Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh lâm đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (858.83 KB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ NGỌC THÀNH

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LÂM ĐỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ NGỌC THÀNH

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LÂM ĐỒNG
Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số:8380102

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS.VŨ THƯ

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu thống kê, kết quả đề cập trong luận văn là trung thực, chính xác và có nguồn gốc
trích dẫn rõ ràng.
Tác giả luận văn

Vũ Ngọc Thành


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ ..................................................................................................7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thi hành án dân sự ................................... 7
1.2. Khái quát về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ................................. 14
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân
sự ........................................................................................................................... 24
Kết luận Chương 1 ................................................................................................ 29
Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH LÂM ĐỒNG .....................................................30
2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội và yếu tố phát sinh các vụ việc về thi hành án dân sự
tại tỉnh Lâm Đồng ................................................................................................. 30
2.2. Thực trạng tổ chức thi hành án dân sự tại tỉnh Lâm Đồng ............................ 33
2.3. Thực trạng hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Lâm Đồng ........................ 36
2.4. Đánh giá chung về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Lâm Đồng
............................................................................................................................... 43
Kết luận Chương 2 ................................................................................................ 58
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH LÂM ĐỒNG ..59

3.1. Quan điểm đổi mới về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự................... 59
3.2. Giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự tại tỉnh
Lâm Đồng ............................................................................................................. 66
Kết luận Chương 3 ................................................................................................ 77
KẾT LUẬN ..............................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CHA

: Chấp hành viên

THA

: Thi hành án

THADS

: Thi hành án dân sự

TTV

: Thẩm tra viên

TPL

: Thừa pháp lại

TAND


: Tòa án nhân dân

TCCB

: Tổ chức cán bộ

UBND

: Ủy ban nhân dân

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Kết quả thi hành án về việc (từ năm 2014 – 2018) .................................. 39
Bảng 2.2. Kết quả thi hành án về giá trị (từ 2014 – 2018) ....................................... 39


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự là hoạt động của Nhà nước nhằm đưa các bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được
thi hành ngay và các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của

pháp luật ra thi hành trên thực tế. Trong hoạt động tư pháp, nếu mục đích của thi hành
án không đạt được thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trước
đó cũng trở nên vô nghĩa. Thi hành án dân sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân;
giữ vững kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa;
góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu
quả của bộ máy nhà nước. Chính vì vậy Điều 106 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan,
tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh
chấp hành”.
Sau hơn hai mươi lăm năm, kể từ khi tổ chức và hoạt động thi hành án dân
sự từ chuyển từ Tòa án sang Chính phủ quản lý (tháng 7 năm 1993), hệ thống thi hành
án dân sự đã được hình thành, từng bước phát triển, hoàn thiện về tổ chức, bộ máy và
ngày càng được củng cố, xác định rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhằm
đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao trong từng giai đoạn cụ thể.
Theo số liệu thống kê của Bộ Tư pháp trong giai đoạn 2009 - 2012, toàn ngành phải
thi hành tổng số 1.804.381 việc, với số tiền phải thu 90.444 tỷ đồng, bình quân một
năm phải thi hành hơn 451 ngàn việc, với 22.611 tỷ đồng; giai đoạn 2013 - 2016 tổng
số việc phải thi hành là 3.138.943 việc, với số tiền phải thu 436.150 tỷ đồng, bình
quân một năm phải thi hành 784.735 việc, với 109.037 tỷ đồng; trong hai năm 2017
và năm 2018 số việc phải thi hành là 1.809.879 việc, với số tiền phải thu 368.960 tỷ
đồng, bình quân một năm phải thi hành 904.939 việc, với 184.480 tỷ đồng. Như vậy
qua số liệu thống kê cho thấy số việc và số tiền phải thi hành án hàng năm rất lớn,
năm sau cao hơn năm trước, đặc biệt về số tiền có sự tăng cao đột biến. Tuy nhiên
1


công tác thi hành án dân sự đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, về cơ bản hàng
năm đều đạt và vượt các chỉ tiêu, nhiệm vụ được Quốc hội, Chính phủ giao; nhiều vụ
việc tồn đọng, phức tạp, kéo dài đã được quan tâm chỉ đạo xử lý, giải quyết dứt điểm.

Hoạt động thi hành án dân sự đã tạo được lòng tin đối với Đảng, Nhà nước và Nhân
dân, góp phần giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thi hành án dân sự hiện nay vẫn
còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế như: Hệ thống văn bản pháp luật về thi hành án dân
sự còn nhiều bất cập, vướng mắc, chưa phù hợp với thực tiễn; việc kiện toàn, đổi mới
tổ chức, bộ máy còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao ngày càng
nặng nề; cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động vẫn còn nhiều khó khăn, đầu tư thiếu
đồng bộ; chế độ chính sách đối với người làm công tác thi hành án còn chưa tương
xứng với tính chất đặc thù công việc; tình trạng khiếu nại, tố cáo ngày càng nhiều,
diễn biến phức tạp; cơ chế phối hợp trong hoạt động thi hành án dân sự đạt hiệu quả
chưa cao; kết quả công tác thi hành án dân sự đạt được hàng năm chưa thật sự bền
vững; án tồn đọng chuyển kỳ sau, án có điều kiện thi hành nhưng kéo dài, chậm giải
quyết còn nhiều... những bất cập, tồn tại này nếu không có cơ chế, biện pháp giải
quyết một cách căn cơ, triệt để sẽ ảnh hưởng, làm giảm hiệu lực, hiệu quả công tác
thi hành án dân sự trong thời gian tới.
Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở nước ta có lịch sử hình thành và
phát triển chưa lâu, chính vì thế để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, đòi
hỏi cần tiếp tục phải có sự tìm hiểu, nghiên cứu chuyên sâu về thi hành án dân sự ở
nhiều khía cạnh, giác độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn để có sự đánh giá, nhìn
nhận một cách khoa học nhất, khách quan nhất về thi hành án dân sự, qua đó đưa ra
những khuyến nghị để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án
dân sự nói chung và đặc thù tại các địa phương nói riêng, đảm bảo hoạt động ngày
càng hiệu lực, hiệu quả.
Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả lựa chọn đề tài: "Tổ chức và hoạt động của
cơ quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng" để làm luận văn thạc sỹ
2


chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua trước những đòi hỏi khách quan của công tác thi hành
án dân sự, đã có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề thi hành án dân
sự. Xin nêu một số công trình: Đề tài cấp bộ: "Những cơ sở lý luận và thực tiễn về
chế định Thừa phát lại", mã số 95-98-114/ĐT do Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý
- Bộ Tư pháp phối hợp với Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì; Đề tài cấp
bộ: "Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án", mã số: 96-98-027/ĐT do Cục
Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp (nay là Tổng Cục thi hành án dân sự) chủ trì năm
1996; Đề tài cấp nhà nước: “Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới” do Bộ Tư pháp chủ trì, năm 2000; Đề
tài cấp bộ: “Thi hành án dân sự, thực trạng và hướng hoàn thiện” của Dự án
VIE/98/001” do Bộ Tư pháp chủ trì năm 1998; Luận văn thạc sỹ Luật học: “Hoàn
thiện pháp luật thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Thanh Thủy, năm 2001; Luận
văn thạc sỹ Luật học: “Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân sự”, tác giả Lê
Xuân Hồng, năm 2002; Luận văn thạc sỹ Luật học: “Thi hành quyết định trọng tài
tại Việt Nam” của tác giả Trần Anh Tuấn, năm 2002; Luận văn thạc sỹ Luật học:
“Đổi mới tổ chức và hoại động thi hành án dân sự tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Quang Thái, năm 2003; Luận văn thạc sỹ Luật học “Đổi mới thủ tục thi hành án dân
sự ở Việt Nam” của tác giả Lê Anh Tuấn, năm 2004; Luận văn thạc sỹ luật học “Quản
lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự” của tác giả Hoàng Kim Chiến, năm
2010; Đề tài khoa học cấp Bộ “Thực trạng đội ngũ Chấp hành viên và xây dựng
khung chương trình đào tạo Chấp hành viên theo yêu cầu cải cách tư pháp ”, năm
2010, do PGS.TS Nguyễn Văn Luyện, Tổng cục trưởng Tổng cục THADS – Bộ Tư
pháp làm chủ nhiệm; Luận văn thạc sỹ Luật học: “Tổ chức và hoạt động của cơ quan
thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” của tác giả Nguyễn Khánh Na;
Luận văn thạc sỹ Luật học: “Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
từ thực tiễn tỉnh Gia Lai” của tác giả Trần Văn Phong; Luận văn thạc sỹ Luật học:
“Pháp luật về thi hành án dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Phú Yên” của tác giả Lê Thị
3



Lanh.
Ngoài các công trình nghiên cứu nói trên, còn có Giáo trình Luật Tố tụng dân
sự, Luật Hành chính của Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh, các công trình nghiên cứu, các bài viết được công bố trên sách,
báo, tạp chí; một số bài viết liên quan đến thi hành án dân sự được đăng trên Tạp chí
Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Luật học... Các công
trình nghiên cứu nêu trên có nội dung nghiên cứu về thi hành án dân sự ở những góc
độ, khía cạnh khác nhau. Ở một số công trình đã đề cập đến một số vấn đề thực trạng
và giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự, như chủ yếu
xuất phát từ thực tiễn tại địa phương, chưa có công trình nghiên cứu tổng thể, toàn
diện, chuyên sâu về thực trạng công tác thi hành án dân sự trên cả nước trong giai
đoạn hiện nay để có giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao tổ chức và hoạt động thi
hành án dân sự nói chung và đặc thù của tỉnh Lâm Đồng nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động
thi hành án dân sự tại tỉnh Lâm Đồng, luận văn đề xuất các giải pháp hoàn thiện tổ
chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng nói riêng, có ý nghĩa đối với công tác thi hành án dân sự nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra để giải quyết các nhiệm
vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của thi hành án
dân sự;
- Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự tại
tỉnh Lâm Đồng, những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân trong tổ
chức và hoạt động thi hành án dân sự;
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động
của cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng.

4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức
và hoạt động của thi hành án dân sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu bao gồm tổ chức và hoạt động của thi hành án dân sự cấp
tỉnh và thi hành án dân sự cấp huyện thuộc tỉnh Lâm Đồng.
Thời gian nghiên cứu bắt đầu từ khi cơ quan thi hành án dân sự tách và thành
lập (tháng 7/1993), nhưng tập trung nghiên cứu sâu kể từ thời điểm Luật thi hành án
dân sự năm 2008 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2009 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân; các quyền
con người, quyền công dân; cải cách hành chính và cải cách tư pháp có liên quan đến
lĩnh vực thi hành án dân sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Hệ thống, phân tích, tổng hợp,
lịch sử, thống kê, cụ thể, lôgíc, kết hợp với các phương pháp khác như so sánh, khảo
sát thực tiễn…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn nghiên cứu khá toàn diện và hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn
về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở nước ta. Kết quả nghiên cứu luận văn
có thể góp một phần nhỏ vào việc làm đầy đủ, phong phú và toàn diện hơn nhận thức
lý luận về thi hành án dân sự, đồng thời góp phần vào việc tăng cường chất lượng tổ
chức và hoạt động thi hành án dân sự hiện nay.

Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy, nghiên
cứu liên quan đến lĩnh vực thi hành án dân sự. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ
5


góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của hệ
thống cơ quan thi hành án dân sự nói chung và cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Lâm
Đồng nói riêng; góp một phần vào công cuộc cải cách hành chính, cải cách nền Tư
pháp ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
của luận văn gồm có 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
tỉnh Lâm Đồng
Chương 3: Quan điểm và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án
dân sự tại tỉnh Lâm Đồng

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành án dân sự
1.1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Trong khoa học pháp lý, “thi hành án” được hiểu là việc đưa các phán quyết
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế. Như vậy đối tượng của

THA là các bản án, quyết định của Tòa án, việc đưa ra thi hành các bản án, quyết
định của Tòa án được coi là một trong những hoạt động quan trọng của Nhà nước,
bởi lẽ nó một mặt bảo đảm việc thực hiện quyền lực của Nhà nước, mặt khác lại là
công cụ hữu hiệu để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, khái niệm “Thi hành” được hiệu là: "Thực hiện
điều đã chính thức quyết định" [71, tr.1559]. Như vậy, THA có thể được hiểu là việc
thực hiện các phán quyết của Tòa án hay nói cách khác là hoạt động làm cho các bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được thực hiện. Nếu trong hoạt
động xét xử, kết quả xét xử là việc Tòa án xem xét các tình tiết xảy ra, dựa trên chứng
cứ, qua đó áp dụng các điều luật cụ thể để đưa ra phán quyết thì kết quả của THA là
căn cứ phán quyết của Tòa án để áp dụng pháp luật thực hiện phán quyết đó trên thực
tế, THA chính là khâu cuối để công lý được thực thi.
Hiện nay còn có những ý kiến khác nhau về khái niệm THA, thể hiện hai quan
điểm cơ bản:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, THA là một giai đoạn của tố tụng bởi: “Có xét
xử thì phải có thi hành án, thi hành án dựa trên cơ sở của của công tác xét xử. Xét xử
và thi hành án là hai mặt thống nhất của quá trình bảo vệ lợi ích của đương sự”.
Quan điểm này cho rằng THA gắn liền với hoạt động xét xử, xét xử là tiền đề của
THA, thi hành án là sự tiếp nối với xét xử, làm cho phán quyết của Tòa án có hiệu
lực trên thực tế, vì vậy nó có tác dụng củng cố kết quả xét xử. Đặc biệt trong THADS,
các quan hệ pháp lý chủ yếu mang tính tài sản – đặc trưng của quan hệ dân sự, thông
7


qua THADS, bên phải THA phải thực hiện các nghĩa vụ về tài sản và bên được THA
nhận được các quyền, lợi ích về tài sản. Mặt khác THADS còn có tính độc lập - một
đặc trưng của hoạt động tư pháp. Trong hoạt động tổ chức THA, CHV có các nhiệm
vụ, quyền hạn mang tính độc lập, pháp luật qui định cá nhân, cơ quan, tổ chức không
được can thiệp trái pháp luật vào quá trình THADS của CHV.
Chính vì THA là một giai đoạn của hoạt động tố tụng nhằm bảo đảm cho phán

quyết của Tòa án được thi hành một cách chính xác, kịp thời, do đó hoạt động này
phải gắn liền với quá trình xét xử, chịu sự chi phối của quá trình xét xử, đồng thời
phải giao cho Tòa án thực hiện, “Bởi nếu tách ra thì sẽ không thực hiện được mục
tiêu chung của toàn bộ quá trình tố tụng. Khi chân lý được làm sáng tỏ thể hiện trong
bản án, quyết định của Tòa án, chỉ mới dừng lại ở việc làm rõ đúng, sai, phải, trái
trên văn bản giấy tờ. Muốn nó được thực hiện trên thực tế, cần phải chờ ở việc tổ
chức thi hành án trên thực tế. Vì vậy, thi hành án là giai đoạn tiếp theo của quá trình
xét xử.” [67, tr.8].
Quan điểm thứ hai cho rằng, THA là một giai đoạn mang tính hành chính - tư
pháp, các quan hệ THA bao gồm cả quan hệ tố tụng và quan hệ khác mang tính hành
chính - tư pháp, trong đó các quan hệ mang tính hành chính - tư pháp là chủ yếu, các
thủ tục trong quá trình tổ chức THA cũng mang nặng tính hành chính - tư pháp, nhất
là thủ tục thi hành các vụ án kinh tế, tuyên bố phá sản, lao động… do đó không thể
đồng nhất hoạt động THA với hoạt động tố tụng. Mặt khác do tính chất hành chính –
tư pháp nên trong một số lĩnh vực, một số công việc liên quan đến THA, Nhà nước
xem xét xây dựng cơ chế pháp lý để từng bước thực hiện xã hội hóa hoạt động này.
Đây chính là điểm khác biệt của hoạt động THA so với hoạt động tố tụng, bởi hoạt
động tố tụng mang tính quyền lực tư pháp, không thể xã hội hóa [67, tr.10-11].
Do THADS không mang tính tố tụng thuần túy, nên nó cần được coi là hoạt
động đặc thù mà chủ thể thực thi không phải là Tòa án. Việc này là cần thiết để tạo
cơ chế kiểm soát chặt chẽ hơn, tránh lạm quyền trong hoạt động tố tụng, bởi một chủ
thể là Tòa án không thể làm hai việc vừa ra phán quyết, vừa thực thi phán quyết. Như
vậy rõ ràng THA cần một cơ chế độc lập, minh bạch hơn, trách nhiệm giải trình lớn
8


hơn, chính vì thế chủ thể thực thi phải thuộc về cơ quan hành chính nhà nước.
Các quan điểm trên về THA đều dựa trên các luận cứ khoa học và thực tiễn,
có tính hợp lý nhất định. Trong lịch sử hình thành và phát triển cơ quan THADS cũng
cho thấy có lúc chúng ta cho cơ quan THA là cơ quan tư pháp, có lúc gọi là cơ quan

hành pháp và hiện nay đa số quan điểm đều cho rằng THA là cơ quan có tính chất
hành chính – tư pháp. Tôi đồng tình với quan điểm coi THA là hoạt động mang tính
hành chính - tư pháp, một giai đoạn có tính độc lập tượng đối, không phải là một giai
đoạn của tố tụng dân sự.
Qua quan điểm, khái niệm về THA, trên cơ sở bản chất, đặc trưng, phạm vi
của hoạt động THADS, có thể định nghĩa về THADS như sau:
Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp có tính độc lập tương
đối, do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo thủ tục được pháp luật
qui định nhằm thực hiện bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác
theo qui định của pháp luật được thực hiện trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa.
1.1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự
Một là, THADS là hoạt động mang tính chất hành chính - tư pháp nhằm thực
hiện quyền lực nhà nước, do cơ quan THADS và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan được nhà nước trao quyền thực hiện nhằm đưa các bản án, quyết định của
Tòa án, các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền ra thi hành trên thực tế. Tính
chất chấp hành, quản lý trong hoạt động THADS được thực hiện theo các nguyên tắc,
trình tự, thủ tục luật định, với quy trình chặt chẽ tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan THA
thực hiện nhiệm vụ từ khi tiếp nhận bản án, quyết định của Tòa án, nhận đơn yêu
cầu THA đến thụ lý, ra quyết định, tổ chức thi hành và kết thúc việc THA. Để thực
hiện hiệu quả nhiệm vụ tổ chức THA, cơ quan THADS và Chấp hành viên phải xây
dựng các phương án, phương pháp THA cụ thể đối với từng vụ việc, do đó yêu cầu
của hoạt động THA là phải có tính kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, đôn đốc, hướng dẫn,
kiểm tra... đó là những tính chất cơ bản của hoạt động quản lý nhà nước.
9


Hai là, THADS là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, gắn liền với hoạt
động xét xử. Trong đó, kết quả xét xử là tiền đề của THADS, không có hoạt động

xét xử thì không có hoạt động THA. Tuy nhiên, hoạt động THA cũng có tính độc lập
tương đối, thể hiện ở chỗ hoạt động này được bắt đầu bằng việc thụ lý, ra quyết định
THA của Thủ trưởng cơ quan THADS, quyết định này mang tính bắt buộc chấp hành
đối với các chủ thể có trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ liên quan đến việc THADS.
Việc không chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm quyết định THA có thể dẫn đến
hậu quả pháp lý và bị áp dụng xử lý bằng các chế tài nhất định.
Ba là, căn cứ để THADS là các bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định
của cơ quan có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật. Trong một số trường hợp mặc
dù bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực nhưng vẫn được thi hành ngay.
Những bản án, quyết định thuộc thẩm quyền thi hành của cơ quan THADS, gồm: Bản
án, quyết định dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình; phần dân sự trong các
bản án hình sự; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết, quyết định của
Trọng tài thương mại; bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài được Tòa án
Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam… Những bản án, quyết định chưa
có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay gồm: Bản án, quyết định về cấp
dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp
mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh
thần, nhận người lao động trở lại làm việc và các quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời của Tòa án.
Bốn là, trong THADS việc thuyết phục để đương sự tự nguyện THA được coi
là phương pháp chủ đạo, cần thiết và quan trọng trong quá trình giải quyết THA. Nó
tránh được việc cơ quan THA phải áp dụng các biện pháp bảo đảm hoặc cưỡng chế
THA, làm cho vụ án có thể trở nên phức tạp, kéo dài, cũng vì thế mà mất đi tính hiệu
lực trong các phán quyết của Tòa án. Tuy nhiên nếu người phải THA không tự nguyện
thi hành thì cần thiết phải áp dụng biện pháp cưỡng chế THA theo quy định của pháp
luật. Đây là biện pháp đặc thù áp dụng đối với các trường hợp có điều kiện thi hành
10



nhưng cố tình trốn tránh, cản trở việc THA; việc cưỡng chế có tính chất răn đe, giáo
dục họ và những người có liên quan về ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật.
Năm là, thỏa thuận THA là một phương thức được khuyến khích và cho phép
thực hiện trong suốt quá trình THADS, kể cả trước khi đương sự yêu cầu THA. Các
đương sự của vụ án có quyền thỏa thuận với nhau về thời gian, địa điểm, nội dung,
thời hạn, hậu quả pháp lý trong thực hiện việc THA, nếu thỏa thuận đó không vi phạm
điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Kết quả THA theo thỏa thuận
được công nhận và theo yêu cầu của đương sự, Chấp hành viên có trách nhiệm chứng
kiến, ghi nhận việc thỏa thuận về THA. Trường hợp đương sự không thực hiện đúng
thỏa thuận thì có quyền yêu cầu cơ quan THADS thi hành phần nghĩa vụ chưa được
thi hành theo nội dung bản án, quyết định. Đặc điểm này của THADS xuất phát từ
nguyên tắc tự thỏa thuận của các bên trong giao lưu dân sự theo quy định của pháp
luật dân sự.
Sáu là, quá trình THA đòi hỏi có sự tham gia của nhiều chủ thể trong việc phối
hợp chỉ đạo, xử lý giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình tổ chức THA. Đặc
biệt là sự chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương, sự phối hợp của các cơ quan
tư pháp trong việc thi hành các bản án, quyết định có nội dung phức tạp. Khi tham
gia vào hoạt động tổ chức THA, các tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật
bảo vệ.
Bảy là, trong THA thường tồn tại ba chủ thể chính với địa vị pháp lý khác
nhau, đó là cơ quan THADS, người phải THA và người được THA. Người phải THA
và người được THA là các chủ thể có quyền, nghĩa vụ đối lập nhau, chính vì thế đòi
hỏi việc tổ chức THA phải thật sự công tâm, vô tư, khách quan nhằm bảo đảm các
quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Mặt khác cơ quan THADS và Chấp
hành viên phải thực hiện thủ tục THA một cách độc lập, không cá nhân, cơ quan, tổ
chức nào được can thiệp trái pháp luật vào quá trình THADS.
1.1.2. Vai trò của thi hành án dân sự
Thứ nhất, THADS có vai trò quan trọng trong hoạt động tố tụng, là công đoạn
11



cuối cùng của hoạt động tố tụng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được
chấp hành nghiêm chỉnh, có hiệu lực thi hành trên thực tế. “Công lý bị trì hoãn cũng
có nghĩa là công lý bị từ chối” (Justice delayed is justice denied), do đó việc thi hành
các phán quyết của Tòa án một cách kịp thời, đúng phát luật để kết thúc việc THA có
ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn tất hoạt động xét xử của Tòa án và các hoạt động
tư pháp khác. Một nền tư pháp được coi là có hiệu quả hay không, tính thượng tôn
pháp luật trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền có được coi trọng hay không
chính là việc các hoạt động tư pháp được thực thi như thế nào, có hiệu lực, hiệu quả
không. Các hoạt động tư pháp, các cơ quan tư pháp từ điều tra, truy tố, xét xử và THA
đều có vai trò quan trọng và có mối quan hệ mật thiết, ràng buộc, bổ trợ lẫn nhau, nếu
chỉ một cơ quan, một giai đoạn trong hoạt động tư pháp thực hiện kém hiệu quả cũng
sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả của cả hệ thống. Không những có vai trò đảm bảo cho các
phán quyết của Tòa án có hiệu lực trên thực tế, THA còn là giai đoạn để kiểm nghiệm
thực tiễn các phán quyết của Tòa án có đảm bảo sự đúng đắn, khách quan, trung thực,
chất lượng và hiệu quả hay không, hay nói cách khác hoạt động THA là cái gương
phản chiếu hoạt động xét xử, nhìn vào hoạt động THA có thể nhận biết được hoạt
động xét xử.
Thứ hai, công tác THADS có vai trò quan trọng trong việc giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước. Thông qua
hoạt động THADS những bản án, quyết định của Tòa án được thực thi trên thực tế;
công lý, công bằng xã hội được đảm bảo thực hiện; trật tự xã hội được giữ vững, niềm
tin của công dân đối với Nhà nước được củng cố. Có thể khẳng định niềm tin vào
công lý của quần chúng Nhân dân không chỉ nhìn vào hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử mà phần nhiều còn nhìn vào hoạt động THA. Một bản án, quyết định nếu không
được thi hành hoặc thi hành không hiệu quả sẽ tác động ngược đến toàn bộ quá trình
tố tụng của các cơ quan tư pháp và như thế có nghĩa hiệu lực pháp luật của bản án,
quyết định của Tòa án không được tôn trọng; trật tự, kỷ cương xã hội không nghiêm;
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân bị xâm hại. Đây là một trong những

nguyên nhân gây ra sự mâu thuẫn, xung đột, tạo hiệu ứng tiêu cực, bất ổn trong xã
12


hội, ảnh hưởng nghiêm trọng tới hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.
Thứ ba, THADS góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, cải thiện môi trường
đầu tư, kinh doanh và hội nhập kinh tế quốc tế. Nước ta đang xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN và tiến hành hội nhập một cách sâu rộng vào nền kinh
tế thế giới, trong quá trình đó có rất nhiều hoạt động đầu tư kinh doanh của doanh
nghiệp trong và ngoài nước vào nền kinh tế. Việc cải thiện môi trường đầu tư kinh
doanh đặt ra yêu cầu phải nâng cao hiệu quả hoạt động tư pháp nói chung và THADS
nói riêng để tiết kiệm thời gian, giảm chi phí tiếp cận công lý và tuân thủ thủ tục hành
chính, không tạo gánh nặng tâm lý đối với người dân và doanh nghiệp. Điều này có
nghĩa cùng với hoạt động xét xử, hoạt động THADS hiệu quả sẽ rút ngắn thời gian
thực hiện trình tự, thủ tục, nhanh chóng giải quyết các tranh chấp pháp lý, khơi thông
các nguồn tài chính để phục vụ hoạt động kinh doanh, nhất là trong lĩnh vực tín dụng,
ngân hàng sẽ góp phần tích cực tạo môi trường thuận lợi để phát triển sản xuất kinh
doanh.
Thứ tư, THADS có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quyền con người,
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là các quyền về nhân
thân và tài sản. Rõ ràng việc đưa các phán quyết của Tòa án ra thi hành trên thực tế
chính là quá trình khôi phục, khắc phục lại tình trạng ban đầu các quyền vốn có, tự
nhiên của con người bị xâm hại. Quyền và lợi ích hợp pháp của công dân còn được
đảm bảo trên khía cạnh họ là đương sự của vụ án. Bởi trong quá trình tổ chức THA
các bên đương sự được đảm bảo thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình từ
việc được thông báo các văn bản, giấy tờ, quyết định về THA; được tham gia vào quá
trình giải quyết, tổ chức THA; được tôn trọng và đảm bảo thực hiện các quyền về tự
nguyện THA và thỏa thuận THA; được cung cấp thông tin; được quyền kiến nghị
thay đổi người được giao tổ chức THA; quyền khiếu nại, tố cáo… đây là các quyền
và nghĩa vụ của đương sự trong THADS.

Thứ năm, THADS góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của Nhân
dân. Để tổ chức THA, cơ quan THADS thường xuyên phải phối hợp với chính quyền
địa phương, các đoàn thể, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tiến hành động viên,
13


thuyết phục các bên đương sự hòa giải, thỏa thuận giải quyết việc THA để họ tự
nguyện thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Tòa án. Thông qua hoạt động
THA, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật về
THADS nói riêng được truyền tải đến người được THA, người phải THA, các tổ
chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ liên quan, qua đó nâng cao nhận thức, ý thức
chấp hành pháp luật của Nhân dân.
1.2. Khái quát về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự
1.2.1. Tổ chức thi hành án dân sự
1.2.1.1. Khái niệm tổ chức thi hành án dân sự
Theo tiếng Hy lạp “tổ chức - organon” là để chỉ một cơ quan nào đó của cơ
thể người, có chức năng nhất định, là kết cấu tự nhiên trong chỉnh thể người. Từ điển
Bách khoa Việt Nam định nghĩa: Tổ chức là “hình thức tập hợp, liên kết các thành
viên trong xã hội (cá nhân, tập thể) nhằm đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng, lợi ích của
các thành viên, cùng nhau hành động vì mục tiêu chung”.
“Tổ chức” cũng là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong khoa học
tổ chức và quản lý. Theo đó khoa học tổ chức và quản lý cho rằng tổ chức là “tập thể
của con người tập hợp nhau lại để thực hiện một nhiệm vụ chung hoặc nhằm đạt tới
một mục tiêu xác định của tập thể đó”. Đặc trưng mang tính phổ biến của "tổ chức"
là việc tập hợp, kết hợp, liên kết lại bao giờ cũng theo hình thức cơ cấu và quy luật
vận động đã định hình, qua đó giúp cho “một hệ thống gồm nhiều phân hệ, có những
mối quan hệ hữu cơ hợp lý, rõ ràng, hợp tác và phối hợp chặt chẽ, tác động lẫn nhau
trong một tổng thể, phát sinh một lực tổng hợp tác động cùng chiều lên một đối tượng
nhằm đạt những mục tiêu chung đã định”
Khoa học luật dân sự gọi tổ chức là pháp nhân khi tham gia với tư cách chủ

thể trong quan hệ pháp luật dân sự. Theo Bộ luật dân sự năm 2015 (Điều 74) thì một
tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện: (i) được thành lập hợp
pháp; (ii) có cơ cấu tố chức chặt chẽ; (iii) có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác
và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; (iv) nhân danh mình tham gia các quan hệ
pháp luật một cách độc lập. Như vậy khoa học pháp lý coi trọng đến các điều kiện
14


thành lập tổ chức và các yêu cầu đảm bảo hoạt động của tổ chức.
Thông qua hoạt động thực tiễn, ngành Tổ chức cán bộ cũng đưa ra quan niệm
về “tổ chức” trong cuốn “Sổ tay nghiệp vụ cán bộ làm công tác tổ chức nhà nước” là:
“Tổ chức là một đơn vị xã hội, được điều phối một cách có ý thức, có phạm vi tương
đối rõ ràng, hoạt động nhằm đạt được một hoặc nhiều mục tiêu chung (của tổ chức)”.
Quan niệm này cũng có điểm tương đồng với khoa học tổ chức và quản lý, trong đó
đều nhấn mạnh tới mục tiêu, nguyên tắc hoạt động của tổ chức. Trên phương diện
ngôn ngữ học, tùy theo ngữ cảnh, tính chất, yêu cầu, mục đích... để sử dụng các thuật
ngữ: cơ quan, đơn vị, pháp nhân, công ty, hội... để thay thế thuật ngữ tổ chức.

Với phân tích nêu trên, có thể hiểu “tổ chức” là sự tập hợp những sự vật, con
người thành nhóm theo cơ cấu và quy luật vận động nhất định vì tính chỉnh thể, tính
hướng đích trong bản thân nhóm đó cũng như trong quan hệ của nhóm với những
nhóm khác, chỉnh thể khác.
Từ khái niệm THADS và khái niệm “tổ chức” và từ mô hình tổ chức THADS
theo pháp luật về THADS ở nước ta hiện nay, có thể hiểu tổ chức THADS như sau:
Tổ chức thi hành án dân sự là cơ quan thuộc bộ máy hành chính nhà nước, được tổ
chức theo hệ thống dọc, thống nhất từ trung ương đến địa phương, thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhằm thi hành các bản án, quyết định của Toà án và các
quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
1.2.1.2. Mô hình tổ chức cơ quan thi hành án dân sự
Chức năng, nhiệm vụ của THADS là việc đưa các bản án, quyết định của Tòa án,

các quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật ra thi hành trên
thực tế. Theo chức năng, nhiệm vụ của THADS, các quốc gia trên thế giới có mô hình
tổ chức cơ quan THADS khác nhau tùy theo quan điểm, nhận thức của quốc gia đó về
tính chất hoạt động của THADS. Một số quốc gia cho THADS là hoạt động tư pháp,
phải do cơ quan tư pháp thực hiện vì thế cơ chế tổ chức THADS được giao cho Tòa án
quản lý và việc tổ chức THA do Thẩm phán đặc trách thực hiện như ở nước Anh,
15


Đức, Singapore, Nhật Bản, Hàn quốc…; một số nước cho THADS có tính chất hành
chính – tư pháp, do đó Bộ Tư pháp được giao quản lý lĩnh vực này như ở Pháp, Việt
Nam… và người được giao tổ chức thi hành án là Thừa phát lại hoặc Chấp hành viên;
có nước coi THADS có tính chất hành chính, hoạt động THA là hoạt động chấp hành
các bản án, quyết định của Tòa án, vì vậy cơ chế THADS lại thuộc hệ thống cơ quan
thuế như ở Thụy Điển, Thái Lan và việc tổ chức THA do công chức thuế thực hiện.
Tùy theo mô hình quản lý tổ chức THADS, mỗi quốc gia lại có cơ chế nhân sự tiến
hành hoạt động THA khác nhau, có thể là công chức nhà nước như: Thẩm phán, Chấp
hành viên… hoặc người được nhà nước ủy quyền như Thừa phát lại, Luật sư…; về
ngân sách hoạt động, một số nước chi trả toàn bộ hoạt động của bộ máy tổ chức
THADS; nhiều nước bao cấp một phần mang tính hỗ trợ cho hoạt động THADS như
ở Đức, Mỹ, Úc… hoặc tổ chức THADS phải tự chịu trách nhiệm toàn bộ chi phí cho
hoạt động như ở Pháp, Bỉ…
Ở nước ta, kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 13/SL ngày
24/01/1946 quy định về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán, đặt cơ sở pháp
lý đầu tiên cho tổ chức THADS Việt Nam. Đến nay trải qua hơn 70 năm hình thành
và phát triển, về cơ bản chúng ta có hai mô hình tổ chức THA khác nhau trong các giai
đoạn lịch sử, đó là mô hình cơ quan THADS trực thuộc Tòa án, do Tòa án quản lý được
thực hiện chủ yếu trong giai đoạn từ năm 1993 trở về trước và mô hình cơ quan THADS
trực thuộc Chính phủ do Chính phủ thống nhất quản lý được thực hiện từ năm 1993 đến
nay (từ ngày Pháp lệnh THADS năm 1993 có hiệu lực thi hành, ngày 01/6/1993). Mô

hình THADS trực thuộc Tòa án, do Tòa án quản lý được thực hiện trước năm 1993
cũng có nhân tố hợp lý của nó, bởi giai đoạn này chúng ta thực hiện cơ chế quản lý
quan liêu bao cấp, kế hoạch hóa nền kinh tế, nên số lượng vụ việc xét xử phát sinh
không nhiều, chủ yếu là án hình sự, các loại án khác hầu như không phát sinh. Khi
nước ta xóa bỏ cơ chế cũ, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thì việc phát
sinh các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân – gia đình, hình sự ngày càng
nhiều, do đó yêu cầu đổi mới mô hình hoạt động, xây dựng một hệ thống THADS
độc lập để phù hợp với thực tiễn là đòi hỏi tất yếu mang tính khách quan theo chủ
16


trương cải cách bộ máy nhà nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng của Đảng
và Nhà nước.
1.2.1.3. Hệ thống và cơ cấu tổ chức cơ quan thi hành án dân sự
Theo Wikipedia – Bách khoa toàn thư mở thì hệ thống là tập hợp các phần tử
có quan hệ hữu cơ với nhau, tác động chi phối lẫn nhau theo các quy luật nhất định
để trở thành một chỉnh thể. Còn tổ chức là một hệ thống gồm nhiều thành viên cùng
hoạt động vì mục đích chung. Như vậy có thể hiểu hệ thống tổ chức cơ quan THADS
gồm nhiều cơ quan, đơn vị được thành lập từ trung ương đến địa phương có quan hệ
phụ thuộc, tác động chi phối lẫn nhau, được Nhà nước trao nhiệm vụ, quyền hạn để
thực hiện chức năng thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định
khác của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Có thể nói trước năm 1993 ở nước ta chưa hình thành hệ thống tổ chức cơ quan
THADS, bởi hoạt động THADS, cơ cấu tổ chức, con người đều nằm trong Tòa án,
do Tòa án quản lý. Sau năm 1993 công tác THADS được chuyển giao từ Tòa án sang
trực thuộc Chính phủ quản lý thì hệ thống tổ chức cơ quan THADS đã được tổ chức
theo ngành dọc một cách thống nhất từ trung ương tới địa phương. Hiện nay hệ thống
tổ chức các cơ quan THADS gồm cơ quan quản lý THADS và cơ quan tổ chức THADS
được thành lập ở ba cấp: Trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện. Theo đó cơ quan quản lý
THADS được thành lập ở trung ương gồm cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp

và cơ quan quản lý THA thuộc Bộ Quốc phòng. Tổng cục THADS là cơ quan trực
thuộc Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước
về công tác THADS theo quy định của Luật THADS, quản lý nhà nước về công tác
THA hành chính theo quy định của Luật tố tụng hành chính và thực hiện quản lý
chuyên ngành về THADS, THA hành chính.
Cơ quan THADS được thành lập ở cấp tỉnh và cấp huyện, gồm: Cục THADS
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là cơ quan THADS cấp tỉnh); Chi
cục THADS huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cơ quan THADS
cấp huyện) và cơ quan THA trong quân đội (Phòng THA quân khu và tương đương).
Cục THADS cấp tỉnh là cơ quan trực thuộc Tổng cục THADS, thực hiện chức năng
17


THADS, THA hành chính có nhiệm vụ giúp Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS
quản lý một số mặt công tác tổ chức, cán bộ của cơ quan THADS địa phương và thực
hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật. Chi cục THADS cấp
huyện là cơ quan trực thuộc Cục THADS cấp tỉnh, thực hiện chức năng THADS, đôn
đốc THA hành chính và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của
pháp luật.
Theo nguyên lý chung, tổ chức muốn hoạt động tất yếu phải có các thiết chế,
thành phần, cơ cấu của tổ chức. Như vậy các cơ quan trong hệ thống THADS cũng phải
có kết cấu tổ chức bộ máy theo những nguyên lý chung ấy. Đối với cơ quan quản lý
THADS là Tổng cục THADS vì chức năng cơ bản là thực hiện công tác quản lý, chính
vì vậy các cơ quan, đơn vị trực thuộc cơ quan này đều được thành lập để thực hiện chức
năng tham mưu trong hoạt động chỉ đạo, điều hành, đôn đốc, kiểm tra, hướng dẫn việc
tổ chức THA. Đối với cơ quan THADS cấp tỉnh tuy có chức năng cơ bản là tổ chức
thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, nhưng do là cơ quan ở cấp trung gian nên
cơ quan này cũng có chức năng quản lý, điều hành đối với cơ quan cấp dưới, do đó
cơ cấu tổ chức của cơ quan THADS cấp tỉnh cũng cần thiết phải có các đơn vị trực
thuộc như: văn phòng, các phòng chuyên môn để tham mưu công tác chỉ đạo, điều hành,

quản lý hoạt động tổ chức thi hành án dân sự. Đối với cơ quan THADS cấp huyện, do là
cấp cuối cùng trong hệ thống tổ chức các cơ quan THADS, có chức năng chủ yếu là tổ
chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án theo thẩm quyền, công tác quản lý
chỉ thực hiện trong nội bộ nhằm duy trì hoạt động đơn vị, do đó cơ quan THADS cấp
huyện không cần thiết phải có cơ cấu tổ chức đơn vị trực thuộc mà Thủ trưởng đơn vị
phân công, chỉ đạo công việc trực tiếp cho công chức, người lao động thực hiện.
Về nhân sự, cơ quan THADS cũng giống như các cơ quan nhà nước nói chung
cần có cơ cấu công chức, viên chức bao gồm: đội ngũ lãnh đạo, đội ngũ các chức
danh tư pháp cần thiết và các công chức, viên chức khác. Cơ quan THADS hoạt động
theo chế độ thủ trưởng, tức là người đứng đầu cơ quan có toàn quyền tự quyết định
và chịu trách nhiệm cá nhân về mọi vấn đề trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan,
tổ chức do mình quản lý. Theo đó ở trung ương Tổng cục trưởng Tổng cục THADS
18


được trao nhiệm vụ, quyền hạn và phân cấp quản lý một số công việc, đồng thời phải
chịu trách nhiệm về công việc, lĩnh vực được giao phụ trách trước Bộ trưởng Bộ Tư
pháp – cơ quan được Chính phủ giao quản lý nhà nước công tác THADS. Đối với cơ
quan THADS tại địa phương, Cục THADS cấp tỉnh chịu trách nhiệm trước Tổng Cục
trưởng Tổng cục THADS và trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của Cục THADS
cấp tỉnh. Chi cục trưởng Chi cục THADS cấp huyện chịu trách nhiệm trước Cục
trưởng Cục THADS cấp tỉnh và trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của Chi cục
THADS cấp huyện.
1.2.2. Hoạt động thi hành án dân sự
1.2.2.1. Khái niệm hoạt động thi hành án dân sự
THADS là một hoạt động đặc thù và rất phức tạp, chính vì vậy về mặt lý luận
vẫn còn nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau về hoạt động THADS, như quan điểm
cho rằng THADS hoạt động tư pháp bởi nó gắn với công tác xét xử, là hoạt động tiếp
theo không thể thiếu trong quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự; quan điểm khác
cho rằng THADS là hoạt động mang tính hành chính bởi nguyên tắc chấp hành, điều

hành của quản lý nhà nước và quan điểm được nhiều người thừa nhận hiện nay là
THADS là hoạt động hành chính – tư pháp. Cho dù các quan điểm, ý kiến còn khác
nhau về hoạt động THADS, nhưng phải thừa nhận vấn đề thuộc về bản chất của
THADS đó là các hoạt động này đều nhằm mục đích đưa các bản án, quyết định của
Tòa án ra thi hành trên thực tế.
Nhìn vào hình thức có thể thấy rằng hoạt động THADS chính là việc dùng các
biện pháp để đưa các phán quyết của Tòa án và cơ quan có thẩm quyền khác ra thi
hành trên thực tế. Các biện pháp này bao gồm nhiều công đoạn, quy trình khác nhau
như: Thụ lý, ra quyết định THA; tổ chức thực hiện quyết định THA; hướng dẫn
nghiệp vụ THA; thanh tra, kiểm tra hoạt động THA; giải quyết, khiếu nại, tố cáo về
THA… Những hoạt động này được cơ quan THADS và Chấp hành viên tiến hành
trên cơ sở áp dụng các trình tự, thủ tục luật định nhằm tác động lên đối tượng phải
THA, được THA và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, yêu cầu họ thực hiện các
quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Sự tác động tới đối tượng là
19


×