Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

CƠ sở lý LUẬN về QUẢN lý đội NGŨ VIÊN CHỨC HÀNH CHÍNH ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG TRONG bối CẢNH đổi mới GIÁO dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.39 KB, 44 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ VIÊN CHỨC
HÀNH CHÍNH Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG TRONG BỐI
CẢNH ĐỔI MỚI GIÁO DỤC

1


Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Đội ngũ bao gồm những người lao động, tức là nguồn
nhân lực được sử dụng vào một công việc nào đó do bộ phận
hoặc đơn vị quản lý. Đội ngũ này nằm trong nguồn nhân
lực.Những luận điểm trên cho thấy, đội ngũ cán bộ là tập hợp
những cán bộ được tổ chức thành một lực lượng có cùng
chung một nhiệm vụ là thực hiện các mục tiêu đề ra. Một tập
hợp gắn bó hữu cơ cán bộ của một cơ quan, tổ chức nhất định
thì được gọi là đội ngũ cán bộ của cơ quan hoặc tổ chức đó.
Khi nói đến đội ngũ cán bộ ta phải hiểu và xét trên quan điểm
hệ thống đó không phải là một tập hợp rời rạc mà các thành tố
trong đó có mối quan hệ lẫn nhau, bị ràng buộc bởi những cơ
chế nhất định nào đó. Vì vậy, mỗi tác động vào một thành tố
đơn lẻ của hệ thống vừa có ý nghĩa cục bộ, vừa có ý nghĩa
trên toàn thể.
Phát triển đội ngũ chính là việc tạo ra các giá trị mới cho
đội ngũ để đội ngũ đó được thay đổi, hoàn thiện theo một
chiều hướng tích cực. Phát triển đội ngũ cán bộ tức là nhằm
vào hoàn thiện kết quả lao động tổng thể của người cán bộ
trong cương vị công tác hiện tại của họ và chuẩn bị cho học

2



đảm nhận những trách nhiệm cao hơn, nặng nề và phức tạp
hơn.
Tiếp cận quản lý phát triển đội ngũ nhân lực theo
Christian Batal; Công rinh nghiên cứu “Quản lý nguồn nhân
lực trong khu vực nhà nước”, Christian Batal đã kế thừa kết
quả nghiên cứu của một số nhà khoa học khác như: giáo dục
học, Dục báo học, Toán học…..để đưa ra lý thuyết về quản lý
phát triển nguồn nhân lực đồng thời đưa ra nội dung tổng thể
quản lý nguồn nhân lực bao gồm các khâu từ kiểm kê, đánh
giá đến nâng cao năng lực , hiệu quả quẩn lý nguồn nhân lực;
Đồng thời các tác giả còn đưa ra cách tiếp cận theo phương
pháp quản lý (phương pháp giáo dục, động viên, tuyên truyền,
phương pháp hành chính, phương phá kinh tế) và tiếp cận nội
dung phát triển đội ngũ; Từ đó các tác giả khẳng định; Việc
lựa chọn cách tiếp cận nào là do ý thức lý luận và kết quả
phân tích thực tiễn giáo dục của nhà nghiên cứu hay nhà quản
lý quyết định.
-Các khái niệm về công cụ và lý luận cơ bản
-Quản lý,chức năng quản lý
- Quản lý

3


Quản lý là một hoạt động đặc biệt của đời sống xã hội
loại người, nó xuất phát từ những nhu cầu khách quan của
cuộc sống con người, nhằm duy trì sự ổn định và phát triển
của xã hội. theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê Nin thì
tương ứng với mỗi hình thái kinh tế - xã hội là tồn tại những
phương thức quản lý riêng. Mỗi xã hội khác nhau lại có

những kiểu quản lý khác nhau, phản ánh khách quan trình độ
tổ chức xã hội của xã hội đó.
Theo Frederich, W.Taylor tác giả của học thuyết
quản lý theo khoa học thì: “Quản lý là biết được chính xác
điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu được rằng họ
đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”.
Theo thuyết quản lý hành chính của Henry Fayol thì:
“Quản lý hành chính là dự báo và lập kế hoạch, tổ chức và
điều khiển, phối hợp và kiểm tra”.
Theo tập thể tác giả: Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Quốc Chí,
Nguyễn Thị Mỹ Lộc định nghĩa kinh điển và đơn giản nhất:
“Quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể
quản lý (người quản lý) đến khách thể quẩn lý (người bị quản

4


lý) trong một tổ chức nhằm cho tổ chức vận hành và đạt được
mục đích của tổ chức” [5,tr.3].
Theo tác giả Phạm Viết Vượng trong cuốn quản lý hành
chính nhà nước và quản lý ngành giáo dục đào tạo thì “Quản
lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng
quản lý nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã
hội và hành vi của các cá nhân hướng đến mực đích hoạt
động chung và phù hợp với quy luật khách quan. [27,tr.40]
Theo cách hiểu trên, quản lý tồn tại với tư cách như một
hệ thống bao gồm những thành tố cấu trúc như sau:
Chủ thể quản lý: Trọng tâm thực hiện những tác động
hướng đích, có chủ đích đến các đối tượng quản lý. Chủ thể
quẩn lý có thể tồn tại với tư cách là cá thể nhưng cũng có thể

là một tập thể.
Đối tượng quản lý: Những đối tượng tiếp nhận tác động
hướng đích của chủ thể quản lý và được biến đổi dưới những
tác động này. Đối tượng quản lý rất đa dạng, từ giới vô sinh
đến vật nuôi, cây trồng và con người cùng các tổ chức cũng
như hành vi của nó.

5


Mục tiêu quản lý: Trạng thái đầu ra cần và có thể có của
tổ chức. Mục tiêu chỉ đạt trong tương lai mà mọi hoạt động
của tổ chức sẽ hướng đến để đạt được.
Cơ chế quản lý: Phương thức vận động hợp quy luật của
hệ thống quản lý. Cơ chế quẩn lý bao gồm tập hợp những quy
định có tác dụng điều khiển, điều chỉnh tốt mối quan hệ giữa
chủ thể quản lý và đối tượng quản lý.
Như vậy, Quản lý là một tổ chức là sự tác động có ý
thức, có chủ đích, có kế hoạch và hợp quy luật của chủ thể
quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (những người
bị quản lý) nhằm huy động và điều phối mọi nguồn lực cho
các hoạt động của tổ chức để đạt tới mục tiêu quản lý trong
một môi trường luôn luôn thay đổi.
Chức năng của quản lý
Trong thực tế các hoạt động quản lý được vận hành một
cách có hệ thống, khoa học, linh hoạt trên cơ sở quản lý hành
chức của mình. Chức năng quản lý là nội dung, phương thức
hoạt động cơ bản mà nhờ đó chủ thể quản lý tác động đến đối
tượng quản lý một cách hiệu quả thông qua quá trình quản lý
nhằm thực hiện mục tiêu quản lý.


6


Các công trình nghiên cứu về khoa học quản lý tuy chưa
được thống nhất cụ thể nhưng về cơ bản các nhà khoa học đều
khẳng định quản lý có 4 chức năng đó là:
Lập kế hoạch;
Tổ chức;
Chỉ đạo điều hành;
Kiểm tra đánh giá việc thực hiện.
Chức năng lập kế hoạch: Đây là giai đoạn quan trọng
nhất của quá trình quản lý. Từ trạng thái xuất phát của hệ
thống, căn cứ vào mọi nguồn lưc, tiềm năng đã có và sẽ có,
dự báo trạng thái kết thúc của hệ thống, vạch rõ mục tiêu, nội
dung hoạt động và các biện pháp khác nhằm đưa hệ thống đến
trạng thái ‘đích mong muốn’ vào thời điểm đã định theo kế
hoạch.
Chức năng tổ chức: Là giai đoạn tiếp theo, tổ chức thực
hiện kế hoạch đã được xây dựng. Tổ chức là sắp đặt một cách
khoa học những yếu tố, nguồn lực, bộ phận nhằm đạt được
mục tiêu của kế hoạch. Nếu người quản lý biết cách tổ chức
có hiệu quả, có khoa học thì sẽ phát huy được sức mạnh của

7


tập thể để đạt được mục tiêu mong muốn một cách hiệu quả
nhất.
Chức năng chỉ đạo: Là huy động lực lượng vào việc thực

hiện kế hoạch, nhấn mạnh đến phương thức tác động của chủ
thể quản lý lên khách thể quản lý, điều hành mọi việc nhằm
đảm bảo cho hệ thống vận hành thuận lợi. Chỉ đạo là biến
mục tiêu thành kết quả, biến kế hoạch thành hiện thực.
Chức năng kiểm tra, đánh giá việc thực hiện: Đây là giai
đoạn cuối cùng của một chu kỳ quản lý, đồng thời tạo điều
kiện cho chu kỳ tiếp theo của hoạt động quản lý trong thực tế.
Bằng việc đánh giá, kiểm tra, tư vấn, uốn nắn, sửa chữa... quá
trình này sẽ được cung cấp các thông tin cần thiết để thúc đẩy
hệ thống đạt được những mục tiêu, dự kiến ban đầu và bổ
sung điều chỉnh và chuẩn bị cho việc lập kế hoạch tiếp theo.
- Quản lý nhà trường
Là một nội dung cơ bản và quan trọng nhất trong hệ
thống quản lý giáo dục. Quản lý nhà trường là cấp quản lý cơ
sở của ngành giáo dục.

8


- Theo Nguyễn Ngọc Quang: Quản lý trường học là hệ
thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật
của chủ thể quản lý, nhằm làm cho hệ vận hành theo đường
lối và nguyên lý giáo đục của Đảng, thực hiện được các tính
chất của Nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu
chuẩn hội tụ là quá trình dạy học giáo dục thế hệ trẻ đưa giáo
dục với mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất.
- Theo Phạm Minh Hạc: Quản lý nhà trường là thực hiện
đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của
mình, tức là đưa nhà tường vận hành theo nguyên lý giáo dục
để hướng tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo với ngành

giáo dục với thế hệ trẻ và với từng người học.
Như vậy, quản lý nhà trường chính là công việc của Ban
giám Hiệu đứng đầu là Hiệu trưởng. Dựa vào các chức năng
quản lý của nhà trường mà Hiệu trưởng thực hiện nhiệm vụ
giao phó. Việc quản lý đội ngũ giáo viên, VCHC trong nhà
trường là một trong những nhiệm vụ cơ bản để Hiệu trưởng
thực hiện chức năng quản lý nhà trường.
Vì vậy, vai trò lãnh đạo của Ban giám hiệu đặc biệt là
Hiệu trưởng cực kỳ quan trọng trong việc quản lý nhà trường

9


thành một nhà trường đạt tiêu chuẩn theo quy định, công việc
phải tiến hành từng bước, có kế hoạch cụ thể.
- Quản lý nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là một khái niệm cơ bản, là đối tượng
nghiên cứu của môn khoa học Quản lý tổ chức - Quản trị học,
nguồn nhân lực được hiểu là nguồn tài nguyên nhân sự và các
vấn đề nhân sự trong tổ chức cụ thể. Nguồn nhân lực chính là
vấn đề nguồn lực con người - nhân tố con người trong một tổ
chức cụ thẻ nào đó. Điều đó có nghĩa là: “Nguồn nhân lực phải
thừa nhận là nuồn vốn và là tài sản quan trọng nhất định của
mọi loại hình quy mô tổ chức”.
Theo Đặng Quốc Bảo nguồn nhân lực được quan niệm:
Là tổng thể tiềm năng lao động của một đất nước, một cộng
đồng cả trong độ tuổi lao động nó được quản lý, chăm sóc và
phát triển đối với cá nhân con người từ thuở ấu thơ, tuổi vị
thành niên, tuổi lao động và cả sau thời kỳ tuổi lao động”.
Theo quan niệm UNESCO: Con người vừa là mục đích,

vừa là tác nhân của sự phát triển và con người được xem như
một tài nguyên, một nguồn lực hết sức cần thiết. Ngân hàng
thế giới (WB) quan niệm: Có hai loại vốn đó là vốn con người

10


và vốn vật chất, trong đó sự phát triển của vốn con người
quyết định sự phát triển của mọi vốn khác.
Quản lý nguồn nhân lực: Đó là một chức năng quản
lý thể hiện trong việc lựa chọn, đào tạo xây dưng và phát triển
các thành viên của tổ chức do mình phụ trách. Hoạt ddoonggj
này bao gồ việc dự báo và kế hoạch nguồn nhân lực, tuyển
chọn, đào tạo và phát triển, thẩm định kết quả hoạt động, đề
bạt, bổ nhiệm, thuyên chuyển, sa thải, trong đó cốt lõi là đào
tạo, phát triển và sử dụng đạt hiệu quả cao nhất.

- Quản lý giáo dục
Giáo dục là một hoạt dộng xã hội, nhờ có giáo dục mà
mỗi cá nhân có cơ hội học tập để trưởng thành mau chóng,
nền văn hóa các dân tộc và nhân loại được bảo tồn, nguồn
nhân lực xã hội được phát triển. giáo dục là quá trình có nhiều
lực lượng tham gia, được tổ chức thành một hệ thống từ trung
ương tới địa phương, với mạng lưới các trường học, các cơ sở
giáo dục, được phân thành các cấp học, bậc học, ngành học,
do vậy hệ thống giáo dục cần được quản lý một cách thống
nhất.

11



Quản lý giáo dục là một bộ phận của quản lý xã hội, là
hoạt động điều hành, phối hợp của các lực lượng xã hội, để
đẩy mạnh hoạt động của hệ thống giáo dục nhằm đáp ứng các
yêu cầu phát triển của nền kinh tế, văn hóa xã hội.
Theo Nguyễn Kỳ và Bùi Trọng Tuân: “Quản lý
giáo dục được hiểu là những tác động tự giác (có ý thức, có
mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, có quy luật) của chủ thể
quản lý đến tất cả các mắt xích của hệ thống (Từ cao cấp
nhất đến các cơ sở giáo dục là nhà trường) nhằm thực hiện
có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào
tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội”
Theo Trần Kiểm: “Quản lý giáo dục thực chất là
những tác động của chủ thể quản lý vào quá trình giáo dục
(được tiến hành bởi tập thể giáo viên và học sinh, với sự hỗ
trợ đắc lực của các lực lượng xã hội) nhằm hình thành và
phát triển toàn diện nhân cách của học sinh theo mục tiêu
đào tạo của nhà trường” [19,tr.12]
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ
Lộc thì Quản lý giáo dục là hoạt động điều hành, phối hợp

12


các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo các
thế hệ trẻ, đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao [22]
- Viên chức hành chính, đội ngũ viên chức hành chính
“Viên chức hanh chính” là thuật ngữ chỉ những người
làm việc công hoặc tư, bao gồm nhiều nhanh nghề và công
việc khác nhau trong xã hội. Có thể chia đội ngũ viên chức

thanh viên chức công-viên chức nhà nước và viên chức ngoai
khu vực nhà nước-viên chức tư. Sự khác nhau giữa viên chức
công (viên chức nhà nước) và viên chức tư là viên chức công
được hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Không có sự khác
nhau về mặt chuyên môn, nghiệp vụ theo từng nhanh, nghề
giữa viên chức công và viên chức tư. Đồng thời, theo nhanh
nghề đối tượng lao động có thể chia thanh viên chức sự
nghiệp, viên chức kinh doanh và viên chức làm dịch vụ.
Viên chức nhà nước hiểu một cách đơn giản, là người
lao động có nghề nghiệp được nhà nước tuyển dụng, bổ
nhiệm vào một chức vụ nhất định trong đơn vị sự nghiệp
hanh chính nhà nước (sự nghiệp công) và được hưởng lương
từ ngân sách nhà nước. Nghề nghiệp là chuyên môn, nghiệp
vụ được đào tạo để người viên chức làm việc, hoạt động theo

13


chức năng. Chức nghiệp hay chức vụ nghề nghiệp được hiểu
là ngạch, bậc chuyên môn nghiệp vụ được phân loại, xếp hạng
trên cơ sở trinh độ chuyên môn nghiệp vụ được đào tạo, kinh
nghiệm và thực lực thực tiễn của viên chức.
Từ những thay đổi căn bản trong quan niệm về viên
chức nhà nước, về hoạt động sự ghiệp, dịch vụ công và cách
thức tuyển dụng viên chức, cần phải có quan niêm chính xác
và đầy đủ hơn về viên chức nhà nước
Điều 2, Luật viên chức đã nêu rõ: “Viên chức là công
dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc
tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc,
hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo

quy định của pháp luật” (Luật viên chức, 2010).[25]
Hoạt động nghề nghiệp của viên chức được quy định tại
Điều 4, Luật viên chức như sau: “Hoạt động nghề ngiệp của
viên chức là việc thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ có yêu
cầu trình độ, năng lực, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ trong
đơn vị sự nghiệp lập theo quy định của Luật này và các quy
định khác của pháp luật có liên quan” (Luật viên chức, 2010).
[25]

14


Viên chức quản lý: Là “là người được bổ nhiệm giữ
chức vụ quản lý có thời hạn, chịu trách nhiệm điều hanh, tổ
chức thực hiện một hoạc một số công việc trong đơn vị sự
nghiệp công lập nhưng hông phải là công chức và được
hưởng phụ cấp chức vụ quản lý” (Điều 3, khoản 1, Luật viên
chức), như vậy, viên chức quản lý chính là người thực hiện
chức năng quản lý công việc và lanh đạo những viên chức
dưới quyền của đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công.
Như vậy, có thể phân loại nhôm viên chức thanh 2 dạng:
+ Viên chức chuyên môn là những người thực hiện
nhiệm vụ có tinh chất chuyên môn, nghiệp vụ thuần túy theo
chức vụ nghề nghiệp hay ngạch bậc chuyên môn được bổ
nhiệm.
+ Viên chức hành chính, nghiệp vụ và kỹ thuật là người
làm công tác có tinh chất hành chính, kỹ thuật, nghiệp vụ như
công tác văn thư, lưu trữ, quản trị, thông tin tư liệu phục vụ
cho viên chức quản lý và viên chức chuyên môn (thư ký, đanh
máy, văn thư, kế toan, tài vụ, lễ tân, quản trị văn phòng,…)

Trong nghiên cứu này, nhóm viên chức hành chính
(VCHC) “không giữ chức vụ quản lý” và không trực tiếp

15


tham gia giảng dạy theo chuyên môn được đề cập ở trên chính
là đối tượng nghiên cứu, xem xét.
-Quản lý đội ngũ viên chức hành chính
Đặc điểm về VCHC: Do những quy định đặc thù, nên
vấn đề viên chức hành chính làm việc chuyên môn là một
trong những mục tiêu mà các trường học hết sức quan tâm.
Viên chức là những người làm việc trong các đơn vị sự
nghiệp công khác nhau, lao động của họ hông mang tinh chất
quyền lực nhà nước, mà thuần túy mang tinh chất chuyên
môn, nghiệp vụ, kỹ thuật chuyên sâu. Đặc điểm, đặc thù, tinh
chất, đối tượng và kỹ năng tác nghiệp của họ khác với của
công chức nhà nước. Việc sử dụng thời gian làm việc, tinh
chất công việc, đạo đức nghề nghiệp được quy định cụ thể
trong Luật viên chức, khắc phục được tinh trạng hành chính
hóa các hành động của đơn vị sự nghiệp, tạo cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công, đáp ứng yêu
cầu xây dựng đội ngũ viên chức nhà nước có đạo đức nghề
nghiệp, chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, phục vụ tốt nhu
cầu ngày căng cao của nhân dân.

16


Viên chức là người lao động, kể cả lao động trí óc và lao

động giản đơn, có nghề nghiệp và chuyên môn, nghiệp vụ
nhất định. Chuyên môn nghiệp vụ của các nhanh, các linh vực
là tri thức và kỹ năng lao động, kỹ năng tác nghiệp mà người
lao động có được trong quá trinh đào tạo, huấn luyện bài bản
qua các trường lớp hoặc tự đào tạo học tập qua thực tiễn, cho
phép người đó có thể thực hiện được một loại hoạt động nhất
định trong hệ thống phân công lao động xã hội.
Cơ chế quản lý đội ngũ viên chức:
Được thực hiện giống như đối với cán bộ, công chức,
chưa tinh đến những đặc điểm và tinh chất hoạt động nghề
nghiệp đặc thù của viên chức. Điều này làm hạn chế chất
lượng của đội ngũ viên chức và không đáp ứng yêu cầu
chuyển đổi của nhà nước từ quản lý sang phục vụ trong cơ
chế thị trường định hướng XHCN.
Các nhà trường trong hệ thống giao dục quốc dân cho
thấy, đối tượng viên chức thực hiện công tác chuyên môn
thuộc linh vực hành chính (khai niệm chung phổ biến được sử
dụng trước đây là “cán bộ, công nhân viên”) hiên vẫn chưa
dành được sự quan tâm thỏa đáng trong nghiên cứu về mặt lý

17


luận, cũng như trong thực tế quản lý, phát triển nhân sự của
hệ thống. Phần lớn các văn bản pháp quy mới chỉ tập trung
váo các quy định cụ thể về tiêu chuẩn, tiêu chí, hướng dẫn về
nhiệm vụ, yêu cầu chuyên môn…đội ngũ viên chức giảng dạy
và quản lý.
Thứ nhất, nhận thức về hoạt động nghề nghiệp của đội
ngũ viên chức và cơ chế quản lý viên chức chưa đổi mới kịp

với những thay đổi về nhiệm vụ của Nhà nước cung ứng các
nhu cầu cơ bản, thiết yếu cho người dân và cộng đồng. Tư
duy về các hoạt động nghề nghiệp của viên chức vẫn mang
dấu ấn của thời kỳ kế hoạch hóa tập trung. Vị trí pháp lý của
viên chức chưa được xác định rõ ràng; chưa phân định giữa
hoạt động quản lý nhà nước của công chức với hoạt động
nghề nghiệp của viên chức. Trong nhiều lĩnh vực, hoạt động
nghề nghiệp của viên chức còn có vi phạm về đạo đức, kỹ luật
nghề nghiệp.
Thứ hai, tính chất, đặc điểm hoạt động nghề nghiệp của
viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập chưa được tính
đến trong cơ chế quản lý viên chức. Việc quy định quyền,
nghĩa vụ, những việc không được làm của viên chức giống
như đối với cán bộ, công chức đã hạn chế việc xây dựng đội
18


ngũ viên chức; hạn chế phát huy tài năng, sang tạo của viên
chức và chưa thu hút nguồn nhân lực cao, tay nghề giỏi vào
đơn vị sự nghiệp công lập.
Thứ ba, quy định về tuyển dụng sử dụng và quản lý viên
chức chậm được đổi mới, chưa tương thích với cơ chế tự chủ,
tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập. Năm 2003,
Nhà nước đã bước đầu đổi mới tuyển dụng viên chức từ lâu dài
sang hợp đồng làm việc nhưng tuyển dụng theo hợp đồng ngắn
hạn với chỉ tiêu biên chế chưa thể hiện triệt để tinh thần đổi
mới về quản lý.
Thứ tư, hoạt động nghề nghiệp của đội ngũ viên chức
trong bối cảnh đổi giao dục đổi mới như hiện nay chưa được
quản lý và kiểm soát chặt chẽ, thống nhất; những tiêu cực về

tác phong, lề lối làm việc của viên chức đã và đang làm giảm
chất lượng phục vụ người dân của một số đơn vị sự nghiệp
công lập, phiền hà, sách nhiễu người dân vẫn tồn tại, làm
hành hưởng đến lòng tin của người dân đối với Đảng và Nhà
nước.
Sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp trồng người đòi hỏi
những viên chức nhà nước làm việc trong linh vực giao dục

19


đào tạo phải đề cao đạo đức nghề nghiệp. Ngoài truyền thống
tôn sư trọng đạo, đòi hỏi các giao chức, viên chức làm nghề
nhà giao phải ý thức được đầy đủ vai trò quyết định của minh
trong việc đảm bảo chất lượng giao dục.
Do đó, viên chức chuyên môn (nhà giaó) và viên chức
hành chính trong các cơ sở đào tạo “phải không ngừng học
tập, rèn luyện nêu gương tốt cho người học” (Luật giao dục,
2005).[24]
Nhà nước có chính sách xây dựng, phát triển đội ngũ
viên chức có đạo đức nghề nghiệp, có trinh độ và năng lực
chuyên môn đáp ứng yêu cầu ngày căng cao của khu vực,
cung ứng dịch vụ công; phát hiện, thu hút, bồi dưỡng, trọng
dụng và đã ngộ xứng dáng đối với người có tài năng để nâng
cao chất lượng phục vụ nhân dân (Điều 10, khoản 4, Luật viên
chức, 2010).[25]
Những vấn đề mang tính chất vĩ mô đã và đang đặt ra
những nhiệm vụ cụ thể cho từng đơn vị sự nghiệp công về
vấn đề xây dựng, hoan thiện và phát triển đội ngũ viên chức
đáp ứng đòi hỏi của xã hội, đất nước.


20


- Yêu cầu đổi mới giáo dục đặt ra đối với quản lý đội
ngũ viên chức hành chính trong các trường Cao đẳng
Trong những năm qua việc đổi mới giáo dục tuy đã được
tiến hành, nhưng thiếu đồng bộ, còn chắp vá và chưa tương
xứng với yêu cầu. Không phải không có những lúc tồn tại bất
cập lớn giữa yêu cầu phải đổi mới với năng lực tiến hành đổi
mới của ngành gáo dục & Đào tạo. Bên cạnh đó nhiều chính
sách, cơ chế, giải pháp về giáo dục đã từng có hiệu quả, thì
nay đã không còn phù hợp với giai đoạn mới phát triển của
đất nước, rất cần được điều chỉnh, bổ sung. Mặt khác, Công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đặc
biệt là yêu cầu chuyển đổi mô hình tang trưởng theo chiều sâu
và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chất lượng, hiệu quả, có
sức cạnh tranh cao, cũng đòi hỏi giáo dục phải đáp ứng nhu
cầu học tập đa dạng của người dân, nhanh chóng góp phần tạo
ra đội ngũ nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp hóa
và hiện đại hóa đất nước. Nếu không đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo thì tình trạng vừa thiếu vừa yếu về
nhân lực sẽ là yếu tố cản trở sự phát triển của đất nước… Đó
là những vẫn đề thực tiễn đặt ra và cũng chính vì vậy, Nghị
quyết số 29-NQ/TW hội nghị trung ương 8 khóa XI đã xác

21


định: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng

chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập
quốc tế” và “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao tập trung vào việc đổi mới căn bản và
toàn diện nên giáo dục quốc dân” (1)
Đổi mới về QLGD và cán cán bộ hành chính là một
trong những người thực thi nhiệm vụ đó
Đổi mới theo hướng tiếp cận năng lực
Đỏi mới theo cơ chế trả lương và trả lương theo năng lực
Trong giáo dục, vấn đề đổi mới thì đã nhiều, không
phải là mới nữa. Song, đổi mới căn bản, toàn diệnthì lần này
được xác định rõ ràng và quan trọng nhất là chủ chương của
Đảng. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục trước hết là đổi
mới những vấn đề lớn, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ
đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách,
điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến vai trò hoạt động của các
cơ sở giáo dục, đào tạo cũng như việc tham gia của gia đình,
cộng đồng, xã hội và bản thân người học;

22


Trong Nghị Quyết 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 đã
nêu rõ nhiệm vụ và giải pháp là phát triển đội ngũ Nhà giáo
và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào
tạo.
Đặc biệt đối với đội ngũ VCHC, muốn đáp ứng được
yeu cầu đổi mới, bản thân mỗi VCHC phải tự thay đổi học
hỏi,nâng cao trình độ, nắm bắt thông tin đổi mới để đưa vào
áp dụng trong công việc.

- Đặc điểm, vị trí, vai trò của đội ngũ viên chức hành
chính trong các trường Cao đẳng
-Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của trường Cao đẳng Sư
phạm
Điều lệ trường cao đẳng (ban hành theo Thông tư số
14/2009/TT-BGDĐT, ngày 28 tháng 05 năm 2009) quy định
rõ nhiệm vụ của trường cao đẳng trong hệ thống giáo dục
quốc dân : « Đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao đẳng có
phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có kiến thức và kỹ năng
nghề nghiệp phù hợp, đáp ứng nhu cầu xã hội, có khả năng
hợp tác trong hoạt động nghề nghiệp, tự tạo được việc làm
cho mình và cho xã hội » (Khoản 1, Điều 6).
Với tư cách là một thiết chế giáo dục, nhà trường Cao
đẳng có đầy đủ quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm trước xã
23


hội để «Thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ do các cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền giao; kết hợp đào tạo với nghiên
cứu khoa học, triển khai nghiên cứu khoa học; phát triển và
chuyển giao công nghệ, thực hiện các loại hình dịch vụ khoa
học, công nghệ và sản xuất; sử dụng có hiệu quả kinh phí đầu
tư phát triển khoa học và công nghệ» (Khoản 2, điều 6).
-Vai trò, nhiệm vụ của viên chức hành
chính (không giữ chức vụquản lý và tham gia
giảng dạy theo chuyên môn) trong nhà
trường cao đẳng.
Thực tế hoạt động và phát triển nhà trường Cao đẳng nói
riêng, các nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân cho
thấy, đối tượng viên chức thực hiện các công tác chuyên môn

thuộc lĩnh vực hành chính, khái niệm chung phổ biến được sử
dụng trước đây là « cán bộ, công nhân viên » hiện vẫn chưa
được sự quan tâm thỏa đang trong nghiên cứu về mặt lý luận,
cũng như trong thực tế quản lý, phát triển nhân sự của hệ
thống. Phần lớn các văn bản pháp quy mới chỉ tập chung vào
các quy định cụ thể về tiêu chí, tiêu chuẩn, hướng dẫn về
nhiệm vụ, yêu cầu chuyên môn…đội ngũ viên chức giảng dạy
và đội ngũ quản lý.
24


Trong hoạt động thực tiễn của hoạt động tổ chức, nhà
trường Cao đẳng nói riêng, đội ngũ viên chức giảng dạy và
quản lý có vai trò to lớn, đóng góp trực tiếp vào quá trình đạo
tạo, nghiên cứu khoa học và phát triển chung.
Tuy nhiên cùng với việc phát triển đội ngũ giảng viên,
đội ngũ quan lý, thực tiễn hoạt động của nhà trường Cao đẳng
hiện nay cũng đòi hỏi cần quan tâm chú ý hơn nữa đến việc
phát triển đội ngũ « phục vụ » cho công tác đào tạo, khoa học
công nghệ và hành chính sư phạm. Vì vậy rất cần có những
chính sách, định hướng cụ thể để có được một đội ngũ viên
chức hành chính mạnh về cả chất lượng và số lượng, am hiểu
về pháp luật, các quy định, văn bản pháp quy của nhà nước,
chính sách, có phẩm chất chính trị vững vàng (Mục 4, điều
26, Điều lệ trường Cao đẳng mới chỉ quy định chung: «Tiêu
chuẩn cụ thể của cán bộ và nhân viên đơn vị trong trường Cao
đẳng do Hiệu trưởng quy định »).
Điều này cần được luật hóavà thể chế hóa trên các
phương diện sau:
Khái niệm “viên chức” theo luật viên chức 2010, bước

đầu được sử dụng khá rộng rãi song vẫn chưa có nhứng quy

25


×