Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Luận văn cái vắng mặt trong sáng tác của franz kafka

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ HỒNG THU

CÁI VẮNG MẶT TRONG SÁNG TÁC
CỦA FRANZ KAFKA

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ HỒNG THU

CÁI VẮNG MẶT TRONG SÁNG TÁC
CỦA FRANZ KAFKA
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 8 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Trƣơng Đăng Dung

HÀ NỘI, 2018



LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu cũng nhƣ hoàn thành luận
văn, tác giả luận văn xin đƣợc chân thành cảm ơn BGH trƣờng Đại học Sƣ
phạm Hà Nội 2, khoa đào tạo sau đại học trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2,
cùng các thầy, cô giáo, cán bộ giảng viên đã giảng dạy, giúp đỡ và hƣớng dẫn
tận tình cho tác giả.
Xin cảm ơn sự giúp đỡ và ủng hộ của Ban giám hiệu và cán bộ giáo
viên của trƣờng THPT Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
Đặc biệt, tác giả luận văn xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
PGS.TS Trƣơng Đăng Dung - ngƣời thầy đã tận tình chỉ bảo, hƣớng dẫn, giúp
đỡ tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.
Dù đã hết sức cố gắng trong quá trình thực hiện đề tài, song chắc chắn
luận văn không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tác giả rất mong nhận
đƣợc sự chia sẻ và những ý kiến đóng góp quý báu từ các thầy cô giáo và các
bạn đọc để luận văn đƣợc hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn
Hà Nội, tháng 09 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hồng Thu


LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Nguyễn Thị Hồng Thu- học viên lớp cao học khóa 20, chuyên
ngành Lí luận văn học, trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2.
Tôi xin cam đoan, những gì mà tôi trình bày trong luận văn là do sự tìm
hiểu và nghiên cứu của bản thân trong suốt quá trình học tập và công tác. Mọi
kết quả nghiên cứu cũng nhƣ ý tƣởng của các tác giả khác nếu có đều đƣợc
trích dẫn nguồn gốc cụ thể.

Luận văn này cho đến nay chƣa đƣợc bảo vệ tại bất kỳ một hội đồng
bảo vệ luận văn thạc sĩ nào và chƣa đƣợc công bố trên bất kỳ một phƣơng tiện
thông tin nào.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những gì mà tôi đã cam đoan ở
trên.
Hà Nội, tháng 09 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hồng Thu


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 11
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 11
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 12
6. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................. 12
7. Những đóng góp của luận văn .................................................................... 13
8. Cấu trúc của luận văn .................................................................................. 13
NỘI DUNG ..................................................................................................... 14
CHƢƠNG 1. KHÁI LƢỢC VỀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC VÀ HIỆN ĐẠI
TRONG VĂN HỌC ........................................................................................ 14
1.1. Chủ nghĩa hiện thực và hiện đại............................................................... 14
1.1.1. Chủ nghĩa hiện thực .............................................................................. 14
1.1.2. Chủ nghĩa hiện đại ................................................................................ 26

1.2. Sự xuất hiện của Franz Kafka .................................................................. 38
1.2.1. Tiểu sử cuộc đời .................................................................................... 38
1.2.2. Sự nghiệp văn chương ........................................................................... 40
CHƢƠNG 2. CÁI VẮNG MẶT NHƢ LÀ NỘI DUNG CỦA PHẢN ÁNH
HIỆN THỰC ................................................................................................... 47
2.1. Quan niệm của F.Kafka về văn học và hiện thực .................................... 47
2.2. Sự “hiện diện” của cái vắng mặt trong sáng tác của F.Kafka .................. 53
2.2.1. Thiết chế quyền lực quan liêu, độc đoán .............................................. 53


2.2.2. Thích ứng như là hình thức của sự tha hóa .......................................... 61
CHƢƠNG 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CÁI VẮNG MẶT TRONG SÁNG
TÁC CỦA FRANZ KAFKA .......................................................................... 75
3.1. Thủ pháp nghịch dị- phi lí ........................................................................ 75
3.2. Thủ pháp huyền thoại hóa ........................................................................ 90
3.2.1. Huyền thoại hóa không gian ................................................................. 93
3.2.2. Huyền thoại hóa thời gian ..................................................................... 96
KẾT LUẬN ................................................................................................... 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 106


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thiên tài văn chƣơng Franz Kafka (1883-1924) là một trong những
nhà văn lớn của thế kỉ XX. Tên tuổi, tầm cỡ của Kafka đƣợc ví với đại văn
hào Nga F.M.Dostoyevsky và đƣợc xếp ngang hàng với James Joyce và
Marcel Proust- những bậc thầy cách tân, mở đƣờng cho nền văn xuôi hiện đại.
Thậm chí, Franz Kafka còn đƣợc coi là “Ngƣời viết Kinh thánh hiện đại” khi
tác phẩm của ông “vừa là chỗ dựa về tinh thần vừa là đối tƣợng để con ngƣời

soi chiếu bản thể mình”. Các sáng tác của Kafka đem đến những quan niệm
mới về con ngƣời và hiện thực, về đặc trƣng của phản ánh nghệ thuật, mang
đến kiểu tƣ duy mới cho tiểu thuyết. Quan trọng hơn cả những sáng tác của
Kafka còn mở ra cho ngƣời đọc những khả năng mới trong việc tiếp nhận văn
học. Nói cách khác, Kafka có vai trò quan trọng trong việc tạo ra bƣớc đột
phá cho lịch sử văn học nhân loại, góp phần vƣợt lên những giới hạn của chủ
nghĩa hiện thực thế kỉ XIX và đƣa chủ nghĩa hiện đại thế kỉ XX lên ngôi. Lựa
chọn đề tài Cái vắng mặt trong sáng tác của Franz Kafka, ngƣời viết mong
muốn sẽ làm nổi bật những đóng góp của F.Kafka- nhà văn hiện đại xuất sắc
này cho văn chƣơng nhân loại qua cách phản ánh hiện thực độc đáo, mới mẻ.
1.2. Những sáng tác của Kafka có sức ảnh hƣởng mạnh mẽ đến văn học
nhân loại ngay trong thế kỉ ông sống và viết. Không chỉ vậy, trong những năm
của thế kỉ XXI này, tác phẩm của Kafka vẫn có ảnh hƣởng to lớn đến các nhà
văn hiện đại, hậu hiện đại trên thế giới và Việt Nam. Các nhà văn thế giới ảnh
hƣởng từ Kafka nhƣ Camus, Becket, Marques, Cao Hành Kiện…Các nhà văn
Việt Nam chịu ảnh hƣởng từ Kafka nhƣ Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy
Thiệp…Bởi vậy, khi nghiên cứu cách phản ánh hiện thực qua những yếu tố
vắng mặt trong sáng tác của Kafka không những giúp chúng tôi hiểu rõ hơn


2
những tinh hoa văn học nƣớc ngoài mà còn hiểu thêm diện mạo, quá trình
phát triển của văn học Việt Nam đƣơng đại.
1.3. Thứ nữa, xuất phát từ lòng yêu mến và ngƣỡng mộ với thiên tài
văn chƣơng Kafka mà tác giả luận văn luôn trăn trở cần phải đọc, phải tìm
hiểu thêm về Kafka, về các sáng tác của ông nhƣ một động lực tự thân luôn
thôi thúc không ngừng. Những điều Kafka nói về quan liêu, tham nhũng, độc
tài, tha hóa, phi lí luôn đúng trong mọi thời đại vì nó là phần tất yếu của xã
hội loài ngƣời. Và dù Kafka đem đến cho chúng ta cái nhìn cuộc đời từ phía
bóng tối, từ sự u ám, tối tăm khi con ngƣời bị lƣu đày trong sự phi lí, cô đơn,

lo âu, tha hóa thì Kafka vẫn vô cùng tuyệt vời bởi ông đã chỉ ra cho chúng ta
(đúng hơn là “tẩy não” chúng ta) cách hoàn thiện nhân cách để vƣơn tới
những điều tốt đẹp, những CHÂN- THIỆN- MĨ của cuộc đời vốn đầy rẫy
những xấu xa, tội lỗi. Đọc tác phẩm của Kafka độc giả luôn sống trong tâm
thế cần phải tự vấn, cần phải nhìn nhận lại mình trong từng khoảnh khắc để
khắc phục những điều chƣa tốt đẹp trong từng suy nghĩ, hành vi của chính
mình. Điều này khiến tác phẩm của ông có ý nghĩa hơn bao giờ hết vì suy cho
cùng thì “văn học là nhân học”.
1.4. Lựa chọn đề tài Cái vắng mặt trong sáng tác của Franz Kafka
ngƣời viết hi vọng sẽ tích lũy đƣợc nhiều tri thức và phƣơng pháp nghiên cứu
khoa học để phục vụ cho quá trình giảng dạy và nghiên cứu sau này.
2. Lịch sử nghiên cứu
Franz Kafka là một nhà văn vĩ đại của văn chƣơng nhân loại. Từ lâu,
con ngƣời và sự nghiệp của Kafka đã trở thành đối tƣợng nghiên cứu, cảm
hứng sáng tạo của nhiều nhà khoa học cũng nhƣ các nghệ sĩ. Và công việc
này vẫn luôn đƣợc tiếp tục, tái diễn và chƣa hề có dấu hiệu dừng lại. Ở đây,
chúng tôi xin trình bày một số công trình nghiên cứu về Kafka và tác phẩm
của ông có liên quan đến vấn đề của luận văn mà chúng tôi có dịp tham khảo.


3
Trong luận văn này chúng tôi xin trình bày lịch sử nghiên cứu, phê bình về
Kafka theo hƣớng: đầu tiên là lịch sử nghiên cứu về Franz Kafka trên thế giới
và sau đó là lịch sử nghiên cứu Franz Kafka ở Việt Nam.
2.1. Lịch sử nghiên cứu về Franz Kafka trên thế giới
Sinh thời, dù có niềm đam mê văn chƣơng cháy bỏng nhƣng Kafka
luôn phải giấu kín vì những kì vọng và áp lực từ phía ngƣời cha. Ông không
thể tự do thỏa sức sáng tạo giống nhƣ nhiều nhà văn khác. Kafka cũng lặng lẽ
bƣớc vào văn đàn thế giới với một vài truyện ngắn đƣợc in ấn, phát hành.
Trƣớc khi qua đời ông để lại di nguyện cho Max Brod (ngƣời bạn thân của

Kafka) rằng hãy đốt hết tác phẩm của mình. Nhƣng Max Brod đã không làm
thế, bởi vậy mà toàn nhân loại may mắn có đƣợc gia tài văn chƣơng quý báu
của F.Kafka.
Khi các tác phẩm của Kafka đƣợc công bố rộng rãi thì các nhà phê bình
đã có những đánh giá rất cao với những tác phẩm của ông. Milena Jesenka
trên báo Nhân dân của Tiệp Khắc viết rằng những cuốn sách của Kafka “đã
để lại một ấn tƣợng về thế giới hoàn chỉnh đến nỗi ngƣời ta không thể thêm
vào đó một chữ nào” [60, tr.645]. Thêm vào đó là “ông đã viết những cuốn
sách có ý nghĩa nhất của nền văn chƣơng Đức hiện đại, những cuốn sách cƣu
mang trong nó sự chiến đấu của thế hệ hôm nay và xuyên suốt thế
giới…Chứng thực, trần trụi, và đau thƣơng nên hết đỗi tự nhiên ngay cả khi
có tính biểu tƣợng. Chúng đầy sự khô cằn và là cảm quan của một ngƣời nhìn
thế giới một cách rõ ràng đến không thể chịu đựng đƣợc nó” [35, tr.1].
Năm 1933 tác phẩm của Kafka đƣợc giới thiệu và dịch thuật rộng rãi ở
nƣớc ngoài. Còn từ năm 1939, ông có ảnh hƣởng mạnh mẽ ở phƣơng Tây vì
theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu thì từ những năm ấy “thế giới bắt đầu
giống thế giới của Kafka” [60, tr.645]. Năm 1939 cũng đánh dấu bằng một sự
kiện nổi bật gây chấn động đến toàn thế giới đó là chiến tranh thế giới thứ hai


4
bùng nổ. Cả nhân loại băn khoăn “tìm đáp số cho bài toán cuộc đời trƣớc bão
tố Đại chiến thế giới thứ hai” [60, tr.645] thì các tác phẩm của Kafka có ảnh
hƣởng mạnh mẽ đến phƣơng Tây nói riêng và toàn thế giới nói chung. Ngƣời
ta bỗng nhận ra rằng “thế giới bắt đầu gặp gỡ Franz Kafka và định ngữ K. rời
bỏ lĩnh vực văn chƣơng để áp dụng vào cuộc sống hàng ngày”. Kể từ đây, tên
tuổi và tác phẩm của Kafka nhƣ một thanh nam châm thu hút rất nhiều cây
bút nghiên cứu, phê bình trên toàn thế giới.
Trong bài Phong cách và thời đại huyền thoại thì Hecman Brotso đề
cập đến việc Kafka tiếp cận hiện thực bằng huyền thoại và với thủ pháp này

Kafka đã tạo ra những hiệu quả thẩm mĩ có giá trị. Ông khẳng định thời văn
học hiện đại phải “quay về với huyền thoại” theo gƣơng của Kafka [75, tr.32].
M.Melentinski trong bài Thi pháp huyền thoại cũng khẳng định huyền
thoại là vấn đề then chốt nổi bật trong sáng tác của Kafka. Với những nghiên
cứu kĩ lƣỡng, sâu sắc về thế giới nghệ thuật của Kafka, M.Melentinski nhận
định tác phẩm của Kafka là “sự biến cải siêu tƣởng thế giới đời thƣờng” [53,
tr.472].
Tiếp đó, nhà viết kịch nổi tiếng Becton Brecht trong công trình Viết về
nghệ thuật lại đề cao khả năng tiên tri, dự báo tiên tài của Kafka qua những
cái phi lí mà ông đề cập đến trong tác phẩm của mình “Ngƣời ta đã tìm thấy ở
ông đằng sau những hóa trang rất kì cục, những linh cảm về nhiều điều mà
vào thời những cuốn sách của ông xuất hiện thƣờng chỉ có một vài ngƣời
nhận thấy đƣợc mà thôi” [60, tr.646]. Và một đại biểu của trào lƣu tiểu thuyết
mới cũng thừa nhận khả năng dự báo trác tuyệt của Kafka “Kafka là thiên tài
của thời đại chúng ta, Kafka là nhà tiên tri báo trƣớc kỉ nguyên của con ngƣời
phi lí, con ngƣời không có sự sống” [75, tr.32].
Năm 1963 tại Hội nghị Quốc tế về Kafka tổ chức tại Lipbice (Tiệp
Khắc trƣớc đây) thì nhà văn Pháp đồng thời là nhà lí luận mác-xít Roger


5
Garaudy trong hai công trình Về chủ nghĩa hiện thực không bờ bến (1963) và
Vì một chủ nghĩa hiện thực của thế kỉ XX (1968) đã khẳng định Kafka là hình
mẫu, là đại diện tiêu biểu cho phƣơng pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa.
Trong hai công trình này Roger Garaudy khẳng định chắc chắn cái độc đáo
của Kafka là việc ông mở ra những chiều kích mới của hiện thực thông qua
những cái phi lí, quái dị và với thủ pháp huyền thoại ông đã sáng tạo ra một
“hiện thực có tầm Prometheus”. Đồng thời, tác phẩm của Kafka còn mang
tính chất dự báo về trạng thái tồn tại của con ngƣời hiện đại. Cũng trong hội
nghị này, Ernst Fischer- nhà lí luận mác- xít này cho rằng Kafka tiêu biểu cho

phƣơng pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa- một hiện thực độc đáo trong thời
đại mới chứ không phải là hiện thực cổ điển. Ông tập trung khảo sát các chi
tiết trong tác phẩm của Kafka để thấy vấn đề trung tâm trong các sáng tác của
nhà văn Tiệp Khắc gốc Do Thái này là sự tha hóa của con ngƣời hiện đại. Từ
đó, Ernst Fischer cũng đặt ra thái độ ứng xử của những nhà văn mác-xít với
Kafka và tác phẩm của ông.
Milan Kundera- nhà văn gốc Tiệp nhƣng viết văn bằng tiếng Pháp cũng
giống nhƣ nhiều nhà nghiên cứu khác khẳng định thủ pháp huyền thoại hóa và
cái phi lí là đặc trƣng cơ bản trong thế giới nghệ thuật của Kafka. Ông chỉ ra
lối kể chuyện bằng chiêm bao của Kafka nhƣ sau “Các tiểu thuyết của Kafka
là sự hợp nhất không có kẽ hở giữa giấc mơ và thực tại. Vừa là cái nhìn sáng
suốt nhất về thế giới hiện đại, vừa là sự tƣởng tƣợng dữ dội nhất. Kafka, ấy
trƣớc hết là một cuộc cách mạng mĩ học mênh mông. Một kì diệu nghệ thuật”
[44, tr.85]. Ông cũng gọi lối kể chuyện này của Kafka bằng những khái niệm
“logic bị đảo ngƣợc”, “trộn lẫn cái mơ và cái thật”, “tiếng gọi của giấc
mơ”…Để làm đƣợc điều đó, Milan Kundera khẳng định Kafka phải có một trí
tƣởng tƣợng vô cùng phong phú “sự tƣởng tƣợng bị ngủ quên trong thế kỉ
XIX đƣợc Franz Kafka thình lình đánh thức dậy, và ông đã thành công trong


6
cái việc mà những nhà siêu thực sau ông đã cố sức nhƣng không thực sự làm
đƣợc: trộn lẫn cái mơ và cái thật” [43, tr.23]. Cũng trong tiểu luận này, Milan
Kundera đề cao sự cách tân mạnh mẽ của Kafka trong cái nhìn và phƣơng
thức phản ánh hiện thực so với các nhà hiện thực chủ nghĩa thế kỉ XIX.
Còn trong bài viết Về sáng tác của Franz Kafka A.Karelski cũng có
những đánh giá rất cao về cái phi lí mà Kafka thể hiện trong tác phẩm của ông
“phá hủy các khải niệm và cấu trúc văn học nghệ thuật truyền thống” để “kể
nhiều điều quan trọng về thời đại ông” và với “tính phi logic, tính rời rạc, tính
phi lí quá quắt, đầy phẫn khích của nội dung chính là cuộc cách mạng thầm

lặng của Kafka” [42, tr.178].
Có thể nhận thấy, hầu hết các công trình, các bài viết thì ngƣời sáng tác
và nhà nghiên cứu đều khẳng định Kafka có những đóng góp mới mẻ và độc
đáo trong việc phản ánh hiện thực qua thủ pháp nghệ thuật đặc trƣng là huyền
thoại hóa và cái phi lí. Đồng thời, tác phẩm của Kafka còn cho thấy trạng thái
hiện tồn của con ngƣời thời hiện đại khi bị bủa vây, bị lƣu đày trong nỗi cô
đơn, trong tâm trạng bất an, sự tha hóa và ám ảnh về cái chết…Quả thực, với
thế giới nghệ thuật của mình, Kafka đã mở ra những nhận thức mới mẻ, ý
nghĩa về mối quan hệ giữa văn học hiện thực, thay đổi tƣ duy phản ánh hiện
thực.
2.2. Lịch sử nghiên cứu về Franz Kafka ở Việt Nam
Bắt đầu từ những năm 60 của thế kỉ XX, Franz Kafka bắt đầu đƣợc chú
ý trong văn học Việt Nam qua hoạt động nghiên cứu, dịch thuật. Tuy nhiên,
ban đầu những đánh giá về Kafka còn mang nặng tính chất phê phán, phủ
nhận. Có thể kể đến hai công trình phê bình nghiên cứu của Hoàng Trinh và
Đỗ Đức Hiểu. Giáo sƣ, viện sĩ Hoàng Trinh trong Phương Tây, Văn học và
con người đã viết rất chi tiết về thủ pháp huyền thoại, về con ngƣời tha hóa
trong sáng tác của Kafka qua việc phân tích khái quát một số tác phẩm của


7
Kafka nhƣ Lâu đài, Hóa thân, Vụ án. Giáo sƣ Hoàng Trinh khẳng định thế
giới hiện thực của Kafka là “thế giới ảo ảnh”, “thế giới huyền thoại”…Bên
cạnh đó, tác giả Hoàng Trinh còn chỉ ra những điều mà ông cho là nhƣợc
điểm của Kafka: tác phẩm của Kafka “là nơi cƣ trú tối tăm của những tƣ
tƣởng tôn giáo, của các loại triết học siêu hình mà Franz Kafka đã tiếp nhận
đƣợc ở các bậc thầy trong trƣờng phái Praha ngày trƣớc” [75, tr.26]. Trong
Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa giáo sƣ Đỗ Đức Hiểu khẳng định vị trí
tiên phong của Kafka trong dòng văn học hiện sinh và hiện thực cuộc sống
trong tác phẩm của nhà văn Tiệp Khắc gốc Do Thái này là việc con ngƣời bị

áp bức, đọa đày do chế độ quan liêu, bất công gây ra. Cũng giống nhƣ giáo sƣ
Hoàng Trinh, giáo sƣ Đỗ Đức Hiểu cũng đã đƣa điểm hạn chế trong tác phẩm
của Kafka là “ý thức bị thủ tiêu, con ngƣời đã chết, con ngƣời vô hình chỉ còn
lại những bóng dáng trìu tƣợng của con ngƣời bị sơ đồ hóa, cái tôi trở thành
“cái ngƣời ta” và hòa tan trong một thế giới vô danh” [33, tr.86].
Trên văn đàn công khai miền Nam Việt Nam trƣớc năm 1975, trong
các công trình nghiên cứu về các sáng tác của Kafka nổi bật nhất là cuốn sách
Ý thức mới trong văn nghệ và triết học của Phạm Công Thiện. Có thể nói
Phạm Công Thiện là một trong những ngƣời có đóng góp quan trọng trong
việc giới thiệu và hƣớng dẫn đọc Kafka ở miền Nam. Ông nhận thấy những
vấn đề của chủ nghĩa hiện sinh trong sáng tác của Kafka nhƣ: thân phận của
con ngƣời trần thế, bệnh tật, chết chóc, sự xa lạ với kẻ khác…Đặc biệt, trong
công trình của mình, Phạm Công Thiện đã có những phân tích kĩ lƣỡng về sự
tha hóa của con ngƣời, sự cô đơn của các nhân vật trong sáng tác của Kafka,
những nỗi lo âu hiện tồn, sự lƣu đày do nguồn gốc Do Thái… “Tất cả Kafka
xa- lạ- bị- đày- mất- gốc- phạm- tội đều nằm trong Métamorphose” [74,
tr.500].


8
Sau khi chuyên luận Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa xuất bản thì
những đánh giá về Kafka hầu nhƣ chƣa có sự thay đổi trong một thời gian dài
sau đó. Đến năm 1986, trong công trình nghiên cứu Về tư tưởng và văn học
hiện đại phương Tây của tác giả Phạm Văn Sĩ xuất hiện và vẫn giữ quan điểm
của hai tác giả Hoàng Trinh và Đỗ Đức Hiểu. Thêm vào đó, tác giả Phạm Văn
Sĩ còn lí giải tại sao con ngƣời trong sáng tác của Kafka lại hiện lên với tất cả
sự cô đơn, tội lỗi, phi lí. Theo Phạm Văn Sĩ nó xuất phát từ những ẩn ức trong
cuộc đời của Kafka khi ông mang mặc cảm về thân phận ngƣời Do Thái để từ
đó biến mặc cảm này thành những chủ đề siêu hình về thân phận con ngƣời
[72, tr.315].

Từ năm 1986 đến nay, sự đổi mới tƣ duy và những chuẩn thẩm mĩ mới
đã đem đến cho bạn đọc Việt Nam những tâm thế tiếp nhận mới, làm cho việc
đánh giá, nhìn nhận tác phẩm của Kafka công bằng, tích cực hơn. Những bài
nghiên cứu của các dịch giả, nhà khoa học lớn nhƣ Đặng Anh Đào, Trƣơng
Đăng Dung, Phùng Văn Tửu, Nguyễn Văn Dân, Đỗ Ngoạn, Lê Huy Bắc…đã
khẳng định chắc chắn vị trí xứng đáng của nhà văn hiện đại xuất sắc này,
đồng thời mở ra cơ hội cho độc giả Việt Nam yêu văn học tiếp cận với thế
giới nghệ thuật của Franz Kafka- một trong những tƣợng đài, thành tựu văn
chƣơng độc đáo của nhân loại.
Đầu tiên, có thể nói đến những đóng góp của giáo sƣ Đặng Anh Đào
khi nghiên cứu về Kafka trong cuốn giáo trình Văn học phương Tây. Trong
cuốn giáo trình này bà đã cung cấp một cách khá hoàn chỉnh về tiểu sử cuộc
đời và sự nghiệp văn chƣơng của Kafka. Đồng thời, giáo sƣ Đặng Anh Đào
còn chỉ ra thân phận con ngƣời trong sáng tác của Kafka là nỗi cô đơn, sự lƣu
đày…Bằng việc khảo sát một số tác phẩm nhƣ Vụ án, Hóa thân, Nước
Mĩ…nhà nghiên cứu đã đƣa ra những đánh giá xác đáng về phƣơng diện nghệ


9
thuật trong tác phẩm của Kafka nhƣ vấn đề kết cấu, điểm nhìn, tính chất đa
âm, đối thoại…
Tiếp đó, trong lời giới thiệu bản dịch tiểu thuyết Lâu đài, PGS.TS
Trƣơng Đăng Dung- dịch giả, nhà nghiên cứu đã đƣa ra những nhận định đầy
giá trị về thế giới nghệ thuật của Franz Kafka khi viết: Franz Kafka là nhà văn
“đã cảm nhận sâu sắc về trạng thái tồn tại của con ngƣời hiện đại, đã thể hiện
bản chất của thời đại mình một cách độc đáo, mở ra những khả năng mới cho
tiểu thuyết hiện đại. Các tác phẩm của F.Kafka là sự lí giải những ấn tƣợng
nghiệt ngã về thế giới phi lí, về sự tha hóa của con ngƣời trong vòng vây của
những thiết chế quyền lực vô hình” [20, tr.247]. PGS.TS Trƣơng Đăng Dung
cũng nói rõ rằng “đối tƣợng trung tâm của thế giới nghệ thuật của Kafka là sự

tha hóa, nỗi lo âu, sự lƣu đày và cái chết” [41,tr.941].
Giáo sƣ Nguyễn Văn Dân trong cuốn sách Văn học phi lí đã khẳng định
cái độc đáo, mới mẻ của Kafka trong bối cảnh văn học đƣơng thời “Đó là việc
Kafka đã khai phá một mảng đề tài khó xử lí: cái phi lí của cuộc đời” [15,
tr.34]. Nhà nghiên cứu cũng chỉ ra những điểm nổi bật trong phong cách nghệ
thuật của Kafka là chủ đề mê cung, nghệ thuật miêu tả cái vắng mặt, nghệ
thuật thông báo cái không thể thông báo, diễn đạt cái không thể diễn đạt…
Giáo sƣ Phùng Văn Tửu trong phần giới thiệu bản dịch tiểu thuyết Vụ
án và trong giáo trình Văn học phương Tây đã rất dụng công khi phân tích
yếu tố huyền thoại nhƣ một số thủ pháp nghệ thuật chủ yếu trong sáng tác của
Kafka. Ngoài ra Kafka còn sử dụng một số thủ pháp khác nhƣ miêu tả không
gian, thời gian…
Trong bài viết Franz Kafka và thân phận cô đơn của con người nhà
nghiên cứu Đỗ Ngoạn khẳng định vấn đề trung tâm mà Kafka quan tâm đó là
vấn đề thân phận con ngƣời. Theo Đỗ Ngoạn, có hai kiểu nhân vật phổ biến
trong sáng tác của Kafka là nhân vật tha hóa và nhân vật cô đơn (ông nhấn


10
mạnh nhiều đến nhân vật cô đơn). “Đó là những con ngƣời nhỏ bé, bị tha hóa,
không có một chút quan hệ nào với xã hội”, “con ngƣời bị tha hóa, vô danh
hóa, bị lu mờ trƣớc sự phát triển ồ ạt của khoa học kĩ thuật”.
Giáo sƣ Lê Huy Bắc trong cuốn sách Nghệ thuật Phran-do Kafka đã rất
công phu khi nghiên cứu kĩ lƣỡng, sâu sắc về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
của Franz Kafka. Trong chuyên luận này, nhà nghiên cứu đã đƣa ra những
nhận định sắc sảo về thế giới nghệ thuật của Kafka “Ngƣời tẩy não nhân loại”
[7, tr.77], “ngƣời khai sinh hiện thực” [7, tr.111]. Cái độc đáo trong nghệ
thuật của Franz Kafka mà giáo sƣ Lê Huy Bắc chỉ rõ là nghệ thuật sử dụng cái
hoang đƣờng, nghệ thuật miêu tả hiện thực gián tiếp, nghệ thuật xây dựng
nhân vật…

Tháng 7 năm 2018 giáo sƣ Lê Huy Bắc cho ra mắt cuốn sách “Franz
Kafka Ngƣời tẩy não nhân loại”- cuốn sách tái bản cuốn Nghệ thuật Phran-do
Kafka nhƣng có bổ sung, sửa chữa. Ở chƣơng 9 của cuốn “Franz Kafka Ngƣời
tẩy não nhân loại” giáo sƣ Lê Huy Bắc bổ sung thêm một nội dung “Con
ngƣời của thời gian” để tiếp tục so sánh những điểm tƣơng đồng và khác biệt
giữa Kafka và Coetzee- nhà văn gốc Đức (hoặc Hà Lan), sinh trƣởng ở Nam
Phi và viết văn bằng tiếng Anh. Còn lại các nội dung khác ở các chƣơng, mục
không có nhiều thay đổi so với cuốn Nghệ thuật Phran-do Kafka.
Từ việc tổng hợp, tìm hiểu các ý kiến, nhận định, đánh giá xung quanh
sáng tác của Kafka chúng ta có thể nhận thấy: Sáng tác của Kafka luôn là sức
hút đối với ngƣời sáng tác và nhà nghiên cứu ở mọi thời đại, mọi quốc gia dân
tộc. Và tất cả đều thừa nhận một điều rằng, Kafka là đại diện tiêu biểu của
chủ nghĩa hiện đại trong văn học. Vấn đề nổi bật trong sáng tác của Kafka là
thân phận, là trạng thái tồn tại của con ngƣời hiện đại, đó là “sự tha hóa, nỗi
lo âu, sự lƣu đày và cái chết” trong xã hội đầy rẫy sự phi lí. Về phƣơng diện
nghệ thuật, Kafka thƣờng sử dụng yếu tố huyền thoại qua những cái hoang


11
đƣờng để phản ánh hiện thực, nghệ thuật xây dựng nhân vật khác với kiểu
nhân vật truyền thống trong chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XIX, nghệ thuật xây
dựng không gian, thời gian…Cách phản ánh hiện thực độc đáo của Kafka
cũng đã đƣợc đề cập tới ở những công trình chung mang tính tổng quát, các
nhà nghiên cứu gọi kiểu phản ánh hiện thực của Kafka là “hiện thực gián
tiếp”…Tuy nhiên, cái độc đáo, mới mẻ của Kafka trong việc phản ánh hiện
thực vắng mặt là thiết chế quyền lực quan liêu độc đoán và thích ứng nhƣ là
hình thức của sự tha hóa lại chƣa đƣợc nghiên cứu một cách kĩ lƣỡng, toàn
diện để thấy đƣợc vai trò của Kafka- ngƣời mở đƣờng cho chủ nghĩa hiện
thực- hiện đại trong văn học. Với chúng tôi, vấn đề còn bị để ngỏ này là
hƣớng tiếp cận cho luận văn để ngƣời viết có cơ hội đi sâu tìm hiểu tài năng

của Kafka trong việc phản ánh hiện thực, góp phần thay đổi tƣ duy tiểu thuyết
và mối quan hệ giữa văn học- hiện thực.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài Cái vắng mặt trong sáng tác của Franz Kafka ngƣời
viết muốn làm rõ nét độc đáo, đặc sắc của Kafka trong việc phản ánh hiện
thực, từ đó khẳng định vai trò to lớn của nhà văn này trong việc mở đƣờng
cho chủ nghĩa hiện đại. Đồng thời thấy đƣợc sự vận động, phát triển của tƣ
duy nghệ thuật qua các thời kì văn học.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trƣớc khi tìm hiểu cái vắng mặt trong sáng tác của Kafka, ngƣời viết sẽ
tìm hiểu khái quát những đặc điểm của chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XIX và chủ
nghĩa hiện đại thế kỉ XX trong văn học. Bên cạnh đó, luận văn sẽ giới thiệu
khái quát về Kafka trên các phƣơng diện: tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp văn
học.
Tiếp đó, luận văn sẽ nghiên cứu cái vắng mặt trong sáng tác của Kafka
nhƣ là nội dung của phản ánh hiện thực. Đó là thiết chế quyền lực quan liêu,


12
độc đoán và sự tha hóa của con ngƣời trong sự bủa vây của những thiết chế
quyền lực vô hình.
Ngoài ra, ngƣời viết còn đi sâu vào những sáng tác của Kafka để thấy
nghệ thuật mô tả cái vắng mặt của nhà văn này thông qua thủ pháp nghịch dịphi lí và thủ pháp huyền thoại hóa.
Tóm lại, thông qua việc tìm hiểu đề tài Cái vắng mặt trong sáng tác
của Kafka, ngƣời viết muốn làm rõ và khẳng định vai trò tiên phong, mở
đƣờng của Kafka đối với sự ra đời của chủ nghĩa hiện đại trong văn học.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Cái vắng mặt nhƣ một nội dung của phản ánh
hiện thực và nghệ thuật mô tả cái vắng mặt qua thủ pháp nghịch dị- phi lí và
thủ pháp huyền thoại hóa không gian- thời gian.

Phạm vi nghiên cứu: Để thực hiện đề tài này, ngƣời viết luận văn khảo
sát, phân tích các tác phẩm trong “Franz Kafka- tuyển tập tác phẩm”, nhà
xuất bản Hội Nhà văn, 2003, bao gồm:
Hóa thân ( Đức Tài dịch)
Vụ án ( Phùng Văn Tửu dịch)
Lâu đài (Trƣơng Đăng Dung dịch)
Các truyện ngắn (13 truyện ngắn), nhật kí, thƣ từ ( nhiều ngƣời dịch).
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề thực hiện đề tài, ngƣời viết vận dụng kết hợp một số phƣơng pháp
nghiên cứu sau để đi đến những kết luận có tính khoa học:
Phƣơng pháp thống kê, phân loại: Đây là phƣơng pháp đƣợc tiến hành
đầu tiên nhằm cung cấp những chi tiết, dữ kiện, số liệu chính xác tạo cơ sở tin
cậy để triển khai các luận điểm trong luận văn.


13
Phƣơng pháp loại hình: Dựa vào đặc trƣng thể loại để định hƣớng tìm
hiểu nhằm làm nổi bật những nét đặc trƣng cũng nhƣ khác biệt của đối tƣợng
khảo sát.
Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: Để khái quát lí thuyết chung chúng
tôi tiến hành phân tích đối tƣợng nghiên cứu là các tác phẩm của F.Kafka để
thấy rõ cái vắng mặt là thiết chế quyền lực quan liêu độc đoán và thích ứng
nhƣ là hình thức của sự tha hóa, sau đó tiến hành tổng hợp các kết quả đã
phân tích.
Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu: So sánh là một thao tác quan trọng của
tƣ duy, một phƣơng pháp hữu hiệu của nghiên cứu khoa học. Chúng tôi sẽ sử
dụng thao tác này để rút ra những điểm chung cũng nhƣ những đặc sắc riêng
của từng tác phẩm trên cơ sở đối chiếu với lí thuyết chung.
7. Những đóng góp của luận văn
Thông qua việc nghiên cứu cách phản ánh hiện thực độc đáo- phản ánh

hiện thực vắng mặt, luận văn khẳng định vai trò tiên phong của Kafka với sự
ra đời của chủ nghĩa hiện đại. Và từ những sáng tác của Kafka còn thấy đƣợc
những dấu hiệu nhận biết quan trọng của chủ nghĩa hiện đại và sự vận động,
biến đổi tƣ duy tiểu thuyết qua mỗi giai đoạn, thời kì văn học.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn ngƣời viết sẽ triển
khai trong 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Khái lƣợc về chủ nghĩa hiện thực và hiện đại trong văn học.
Chƣơng 2: Cái vắng mặt nhƣ là nội dung của phản ánh hiện thực.
Chƣơng 3: Nghệ thuật thể hiện cái vắng mặt trong sáng tác của Franz Kafka.


14

NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
KHÁI LƢỢC VỀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC VÀ HIỆN ĐẠI TRONG VĂN HỌC

1.1. Chủ nghĩa hiện thực- hiện đại
1.1.1. Chủ nghĩa hiện thực
Thuật ngữ “chủ nghĩa hiện thực” là một khái niệm cơ bản của bộ môn lí
luận văn học, đƣợc dùng với nghĩa nhƣ một phƣơng pháp sáng tác, tức là
những nguyên tắc phản ánh có tính chất tƣ tƣởng nghệ thuật của chính trào
lƣu văn học ấy. Trong giới hạn của luận văn, ngƣời viết sẽ đi sâu tìm hiểu
những đặc điểm của chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XIX- thế kỉ mà chủ nghĩa hiện
thực ở thời kì rực rỡ nhất. Bên cạnh đó, khi chỉ ra những đặc điểm và phƣơng
thức phản ánh của chủ nghĩa hiện thực, ngƣời viết không nhằm tôn vinh hay
hạ thấp những giá trị của nó mà chỉ lấy đó làm nền tảng và tiền đề để soi sáng
những đặc trƣng của chủ nghĩa hiện đại- một phƣơng pháp sáng tác ra đời sau
nó và đánh giá vai trò của Franz Kafka- một tác gia lớn của chủ nghĩa hiện

đại.
Vấn đề đầu tiên khi nói tới chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XIX là cơ sở xã
hội và ý thức. Chủ nghĩa hiện thực xuất hiện và phát triển trong điều kiện chế
độ tự bản chiếm địa vị thống trị, phong trào công nhân bắt đầu lớn mạnh.
Quan hệ xã hội và đấu tranh giai cấp trở nên sâu sắc, gay gắt chƣa từng thấy.
Trong đó, mâu thuẫn chủ yếu, nổi lên hàng đầu là mâu thuẫn giữa giai cấp vô
sản và giai cấp tƣ sản. Đặc điểm của tình hình xã hội Châu Âu thời kì này
đƣợc Karl Marx và Friedrich Engels xác đinh rõ “Từ khi có công nghiệp lớn,
ít nhất là từ hòa ƣớc châu Âu năm 1815, ở Anh việc tranh giành quyền thống
trị giữa hai giai cấp – giai cấp quý tộc chiếm hữu ruộng đất và giai cấp tƣ sản
đã trở thành trọng tâm của toàn bộ cuộc đấu tranh chính trị ở nƣớc này…Ở


15
Pháp khi dòng vua Bourbon trở về nƣớc, sự việc giống nhƣ thế cũng phản ánh
vào ý thức mọi ngƣời…Và từ năm 1830 trở đi, ở hai nƣớc ấy, giai cấp công
nhân, tức là giai cấp vô sản, đều đƣợc coi là chiến sĩ thứ ba đấu tranh giành
quyền thống trị” [31,tr.173].
Cụ thể, ở Pháp sau thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Bảy năm 1830,
lật đổ vƣơng triều Bourbon, một nền quân chủ tƣ sản đã đƣợc thành lập. Lúc
này, thực chất chính quyền đã nằm trong tay giai cấp tƣ sản mà trƣớc hết là
bọn tƣ bản tài chính. Trong khi đó, với sự phát triển của hầm mỏ, đƣờng sắt,
máy móc thì giai cấp công nhân ngày càng lớn mạnh. Từ năm 1831 đến năm
1834, ở Pari hay Lyon, công nhân và nhân dân lao động nhiều lần nổi dậy đòi
tăng lƣơng, giảm giờ làm, cải thiện đời sống. Những cuộc đấu tranh này cũng
là nguyên nhân dẫn tới cuộc cách mạng năm 1848 “trận giao chiến lớn đầu
tiên giữa hai giai cấp đối lập trong xã hội đƣơng thời” [31, tr.174]. Ở Anh,
phong trào Hiến chƣơng bắt đầu vào những năm ba mƣơi, đạt tới cao trào vào
những năm bốn mƣơi, đánh dấu sự trƣởng thành của giai cấp công nhân và
tính căng thẳng của mâu thuẫn xã hội. Còn ở Đức, sang những năm bốn mƣơi

công nhân bị bóc lột một cách tàn bạo bởi một giai cấp tƣ sản sinh sau đẻ
muộn đã đứng lên đấu tranh, đặc biệt là cuộc nổi dậy của những ngƣời thợ dệt
vùng Xiledi năm 1844. Tóm lại, chính thực tiễn phát triển xã hội và đấu tranh
giai cấp nhƣ đã trình bày ở trên là cơ sở chủ yếu cho sự ra đời và nảy nở của
chủ nghĩa hiện thực.
Ngoài ra, các phong trào xã hội mãnh liệt cũng tạo cơ sở cho bƣớc phát
triển mạnh mẽ của khoa học xã hội và khoa học tự nhiên lúc bấy giờ. Đó là
tiền đề để các nhà văn hiện thực thế kỉ XIX trang bị “một trình độ tri thức
nhất định về thế giới” để có thể luôn nhìn thẳng vào sự thật, tránh bệnh ảo
tƣởng hoặc phiến diện. Trƣớc hết về mặt sử học, các tác phẩm của Ghido,
Minnhe, Chieri đã phê phán các sử gia phong kiến quan niệm rằng chế độ


16
phong kiến là vĩnh hằng bất biến, thắng lợi của cuộc cách mạng năm 1789 chỉ
là ngẫu nhiên và sẽ bị đảo ngƣợc. Họ đã chứng minh rõ ràng sự thắng lợi của
giai cấp tƣ sản đối với giai cấp phong kiến quý tộc là một tất yếu lịch sử. Về
mặt xã hội học, các nhà xã hội không tƣởng nhƣ Saint Simon, Charles
Fourier, Robert Owen phân tích khá sâu sắc những mâu thuẫn của xã hội tƣ
bản. Về triết học, phép biện chứng của Hegel, chủ nghĩa duy vật của
Feuerbach, chủ nghĩa xã hội khoa học của Karl Marx và Engels là một bƣớc
ngoặt trọng đại trong lịch sử tƣ tƣởng nhân loại, đã đƣa chủ nghĩa duy vật lên
đỉnh cao chƣa từng có trƣớc chủ nghĩa Marx. Còn về khoa học tự nhiên,
không thể không nhắc tới thuyết tế bào, học thuyết tiến hóa luận của Charles
Darwin- một thuyết hoàn chỉnh về sự tiến hóa của các loài trong giới động
vật, gây nên một bƣớc ngoặt lớn trong khoa học, phá tan quan niệm về sự bất
động, bất biến của các hình thái trong tự nhiên đã ngự trị hàng bao thế kỉ. Tất
cả những đặc điểm về tình hình xã hội và những thành tựu của các ngành
khoa học nói trên tạo nền tảng quan trọng cho sự phát triển của chủ nghĩa hiện
thực thế kỉ XIX, là tiền đề để các nhà văn nhận thức về bản chất của hiện thực

một cách khách quan và sâu sắc nhất.
Vấn đề tiếp theo khi nói đến chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XIX là các
nguyên tắc mĩ học của chủ nghĩa hiện thực. Thứ nhất, mĩ học của hiện thực
chủ nghĩa coi trọng tính khách quan của sự thể hiện nghệ thuật. Cuộc sống
đƣợc phản ánh trong tác phẩm là thực tại khách quan sống động, phát triển
trong thế giới, trong cuộc đời chứ không phải là sự tồn tại trong ý niệm, trong
tƣ tƣởng nhƣ các trào lƣu khác. Thực tiễn cuộc sống đóng vai trò to lớn trong
sáng tác của các nhà văn hiện thực. Văn học phản ánh hiện thực theo hình
thức trọn vẹn và trực tiếp của cuộc sống, là sự mô phỏng thực tại khách quan
đƣợc coi là quy luật nghệ thuật có từ thời Aristote. Thời cổ đại, trong tác
phẩm Nghệ thuật thi ca, Aristote đã khẳng đinh nghệ thuật là sự mô phỏng.


17
Sự mô phỏng không chỉ diễn ra trong thi ca mà còn thể hiện trong nhiều loại
hình nghệ thuật khác nhƣ điêu khắc, hội họa, kiến trúc, âm nhạc…Và cũng
cần hiểu đúng về quan niệm nghệ thuật là sự mô phỏng của Aristote. Theo
Aristote mô phỏng ở đây không phải là sự bắt chƣớc một cách máy móc một
cách khiên cƣỡng, sao chép y nguyên hiện tƣợng, sự vật trong đời sống vào
tác phẩm theo cảm quan của ngƣời nghệ sĩ. Ông cho rằng cần phải biết phân
biệt cách thức và đối tƣợng mô phỏng và kết quả của sự mô phỏng phải đem
lại sự thích thú cho con ngƣời “Vật đƣợc miêu tả làm cho thích thú không
phải là bản thân sự mô phỏng mà là ở chỗ kĩ xảo hoặc do màu sắc, hoặc do
nguyên nhân nào đó cùng loại”. Aristote cũng khẳng định thêm thế giới này là
có thực và văn nghệ mô phỏng thế giới ấy, nghệ thuật trong khi bắt chƣớc
hiện thực và giúp vào việc nhận thức hiện thực. Nghệ thuật phản ánh hiện
thực theo hình thức trọn vẹn, trực tiếp cuộc sống, là sự mô phỏng thực tại
khách quan. Có lẽ, những sáng tác của các nhà hiện thực chủ nghĩa Châu Âu
nửa sau thế kỉ XIX là sự phát triển đỉnh cao quan niệm nghệ thuật trên của
Aristote.

Các nhà văn hiện thực đã coi việc tái hiện cuộc sống trong những hình
thức của nó nhƣ một trong những nguyên tắc mĩ học quan trọng nhất và nhƣ
sứ mệnh của ngƣời cầm bút. Về mặt tƣ duy, cái đẹp đƣợc gắn với cái thật, sự
chân thật, sự thật nhƣ một phạm trù thẩm mĩ đã thể hiện một bƣớc rất dài
trong tƣ duy nghệ thuật nhân loại. Nhiều nhà nghiên cứu hay trích dẫn câu nói
của E.Kant “vẻ đẹp không phải ở trên đôi má của ngƣời thiếu nữ mà ở trong
cặp mắt của gã si tình” để nói về tƣ duy chủ quan của ngƣời đánh giá cái đẹp.
Điều này hoàn toàn khác so với quan niệm về cái đẹp của văn học hiện thực.
Nói nhƣ L.Tolstoi thì nhân vật của ông “đã, đang và sẽ mãi mãi là đẹp. Đó là
sự thật”, câu nói ấy là quan điểm mĩ học của L.Tolstoi cũng là tuyên ngôn mĩ
học của chủ nghĩa hiện thực. V.Belinsky cho rằng nghệ sĩ không cần lí tƣởng


18
hóa thực tại, có thể trong tác phẩm của nghệ sĩ chỉ có cái xấu nhƣng một khi
tất cả những điều đó đều là sự thật thì bản thân nó cái đẹp vì “ở đâu có sự
thật, ở đó có thi ca”. Ông còn khẳng định chƣa bao giờ khoa học lịch sử lại
quan trọng nhƣ ở thời đại ông sống vì chỉ có bằng nhãn quan lịch sử, thấm
nhuần quan điểm lịch sử thì nghệ sĩ mới có thể nhìn nhận và đánh giá cuộc
sống, con ngƣời một cách chân thật: không sáng tác gì thêm, không nhìn hiện
thực theo những thiên kiến chủ quan mà “họa lại” đời sống nhƣ nó đã diễn ra.
Quan điểm này sẽ chi phối nguyên tắc phản ánh hiện thực. Điều này khác với
cái đẹp của văn học lãng mạn, nó mang dấu ấn chủ quan, phụ thuộc vào tâm
trạng của ngƣời viết. Cái đẹp của văn học lãng mạn, dù là vẻ đẹp của con
ngƣời hay tự nhiên, là vẻ đẹp của những sự việc, con ngƣời, cảnh sắc mà
ngƣời nghệ sĩ cho nó là đẹp trong quan hệ với ngƣời nghệ sĩ chứ không phải
nó đẹp trong các quan hệ với thế giới theo đúng logic của sự vật.
Để có thể viết về hiện thực “một cách chính xác và mạnh mẽ” đòi hỏi
ngƣời nghệ sĩ trƣớc hết phải có một nhãn quan về đời sống mang đậm tinh
thần hiện thực, mang cảm quan lịch sử, thấm đƣợm chủ nghĩa nhân đạo.

Nghĩa là anh phải nhìn cuộc sống không phải từ góc nhìn cá nhân, từ quan
niệm đạo đức, không từ những thiện cảm và ác cảm cá nhân mà làm mất đi
tính khách quan của sự vật, không đem “tâm, chí, đạo” mà nhìn hiện thực
theo cách nói của giáo sƣ Trần Đình Hƣợu mà phải “đối mặt với nó, phân tích
và nghiên cứu nó” với đầu óc của một nhà duy vật, xem xét cuộc sống của
con ngƣời không từ góc nhìn nào khác ngoài góc nhìn về hiện thực theo
những mối quan hệ có thực, đang chi phối đời sống của nó, theo quan điểm
lịch sử, nghĩa là khảo sát con ngƣời và số phận của nó nhƣ một hiện tƣợng
lịch sử và lí giải số phận của nó theo tinh thần này. Trong ý kiến của
Turgenev có hai điều cần chú ý đó là sự tái hiện “chính xác” và “mạnh mẽ”
đời sống hiện thực. Đó là điểm khác biệt quan trong của những nhà hiện thực


19
và những ngƣời không phải là hiện thực. Yêu cầu chính xác khi tái hiện hiện
thực là phải đảm bào phần hiện thực đƣợc tái hiện tạo nên ở ngƣời đọc một
cảm nhận về một “hiện thực nhƣ nó vốn có” và những vấn đề, những nhân vật
phải đƣợc nhìn nhận nhƣ những vấn đề và những con ngƣời gắn với những
thời kì lịch sử nhất định.
Khác với các quan niệm văn học trƣớc đó nhƣ văn học cổ điển, văn học
lãng mạn, văn học hiện thực chọn phƣơng thức “tái hiện cuộc sống” theo
nguyên tắc cuộc sống nhƣ nó là thế chứ không phải cuộc sống nó nên là thế.
Văn học cổ điển, dựa trên lí thuyết mô phỏng, chú trọng đến những nhân vật
lí tƣởng, đề cao tính lí tƣởng, hƣớng tới những cái cao thƣợng, cao cả, anh
hùng. Văn học lãng mạn cũng muốn hƣớng tới những cái kì vĩ, siêu việt
nhƣng đậm dấu ấn chủ quan của ngƣời viết thì văn học hiện thực, cố gắng tạo
ra sự hài hòa, phù hợp giữa yếu tố nội dung và các phƣơng thức biểu đạt nội
dung ấy ở chiều sâu nhất, đầy đủ và độc đáo nhất, tạo ra sự cảm nhận về cuộc
sống nhƣ nó đang diễn ra nhƣng không dàn trải, ngẫu nhiên mà nó ở dạng
điển hình nhất, mang tính quy luật nhất. Nhà nghiên cứu ngƣời Pháp

Z.Todorop đã khái quát nguyên tắc mĩ học mĩ học chủ yếu của văn học hiện
thực trong đó quy tắc về tính giống nhƣ thật đƣợc đƣa lên hàng đầu, trƣớc các
quy tắc về sự thống nhất của bút pháp hoặc tính không mâu thuẫn trong cách
thể hiện. Mỹ học của văn học hiện thực cũng là mĩ học về cái đẹp nhƣng cái
đẹp ở đây lại đƣợc tôn sùng ở cái thật và tất cả những yếu tố làm cho sự tái
hiện cuộc sống trở nên nhƣ thật đều đƣợc coi là những nguyên tắc vàng. Sự
thành công hay thất bại của một tác phẩm, một nhà văn nào đó đều đƣợc bắt
đầu từ đây.
Tuân thủ nguyên tắc mĩ học trên, mỗi tác phẩm văn học trong giai đoạn
này đều thực hiện chung một nhiệm vụ “tái hiện sự thật, thực tại cuộc sống
một cách chân thực và mạnh mẽ…ngay cả khi sự thật ấy không phù hợp với


×