Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người khác trên mạng xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.8 KB, 44 trang )

Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn nghiên cứu đề tài

Trong những năm qua, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã
thu được những thành tựu rất quan trọng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội. Trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của
con người nói riêng, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Mọi chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước đều nhằm phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”, tất cả là vì con người và cho con người. Nhà nước
Việt Nam không chỉ khẳng định sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người nói chung,
nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng, mà còn làm hết mình để bảo đảm những
quyền hiến định về bảo vệ con người được thực hiện trên thực tế.
Điều này được khẳng định qua Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, cụ thể: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn,
bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể,
sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Vì vậy, có thể thấy, con người là đối tượng
hàng đầu được pháp luật bảo vệ mà trên hết là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân
phẩm, danh dự của họ.
Các hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội, không chỉ xâm hại đến sự phát triển bình thường, lành mạnh của con
người mà còn làm tổn thương tinh thần người bị hại cũng như gia đình của họ. Bên cạnh
đó còn tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định trật tự xã hội và đang là một trong những vấn
đề được xã hội đặc biệt quan tâm. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, mạng
xã hội ngày càng được sử dụng rộng rãi, mà nổi bật nhất chính là mạng xã hội
Facebook. Có thể thấy, với số lượng người dùng chỉ tính riêng Facebook hiện nay là trên
một tỷ người cho thấy mạng xã hội đang trở thành một công cụ không thể thiếu với
không ít người trong cuộc sống và có tầm ảnh hưởng không nhỏ đến mọi mặt của đời


sống. Với mục đích ra đời chính nhằm kết nối mọi người với nhau vượt qua mọi trở ngại
về khoảng cách địa lý. Mạng xã hội giúp thế giới, mọi người kết nối và xích lại gần
nhau. Song song đó, với khả năng lan truyền thông tin cực nhanh, cực rộng và danh tính
người sử dụng gần như không được xác định. Mạng xã hội đã trở thành công cụ để một
số đối tượng lợi dụng nhằm phát tán những thông tin làm ảnh hưởng, xúc phạm đến
danh dự nhân phẩm của người khác. Đây là vấn đề cần được pháp luật điều chỉnh và bảo
vệ do tính chất nghiêm trọng, ảnh hưởng đến nhân phẩm, danh dự của con người và an
1


Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội
ninh trật tự xã hội.
Thời gian qua, pháp luật Việt Nam đã xây dựng hệ thống đa dạng các chế tài về
xử phạt vi phạm hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp về
yêu cầu bồi thường thiệt hại trong dân sự đối với hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh
dự của con người, đặc biệt là trên môi trường mạng xã hội. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp
dụng pháp luật, những chế tài xử lý đối với loại hành vi này còn bộc lộ nhiều hạn chế
chẳng hạn như việc xử phạt vi phạm hành chính được quy định phân tán tại nhiều văn
bản, cơ sở xác định mức độ nghiêm trọng của hành vi xâm phạm chưa được quy định và
vấn đề về xác định mức thiệt hại khi yêu cầu bồi thường thiệt hại còn chưa rõ ràng từ đó
dẫn đến việc áp dụng pháp luật về xử lý hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con
người trên môi trường mạng xã hội chưa mang lại kết quả cao, gặp nhiều khó khăn,
vướng mắc. Do đó việc nghiên cứu đề tài: “Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi
xúc phạm danh dự nhân phẩm của người khác trên mạng xã hội” là cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu

Các hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người có tính nhạy cảm và
phức tạp cao. Vì vậy, đề tài này đã được một số nhà nghiên cứu, chuyên gia về luật học
trong nước quan tâm nghiên cứu. Điển hình qua các công trình điển hình như sau:

-

-

-

Công trình các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của
con người của TS. Trần Văn Luyện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000;
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội, 2000;
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) của Khoa Luật, Đại
học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2002;
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (phần các tội phạm) của TS Phùng
Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS.ThS. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức
Mai, ThS. Nguyễn Sĩ Đại, ThS. Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, 2001;
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Phần các tội phạm, tập 1 của ThS. Đinh
Văn Quế, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2002
“Phân biệt tội chống người thi hành công vụ với các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công
vụ của nạn nhân” của tác giả Mai Bộ đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 12
năm 2012;
“Bàn về một số dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm” của tác giả Bùi Thị Quyên
đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 23/2012;
“Bình luận các tội phạm về tình dục trong chương các tội xâm phạm tính
2


Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội

mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự con người trong dự thảo Bộ luật hình sự
(sửa đổi)” của tác giả Dương Tuyết Miên đăng trong số chuyên đề sửa đổi, bổ
sung Bộ luật hình sự của Tạp chí dân chủ và pháp luật năm 2015.
Các công trình trên đều là những tài liệu nghiên cứu quý báu về hành vi xâm
phạm nhân phẩm, danh dự của con người. Tuy nhiên, nhìn chung, các công trình nói trên
nghiên cứu hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người trên khía cạnh quy
định của luật hình sự, hoặc nghiên cứu đối với từng tội phạm cụ thể trong phạm vi toàn
quốc, chưa có công trình nào nghiên cứu có hệ thống về chế tài đối với loại hành vi này,
đặc biệt là trên môi trường mạng xã hội. Chính vì những lý do đó, việc nghiên cứu đề tài
“Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội” là không trùng lập và mang tính cấp thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của khóa luận là tìm hiểu các quy định của pháp luật đối với chế
tài áp dụng cho các hành vi xúc phạm nhân phẩm, danh dự của con người và thực tiến áp
dụng pháp luật. Từ đó, khóa luận đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật về chế tài đối với các hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người
trên mạng xã hội trong pháp luật Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao
hiệu quả trong công tác xây dựng và áp dụng pháp luật.
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, khóa luận có những nhiệm vụ chủ yếu sau:

- Làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của hành vi xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của con người.

- Phân tích và đánh giá thực trạng chế tài xử lý các hành vi xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của con người tại Việt Nam.

- Đề xuất hệ thống những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định đối
với việc xử lý hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, cũng
như những giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng và áp dụng pháp luật trong

thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

Nhằm đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, khóa luận có đối tượng nghiên cứu
là các quy định của pháp luật Việt Nam về xử lý đối với hành vi xâm phạm nhân phẩm,
danh dự của người khác trên mạng xã hội và thực tiễn áp dụng pháp luật về chế tài đối
với các hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người tại Việt Nam.
Phạm vi đề tài khóa luận nghiên cứu các chế tài áp dụng đối với hành vi xâm
phạm danh dự, nhân phẩm dưới góc độ xử lý vi phạm hành chính, truy cứu hình sự và
3


Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội
bồi thường thiệt hại và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Việt Nam. Nhìn chung dưới góc
độ hình sự, các hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người gồm các hành vi
như hiếp dâm; hiếp dâm trẻ em; cưỡng dâm; cưỡng dâm trẻ em; giao cấu với trẻ em và
tội dâm ô đối với trẻ em, mua bán người; mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em;
làm nhục người khác và vu khống. Tuy nhiên do đặc thù đề tài nghiên cứu hành vi xúc
phạm danh dự, nhân phẩm con người qua mạng xã hội nên những chế tài đối với hành vi
xúc phạm danh dự, nhân phẩm con người thuộc trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình
sự được nghiên cứu tại đề tài này chỉ gồm hành vi làm nhục hoặc vu khống người khác.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài

Khóa luận được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của học thuyết Marx –
Lenin, bao gồm phép biện chứng duy vật và phương pháp luận duy vật lịch sử. Theo đó,
các vấn đề pháp luật điều chỉnh về đối tượng nghiên cứu của đề tài được nghiên cứu ở
trạng thái vận động và phát triển trong mối quan hệ không tách rời với các yếu tố chính
trị, kinh tế, xã hội. Bên cạnh đó, khóa luận còn được nghiên cứu dựa trên một số phương
pháp như:

- Phương pháp phân tích được sử dụng để phân tách và tìm hiểu các vấn đề lý
luận, quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật đối
với chế tài đối với hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm con người trên mạng xã hội,
các yêu cầu của việc hoàn thiện quy định của pháp luật cũng như những đề xuất sửa đổi,
bổ sung một số quy định của pháp luật chế tài đối với hành vi xúc phạm danh dự, nhân
phẩm con người trên mạng xã hội.
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng chủ yếu trong việc rút ra những nhận định,
ý kiến đánh giá sau quá trình phân tích ở từng nội dung, các chương và kết luận của khóa
luận.
- Phương pháp so sánh được sử dụng nhằm đối chiếu các quan điểm khác nhau
giữa các nhà khoa học trong các công trình nghiên cứu; giữa quy định của pháp luật hiện
hành với quy định của pháp luật các giai đoạn trước đây; giữa quy định của Việt Nam với
pháp luật quốc tế.
- Phương pháp chứng minh được sử dụng ở hầu hết các nội dung của khóa luận
nhằm đưa ra các dẫn chứng làm rõ các luận điểm của người viết trong khóa luận.
6. Kết cấu đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài
gồm hai chương:

4


Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội
Chương 1: Một số vấn đề chung về các hành vi xúc phạm nhân phẩm, danh dự
của người khác trên mạng xã hội và quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự.
Chương 2: Các chế tài đối với hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự của
người khác trong pháp luật Việt Nam.
Chương 3: Thực trạng áp dụng quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành vi xúc

phạm danh dự nhân phẩm của người khác trên mạng xã hội và giải pháp hoàn thiện.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC HÀNH VI XÚC PHẠM
NHÂN PHẨM, DANH DỰ CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN MẠNG XÃ HỘI
VÀ QUYỀN ĐƯỢC BẢO VỆ NHÂN PHẨM, DANH DỰ
1.1.

Nhân phẩm, danh dự của con người và quyền được bảo vệ danh dự nhân
phẩm theo pháp luật Việt Nam

1.1.1.

Khái niệm nhân phẩm, danh dự của con người

Trong đời sống hàng ngày, thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân
phẩm của công dân; tài sản, danh dự, uy tín của các tổ chức, có thể xảy ra do nhiều tác
động khác nhau. Đó có thể là những tác động khách quan song cũng có thể do các hành
vi trái pháp luật của cá nhân mang lại. Do đó, Nhà nước ta đã phải sử dụng nhiều biện
pháp pháp luật khác nhau để ngăn chặn và khắc phục những hậu quả đó. Điều 20 Hiến
pháp năm 2013 khẳng định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm” đồng thời Điều 584 Bộ luật Dân
sự năm 2015 cũng quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà
gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
Các văn bản quy phạm pháp luật hiện này tuy có đề cập đến việc bảo hộ danh dự
nhân phẩm của con người và yêu cầu cá nhân, tổ chức có hành vi gây thiệt hại về danh
dự, nhân phẩm, uy tín của người khác phải bồi thường nhưng không nêu rõ khái niệm thế
nào là danh dự, nhân phẩm. Điều này có thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau trong
thực tế. Do đó, cần xác định rõ thế nào là danh dự, nhân phẩm và hành vi nào được coi là
xúc phạm danh dự, nhân phẩm.

Có thể thấy, danh dự là một khái niệm rộng gắn liền không thể tách rời với một cá
nhân hoặc một tổ chức nhất định. Danh dự của một cá nhân bao gồm các yếu tố sau:
Thứ nhất, lòng tự trọng. Lòng tự trọng của cá nhân là sự tự đánh giá mình, tự ý
thức về giá trị, vị trí của mình trong xã hội (chà đạp lên lòng tự trọng của người khác
chính là xúc phạm đến danh dự của người đó).
5


Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội
Thứ hai, uy tín. Uy tín là giá trị về mặt đạo đức và tài năng được công nhận ở một
cá nhân thông qua hoạt động thực tiễn của mình tới mức mà mọi người trong một tổ
chức, một dân tộc cảm phục tôn kính và tự nguyện nghe theo. Trong danh dự có uy tín,
phá hoại uy tín cũng chính là phá hoại danh dự1.
Ngoài ra có thể hiểu danh dự bao gồm cả nhân phẩm. Nhân phẩm là phẩm giá con
người, là giá trị tinh thần của một cá nhân với tính cách là một con người. Chà đạp lên
nhân phẩm của người khác cũng là xúc phạm đến danh dự người đó.
Danh dự của một tổ chức là sự đánh giá của xã hội và sự tín nhiệm của mọi người
đối với hoạt động của tổ chức đó.
Nhưng cần phân biệt mặc dù nhân phẩm cũng là một yếu tố của danh dự, song
giữa danh dự và nhân phẩm cũng có những điểm khác nhau nhất định:
Nếu danh dự được hình thành qua nhiều năm tháng của cuộc đời và được xã hội
đánh giá theo những tiêu chuẩn và nguyên tắc đạo đức xã hội chủ nghĩa thì nhân phẩm lại
có từ khi con người mới sinh ra2. Danh dự có thể của một cá nhân hay tổ chức, nhưng
nhân phẩm chỉ là một khái niệm được áp dụng đối với cá nhân. Mặc dù danh dự của một
con người được hình thành từ những hành vi và cách cư xử, từ công lao và thành tích của
người đó có được qua nhiều năm tháng của cuộc đời và được thừa nhận, nhưng mọi
người dân đều có quyền được bảo vệ danh dự và nhân phẩm như nhau không phân biệt
vào công lao, công tác và những đặc điểm riêng của người có quyền; những người không
có năng lực hành vi dân sự, những người mất năng lực hành vi dân sự cũng có quyền bảo

vệ danh dự và nhân phẩm như mọi cá nhân khác.
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về nhân phẩm, danh dự của con người. Có
quan điểm cho rằng, nhân phẩm là giá trị làm người của mỗi cá nhân, nhân phẩm không
chỉ phụ thuộc vào mỗi cá nhân mà còn phụ thuộc vào quan niệm của từng xã hội, giai cấp
khác nhau; còn danh dự là kết quả của quá trình xây dựng và bảo vệ nhân phẩm của các
cá nhân. Bên cạnh đó cũng có quan điểm cho rằng danh dự của con người là sự đánh giá
của xã hội đối với một cá nhân về các mặt đạo đức, phẩm chất chính trị và năng lực của
người đó, được hình thành từ những hành động và cách cư xử của người đó, từ công lao
và thành tích mà người đó có được qua những năm tháng của cuộc đời và được xã hội
đánh giá theo những tiêu chuẩn và nguyên tắc đạo đức xã hội chủ nghĩa 3; còn nhân phẩm
1 Nguyễn Đình Cương (2015), Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số
liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk), Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, trang 9

2 Võ Khánh Vinh (2011), Quyền con người, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, trang 115.
3 Nguyễn Đình Cương (2015), Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số
liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk), Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, trang 9

6


Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội
là phẩm giá con người, là giá trị tinh thần của một cá nhân với tính cách là một con
người.
Theo người viết, mặc dù còn nhiều quan điểm khác nhau nhưng nhìn chung đều
đồng ý rằng nhân phẩm và danh dự là hai phạm trù đạo đức khác nhau nhưng lại có
mối quan hệ lẫn nhau. Mỗi con người chúng ta luôn có những phẩm chất nhất định.
Những phẩm chất này làm nên giá trị của cá nhân mỗi con người, là toàn bộ những phẩm
chất mà mỗi con người có được, hay nói cách khác, nhân phẩm là giá trị làm người của
mỗi con người. Người có nhân phẩm là người có lương tâm, có nhu cầu vật chất và tinh

thần lành mạnh, luôn thực hiện tốt các nghĩa vụ đạo đức đối với xã hội và người khác,
biết tôn trọng các quy tắc, các chuẩn mực đạo đức tiến bộ. Tóm lại, nhân phẩm là giá trị
làm người, còn danh dự là kết quả của quá trình xây dựng và bảo vệ nhân phẩm.
1.1.2.

Quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người theo pháp luật Việt
Nam

Ở giai đoạn đầu của lịch sử lập pháp nước Việt Nam kể từ khi đất nước độc lập,
quyền về danh dự và nhân phẩm của con người mặc dù vẫn là đối tượng được pháp luật
bảo vệ nhưng vẫn chưa được ghi nhận chính thức.
Năm 1945 sau khi giành được chính quyền, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam
dân chủ công hòa đã ra đời ngày 9/11/1946 nhằm mục đích “đoàn kết toàn dân, không
phân biệt giống nòi, trai gái, giai cấp, tôn giáo; đảm bảo các quyền tự do dân chủ; thực
hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”. Các quyền và nghĩa vụ của công
dân được quy định trong Chương II Hiến pháp năm 1946 đã ghi rõ tại Điều12: “Quyền tư
hữu tài sản của công dân Việt Nam được đảm bảo” hay tại Điều 14 “Những người công
dân già cả hoặc tàn tật không làm được việc thì được giúp đỡ. Trẻ con được chăm sóc về
mặt giáo dưỡng”. Là Đạo luật cơ bản đầu tiên của Việt Nam, Hiến pháp 1946 đã thể hiện
sự tiến bộ rất nhiều so với những văn bản pháp luật phong kiến trước kia khi quy định rõ
được những quyền cơ bản mà công dân được hưởng, ghi nhận sự bình đẳng nam nữ, tuy
nhiên do trình độ lập pháp còn hạn chế cũng như do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ mà
việc quy định sự bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân còn
chưa được rõ ràng. Hầu hết việc ghi nhận những quyền này đều nằm rải rác trong các
quy định khác nhau và việc “bảo hộ” của pháp luật đối với các quyền đó của công dân
mới ở mức “đảm bảo được thực hiện”4. Tuy nhiên đây cũng đã là một bước tiến rất dài
trong lịch sử lập pháp của nước ta. Sự công bằng, bình đẳng đã được thể hiện rõ nét trong
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
4 Võ Khánh Vinh (2011), Quyền con người, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, trang 100.


7


Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội
Hiến pháp năm 1959 ra đời đã ghi nhận cụ thể hơn nữa các quyền lợi của công
dân: “Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa được đảm bảo” (Điều 27); “người lao động có quyền nghỉ ngơi” (Điều 31) “…có
quyền được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động.”(Điều 32);
hay “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân về của cải, thu nhập hợp pháp, của
cải để dành, nhà ở và các thứ vật dụng riêng khác” (Điều 18).
Có thể nói trong giai đoạn mới của cách mạng khi 2 miền Nam, Bắc còn bị chia
cắt với 2 thể chế chính trị khác nhau thì việc sửa đổi Hiến pháp 1946 là sự tất yếu để phù
hợp với nhiệm vụ mới. So với Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 đã ghi nhận cụ
thể hơn các quyền lợi của công dân. Quyền bất khả xâm phạm về thân thể lần đầu tiên
được quy định trong Hiến pháp 1959, khẳng định sự bảo hộ của nhà nước đối với thân thể
con người. Nói vậy không có nghĩa Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 không
bảo hộ quyền về danh dự và nhân phẩm của con người, tuy nhiên sự quy định của nó
trong Điều 11 “Tư pháp chưa quyết định thì không ai được bắt bớ và giam cầm công dân
Việt Nam”, chỉ ở mức hạn chế là “bắt bớ và giam cầm” chứ chưa mang tính khái quát cao
hơn ở mức “bất khả xâm phạm” và được nhà nước “bảo đảm”. Ngoài ra việc được chăm
sóc sức khỏe, được bảo vệ về tài sản hay quyền sở hữu đều được Hiến pháp 1959 ghi
nhận.
Năm 1980 sau khi đất nước hoàn toàn độc lập, hai miền Nam, Bắc hoàn toàn
thống nhất việc cần có một bản Hiến pháp thể chế hóa đường lối của Đảng cộng sản Việt
Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là điều cần thiết. Các quyền về danh dự,
nhân phẩm của công dân cũng được ghi nhận cụ thể hơn tại Điều 70 của hiến pháp:
“Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân
phẩm”. Đây là lần đầu tiên sự bảo hộ của pháp luật về danh dự và nhân phẩm của công
dân được ghi nhận chính thức. Đây là một bước tiến so với Hiến pháp năm 1959. Việc

bảo hộ danh dự, nhân phẩm của công dân không chỉ thể hiện sự tiến bộ trong tư tưởng lập
pháp mà còn thể hiện sự hòa nhập với pháp luật quốc tế trong việc bảo vệ các quyền cơ
bản của con người5.
Hiến pháp năm 1992 vẫn ghi nhận các quyền về bảo hộ danh dự nhân phẩm của
công dân, cụ thể tại Điều 71: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể được
pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; Không ai bị bắt nếu
không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát
nhân dân trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp
5 Võ Khánh Vinh (2012), Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền mới xuất hiện trong quá trình phát triển, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, trang 110.

8


Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội
luật; Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của
công dân”.
Sự ghi nhận của Hiến pháp 1992 về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm
của công dân thể hiện rất rõ ràng, cụ thể. Không có sự thay đổi nào về “quyền được pháp
luật bảo hộ” quy định trong Hiến pháp 1980 đến Hiến pháp 1992. Điều này thể hiện tư
tưởng nhất quán, xuyên suốt quá trình xây dựng luật của Đảng và nhà nước ta. Sự ghi
nhận trong Hiến pháp cũng chứng tỏ sự bảo đảm cao nhất của nhà nước đối với những
quyền nêu trên. Không chỉ nêu trong Hiến pháp, việc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm và tài sản của công dân còn được thể hiện trong nhiều bộ luật khác của
Việt Nam như Bộ luật Dân sự 1995 tại Điều 5 “Nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền nhân
thân” hay Điều 6 “Nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền sở hữu, các quyền khác đối với tài
sản”; Bộ luật Lao động năm 1994 sửa đổi bổ sung năm 2002 quy định tại khoản 2 Điều 5
“Cấm ngược đãi người lao động, cấm cưỡng bức người lao động dưới bất kỳ hình thức
nào”. Quyền nhân thân là quyền dân sự, gắn liền với mỗi cá nhân và không thể chuyển

giao cho người khác, cụ thể như: danh dự, nhân phẩm, uy tín 6… Tuy điều chỉnh những
quan hệ khác nhau trong xã hội nhưng những bộ luật trên đều thể hiện nguyên tắc lấy con
người, lợi ích cao nhất của con người làm trung tâm để điều chỉnh, nhất quán với quy
định chung của Hiến pháp và đường lối xây dựng nhà nước “của dân, do dân và vì dân”
của Đảng cộng sản Việt Nam.
Cùng với việc thể hiện nguyên tắc tôn trọng các quyền cơ bản của công dân trong
các Bộ luật ban hành trong nước mà trong các Hiệp định tương trợ tư pháp của Việt Nam
với các quốc gia trên thế giới như Đức, Hungari, Nga, Trung Hoa, Pháp….đều ghi nhận
ngay tại điều đầu tiên của mỗi Hiệp định về việc “Bảo vệ pháp lý” trong đó quy định:
“Công dân của Bên ký kết này được hưởng trên lãnh thổ của Bên ký kết kia sự bảo vệ
pháp lý đối với các quyền nhân thân và tài sản của mình như công dân của Bên ký kết
kia”. Như ta biết quyền về nhân thân là những quyền về dân sự gắn liền với bản thân và
không thể chuyển giao cho người khác trong đó có quyền về tính mạng, sức khỏe, danh
dự và nhân phẩm. Có thể coi đây là điều khoản cơ bản đầu tiên, rất quan trọng và không
thể thiếu trong bất kỳ Hiệp định tương trợ Tư pháp nào của nhà nước Việt Nam. Việc quy
định như vậy sẽ là căn cứ cho việc thực thi Hiệp định được thuận tiện, bảo vệ cao nhất
quyền lợi của công dân nước mình trước pháp luật của các quốc gia khác.
Trong Hiến pháp của Việt Nam năm 2013, quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự
của công dân một lần nữa vẫn được khẳng định là một quyền hiến định. Theo Hiến Pháp
6 Võ Khánh Vinh (2010), Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học - Tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
trang 50.

9


Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội
năm 2013, quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người là một trong những
quyền cơ bản của công dân, quyền này được quy định rõ nhất tại Điều 20 Hiến pháp năm
2013 như sau: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo

hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình
hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự,
nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định
hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt,
giam, giữ người do luật định”.
Tất cả mọi người đều có quyền nhân thân, quyền nhân thân được coi là quyền đầu
tiên của con người, nó gắn liền với mỗi cá nhân và tồn tại cho đến khi cá nhân chết đi 7.
Mặc dù nhân phẩm, danh dự là những giá trị nhân thân không trị giá được bằng tiền, tuy
nhiên, xâm phạm đến giá trị này có thể ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của chủ thể
bị xâm phạm. Thiệt hại mà chủ thể bị xâm phạm nhân phẩm, danh dự phải gánh chịu bao
gồm cả thiệt hại về vật và tổn thất về tinh thần. Tổ chức bị xâm phạm danh dự có thể bị
giảm thu nhập, thậm chí bị tuyên bố phá sản. Cá nhân bị xâm phạm nhân phẩm, danh dự
cũng có thể bị giảm thu nhập, ảnh hưởng đến hoạt động nghề nghiệp, đến các mối quan
hệ xã hội, thậm chí đến sức khỏe, tính mạng. Rõ ràng hậu quả mà chủ thể bị xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của con người phải gánh chịu cũng rất nghiêm trọng. Đây cũng
chính là cơ sở để bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người.
Trên cơ sở được quy định trong Hiến pháp, quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh
dự được quy định cụ thể hơn trong các văn bản pháp luật của nhiều ngành luật khác
nhau tạo thành một hệ thống các quy định về quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự của
con người.
Pháp luật thế giới đã công nhận các quyền của con người thông qua Tuyên ngôn
toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 hay Hiến chương Liên Hợp quốc, vì vậy việc pháp
luật quốc gia ghi nhận và bảo hộ cho các quyền đó thể hiện sự tiếp thu những giá trị văn
minh về lập pháp của thế giới.
1.1.3.

Ý nghĩa của việc quy định bảo vệ nhân phẩm, danh dự của công dân trong
pháp luật Việt Nam

Việc ban hành các quy định và chế tài nhằm bảo vệ danh dự, nhân phẩm của công

dân đóng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Cụ thể:
Thứ nhất, là sự khẳng định về bảo vệ con người và quyền con người. Quyền nhân
thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho chủ thể khác,
7 Võ Khánh Vinh (2011), Quyền con người, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, trang 97.

10


Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội
là một trong những nội dung cơ bản của quyền con người và không tách rời khỏi quyền
con người. Việc quy định chế tài đối với các hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự của
con người trong pháp luật Việt Nam là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ chặt chẽ giữa
đạo đức và pháp luật. Thông qua việc quy định hành vi xâm phạm nghiêm trọng nhân
phẩm, danh dự của con người là hành vi vi phạm pháp luật và phải chịu chế tài là biện
pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước đóng vai trò tác động mạnh mẽ đến sự
hình thành, phát triển nền đạo đức mới, đạo đức hướng tới con người, tôn trọng con
người và vì con người
Thứ hai, là cơ sở để đảm bảo trật tự, an ninh xã hội. Việc quy định chế tài đối
với hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người trong tạo cơ sở pháp lý cho
cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa các hành vi xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm,
danh dự của người khác từ đó bảo vệ được con người nói riêng và đảm bảo an ninh trật
tự xã hội nói chung. Tạo điều kiện và động viên các cơ quan, tổ chức và mọi công dân
tham gia vào việc đấu tranh các hành vi vi phạm pháp luật. Bởi đối với mỗi cá nhân, các
quyền nhân thân về danh dự, nhân phẩm đều là một trong những quyền cơ bản của con
người, một khi các quyền lợi đó bị xâm phạm mà không có cơ chế bảo vệ thích đáng thì
việc mất lòng tin của dân chúng vào pháp luật nhà nước là điều không thể tránh khỏi.
Điều này sẽ dẫn đến việc vi phạm pháp luật thường xuyên, tùy tiện xử lý kẻ vi phạm bất
chấp pháp luật và hệ quả là sự mất ổn định trong xã hội. Vì thế quy định bảo vệ danh
dự, nhân phẩm công dân có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc duy trì trật tự xã hội.

Thứ ba, thể hiện sự tương thích giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế về
bảo vệ quyền con người. Pháp luật thế giới đã công nhận các quyền của con người thông
qua Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 hay Hiến chương Liên Hợp
quốc, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và Công ước quốc tế về các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa vì vậy việc pháp luật Việt Nam ghi nhận và bảo hộ cho
các quyền đó thể hiện sự tiếp thu những giá trị văn minh về lập pháp của thế giới.
1.2.

Khái quát hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người khác trên
mạng xã hội

1.2.1.

Khái niệm hành vi xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác

Nhân phẩm là giá trị làm người, còn danh dự là kết quả của quá trình xây dựng
và bảo vệ nhân phẩm. Hành vi xúc phạm đến nhân phẩm và danh dự của người khác là
những hành vi do cá nhân thực hiện một cách cố ý gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
cho quyền nhân thân mà cụ thể nhân phẩm, danh dự của cá nhân, tổ chức.
Hành vi xúc phạm đến nhân phẩm và danh dự của con người thường thể hiện
11


Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội
bằng các hành vi khác nhau như: Dùng những lời nói hoặc hành động có tính chất thóa
mạ, khinh bỉ để làm nhục người khác hoặc gán một sự kiện xấu xa cho người khác làm
cho xã hội đánh giá sai hoặc hình dung sai về người đó so với sự thật khách quan. Sự
đánh giá sai sự thật không phụ thuộc vào việc người đưa ra những tin tức đó vô ý hay cố
ý. Tiêu chuẩn để đánh giá những sự việc nêu ra là xấu xa hay không xấu xa là những

nguyên tắc đạo đức xã hội8. Tuy nhiên, tính chất nghiêm trọng của những tin tức đưa ra
có thể khác nhau tùy theo nhân thân của người bị hại.
Danh dự, nhân phẩm của con người là khách thể được pháp luật Việt Nam bảo
vệ. Vì vậy, tuỳ mức độ nguy hiểm của hành vi mà người có hành vi xúc phạm nhân
phẩm, danh dự của người khác có thể bị xử lý vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm
hình sự.
1.2.2.

Đặc điểm của các hành vi xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác
trên mạng xã hội

Khách thể của các hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người là quyền
nhân thân của con người và cụ thể là nhân phẩm, danh dự của con người. Các hành vi xúc
phạm nhân phẩm, danh dự của người khác trên mạng xã hội có những đặc điểm chung
sau:
Thứ nhất, hành vi xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác được thực hiện
một cách cố ý dưới dạng hành động. Người thực hiện hành vi biết hành vi của mình là
hành vi nguy hiểm, xâm hại đến nhân phẩm, danh dự của người khác nhưng vẫn thực hiện
hành vi nhằm đạt mục đích của mình do những mâu thuẫn cá nhân hoặc các động cơ khác
Thứ hai, mục đích của hành vi là nhằm xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người
khác.
Thứ ba, hậu quả của hành vi là những thiệt hại gây ra cho nhân phẩm, danh dự của
con người thường thể hiện dưới dạng những thiệt hại tinh thần. Tuy nhiên, hậu quả
không phải là dấu hiệu bắt buộc.
Thứ tư, phương tiện thực hiện hành vi là mạng xã hội với đặc tính khả năng lan
truyền, phát tán thông tin nhanh. Những thông tin vu khống, những lời nói miệt thị,
những hình ảnh xúc phạm, bội nhọ thanh danh của người khác được dễ dàng đăng tải và
lan truyền trên mạng xã hội. Với hình thức này, người phạm tội có thể dễ dàng thực hiện
hành vi mong muốn và tốc độ lan truyền những thông tin đăng tải theo hình thức này
nhanh hơn rất nhiều so với các hình thức phạm tội trước đây khiến số người biết được

8 Nguyễn Đình Cương (2015), Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số
liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk), Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, trang 10

12


Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội
những thông tin xúc phạm này tăng về số lượng nhưng giảm về thời gian có được thông
tin. Thậm chí nhiều trường hợp, bản thân người bị xúc phạm không biết danh dự của bản
thân mình đang bị xâm hại nếu không có người khác nói lại vì nhiều lý do khác nhau như
họ không tham gia các diễn đàn mạng xã hội.
1.3.

Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về xử lý hành
vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người khác

Pháp luật Việt Nam đã ban hành nhiều văn quy định nhằm bảo vệ danh dự nhân
phẩm của con người và song song đó là các chế tài danh cho những chủ thể có hành vi
xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của người khác. Tùy vào tính chất và mức độ vi
phạm, các hành vi xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của người khác sẽ bị xử lý dưới
nhiều hình thức từ xử phạt vi phạm hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự và các chế
tài về bồi thường thiệt hại trong dân sự.
Trong pháp luật hình sự, Bộ luật Hình sự năm 1985 được Quốc Hội khóa VII
thông qua ngày 27 tháng 06 năm 1985 tại kỳ họp thứ 9 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng
01 năm 1986. Đây là Bộ luật Hình sự đầu tiên của nước ta được ban hành trên cơ sở
pháp điển hóa các văn bản pháp luật hình sự đã được ban hành trước đó, đánh dấu một
bước tiến vượt bậc trong lịch sử lập pháp hình sự của Nhà Nước ta. Trong Bộ luật Hình
sự năm 1985, các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người được quy định tại
chương 2 phần các tội phạm. Việc Bộ luật Hình sự năm 1985 lần đầu tiên chính thức ghi

nhận về mặt pháp lý các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người đã đánh dấu
sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta trong lĩnh vực bảo vệ nhân
phẩm, danh dự của con người.
Trong Bộ luật Hình sự năm 1985, các tội xúc phạm nhân phẩm, danh dự của con
người được quy định tại chương 2 - Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của con người gồm các tội: tội hiếp dâm (Điều 112), tội cưỡng dâm (Điều 113),
tội giao cấu với người dưới 16 tuổi (Điều 114) và tội mua bán phụ nữ (Điều 115). Bộ
luật Hình sự năm 1985 cũng là văn bản lần đầu tiên chính thức ghi nhận về mặt pháp lý
tội làm nhục người khác và tội vu khống đã đánh dấu mốc quan trọng trong việc xây
dựng các quy định hình sự trong việc bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người.
Có thể nói, Bộ luật Hình sự 1985 là công cụ sắc bén của Nhà Nước, của nhân
dân, đã phát huy vai trò, tác dụng to lớn trong công cuộc bảo vệ những thành quả cách
mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa cũng như bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân. Do sự phát triển của kinh tế xã hội có nhiều thay đổi đòi hỏi pháp luật cũng
phải thay đổi cho phù hợp. Bộ luật Hình sự 1985 đã được sửa đổi 4 lần vào các năm
1989, 1991, 1992 và năm 1997. Qua các lần sửa đổi, các quy định về các tội xâm phạm
13


Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội
nhân phẩm, danh dự của con người dần được hoàn thiện thể hiện ở việc nhà làm luật đã
thay đổi dấu hiệu pháp lý của một số tội cho phù hợp với điều kiện thực tế, bổ sung một
số tình tiết tăng nặng nhằm phản ánh đầy đủ hơn các trường hợp phạm tội mới trên thực
tế mới phát sinh, đồng thời điều chỉnh một số mức hình phạt.
Kế đến là sự ra đời của Bộ luật Hình sự năm 1999 và Bộ luật Hình sự năm 2015,
sửa đổi bổ sung năm 2017, hai bộ luật này đã kế thừa và phát huy Bộ luật Hình sự 1985
trên cơ sở tiếp thu những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn đấu tranh phòng chống tội
phạm về xúc phạm danh dự, nhân phẩm con người. So với Bộ luật Hình sự năm 1985,
Bộ luật Hình sự năm 1999 và Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có sự đổi mới toàn diện về

cả nội dung và hình thức, tuy nhiên vẫn giữ nguyên các quan điểm về các hành vi xúc
phạm danh dự, nhân phẩm con người.
Trong xử lý vi phạm hành chính, nhà nước cũng đã ban hành nhiều văn bản xử
lý đối với các hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của con người như tại Nghị định số
141-HĐBT năm 1991 của Hội Đồng Bộ Trưởng quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự. Theo đó, hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm
người khác được xếp vào nhóm hành vi gây rối trật tự công cộng 9. Và kế đến là sự kế
thừa quan điểm xem hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác được xếp vào
nhóm hành vi gây rối trật tự công cộng của Nghị định số 141-HĐBT qua các văn bản
được ban hành về sau như:
Một là, Nghị định số 49-CP ngày 15/8/1996 của Chính Phủ về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự;
Hai là, Nghị định số 150/2005/NĐ-CP ngày 12/12/2005 của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội;
Ba là, Nghị định số 73/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội;
Bốn là, Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống
tệ nạn xã hội; phòng và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình
Cùng với sự ra đời và phát triển công nghệ thông tin, nhà nước cũng kịp thời ban
hành văn bản xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm
người khác thông qua các phương tiện công nghệ thông tin hiện đại. Cụ thể tại:

9 Điểm c Khoản 1 Điều 1 Nghị định số 141-HĐBT năm 1991

14


Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội

Một là, Nghị định 97/2008/NĐ-CP ngày 28/8/2008 của Chính phủ về việc quản lý,
cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin điện tử trên internet.
Hai là, Nghị định số 72/2013/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng
dịch vụ internet và thông tin trên mạng.
Theo đó, tại Điểm d, e khoản 1 Điều 5 Nghị định số 72/2013/NĐ-CP pháp luật
nghiêm cấm các hành vi đưa thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ
chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân hoặc các hành vi giả mạo tổ chức, cá nhân và
phát tán thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân.
Ở khía cạnh dân sự, nguyên tắc về vảo vệ danh dự nhân phẩm của con người và
chế tài về dân sự đối với hành vi xâm phạm đến danh dự nhân phẩm con người cũng đã
được ghi nhận từ Bộ luật Dân sự 1995. Cụ thể tại Điều 5 Bộ luật dân sự năm 1995 đã
ghi nhận về “Nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền nhân thân”. Kế thừa tinh thần này, Bộ
luật Dân sự năm 2005 và Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng ghi nhận sự bảo hộ danh dự,
nhân phẩm con người ở góc độ đảm bảo quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm và
quyền được bồi thường thiệt hại khi danh dự, nhân phẩm của cá nhân bị xâm hại.
Có thể thấy, ở mỗi thời kỳ khác nhau, những quy định về những hành vi xúc
phạm danh dự, nhân phẩm con người cũng được thay đổi và ngày càng hoàn thiện hơn
để đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới.
Kết luận chương 1
Quyền được bảo vệ danh dự nhân phẩm con người đã được ghi nhận chính thức
trong pháp luật Việt Nam với tư cách là một quyền hiến định từ Hiến pháp năm 1980 đến
nay và được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật hình sự, hành chính, dân sự bằng hệ
thống các nguyên tắc bảo vệ và chế tài dành cho các chủ thể có hành vi xâm phạm đến
danh dự nhân phẩm của con người.
Việc chính thức ghi nhận về mặt pháp lý quyền về danh dự nhân phẩm của con
người và chế tài đối với các hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người trong
pháp luật Việt Nam hiện hành là một biểu hiện cụ thể của việc quy định về quyền con
người, bảo vệ giá trị của con người đồng thời thể hiện được sự tương thích của pháp luật
Việt Nam với pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền con người. Các quy định về chế tài đối

với các hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người dần phát triển hoàn thiện qua
thời gian cho phù hợp với sự thay đổi của điều kiện kinh tế - xã hội.

15


Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội

CHƯƠNG 2: CÁC CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM,
DANH DỰ CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
2.1.

Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm nhân phẩm,
danh dự của người khác trên mạng xã hội

2.1.1.

Khái niệm vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm nhân phẩm,
danh dự của người khác trên mạng xã hội

Các văn bản pháp luật hiện hành không đưa ra khái niệm vi phạm hành chính
đối với hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người khác nói chung và hành vi
xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người khác trên mạng xã hội nói riêng. mà chỉ có
khái niệm chung về vi phạm hành chính. Theo đó, vi phạm hành chính là hành vi có
lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà
nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi
phạm hành chính10. Và việc xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi này hiện
được xếp vào nhóm các hành vi vi phạm hành chính về an ninh, trật tự, an toàn xã hội
và điều chỉnh chi tiết bởi Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội;
phòng và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình.
Vì vậy, căn cứ vào khái niệm về vi phạm hành chính và các đặc điểm của hành
hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người khác trên mạng xã hội đã phân
tích tại Chương 1 ta có thể khái quát như sau: vi phạm hành chính đối với hành vi
xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người khác trên mạng xã hội là những hành vi
vi phạm các quy định quản lý Nhà nước trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội
do cá nhân thực hiện một cách cố ý mà không phải là tội phạm và theo quy định của
pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”.
2.1.2.

Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của người khác trên mạng xã hội

Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp lí đã xác
định những hình thức thực hiện pháp luật gồm có bốn loại cơ bản sau: Tuân thủ pháp
luật (chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm);
thi hành pháp luật (chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lí của mình bằng hoạt
động tích cực); sử dụng pháp luật (chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình,
thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép); áp dụng pháp luật là hoạt động mang
10 Khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012

16


Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội
tính quyền lực nhà nước, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc các nhà chức trách
tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình
căn cứ vào những quy định của pháp luật để tạo các quyết định làm phát sinh, thay đổi,

đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.
Trong số bốn hình thức thực hiện pháp luật, hình thức áp dụng pháp luật là đặc
biệt nhất vì nó liên quan đến hiệu quả hoạt động của Bộ máy Nhà nước 11. Một trong
những trường hợp cần tiến hành áp dụng pháp luật đó là khi cần áp dụng các biện pháp
chế tài được Nhà nước quy định trong các quy phạm pháp luật nhằm đảm bảo pháp luật
được thực hiện nghiêm minh. Xử lí vi phạm hành chính thuộc hình thức áp dụng pháp
luật.
Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự của
người khác trên mạng xã hội là một trong những hình thức thực hiện pháp luật. Theo đó,
người có thẩm quyền xử phạt căn cứ vào những quy định của pháp luật về xử lý hành
chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội áp dụng hình thức xử phạt, biện
pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân thực hiện hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh
dự của người khác trên mạng xã hội theo quy định khi chủ thể này có hành vi vi phạm
hành chính trong lĩnh vực này.
2.1.3.

Hành vi vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh
dự của người khác trên mạng xã hội

Vi phạm pháp luật là hành vi xác định của chủ thể. Vì thế, việc xác định hành vi
nào là hành vi vi phạm pháp luật có ý nghĩa quan trọng đối với công tác đấu tranh
phòng chống vi vi phạm pháp luật. Đối với nhà làm luật khi xác định hành vi bị coi là
vi phạm pháp luật phải căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Đối với
nhà áp dụng pháp luật, xác định hành vi nào bị coi là vi phạm pháp luật phải căn cứ vào
quy định của pháp luật hiện hành. Hành vi vi phạm hành chính về xâm phạm danh dự,
nhân phẩm của người khác hiện nay được quy định trong Nghị định số 167/2013/NĐCP. Theo đó, Nghị định phân chia các hành vi vi phạm hành xâm phạm danh dự, nhân
phẩm của người khác theo nhóm chung và nhóm riêng điều chỉnh đối với các chủ thể
đặc biệt. Cụ thể:

- Nhóm chung: gồm nhóm các hành vi về xúc phạm danh dự, nhân phẩm của

người khác nói chung

- Nhóm riêng điều chỉnh đối với các chủ thể đặc biệt: gồm nhóm các hành vi
11 Nguyễn Thị Bình (2013), Xử lí vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đối với doanh nghiệp trong khu công
nghiệp ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội.

17


Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội
xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác là những chủ thể đặc biệt gồm
người thi hành công vụ, thành viên gia đình, người ngăn chặn, phát hiện, báo
tin bạo lực gia đình, người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình.
So với trước đây, đây là lần đầu tiên hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của
người khác được pháp luật cụ thể hóa bằng một chế tài hành chính thay vì chỉ quy định
mang tính nguyên tắc tại Hiến pháp.
2.1.4.

Nguyên tắc xử phạt hành vi vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của người khác trên mạng xã hội

Về cơ bản, việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của người khác trên mạng xã hội cũng phải tuân thủ các nguyên tắc về xử
lý vi phạm hình chính tại Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, việc xử phạt chỉ được áp dụng đối với các cá nhân thực hiện các hành vi
vi phạm hành chính xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người khác trên mạng xã hội từ
đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi nếu họ thực hiện hành vi do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên
bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính. Đây là độ tuổi chịu trách
nhiệm hành chính của cá nhân. Trong trường hợp một cá nhân tuy có hành vi cố ý xâm

phạm nhân phẩm, danh dự của người khác nhưng nếu cá nhân này dưới độ tuổi chịu trách
nhiệm hành chính thì họ cũng không thể bị xử phạt.
Thứ hai, mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải
bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục
theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ ba, việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, công khai,
khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật. Việc xử
phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người khác
phải được các cá nhân, tổ chức có thẩm quyền thực hiện theo đúng những trình tự, thủ tục
chặt chẽ của pháp luật. Xử phạt không đúng thẩm quyền là một trường hợp vi phạm pháp
luật và kết quả xử phạt bị hủy bỏ. Không phải bất cứ cơ quan nào cũng được áp dụng biện
pháp xử lí vi phạm hành chính mà chỉ những cơ quan Nhà nước được pháp luật trao
quyền mới được áp dụng những biện pháp này.
Thứ tư, việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu
quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng.
Thứ năm, chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do
pháp luật quy định. Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần. Nhiều người
cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về
18


Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội
hành vi vi phạm hành chính đó. Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính
hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm;
Thứ sáu, người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành
chính. Theo đó, tương tự như việc xác định trách nhiệm hình sự, nghĩa vu chứng minh
tồn tại hành vi vi phạm thuộc về trách nhiệm của chủ thể xử phạt vi phạm hành chính.
Trong phạm vi khả năng của minh, cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc
thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính.

2.1.5.

Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm danh
dự nhân phẩm người khác trên mạng xã hội và nguyên tắc áp dụng

Về cơ bản, xử phạt vi phạm hành chính có hai hình thức xử phạt chính là phạt
cảnh cáo và phạt tiền. Cá nhân bị xử phạt cảnh cáo khi vi phạm lỗi nhỏ, do sơ suất vi phạm
lần đầu, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và chưa gây thiệt hại nghiêm trọng. Còn phạt tiền là biện
pháp tác động mang tính tài sản, theo đó nó tước bỏ ở người vi phạm một khoản tiền
thuộc sở hữu của người vi phạm. Sự tác động này, chứng tỏ phạt tiền là biện pháp có tính
nghiêm khắc hơn so với biện pháp cảnh cáo. Những hành vi vi phạm bị áp dụng hình
thức phạt tiền có tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn so với những hành vi vi phạm chỉ bị
áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo.
Theo Điểm a Khoản 1 Điều 5 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP, người có hành vi
xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ
100.000 đồng đến 300.000 đồng. Trường hợp này chế tài được áp dụng không phụ thuộc
vào phương tiện thực hiện hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác là trực
tiếp hay thông qua mạng xã hội. Bên cạnh đó, nếu có căn cứ xác định rằng người có hành
vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác thông qua mạng xã hội bên cạnh mục
đích xâm phạm danh dự, nhân phẩm còn cố tình sử dụng quyền tự do ngôn luận để lôi
kéo, kích động người khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì
sẽ bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.
Bên cạnh những chế tài xử phạt chung đối với hành vi xúc phạm danh dự, nhân
phẩm của người khác thì pháp luật cũng có các chế tài riêng đối với hành vi xúc phạm
danh dự, nhân phẩm của một số đối tượng đặc biệt. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người thi hành công vụ. Nếu đối
tượng bị xúc phạm danh dự, nhân phẩm là người thi hành công vụ thì theo Điểm b Khoản
2 Điều 20 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP, người thực hiện hành vi sẽ bị phạt tiền từ
19



Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội
2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng, không phân biệt phương tiện được sử dụng để thực
hiện hành vi.
Thứ hai, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của thành viên gia đình. Trường hợp
người bị xúc phạm danh dự, nhân phẩm là thành viên gia đình của người vi phạm thì
trong trường hợp thông thường người vi phạm sẽ bị phạt tiền từ 500.000 đồng đến
1.000.000 đồng theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 51 Nghị định số 167/2013/NĐCP. Tuy nhiên, trường hợp người vi phạm sử dụng các phương tiện thông tin nhằm xúc
phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình mình thì chế tài sẽ là phạt tiền từ
1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng, đồng thời người vi phạm còn bị buộc xin lỗi công
khai khi nạn nhân có yêu cầu.
Thứ ba, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người ngăn chặn, phát hiện, báo tin
bạo lực gia đình, người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình. Đối với trường hợp này,
người xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người ngăn chặn, phát hiện, báo tin bạo lực gia
đình, người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ
100.000 đồng đến 300.000 đồng theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 58 Nghị định số
167/2013/NĐ-CP. Đồng thời người bị vi phạm sẽ bị buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân
có yêu cầu.
Có thể thấy, các chế tài đối với hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người
khác theo Nghị định số 167/2013/NĐ-CP thường không có sự phân biệt về phương thức
người vi phạm thực hiện hành vi là dùng lời nói, hành động hay thông qua mạng xã hội,
ngoại trừ trường hợp đối với thành viên gia đình.
Song song với các chế tài áp dụng đối với cá nhân có hành vi xúc phạm danh dự,
nhân phẩm của người khác theo Nghị định số 167/2013/NĐ-CP thì các tổ chức, doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội có hành vi tiếp tay cho người có hành vi xúc phạm
danh dự, nhân phẩm của người khác qua mạng xã hội cũng có thể bị xử phạt vi phạm
hành chính. Cụ thể, theo quy định tại Khoản 4 Điều 5 Nghị định số 174/2013/NĐ-CP
ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu
chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện thì tổ chức, doanh nghiệp

cung cấp dịch vụ mạng xã hội chủ động cung cấp nội dung thông tin sai sự thật, vu
khống, xuyên tạc, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức và danh dự, nhân phẩm của cá
nhân sẽ bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Vì vậy, có thể thấy chủ thể
bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác
qua mạng xã hội không chỉ gồm cá nhân mà còn cả tổ chức.
20


Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội
Nhìn chung, trên thực tế, biện pháp cảnh cáo thường được áp dụng ít hơn so với
biện pháp phạt tiền và một số quan điểm cho rằng biện pháp cảnh cáo không đạt được
mục đích của xử phạt, chưa mang tính răn đe đối với người có hành vi xúc phạm danh
dự, nhân phẩm của người khác. Vì vậy, không nên đưa vào hệ thống biện pháp xử phạt vi
phạm hành chính đối với người có hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người
khác. Tuy nhiên, đó là quan điểm chưa phù hợp, vì mục đích của xử phạt không chỉ là
trừng trị mà còn răn đe, giáo dục người vi phạm phải tôn trọng danh dự nhân phẩm của
người khác. Việc áp dụng biện pháp cảnh cáo giúp cho cá nhân bị xử phạt thấy tính
nghiêm minh cũng như sự độ lượng của pháp luật mà trở nên cẩn trọng hơn, tự giác chấp
hành pháp luật về tôn trọng danh dự nhân phẩm của người khác. Đây là một điều hoàn
toàn hợp lí, phù hợp với bản chất, mục đích giáo dục con người của Nhà nước ta và phù
hợp với mục đích của hoạt động xử phạt.
Bên cạnh việc áp dụng các hình phạt chính là cảnh cáo và phạt tiền, Nghị định số
167/2013/NĐ-CP còn áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm. Biện
pháp khắc phục hậu quả có vị trí quan trọng trong công tác xử lý vi phạm hành chính là
dựa trên nguyên tắc: “một hậu quả do VPHC gây ra phải được khắc phục theo đúng quy
định của pháp luật” (Điều 3 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, Điểm a
Khoản 1 Điều 3 Luật xử lí vi phạm hành chính năm 2012) và tinh thần này được gắn liền
với mỗi văn bản cũng như các quy định về xử phạt hành vi vi phạm hành chính cụ thể,
trong đó có lĩnh vực bảo vệ môi trường. Nếu như việc sử dụng các biện pháp xử phạt để

trừng phạt, răn đe và ngăn ngừa những cá nhân, tổ chức vi phạm thì việc áp dụng các
biện pháp khắc phục hậu quả góp phần khắc phục những thiệt hại do hành vi vi phạm
hành chính gây ra, duy trì trật tự quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích của cá nhân bị xâm
phạm, lợi ích chung của toàn xã hội và thể hiện được tính kiên quyết và triệt để trong xử
lý vi phạm hành chính. Theo Nghị định số 167/2013/NĐ-CP, biện pháp khắc phục hậu
quả thường được sử dụng đối với hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác
này là buộc người vi phạm xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu.
2.2.

Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm nhân phẩm, danh
dự của con người theo Bộ Luật hình sự Việt Nam

Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi xâm phạm quyền
được tôn trọng và bảo vệ về nhân phẩm, danh dự của người khác.
Mặc dù có sự giống nhau hay khác nhau về danh dự, nhân phẩm nhưng mọi
người trong xã hội đều được pháp luật bảo vệ các quyền nhân thân này một cách bình
21


Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội
đẳng, trong đó có quy định của BLHS. Mọi hành vi xâm phạm đến khách thể của pháp
luật hình sự là nhân phẩm, danh dự của con người đều bị trừng trị nghiêm khắc.
Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người là những hành vi được thực
hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động và có lỗi (cố ý hoặc vô ý) xâm phạm
quyền được tôn trọng và bảo vệ về nhân phẩm, danh dự của người khác. Không ai hoặc
cơ quan, tổ chức nào có quyền xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự của người khác,
những hành vi xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự của người khác đều bị pháp luật

trừng trị.
Các hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người khác thông qua mạng xã
hội được liệt kê vào nhóm tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm của con người tại BLHS 2015. Tuy nhiên, do đặc tính là hành vi xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của người khác thông qua mạng xã hội nên hành vi trên chỉ có khả năng
cấu thành một trong các loại tội phạm sau:

- Tội làm nhục người khác;
- Tội vu khống.
Đối với tội làm nhục người khác, Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tội làm
nhục người khác tại Điều 116, tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên tại Điều 253,
tội làm nhục cấp dưới tại Điều 254, tội làm nhục đồng đội tại Điều 255. Việc Bộ luật
hình sự năm 1985 lần đầu tiên chính thức ghi nhận về mặt pháp lý tội làm nhục người
khác, tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp dưới, tội làm nhục
đồng đội, đánh dấu sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta trong lĩnh
vực bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người. Bộ luật đã đưa ra định nghĩa pháp lý
của khái niệm tội làm nhục người khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm,
danh dự của người khác và quy định hai khung hình phạt. Khung cơ bản có mức phạt
cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm. Khung
tăng nặng có mức phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3
tháng đến 2 năm. Đây là những trường hợp người phạm tội đã có hành vi làm nhục
người thi hành công vụ để cản trở người đó thi hành công vụ hoặc để trả thù người đó
vi đã thi hành công vụ, ảnh hưởng tới lợi ích của người phạm tội hay người thân hoặc
gia đình họ.
Đối với tội vu khống, tại BLHS năm 1985 cũng là lần đầu tiên lịch sử lập
pháp của Việt Nam ghi nhận về loại tội phạm này cụ thể như sau:
1. Người nào có một trong các hành vi sau đây thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo
22



Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội
không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm;

a. Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm
danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền lợi của người khác;

b. Bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan Nhà nước.
2. Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ một năm đến bảy

năm.
Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 có những quy định rất cụ
thể về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của con người.
Trong đó, tội làm nhục người khác quy định tại Điều 155 và Tội vu khống được quy
định tại Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
2.2.1.

Đặc điểm của tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người khác trên
mạng xã hội

Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người khác trên mạng xã hội được
quy định trong Bộ luật hình sự có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người khác trên mạng
xã hội là những hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người khác trên mạng xã hội không
phải là hành vi của con người chung chung. Hành vi là một trong những hình thức biểu
hiện sự tồn tại của con người trong thế giới khách quan. Hành vi của con người không
thể và chưa thể là tội phạm nếu nó chưa mang tính nguy hiểm cho xã hội dưới những
dạng nhất định. Do đó, đặc điểm của các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con
người phải là những hành vi nguy hiểm cho xã hội. Bên cạnh đó, do đặc thù công cụ,

phương tiện thực hiện tội phạm này là mạng xã hội – phương tiện có khả năng phát tán
và lan truyền thông tin nhanh, rộng, đến nhiều đối tượng khác nhau. Chính vì vậy, các
tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người khác trên mạng xã hội càng trở nên nguy
hiểm.
Thứ hai, các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người khác trên mạng xã
hội phải được quy định trong Bộ luật hình sự
Như mọi tội phạm khác, các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người khác
trên mạng xã hội được quy định trong BLHS. Phần chung của BLHS 2015 quy định
dấu hiệu pháp lý chung của tội phạm. Phần các tội phạm quy định dấu hiệu pháp lý đặc
trưng của các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người được quy định tại một
số điều luật trong điều 155, 156 của BLHS 2015.
23


Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội
Như vậy, việc Nhà nước ta xác định các tội phạm xâm phạm nhân phẩm, danh
dự của người khác trên mạng xã hội phải là những hành vi đã được quy định trong
BLHS 2015, xâm hại tới khách thể được luật hình sự bảo vệ, đó là quyền bất khả xâm
phạm về nhân phẩm, danh dự của con người.
Thứ ba, các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người khác trên mạng xã
hội được thực hiện một cách có lỗi của người phạm tội.
Việc khẳng định lỗi của các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người
như một đặc điểm cơ bản của nhóm tội phạm này là sự khẳng định chính sách hình sự
của Nhà nước ta trong công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm đối với các tội xâm
phạm nhân phẩm, danh dự của con người là la không chấp nhận quy tội khách quan,
nghĩa là quy trách nhiệm hình sự cho người chỉ căn cứ vào việc người đó thực hiện
hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà không căn cứ vào lỗi của họ. Dấu hiệu lỗi của
người phạm các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người khác trên mạng xã hội
nói lên thái độ tâm lý chủ quan của họ. Chỉ đối với những người có lỗi, việc áp dụng

hình phạt và các chế tài hình sự khác mới thực sự có ý nghĩa giáo dục, cải tạo và trừng
trị họ.
Thứ tư, các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người khác trên mạng xã hội
do người có năng lực trách nhiệm hình sự, và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực
hiện.
Thứ năm, phương tiện thực hiện các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của
người khác trên mạng xã hội là các phương tiện điện tử mà điển hình là mạng xã hội.
2.2.2.

Cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm nhân phẩm, danh
dự của con người

Căn cứ pháp lý của trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm nhân phẩm,
danh dự của người khác trên mạng xã hội chính là cấu thành tội phạm của các tội xâm
phạm nhân phẩm, danh dự của người khác trên mạng xã hội. Cấu thành tội phạm của
các tội cụ thể xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người khác trên mạng xã hội tại Điều
155 (Tội làm nhục người khác) và Điều 156 (Tội vu khống) BLHS 2015. Chỉ trên cơ
sở thoả mãn các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm các tội phạm cụ thể thì hành vi mới
bị coi là phạm tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người khác trên mạng xã hội.
Chỉ cần thoả mãn các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm cụ thể thì hành vi đã bị coi là
phạm tội mà cấu thành tội phạm đó phản ánh. Như vậy, phân tích cơ sở của trách
nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người thực chất
là phân tích các dấu hiệu pháp lý đặc trưng có ý nghĩa định tội của các tội xâm phạm
24


Chế tài xử lý vi phạm cho những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người
khác trên mạng xã hội
nhân phẩm, danh dự của con người.
Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người khác trên mạng xã hội đều là

những tội xâm phạm sự bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, bảo vệ con người
trong chế độ mới. Khách thể của nhóm tội này là quyền được bất khả xâm phạm về
tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Tuy nhiên, nghiên cứu sâu
dưới giác độ nhóm hẹp của các tội phạm này thì các yếu tố cấu thành tội phạm của tội
xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người khác trên mạng xã hội có những dấu hiệu
pháp lý đặc trưng riêng.

2.2.2.1. Khách thể của tội phạm xâm phạm nhân phẩm, danh dự
của con người
Con người khi sinh ra, tạo hóa cho họ một cơ thể hoàn thiện hoặc có thể không
hoàn thiện cả về thể chất lẫn tinh thần và đã được pháp luật thừa nhận bảo vệ, không ai
có quyền xâm phạm. Hành vi xâm phạm đến danh dự của con người là các tác động
trái pháp luật, làm cho người bị hại bị xúc phạm về danh dự, làm cho họ không nhận
được sự coi trọng của gia đình, xã hội, làm cho họ bị ô nhục, xấu hổ. Sự xâm phạm của
hành vi phạm tội làm mất đi giá trị của người đó trong xã hội, làm giảm sự kính trọng
của xã hội, của tập thể với người đó.
Khái niệm nhân phẩm, danh dự của con người được xem xét ở đây là tình trạng
nhân phẩm, danh dự vốn có ban đầu của nạn nhân khi chưa bị xâm phạm và sau khi bị
xâm phạm. Đây chính là cơ sở quan trọng để xem xét, đánh giá mức độ nguy hiểm của
hành vi. Hành vi xâm phạm có thể là gây ra, hoặc đe dọa gây ra các thiệt hại cho nhân
phẩm, danh dự của người bị hại.
Do đó, khách thể của nhóm tội này là quyền được tôn trọng và bảo vệ về nhân
phẩm, danh dự của con người. Đối tượng của nhóm tội này là những chủ thể có quyền
được tôn trọng và bảo vệ nhân phẩm, danh dự. Đối tượng tác động của nhóm tội phạm
này chỉ có thể là cá nhân, con người cụ thể. Đó là những người đang sống, đang tồn tại
với tư cách là con người thực thể tự nhiên và xã hội. Cá nhân này phải đang còn sống
vào thời điểm bị xâm phạm.

2.2.2.2. Mặt khách quan của tội phạm xâm phạm nhân phẩm, danh
dự của con người

Hành vi khách quan liên quan đến các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của
người khác trên mạng xã hội như tội vu khống, tội làm nhục người khác. Ví dụ như:
Người phạm tội phải là người có hành vi (hành động) được thể hiện bằng lời nói hoặc
hành động xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm danh dự của người khác như: lăng mạ,
25


×