Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Luận văn hồi ký văn học của đặng thai mai, vũ ngọc phan nhìn từ góc độ thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

ĐÀO THỊ HƢƠNG THU

HỒI KÝ VĂN HỌC CỦA ĐẶNG THAI MAI,
VŨ NGỌC PHAN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ THỂ LOẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

ĐÀO THỊ HƢƠNG THU

HỒI KÝ VĂN HỌC CỦA ĐẶNG THAI MAI,
VŨ NGỌC PHAN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ THỂ LOẠI
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 8 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện

HÀ NỘI, 2018




LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình làm luận văn, tôi đã nhận được sự động viên, ủng hộ,
giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới PGS.TS.
Nguyễn Ngọc Thiện người đã tận tâm hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình
thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Sư phạm Hà
Nội II, Phòng Đào tạo Sau đại học, Ban Chủ nhiệm khoa Ngữ văn, các thầy
cô trong tổ lý luận văn học, đã nhiệt tình giảng dạy, giúp đỡ, động viên chúng
tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu, BGH trường THPT Tam Dương, bạn
bè đồng nghiệp đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập.
Hà Nội, ngày 10 tháng 9 năm 2018
Tác giả luận văn

Đào Thị Hƣơng Thu


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung tôi trình bày trong luận văn là kết quả
quá trình nghiên cứu của bản thân tôi.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi có tìm hiểu, tham khảo thành quả khoa
học của các tác giả khác với sự trân trọng và biết ơn, nhưng những nội dung
tôi nghiên cứu không trùng với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.
Hà Nội, ngày 10 tháng 9 năm 2018
Học viên

Đào Thị Hƣơng Thu



MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 3
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 11
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................ 11
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............................................................ 11
6. Phƣơng pháp nghiên cứu.......................................................................... 12
7. Dự kiến đóng góp của luận văn ................................................................ 13
8. Cấu trúc luận văn ...................................................................................... 13
NỘI DUNG ..................................................................................................... 14
CHƢƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỒI KÝ .......................... 14
VÀ HỒI KÝ VĂN HỌC ............................................................................... 14
1.1. Những vấn đề chung về hồi ký .............................................................. 14
1.1.1 Khái niệm hồi ký ................................................................................... 14
1.1.2. Những đặc điểm chung của hồi ký...................................................... 16
1.1.3. Sự phân loại hồi ký .............................................................................. 18
1.2. Những vấn đề chung về hồi ký văn học................................................ 20
1.2.1. Khái niệm hồi ký văn học ................................................................... 20
1.2.2. Đặc điểm của hồi ký văn học ............................................................... 21
1.2.3. Sự phân loại hồi ký văn học ................................................................ 26
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 31
CHƢƠNG 2 : ĐẶC SẮC HỒI KÝ VĂN HỌC CỦA ĐẶNG THAI MAI,
VŨ NGỌC PHAN – NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG ................. 32



2.1. Đặc sắc nội dung hồi ký – tự truyện của Đặng Thai Mai ................... 32
2.1.1. Thời niên thiếu trên quê hương Lương Điền và những kí ức xúc
động về người thân ......................................................................................... 32
2.1.2. Thời thanh niên và quá trình học tập, trưởng thành ......................... 38
`2.1.3. Đến với văn chương và quá trình rèn luyện nghề viết...................... 45
2.2. Đặc sắc nội dung hồi ký văn học hỗn hợp của Vũ Ngọc Phan ........... 46
2.2.1. Một gia đình lớn giàu truyền thống văn hóa, một gia đình nhỏ hạnh
phúc ................................................................................................................. 47
2.2.2. Tái hiện sinh động, chân thực những nét văn hóa của Hà Nội xưa 60
2.2.3. Một đời văn cần mẫn, một sự nghiệp phong phú ............................... 64
2.2.4. Chân dung các bạn văn đương thời .................................................... 71
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 78
CHƢƠNG 3 : ĐẶC SẮC HỒI KÝ ĐẶNG THAI MAI, VŨ NGỌC PHAN
– NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT .......................................... 79
3.1. Điểm nhìn nghệ thuật độc đáo .............................................................. 79
3.1.1. Điểm nhìn nghệ thuật của Đặng Thai Mai trong Hồi ký thời kỳ
thanh thiếu niên ............................................................................................. 80
3.1.2. Điểm nhìn nghệ thuật của Vũ Ngọc Phan trong Những năm tháng ấy
......................................................................................................................... 81
3.2. Kết cấu..................................................................................................... 83
3.2.1. Kết cấu của Hồi ký thời kỳ thanh thiếu niên (Đặng Thai Mai)....... 83
3.2.2. Kết cấu của hồi ký Những năm tháng ấy (Vũ Ngọc Phan) .............. 85
3.3. Nghệ thuật kể, tả, bình luận thâm thúy, hấp dẫn .................................. 87
3.3.1. Nghệ thuật kể, tả, bình luận thâm thúy trong hồi ký của Đặng Thai Mai
......................................................................................................................... 87
3.3.2. Nghệ thuật kể, tả, bình luận hấp dẫn trong hồi ký của Vũ Ngọc Phan
......................................................................................................................... 90


3.3. Giọng điệu................................................................................................ 96

3.3.1. Giọng điệu trong hồi ký của Đặng Thai Mai ...................................... 96
3.3.2. Giọng điệu trong hồi ký của Vũ Ngọc Phan ....................................... 99
Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................ 102
KẾT LUẬN .................................................................................................. 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 106


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Hồi ký là một thể tài thuộc thể ký. Đây là một thể loại đặc biệt, có những
đóng góp quan trọng trong diễn trình của văn học Việt Nam, nhất là giai đoạn
sau 1975. Nội dung của hồi ký tập trung vào hồi ức về số phận, đời tư của cá
nhân hoặc những câu chuyện, sự kiện đã qua của cuộc đời. So với các thể loại
văn học khác, ký xuất hiện muộn, nghĩa là có tuổi đời khá “trẻ” nhưng chủ thể
sáng tạo ra nó lại là những tác giả “già”, có thâm niên trong nghề viết, trải qua
nhiều biến cố, chứng kiến những bước ngoặt của đất nước, những thăng trầm
của lịch sử. Chính nhu cầu nhận thức lại quá khứ là nguyên nhân thúc đẩy hồi
ký phát triển. Cái tôi cá nhân tác giả cùng những tâm tư, suy nghiệm trở thành
đối tượng phản ánh chính của các tác phẩm hồi ký. Bên cạnh đó, qua hồi ức
về cuộc đời mình, người viết hồi ký còn có khả năng xây dựng chân dung của
nhiều nhân vật cùng thời và phác họa gương mặt thời đại. Nhu cầu tự thân của
thể loại cùng với sự dung hợp, giao thoa giữa các thể loại đã mang đến cho
hồi ký một diện mạo mới với vị thế ngày càng quan trọng trong đời sống văn
học. Nhiều tác phẩm hồi ký ra đời gây được sự chú ý của đông đảo bạn đọc,
trở thành một hiện tượng và giành được những giải thưởng cao trong lĩnh vực
văn chương nghệ thuật. Nhờ có các tác phẩm hồi ký, chúng ta mới có dịp
chiêm ngắm một lần nữa những sự kiện, những nhân vật của một thời đã xa ở
điểm nhìn của hiện tại đồng thời có cơ hội để nhìn nhận nó một cách thấu

tình, đạt lí. Hồi ký giống như chiếc cầu nối mang tác giả và các nhân vật được
nói đến tới gần hơn với độc giả, giúp chúng ta gặp gỡ tác giả và các nhân vật
ở “cự li gần”.
1.2. Đặng Thai Mai và Vũ Ngọc Phan là những tác giả lớn của nền văn học
dân tộc. Hai ông được xem là những nhà nghiên cứu có uy tín hàng đầu của
văn học Việt Nam thế kỉ XX với nhiều nhận định sắc sảo về văn chương nghệ


2

thuật. Được biết đến với tư cách là những nhà phê bình, các tác phẩm được
đánh giá cao nhất của hai ông đều là những cuốn sách lí luận, phê bình văn
học. Đó cũng là đối tượng được tập trung nghiên cứu của các luận án, luận
văn trong một thời gian dài. Nhưng bên cạnh vai trò là nhà phê bình, là nhà
giáo mẫu mực, Đặng Thai Mai và Vũ Ngọc Phan còn là những nhà văn mà
văn phong in đậm dấu ấn của một trí tuệ uyên bác, một nhân cách sáng chói
và một quan niệm cầm bút hết sức chân chính, nhân văn. Nói đến di sản của
hai ông không thể không nhắc tới hai cuốn hồi ký: Hồi ký thời kì thanh thiếu
niên (Đặng Thai Mai) và hồi ký Những năm tháng ấy (Vũ Ngọc Phan).
Không chỉ góp những bông hoa đẹp trong vườn hoa nở rộ của hồi ký giai
đoạn 1975 – 2010 mà hai tác phẩm ấy còn tái hiện sinh động một giai đoạn
lịch sử nhiều thăng trầm của đất nước. Ở góc độ nghệ thuật, cả hai tác phẩm
đã đáp ứng được những khoái cảm thẩm mĩ trong tầm đón đợi của người đọc
hiên đại, thể hiện sự già dặn trong cách viết, cách cảm và cách biểu hiện của
người cầm bút. Vì vậy, chúng tôi cho rằng sẽ là thiếu sót rất lớn nếu nghiên
cứu về hai tác giả Đặng Thai Mai và Vũ Ngọc Phan mà không đề cập đến hai
cuốn hồi ký nói trên.
1.3. Văn học Việt Nam sau 1975 chứng kiến sự thay đổi toàn diện về nhiều
mặt, trong đó sự vận động của tư duy nghệ thuật dẫn đến cái nhìn thể loại
cũng không còn như trước. Sự bình đẳng giữa các thể loại ngày càng đậm nét

trong quan niệm của người viết cũng như trong tâm thế tiếp nhận của công
chúng độc giả. Bakhtin cho rằng trong đời sống văn học, các thể loại luôn
được đặt trong quan hệ đồng đẳng về giá trị, song mỗi thể loại là sự thể hiện
“một thái độ thẩm mĩ đối với hiện thực, một cách cảm thụ, nhìn nhận, giải
minh thế giới và con người”. Tuy nhiên, một thực tế vẫn diễn ra trong nghiên
cứu là hầu hết chúng ta chỉ chú ý đến các tác phẩm “đích thực văn học” như
thơ, truyện, kịch mà xem hồi ký như một thể tài cận văn học, chưa dành cho


3

nó sự quan tâm đúng mức. Nhìn từ góc độ thể loại, hồi ký không chỉ thể hiện
chân thực hiện thực mà còn cho phép sự thể hiện cảm hứng, phong cách cá
nhân đối với hiện thực ấy. Nghĩa là một tác phẩm hồi ký có giá trị phải cung
cấp nhiều thông tin chính xác, khách quan nhưng cũng cần phải sinh động và
hấp dẫn. Hồi ký của Đặng Thai Mai và Vũ Ngọc Phan đã đáp ứng đầy đủ
những yêu cầu ấy.
Với những lí do trên, chúng tôi đã chọn đề tài Hồi ký văn học của
Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan nhìn từ góc độ thể loại làm nội dung nghiên
cứu của luận văn với mong muốn mang đến một cái nhìn đầy đủ về giá trị của
hai tác phẩm soi chiếu dưới góc độ thể loại. Điều này không chỉ làm rõ giá trị
của hai tác phẩm mà còn tái hiện cuộc đời, sự nghiệp của hai cây bút lớn mà
còn giúp người đọc hôm nay hiểu sâu hơn về lịch sử, văn hóa cũng như chân
dung của nhiều nhân vật nổi tiếng đương thời.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử thể loại
Trong dòng chảy của văn học Việt Nam, hồi ký là thể loại xuất hiện
muộn. Ở phương Tây, hồi ký đã phát triển khá mạnh từ thế kỉ XIX. Ở Việt
Nam, mãi đến những năm 40, 50 của TK XX hồi ký mới lác đác xuất hiện và
phải đến những thập niên cuối TK XX mới phát triển nở rộ với tư cách là một

thể loại độc lập. Việc định danh và nghiên cứu về hồi ký vẫn còn nhiều ý kiến
trái chiều, với những quan niệm và hướng đi khác nhau.
Khảo sát lịch sử nghiên cứu hồi ký ở Việt Nam, chúng tôi nhận thấy
nếu trong các giáo trình, từ điển, các tác giả chỉ nhắc đến thể loại này với
lượng câu chữ rất hạn chế thì thời gian gần đây đã có một số luận án, luận văn
thạc sĩ, các bài báo đã chú ý, quan tâm đến hồi ký. Có thể kể đến các công
trình tiêu biểu tác giả Pospelov trong cuốn Dẫn luận nghiên cứu văn học tập 1
(Nxb Giáo dục, 1985), tác giả Phương Lựu trong cuốn Lí luận văn học (Nxb


4

Giáo dục, 2004), tác giả Hà Minh Đức trong cuốn Lí luận văn học (Nxb Giáo
dục, 1995), tác giả Trần Đình Sử trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học (Nxb
Giáo dục, 2007), tác giả Đức Dũng trong cuốn Ký văn học và ký báo chí (Nxb
Văn hóa – thông tin, Hà Nội, 2003)…Trong các công trình này, các tác giả
chủ yếu là sáng tỏ một số vấn đề căn bản của ký – thể loại “mẹ” của hồi ký.
Tác giả Đức Dũng đã đặt hồi ký văn học trong “các thể ký tự sự” cùng với ký
sự, phóng sự văn học, truyện ký và chân dung văn học. Người viết đã cung
cấp những thông tin cần thiết về tiểu loại này. Ông đặt nó trong mối tương
quan giữa cái tổng thể (hồi ký) với cái cá biệt (hồi ký văn học) để thấy điểm
thống nhất giữa chúng cũng như đánh giá cao hơn vai trò, vị trí của hồi ký
văn học trong hồi ký nói chung.
Trong những năm gần đây, một số luận án, luận văn và các bài báo đã
chọn hồi ký làm đối tượng nghiên cứu, có thể dẫn ra như : luận án tiến sĩ của
Nguyễn Quang Hưng với đề tài: Đặc điểm hồi kí văn học Việt Nam từ 1975 2010 (Đại học Huế - 2016) đã làm sáng tỏ đặc điểm về nội dung và nghệ thuật
của những tác phẩm hồi ký trong văn học Việt Nam giai đoạn 1975 – 2010.
Luận án tiến sĩ của Trần Thị Mai Phương với đề tài: Tư duy nghệ thuật trong
hồi kí văn học Việt Nam từ 1986 đến nay (Đại học Quốc gia Hà Nội – 2016)
đã có sự nghiên cứu công phu về tư duy nghệ thuật trong hồi ký văn học Việt

Nam giai đoạn từ 1986 đến nay ở ba góc độ : mã quan niệm, hình tượng nghệ
thuật và phương thức trần thuật. Đặc biệt luận án tiến sĩ của Lê Thị Lệ Thủy
với đề tài: Hồi ký văn học (của nhà văn) trong văn học Việt Nam hiện đại
nhìn từ góc độ thể loại (Đại học Quốc gia Hà Nội - 2016) dưới sự hướng dẫn
của PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện được xem là công trình có nhiều đóng góp
quan trọng cho công cuộc nghiên cứu hồi ký. Luận án đã phân chia, định danh
rõ ràng các tiểu loại của hồi ký và làm sáng tỏ nó dưới góc nhìn thể loại. Kết


5

quả nghiên cứu của luận án là cơ sở lý luận quan trọng để chúng tôi tham
khảo cho luận văn của mình.
Ngoài ra còn có các bài báo của Nguyễn Thế Hưng, Lương Ích Cần với
nhan đề “Bàn thêm về mối quan hệ giữa người kể và người ghi trong hồi ký”
(Tạp chí Văn học, số 3 – 1976), của Phạm Hồng Giang với nhan đề “Góp một
ý kiến về vấn đề nâng cao chất lượng ghi chép hồi ký” (Tạp chí Văn học, số 9
– 1996), một số bài báo của Nguyễn Quang Hưng như : “Chân dung các nhà
văn trong hồi ký văn học” (Tạp chí Non nước, số 155 Tr 66-68), “Chân dung
tự họa trong hồi kí – nhìn từ đặc trưng thể loại” (Tạp chí Văn học, số 2, 2016)
“Tính đa giọng điệu trong hồi ký Việt Nam sau 1975” (Tạp chí Khoa học Đại
học Huế, số 1, 2016)… Trong các công trình này, các tác giả chủ yếu đi vào
những khía cạnh như: người kể chuyện trong hồi ký, yếu tố hư cấu trong tác
phẩm hồi ký và chủ yếu triển khai trên diện rộng, làm sáng tỏ vấn đề ở mức
độ khái quát chứ chưa chúng minh cụ thể những đặc trưng của thể loại trên
tác phẩm.
Bên cạnh đó cũng phải kể đến những công trình, bài báo nghiên cứu
từng tác giả, tác phẩm có tiếng vang trên văn đàn như hồi ký của Tô Hoài, Ma
Văn Kháng, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Nguyên Hồng…Trong đó khi tìm hiểu
Tô Hoài với hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều, Đặng Thị Hạnh tìm hiểu

cấu trúc thời gian của Cát bụi chân ai, Nguyễn Đăng Điệp chú ý tới phương
diện nghệ thuật và chất tiểu thuyết trong hai cuốn hồi ký nói trên. Các bài viết
của PGS. TS Nguyễn Ngọc Thiện về hồi ký Những ngày thơ ấu của Nguyên
Hồng và Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương của Ma Văn Kháng in
trong Văn chương, Nghệ thuật và Thẩm mĩ tiếp nhận (Tiểu luận – Phê bình)
đã cung cấp nhiều ý kiến có giá trị về hồi ký. Trong bài “Những ngày thơ ấu –
cuốn hồi ký, tự truyện đặc sắc, mở đầu cho một thể tài của Văn học Việt Nam
hiện đại”, tác giả đã viết: “Hồi ký – tự truyện về thời thơ ấu, về đời văn và


6

nghề văn của các nhà văn Việt Nam hiện đại, đã làm phong phú và sâu sắc
thêm bức tranh về đời sống xa hội – lịch sử, văn hóa – văn nghệ, chân dung
văn nghệ sĩ và con người Việt Nam đương thời qua thăng trầm của lịch sử dân
tộc” [53, tr. 172]. Còn trong bài “Ma Văn Kháng và cuốn Hồi ký – tự truyện
mới”, tác giả đánh giá về tác phẩm: “Hồi ký – tự truyện của Ma Văn Kháng là
một nỗi niềm tự bạch của một nhà văn tâm huyết với cuộc đời, với văn
chương và với bạn bè trong cõi nhân thế. Duy trì một tâm thế lắng đọng, một
bút pháp tôn trọng sự trung thực với bản chất các sự kiện, tính cách con
người, tác phẩm của ông cho thấy một chút u-mua hóm hỉnh tự trào của nhà
văn, nhẹ nhàng nhắc nhở người khác, việc này việc nọ, để đạt tới sự hoàn
thiện và cái đẹp của nhân cách, của văn chương” [53, tr.336].
Một bộ phận đáng kể là các luận văn tập trung nghiên cứu về những tác
giả, tác phẩm quen thuộc như : Nguyễn Hoàng Hà với luận văn Cái nhìn,
không gian và thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài (Luận văn Thạc
sĩ Đại học Sư phạm Thái Nguyên, 2009), Đoàn Thị Thúy Hạnh với đề tài
Nghệ thuật trần thuật của Tô Hoài qua hồi ký (Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư
phạm Hà Nội, 2001), Phạm Thị Hiền với đề tài: Hai phong cách hồi ký :
Những ngày thơ ấu (Nguyên Hồng) và Cỏ dại (Tô Hoài) (Luận văn Thạc sĩ,

Đại học Vinh, 2008), Đặng Ngọc Huyền với đề tài: Đặc điểm hồi ký của các
nhà thơ Lưu Trọng Lư – Huy Cận – Xuân Diệu (Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư
phạm Hà Nội, 2010), Lê Thị Kim Liên với đề tài Thể hồi ký tự truyện trong
hồi ký của Ma Văn Kháng và Đặng Thị Hạnh (Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư
phạm Hà Nội, 2010)….Chúng tôi nhận thấy chưa có bài viết cũng như luận
văn nào bàn đến hai cuốn hồi ký của Đặng Thai Mai và Vũ Ngọc Phan một
cách chi tiết.
2.2. Về vấn đề nghiên cứu tác giả và tác phẩm
2.2.1. Về tác giả Đặng Thai Mai và Hồi ký thời kì thanh thiếu niên


7

Đặng Thai Mai (1902 – 1984) được biết đến là một học giả uyên thâm,
một cốt cách thanh cao hiếm có, một nhà văn hóa lịch lãm, một nhà sư phạm
mẫu mực và là một cây bút sắc sảo, điêu luyện. Những gì ông để lại có giá trị
hết sức lớn lao về tư tưởng, tri thức và phương pháp luận. Có thể kể tới những
đóng góp của ông như: Văn học khái luận, Lỗ Tấn – thân thế, văn nghệ, Chủ
nghĩa nhân văn dưới thời kì văn hóa Phục hưng, Giảng văn Chinh phụ ngâm,
Văn thơ Phan Bội Châu, Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX…Hầu
hết các công trình của ông đều thuộc lĩnh vực phê bình, lí luận. Bên cạnh đó,
ông còn là một nhà sáng tác. Trước Cách mạng, Đặng Thai Mai có một số
truyện ngắn bằng tiếng Pháp nêu gương các chiến sĩ cách mạng buổi đầu (Cô
câm đã lên tiếng, Chú bé...). Tuy nhiên, khi nghiên cứu về Đặng Thai Mai,
phần lớn mọi người thường chú ý đến những thành tựu thuộc về khoa học lí
luận, phương pháp, tư tưởng mà không mấy quan tâm đến tác phẩm văn của
ông. Các công trình nghiên cứu, đánh giá về Đặng Thai Mai đã công bố có thể
kể đến như Luận án tiến sĩ của Hoàng Thị Mai với đề tài Đặng Thai Mai với
vấn đề phương pháp luận giảng văn ở nhà trường phổ thông (Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội, 2000) khẳng định những đóng góp của Đặng Thai Mai cho

lĩnh vực giáo dục nước nhà, cuốn sách Nhớ Đặng Thai Mai (Nxb Hội nhà
văn, 2002) là những trang hồi ức và suy nghĩ do những người trong gia đình
ghi lại và do một số tác giả viết về nhà vǎn Đặng Thai Mai. Tập sách được
xem như một nén hương thắp lên để tưởng nhớ một người đã đi xa nhưng còn
để lại biết bao tình cảm thân thiết cho gia đình, bạn bè và dấu ấn sâu sắc đối
với nền vǎn học nước nhà. Các bài viết, các chuyên luận của nhiều giáo sư
đầu ngành như Gs Phan Trọng Luận với bài “Nhớ về thầy, một nhà sư phạm,
một học giả chân chính”, Gs Nhan Bảo với bài “Tưởng nhớ Đặng Thai Mai”,
Gs Hoàng Tuệ, Gs Đỗ Hữu Châu trong cuốn Đặng Thai Mai và văn học, đặc
biệt là bài viết “Đọc sách Văn thơ Phan Bội Châu của Đặng Thai Mai” của


8

Vũ Ngọc Phan đăng trên tạp chí Văn nghệ, t4/1959 và bài “Đặng Thai Mai –
người giảng văn” của nhà thơ Hoàng Trung Thông đăng trên tạp chí Văn học,
2/1985. Các bài viết này một lần nữa khẳng định vị trí và những đóng góp của
Đặng Thai Mai tập trung ở các lĩnh vực nghiên cứu, lí luận và giảng dạy Văn
học. Bài viết của PGS. TS Nguyễn Ngọc Thiện với nhan đề “Đặng Thai Mai
và cuộc tranh luận Nghệ thuật vị nghệ thuật hay Nghệ thuật vị nhân sinh” in
trong Phong cách và Đời văn (Tiểu luận – Phê bình) đã khẳng định sự đúng
đắn cũng như tầm quan trọng của tư tưởng Mácxit trong văn nghệ mà Đặng
Thai Mai là một tiếng nói không thể thiếu. Khảo sát cẩn thận các văn bản của
ông trực tiếp nói về cuộc tranh luận này, tác giả Nguyễn Ngọc Thiện đã tổng
kết lại tư tưởng ủng hộ quan điểm Nghệ thuật vị nhân sinh cũng như vai trò
của Đặng Thai Mai trong cuộc tranh luận này : “Đặng Thai Mai có thể xem là
người sơ kết cuộc tranh luận nói trên. Với độ lùi thời gian và hoàn cảnh cho
phép, ông công khai khẳng định và ghi nhận kết quả một chặng đường để đi
tới một cái mốc mới của tư duy lý luận văn nghệ Mácxit”. [58, tr.162]
Trên các trang mạng cũng có nhiều bài viết về cuộc đời và sự nghiệp

của giáo sư Đặng Thai Mai như bài viết của giáo sư Trần Đình Sử “Đặng Thai
Mai

-

nhà



luận

văn

học”

trên

trang

, bài viết “Giáo sư Đặng
Thai Mai – nhà khoa học và người yêu nước” của Trần Hinh đăng trên trang
….đã cung cấp nhiều thông tin về vai
trò là một nhà khoa học có tâm với đất nước và nhân dân của Đặng Thai Mai.
Cuốn hồi ký của nhà văn được viết những năm cuối đời và đã nhận giải
A giải thưởng của hội nhà văn Việt Nam năm 1986. Tuy nhiên khi tìm hiểu về
cuốn hồi ký, chúng tôi chỉ tìm được những dòng giới thiệu ngắn ngủi trong
các tài liệu về Đặng Thai Mai chứ chưa có một bài viết nào tập trung khai
thác tác phẩm. Trong luận án về hồi ký của mình, Lê Thị Lệ Thủy đã viết:



9

“Nhằm ghi lại cuộc đời mình như một quá trình tôi luyện, trưởng thành, Đặng
Thai Mai trong Hồi ký tỏ ra điềm đạm và chừng mực, …. Độc giả cảm nhận
khá rõ về cuộc đời riêng, thái độ, tư tưởng, những tâm sự trăn trở của một
thanh niên trí thức trước thời cuộc nhiều biến động qua các trang viết về thời
thiếu niên” [53, tr. 88]. Tác giả luận án cũng chỉ dừng lại ở những đánh giá
ban đầu về tác phẩm chứ chưa có sự khảo sát tỉ mỉ.
2.2.2 Về tác giả Vũ Ngọc Phan và hồi ký Những năm tháng ấy
Vũ Ngọc Phan (1902 -1987) được đánh giá là một trong những cây bút
viết phê bình văn học tiêu biểu nhất của nước ta đầu thế kỉ XX. Ông được
vinh dự nhận giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 năm 1996 cho những đóng góp
quan trọng với nhiều tác phẩm về nghiên cứu, phê bình, phóng tác, dịch, sáng
tác. Ông là một cây bút xông xáo và uyên bác, từng viết cho nhiều tờ báo
cũng như làm chủ bút cho tờ Tuần báo Hà Nội tân văn và là người chủ trương
lập Nhà xuất bản Hà Nội. Ông còn là một cây bút viết ký khá nổi bật với các
tác phẩm Chuyện Hà Nội (bút ký, 1944), Những trận đánh Pháp (ký sự lịch
sử, 2 tập, 1946). Tuy nhiên, cũng giống như Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan
được biết tới trước hết với tư cách là nhà nghiên cứu, phê bình. Vì vậy, phần
lớn các bài viết về ông đều xoay quanh những đóng góp trong lĩnh vực này.
Trong quá tình sưu tầm tài liệu cho luận văn, chúng tôi có dịp được tiếp cận
với những công trình như của PGS. TS Nguyễn Ngọc Thiện (2005) Lý luận,
phê bình văn học Việt Nam từ đầu TKXX đến 1945, tập trung ở bài viết
“Những đóng góp buổi đầu của Vũ Ngọc Phan trong nghiên cứu văn học theo
đặc trưng thể loại và phong cách”. Trong bài viết này, nhà nghiên cứu
Nguyễn Ngọc Thiện đã chỉ rõ những tiến bộ trong cách tiếp cận, phân loại,
xem xét và nghiên cứu tác phẩm theo đặc trưng thể loại của Vũ Ngọc Phan
khi làm bộ sách đồ sộ Nhà văn hiện đại, coi ông là “người mở đường” [57, tr.
164] cho một phương pháp nghiên cứu mới ở Việt Nam. Cùng quan điểm



10

này, trong bài viết “Học tập nhà văn Vũ Ngọc Phan”, tác giả Vũ Ngọc Khánh
cũng chỉ rõ : “Từ những ngày đầu xây dựng nền quốc văn mới, hình như Vũ
Ngọc Phan là người trước nhất, nhiều nhất, nếu không phải là duy nhất đề cập
đến vấn đề xác định thể loại” [33, tr. 73]. Có thể thấy những đóng góp của Vũ
Ngọc Phan cho học thuật là vô cùng to lớn.
Một số luận văn nghiên cứu về Vũ Ngọc Phan mà chúng tôi có dịp tiếp
cận như Trần Thị Lệ Dung (1998) với luận văn Thạc sĩ Đóng góp của Vũ
Ngọc Phan cho phê bình – nghiên cứu văn học qua Nhà văn hiện đại, Đại học
Sư phạm Vinh; Phạm Thị Thanh Nga (2008) với luận văn Thạc sĩ Đóng góp
của Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Đinh Gia Trinh về mặt phương pháp phê
bình, nghiên cứu văn học trong giai đoạn 1930 – 1945, Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh…cũng xem xét Vũ Ngọc Phan ở những đóng góp
cho phê bình, nghiên cứu văn học chứ chưa nói tới vai trò là người sáng tác
của ông.
Bên cạch đó là nhiều bài báo trên các tạp chí chuyên ngành và báo
mạng như “Vũ Ngọc Phan với các giá trị văn chương học thuật dân tộc” của
tác giả Phong Lê đăng trên trang ngày 01/10/2013, “Nguồn
sáng Vũ Ngọc Phan” của Đặng Tiến đăng trên />08.10.2014….Chỉ có điều, các bài viết này chưa nói một cách thỏa đáng về
vai trò là nhà văn của Vũ Ngọc Phan. Tác phẩm được quan tâm nhiều nhất
của ông là bộ Nhà văn hiện đại, còn những tác phẩm khác chỉ được giới thiệu
khá sơ lược. Cuốn hồi ký Những năm tháng ấy cũng vậy. Đây là một tác
phẩm có tính tổng kết cuộc đời, sự nghiệp cũng như mang đậm dấu ấn văn
phong của nhà văn nên cần được nghiên cứu nhiều hơn. Nhưng cho đến nay,
vẫn chưa có công trình, bài bào nào lấy cuốn hồi ký làm đối tượng nghiên cứu
độc lập.



11

Như vậy, có thể thấy, cuốn Hồi ký thời kỳ thanh thiếu niên và hồi ký
Những năm tháng ấy chưa từng được xem xét, mổ xẻ, đánh giá đúng với tầm
vóc và giá trị của nó. Với luận văn này, chúng tôi xem như là người đầu tiên
nghiên cứu về hai cuốn hồi ký với tư cách là hai tác phẩm văn chương của hai
tác giả lớn.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu một cách hệ thống các đặc trưng thể loại của hồi ký trong
Hồi ký thời kỳ thanh thiếu niên (Đặng Thai Mai) và Những năm tháng ấy (Vũ
Ngọc Phan), luận văn nhằm thực hiện các mục đích sau:
- Làm rõ những đặc trưng về nội dung và nghệ thuật của hồi ký trong hai tác
phẩm đã nêu trong đề tài, từ đó thấy được những đặc sắc chung và riêng của
các tác phẩm.
- Thấy được tài năng và những đóng góp của hai tác giả cho sự phát triển của
nền văn học nước nhà nói riêng và cho sự nghiệp xây dựng đất nước nói
chung.
- Khẳng định vị trí của hai tác giả trong nền văn học Việt Nam ở phương diện
là các nhà văn.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định khái niệm hồi ký và đặc trưng của thể loại này
- Khảo sát các đặc trưng thể loại trên đối tượng nghiên cứu của luận văn
- Vận dụng các kiến thức, phương pháp nghiên cứu chuyên ngành để phân
tích, khái quát các luận điểm đặc trưng thể loại hồi ký trong hai tác phẩm từ
đó thấy được nét độc đáo của hồi ký tự truyện và hồi ký văn học hỗn hợp
cũng như giá trị của hai tác phẩm trong lịch sử phát triển hồi ký Việt Nam.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu



12

Đối tượng nghiên cứu của luận văn đã được xác định trong đề tài : cuốn
Hồi ký thời kì thanh thiếu niên của Đặng Thai Mai và hồi kí Những năm
tháng ấy của Vũ Ngọc Phan. Trong quá trình thực hiện, chúng tôi có tham
khảo một số tác phẩm hồi ký khác cũng như các tác phẩm khác của hai nhà
văn nhưng đó chỉ nhằm hỗ trợ cho việc nghiên cứu hai đối tượng trên.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn này chúng tôi tập trung nghiên cứu về đặc trưng thể loại
của hai cuốn hồi ký nói trên. Tất cả các vấn đề khác, khi có điều kiện chúng
tôi sẽ tiếp tục bàn sau.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp loại hình: Dựa vào đặc trưng thể loại để định hướng tìm hiểu
nhằm làm nổi bật những nét đặc trưng cũng như khác biệt của đối tượng khảo
sát.
- Phương pháp thống kê, phân loại: Đây là phương pháp được tiến hành đầu
tiên nhằm cung cấp những chi tiết, dữ kiện, số liệu chính xác tạo cơ sở tin cậy
để triển khai các luận điểm trong luận văn
- Phương pháp so sánh – đối chiếu: So sánh là một thao tác quan trọng của tư
duy, một phương pháp hữu hiệu của nghiên cứu khoa học. Chúng tôi sẽ sử
dụng thao tác này để rút ra những điểm chung cũng như những đặc sắc riêng
của từng tác phẩm trên cơ sở đối chiếu với lý thuyết chung
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Để khái quát lý thuyết, chúng tôi tiến
hành phân tích các tác phẩm thuộc đối tượng nghiên cứu của luận văn theo
hướng làm sáng tỏ các đặc điểm thể loại của hồi ký - tự truyện, hồi ký văn
chương hỗn hợp, sau đó tiến hành tổng hợp các kết quả đã phân tích.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp khác như phương
pháp nghiên cứu tiểu sử, phương pháp phân tích, cảm thụ tác phẩm văn
học….trên quan điểm lịch sử và quan điểm hệ thống.



13

7. Dự kiến đóng góp của luận văn
Lần đầu tiên lấy hai cuốn hồi ký làm đối tượng nghiên cứu, luận văn sẽ
góp phần làm sáng tỏ giá trị hai tác phẩm quan trọng của hai nhà văn trong sự
soi chiếu từ đặc trưng thể loại. Ngoài việc khám phá những đặc điểm của hồi
ký, chúng tôi còn hướng tới việc phát hiện phong cách viết của hai nhà văn.
Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần vào thành quả nghiên cứu nói chung, phục vụ
cho việc học tập và giảng dạy chuyên ngành Văn học.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm
ba phần chính như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về hồi ký và hồi ký văn học
Chương 2: Đặc sắc hồi ký văn học của Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan – nhìn
từ phương diện nội dung
Chương 3: Đặc sắc hồi ký văn học của Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan – nhìn
từ phương diện nghệ thuật


14

NỘI DUNG
CHƢƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỒI KÝ
VÀ HỒI KÝ VĂN HỌC
1.1. Những vấn đề chung về hồi ký
1.1.1 Khái niệm hồi ký
Hồi ký là một thể tài văn học thuộc ký – một thể loại văn học xuất hiện
khá sớm nhưng phải đến thế kỉ XVII, đặc biệt từ thế kỉ XIX mới thực sự phát
triển mạnh mẽ. Để xác định khái niệm hồi ký, người ta thường tìm hiểu về ký

– thể loại “mẹ” của nó. Về mặt thuật ngữ, ký nghĩa là ghi chép (tiếng Nga là
Ocherk, tiếng Pháp là Essai, tiếng Trung Quốc gồm bộ kỉ và bộ ngôn ghép
lại) để trình bày sự việc, mô tả lại về con người và các sự kiện đã qua, từ đó
bộc lộ quan điểm của người viết. Trong dòng chảy liên tục của văn học, ký là
thể loại có vị trí quan trọng bởi nó giàu tính thời sự, phản ánh kịp thời những
biến động của đời sống. Nhà văn Tô Hoài cho rằng : “Nhà văn là thư kí của
thời đại. Tôi nghĩ danh hiệu cao quý ấy, mệnh lệnh chiến đấu ấy, trước hết
chúng ta trân trọng tặng cho những người viết ký” [25, tr.71]. Ông đánh giá
cao thể loại này : “Ký cũng như truyện ngắn, truyện dài hoặc thơ, hình thù nó
đấy nhưng vóc dáng nó luôn đổi mới, đòi hỏi sáng tạo và thích ứng” [25,
tr.36]. Nhà thơ Xuân Diệu thì coi ký là thể loại bước ra từ cuộc sống, mang
trên mình sự mới mẻ và xanh tươi của cuộc đời.
Ký gồm nhiều tiểu loại khác nhau : bút ký, du ký, ký chính luận, nhật
ký, phóng sự, tản văn, hồi ký…trong đó hồi ký là tiểu loại đã gặt hái nhiều
thành công trong các giai đoạn gần đây.
Về khái niệm hồi ký (memoir), có nhiều ý kiến đưa ra, có người dựa
vào nội hàm của hai chữ hồi ký, có người dựa vào đặc trưng để định nghĩa.
Tuy nhiên các ý kiến đều khá thống nhất ở những điểm cơ bản: tái hiện quá
khứ; người thật, việc thật, tác giả là người trong cuộc hoặc chứng kiến.


15

Theo Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê) : “Hồi ký là thể văn ghi lại
những điều còn nhớ sau khi đã trải qua, đã chứng kiến sự việc” [17, tr.591].
Cùng quan điểm đó, nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc
Phi trong Từ điển thuật ngữ văn học đã viết : “Hồi ký là một thể loại thuộc
loại hình ký, kể lại những biến cố xảy ra trong quá khứ mà tác giả là người
tham dự hoặc chứng kiến” [20, tr.127]. Có thể thấy các tác giả trên đã định
nghĩa hồi ký dựa trên cách triết tự hai chữ hồi (quay trở lại) và ký (ghi chép lại

những điều đã chứng kiến). Đó là cách cắt nghĩa ngắn gọn, dễ hiểu nhưng còn
đông cứng, thiếu độ mở, dẫn đến sự thiếu hợp lý khi áp dụng với hồi ký hiện
đại.
Phần lớn các tác giả đều quan niệm hồi ký là một tiểu loại của ký. Lại
Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học định nghĩa : Hồi ký là “một thể
thuộc thể tài ký. Tác phẩm hồi ký là một thiên trần thuật từ ngôi tác giả, kể về
những sự kiện có thực trong quá khứ mà tác giả tham gia hoặc chứng kiến”
[1, tr. 154]. Theo Hà Minh Đức: “Hồi ký ghi lại diễn biến của câu chuyện và
nhân vật theo bước đi của thời gian qua hồi tưởng” [12, tr. 285]. Trong giáo
trình Lí luận văn học tập 2 (Trần Đình Sử chủ biên), các tác giả đã xác định :
Hồi ký là một dạng tự truyện của tác giả, “cung cấp những tư liệu của quá khứ
mà đương thời chưa có điều kiện nói được” [56, tr. 380].
Như vậy, hồi ký là một dạng thức thuộc loại hình ký. Hồi ký kể lại
những sự việc xảy ra trong quá khứ mà tác giả là người tham dự hay chứng
kiến. Nội dung phản ánh trong hồi ký mang tính xác thực cao. Đó là những sự
việc và con người để lại ấn tượng sâu sắc, gắn với những kỉ niệm riêng nhưng
đồng thời tái hiện chân thực đời sống lịch sử - xã hội và văn hóa của thời đã
qua.
Trong luận văn này, chúng tôi có tham khảo khái niệm hồi ký do Lê
Thị Lệ Thủy đề xuất trong luận án Tiến sỹ và coi đó như một cơ sở lý thuyết


16

quan trọng : “Hồi ký là thể loại tự sự đặc biệt thuộc loại hình ký, “là thiên trần
thuật từ ngôi tác giả” – kể lại những sự việc đã xảy ra trong quá khứ mà bản
thân đã tham dự hay chứng kiến, thậm chí có thể lấy chất liệu từ chính cuộc
đời mình. Hồi ký có thể hư cấu nhưng đòi hỏi phải có tính xác thực, và hình
thức tự sự của dòng hồi ức” [61, tr.31]
1.1.2. Những đặc điểm chung của hồi ký

Là một tiểu loại của ký, hồi ký cũng mang trong mình những đặc trưng
của thể loại mẹ nhưng vẫn có những đặc điểm riêng, phân biệt với các tiểu
loại khác như nhật ký, tự truyện. Có thể thấy những đặc trưng nổi bật của hồi
ký được đúc rút từ thực tiễn sáng tác như sau:
Hồi ký là những ghi chép về những sự việc trong quá khứ trên cơ sở
hồi tưởng mà người viết – cũng là nhân vật chính ghi lại bằng những hồi ức
trực tiếp của mình. Tác phẩm hồi ký được trần thuật bởi một nhân vật xưng
tôi. Đó là nhân vật chứng kiến rất nhiều biến cố không chỉ với mình mà còn
với xã hội, đất nước và kể lại cho độc giả nghe. Người viết hồi ký thường là
những người nổi tiếng, có ảnh hưởng lớn tới một lĩnh vực hoặc một giai đoạn
nào đó. Đó cũng phải là con người có trí tuệ và nhân cách, được mọi người
thừa nhận và kính trọng như Vũ Ngọc Phan, Đặng Thai Mai, Võ Nguyên
Giáp, Ma Văn Kháng… “Người viết hồi ký kể lại những điều mà mình có dịp
quan sát hoặc nghe trực tiếp, những sự việc và con người để lại những ấn
tượng sâu sắc, gắn bó với những kỉ niệm riêng đồng thời cũng có một nội
dung xã hội phong phú” [12, tr. 230]. Như vậy, những dấu ấn của quá khứ
trong cái nhìn hồi cố của người viết hồi ký chính là các sự việc, các nhân vật
đã để lại dấu ấn đậm nét không chỉ có ý nghĩa với bản thân tác giả mà còn có
ý nghĩa trong đời sống xã hội khi ấy.
Một trong những thuộc tính cơ bản nhất của hồi ký là tính xác thực của
đối tượng miêu tả và tính trung thực của người hồi tưởng bởi nội dung của tác


17

phẩm là tái hiện những gì đã xảy ra trong quá khứ. Vũ Ngọc Phan từng viết:
“Mình viết về mình nếu không tốt đẹp thì cũng đầy thơ mộng. Điều quan
trọng là nó có biểu hiện tính chân thật hay không” [50, tr. 364]. Hà Minh Đức
cũng nhấn mạnh : “không gắn với sự thật trong đời sống, ký dễ chơi vơi và
xóa đi ranh giới giữa mình với các thể loại khác” [12, tr.211]. Có thể thấy,

đây không chỉ là đặc trưng mà còn là giá trị của hồi ký. Người đọc hồi ký bị
hấp dẫn bởi những thông tin có độ chính xác cao của bản thân người viết cũng
như bức tranh đời sống, xã hội, thời đại do cuốn hồi ký đó dựng lên. Đảm bảo
tính trung thực khi trần thuật không phải là một việc dễ dàng, ngược lại nó đòi
hỏi người viết phải dũng cảm bởi đó là quá trình “đấu tranh” thực sự. Đấu
tranh với người khác, đấu tranh với chính mình, không ngại chạm tới những
vùng “nhạy cảm” để nói lên sự thật. Nên nếu không phải là người có nhân
cách thường sẽ không đủ dũng khí để viết hồi ký.
Một đặc điểm nữa được thừa nhận như một điều hiển nhiên là hồi ký
mang tính chủ quan của người kể chuyện. Việc lựa chọn các sự kiện để kể
trong hồi ký phụ thuộc vào trí nhớ và quan niệm của người hồi tưởng. Người
kể có thể kể chi tiết sự việc này, bỏ qua hoặc chỉ nói lướt đến sự việc kia. Sự
hồi tưởng cũng chịu ảnh hưởng của quy luật “quên lãng” bởi các sự kiện đã
xảy ra từ lâu khó lòng có thể được nhớ một cách chính xác tuyệt đối, tường
tận. Trong nhiều trường hợp, nhà văn không tránh khỏi phải sử dụng thêm hư
cấu, tưởng tượng. Tất nhiên hư cấu ở đây không đồng nghĩa với sự bịa đặt
hay cố ý thêm thắt mà cần được hiểu là sự lựa chọn, kết nối các chi tiết để
trình bày sự kiện theo ý đồ của người kể. Thậm chí, có những sự việc vốn nó
không phải như thế nhưng vì người kể luôn tâm niệm về nó như vậy thành ra
lâu dần, sự việc ấy lại là hiện thực với chính người kể chuyện. Đó cũng là
điều mà các nhà lí luận quan ngại trước các tác phẩm hồi ký : “do thời gian lùi
xa, nhiều sự kiện nhớ không chính xác, nhớ nhầm hoặc tưởng tượng thêm mà


18

không tự biết” [55, tr.380]. Đóng góp của người viết hồi ký là đã đem đến
một cái nhìn, một cách đánh giá về các sự kiện, nhân vật góp phần làm nên ý
nghĩa xã hội cũng như giá trị nghệ thuật cho tác phẩm, bộc lộ được con người
tinh thần của mình. Hồi ký là nơi để tác giả tự họa chân dung của mình là vì

thế.
Ở phương diện nghệ thuật, đặc trưng nổi bật hàng đầu của hồi ký là
cách kể chuyện theo dòng hồi tưởng với kết cấu linh hoạt, giọng điệu phong
phú. Tác phẩm hồi ký không sử dụng cốt truyện mà mạch tự sự được triển
khai tuân theo cơ chế của dòng ý thức, nhớ đến đâu kể đến đấy. Sự hồi tưởng
quá khứ thường theo trật tự thời gian tuyến tính nhưng có nhiều chỗ, người
viết sẽ đảo lộn trật tự thời gian ấy nhằm tái hiện trọn vẹn một sự kiện đồng
thời tạo nên tính hấp dẫn cho nghệ thuật trần thuật. Cùng với sự linh hoạt của
kết cấu là tính phong phú của giọng điệu. Tùy vào mối quan hệ với đối tượng
được nói tới, tác giả sẽ thể hiện những giọng điệu khác nhau, tạo nên nhiều
màu sắc đa dạng, góp phần thể hiện tính cách con người tác giả.
1.1.3. Sự phân loại hồi ký
Có nhiều tiêu chí để phân loại hồi ký, trong luận văn này, chúng tôi dựa
vào đặc trưng nội dung và tư cách của tác giả để phân chia hồi ký.
Trên thế giới, người ta đã chia hồi ký thành nhiều dạng như : hồi ký của
các nhà văn, hồi ký chính khách kể về cuộc đời hoạt động chính trị, hồi ký
của các tác giả là nhân chứng cho một sự kiện chính trị xã hội quan trọng. Ở
Việt Nam, dựa trên thực tiễn sáng tác, có thể chia hồi ký thành ba loại lớn: hồi
ký văn học, hồi ký cách mạng và hồi ký khác.
Hồi ký văn học là hồi ký do trực tiếp các nhà văn viết, kể về quá trình
sống và học tập của mình cùng chân dung của các nhà văn khác cùng thời.
Hồi ký văn học cung cấp cho bạn đọc những thông tin quan trọng về cuộc đời
và sự nghiệp của nhà văn, về bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa của đất nước


×