự
tin, năng động, sáng tạo nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại mới. Cha mẹ học sinh
quan tâm đầu tư, tạo mọi điều kiện cho con mình học tập tốt.
- Hiệu quả môi trường: Dạy Tiếng Việt theo mô hình trường học mới giúp
giáo viên mạnh dạn hơn trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Bên cạnh đó học
sinh cũng tiến bộ nhiều trong giao tiếp, kĩ năng sống của các em được phát triển đặc
biệt là hình thành cho học sinh khả năng tự học, tự nghiên cứu tài liệu và tìm hiểu
kiến thức một cách tự giác, chủ động trong học tập. Đó là mục tiêu cần đạt trong
việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường.Và trên hết, có lẽ là sự
trưởng thành của tất cả các em học sinh trong lớp và sự trưởng thành đó là nền tảng

giúp các em học tốt hơn ở cấp học sau.
3.5. Tài liệu kèm theo gồm:
- Đơn xin công nhận sáng kiến cấp cơ sở.
- Một bảng so sánh số liệu trước và sau khi áp dụng giải pháp.
……….., ngày 10 tháng 4 năm 2019.


Người mô tả

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BẢN SO SÁNH SỐ LIỆU KẾT QUẢ HỌC TẬP LỚP 4A
NĂM HỌC 2018-2019
Tổng số

Kiến thức, kĩ năng
HT
16 em

27/18nữ
Trước khi áp dụng

HTT
6 em

giải pháp
Sau khi áp dụng giải

(22,2%)

8 em

(59,3 % )
19 em

pháp
So sánh tỉ lệ

( 29,7 %)

( 70,3 %)

Tăng 7,5 %

Tăng 11%

%

CHT
5 em
(18,5 %)
0 em

Giảm 18,5 %

Người lập bản


CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN

Kính gửi : Hội đồng sáng kiến huyện
- Họ và tên:

Năm sinh:

- Nơi công tác: Trường Tiểu học
- Chức vụ: Giáo viên
- Trình độ chuyên môn: Cử nhân tiểu học.
Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: Một số giải pháp hướng dẫn học
sinh lớp 4A học tốt môn Tiếng Việt ở trường năm học 2018-2019.
- Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Áp dụng trong ngành Giáo dục.


- Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 16 / 9 /2018.
- Mô tả bản chất của sáng kiến:
+ Về nội dung của sáng kiến: Chúng ta đã biết môn Tiếng Việt có vị trí rất
quan trọng trong chương trình tiểu học.Tiếng Việt là môn học khởi đầu giúp học sinh
chiếm lĩnh tri thức, rèn được năng lực đọc, nghe, nói và viết. Đồng thời môn Tiếng
Việt vừa là phương tiện để học sinh học tập các môn học khác, để học sinh giao tiếp,
tư duy.
*Phương pháp dạy Tiếng Việt với từng loại phân môn:
- Tiết có nội dung Tập đọc: Hướng dẫn cho học sinh xác định nội dung trọng
tâm của tiết học. Ở đây giáo viên hướng dẫn các nhóm thực hiện đúng quy trình: Cá
nhân, cặp đôi, nhóm. Có như vậy học sinh mới được luyện đọc nhiều và tiết học mới
đạt hiệu quả.
+ Rèn kỹ năng tổ chức học tập theo nhóm đạt hiệu quả .
- Tiết học có nội dung Luyện từ và câu:

+ Hướng dẫn học sinh làm việc cá nhân.
+ Hướng dẫn học sinh rút ra bài hoc. Sau đó giáo viên đến các nhóm gợi ý
thông qua những câu hỏi nhằm vừa khắc kiến thức cho học sinh.
- Tiết học có nội dung Chính tả:
+ Hướng dẫn tìm hiểu đoạn chính tả, Sau đó tôi hỏi qua về nội dung bài viết.
Hướng dẫn học sinh tự đánh giá bài của mình và đánh giá bài của bạn
- Tiết học có nội dung Tập làm văn: Tìm tòi, nghiên cứu và tổ chức các trò
chơi hoặc đưa ra các tình huống có vấn đề tạo hứng thú cho học sinh bắt đầu tiết học
+ Hỗ trợ kịp thời học sinh khi gặp khó khăn.
- Tiết học có nội dung Kể chuyện: Là tiết học rèn rất nhiều kĩ năng cho học
sinh. Đặc biệt thông qua tiết học này sẽ giúp các em tự tin, cởi mở hơn trong học tập,
đó là điều giúp cho quá trình tự học được tốt hơn.
3.3. Khả năng áp dụng của sáng kiến:
- Giải pháp này đã được áp dụng thành công trong dạy học Tiếng Việt lớp 4,
nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh trường Tiểu học và đã áp dụng có


hiệu quả tại trường Tiểu học.Có khả năng áp dụng nhân rộng ra các trường Tiểu học
trong toàn tỉnh.
3.4. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Phòng học thoáng mát, đủ ánh sáng, bàn ghế phù hợp với học sinh. Chương
trình, nội dung tài liệu hướng dẫn học theo mô hình trường học mới Việt Nam.
3.5 Hiệu quả lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
giải pháp.
- Hiệu quả kĩ thuật: Khả năng đọc của các em tiến bộ rõ rệt. Học sinh tiếp thu
kiến thức một cách thoải mái. Các em có được niềm vui khi học môn Tiếng Việt.
Qua đó giúp các em thêm yêu yêu thiên nhiên, yêu đất nước, con người.
-Hiệu quả kinh tế: Mô hình trường học mới phát huy tính cộng đồng trong
việc xây dựng lớp học. Giáo viên chủ nhiệm đã huy động phụ huynh cùng tham gia
trang trí các góc của lớp, làm các sản phẩm đặc trưng của địa phương để trưng bày

góc cộng đồng.
- Hiệu quả xã hội: Lớp học do học sinh tự quản các em được học tập trong
môi trường thân thiện, học sinh giỏi được phát huy, học sinh yếu được giúp đỡ. Góp
phần tích cực vào việc đào tạo con người mới tự tin, năng động, sáng tạo nhằm đáp
ứng yêu cầu của thời đại mới.
- Hiệu quả môi trường: Giúp kĩ năng sống của các em được phát triển, hình
thành cho học sinh khả năng tự học, tự nghiên cứu tìm hiểu kiến thức một cách tự
giác, chủ động trong học tập. Đó là mục tiêu cần đạt trong việc nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện trong nhà trường. nền tảng giúp các em học tốt hơn ở cấp học sau.
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và
hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
……….., ngày 10 tháng 4 năm 2019
Người nộp đơn




×