Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Ứng xử của cộng đồng đối với người sau cai nghiện ma túy – (nghiên cứu tại quận phú nhuận, thành phố hồ chí minh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (927.99 KB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN HUY

ỨNG XỬ CỦA CỘNG ĐỒNG
ĐỐI VỚI NGƯỜI SAU CAI NGHIỆN MA TÚY
(Nghiên cứu tại quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh)

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

Hà Nội, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN HUY

ỨNG XỬ CỦA CỘNG ĐỒNG
ĐỐI VỚI NGƯỜI SAU CAI NGHIỆN MA TÚY
(Nghiên cứu tại quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh)
Ngành: XÃ HỘI HỌC
Mã số: 8.31.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. VŨ MẠNH LỢI

Hà Nội, 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nghiên cứu này là nghiên cứu của riêng tôi. Số liệu và kết
quả nghiên cứu trong đề tài “Ứng xử của cộng đồng đối với người sau cai nghiện
ma túy” – (Nghiên cứu tại Quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh) là chính
xác và trung thực, bảo đảm khách quan, trên thực trạng thực tế tại địa bàn nghiên
cứu và chưa được ai công bố trên một nghiên cứu nào. Những thông tin sử dụng của
các nhà khoa học hoặc một nghiên cứu nào khác đều được trích nguồn. Tác giả
nhận thức được sự quan trọng của những thông tin có được thông qua thu thập. Vì
thế, tác giả cam kết không nêu tên thật, hoặc công khai thông tin cá nhân của người
cung cấp trong luận văn, những thông tin sử dụng trong nghiên cứu đã được sự cho
phép của người cung cấp thông tin.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 02 năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Huy


LỜI CẢM ƠN
Trước hết với tình cảm và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin cảm ơn các thầy, cô
giáo khoa Xã hội học; Học viện khoa học Xã hội đã tận tình giúp đỡ trong quá trình
học tập và nghiên cứu để hoàn thành Luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn và lòng biết ơn chân thành đến
người thầy cao quý PGS.TS Vũ Mạnh Lợi người trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành
luận văn này và những sự giúp đỡ, động viên to lớn cũng như sự chỉ dạy tận tình
của thầy.
Đồng thời, xin cảm ơn đến cơ quan, đoàn thể tại địa phương nghiên cứu cũng
như gia đình và bạn bè đã động viên, khích lệ, giúp đỡ trong quá trình học tập,
nghiên cứu.

Mặc dù đã rất cố gắng nghiên cứu hoàn thành luận văn, nhưng cũng không
tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được góp ý của các thầy cô và các
chuyên gia.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
PHẦN I: MỞ ĐẦU ....................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỀ TÀI ...............................20
1.1. Cơ sở lý luận .....................................................................................................20
1.1.1. Các khái niệm sử dụng trong đề tài ..............................................................20
1.1.2. Câu hỏi nghiên cứu........................................................................................25
1.1.3. Giả thuyết nghiên cứu....................................................................................26
1.1.4. Vài nét về địa bàn nghiên cứu .......................................................................33
PHẦN II: NỘI DUNG .............................................................................................38
CHƯƠNG 2: THÁI ĐỘ ỨNG XỬ CỦA CỘNG ĐỒNG VỚI NGƯỜI SAU CAI
NGHIỆN MA TÚY TẠI ĐỊA PHƯƠNG ..............................................................38
2.1 Thái độ của cộng đồng về người nghiện ma túy .............................................38
2.2. Thái độ của cán bộ chức năng chính quyền địa phương đối với người sau
cai nghiện ma túy ....................................................................................................44
2.3 Thái độ của gia đình người sau cai nghiện .....................................................49
2.4 Thái độ của người sau cai nghiện với người sau cai nghiện và chính họ .....51
CHƯƠNG 3: TÁC ĐỘNG CỦA THÁI ĐỘ CƯ XỬ CỦA CỘNG ĐỒNG ĐỐI
VỚI NGƯỜI SAU CAI NGHIỆN ..........................................................................53
Tác động đến việc làm và tạo kế sinh nhai ...........................................................55
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................57
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................62



DANH MỤC BẢNG
Bảng

Tên bảng

Bảng 1.1

Phân chia cỡ mẫu điều tra bảng hỏi

Bảng 1.2

Phân chia cỡ mẫu phỏng vấn sâu

Bảng 2.1.

Quan điểm của người dân trong cộng đồng về người cai nghiện ma túy

Bảng 2.2.

Ý kiến của người dân về người sau cai trong công việc

Bảng 2.3

Tâm lý của người làm việc cùng người sau cai:

Bảng 2.4

Các nguyên nhân dẫn dến nghiện ma túy


Bảng 2.5

Các yếu tố giúp người sau cai nghiện ma túy vượt qua khó khăn

Bảng 2.6

Các yếu tố để người sau cai nghiện hòa nhập cộng đồng
Những kỳ thị gây khó khăn cho người sau cai nghiện ma túy khi hòa

Bảng 2.7

nhập cộng đồng


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn nạn về ma túy luôn là vấn đề “nóng” và hết sức phức tạp với mọi thời
điểm, không chỉ riêng ở nước ta mà là trên phạm vi toàn thế giới. Trong bối cảnh
hiện nay, số người nghiện ma túy ngày càng gia tăng và ngày càng trẻ hóa. Nhiều
loại (chất) ma túy mới và tác hại của chúng sau khi sử dụng rất khôn lường. Đối
tượng sử dụng ma túy ngày càng đa dạng ở nhiều tầng lớp khác nhau, lan rộng đến
mọi vùng miền, lãnh thổ.
Có nhiều nguyên nhân làm gia tăng số người nghiện cũng như tội phạm ma
túy hiện nay. Một trong nguyên nhân đầu tiên xuất phát từ sự thiếu quan tâm giáo
dục của gia đình, sự buông lỏng quản lý, ít quan tâm đến con cái hay nuông chiều
quá mức, bị đối tượng xấu lôi kéo vào con đường nghiện hút, tò mò muốn thử một
lần cho biết, thể hiện bản lĩnh trước bạn bè... Ngoài ra, công tác cai nghiện còn
nhiều bất cập như: cơ sở hạ tầng còn chưa đáp ứng yêu cầu thực tế, có giai đoạn
vướng phải Nghị định 221/2013/NĐ-CP của Chính phủ về việc “Quy định chế độ
áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc” thời gian đầu chưa có hướng dẫn cụ thể dẫn đến lúng túng cho nhiều địa
phương. Để làm đúng theo quy định thì việc thẩm tra lý lịch, tìm người thân, chờ cơ
quan chức năng của các địa phương xác minh thì rất là tốn thời gian, phức tạp, lúc
này người nghiện ở đâu? Ai có chức năng quản lý họ... Trong khi đó người nghiện
ma túy thường có nơi ở không ổn định, có lối sống ít lành mạnh và phức tạp. Bên
cạnh đó một yếu tố quan trọng khác đó là thái độ của cộng đồng đối với người sau
cai còn tồn tại nhiều sự phân biệt đối xử, kỳ thị, nhiều người sau cai có tâm lý chán
nản vì họ không thể hội nhập được với chính cộng đồng nơi mà họ đang sống. Vì
vậy, họ tìm đến bạn bè cũ hoặc những người đang sử dụng ma túy để có cảm giác
được chấp nhậntrong cuộc sống.
Tác hại của việc sử dụng ma túy rất to lớn và vô cùng nguy hiểm:
Người nghiện ma túy dễ bị loạn thần, hoang tưởng, ảo giác và dễ bị kích
động, không kiểm soát và làm chủ bản thân dẫn đến gây nguy hiểm cho chính bản

1


thân mình, gia đình và những người xung quanh. Đã có nhiều vụ án thương tâm do
chính người nghiện hoang tưởng gây ra cho những người xung quanh. Ví dụ: Vụ án
ca sĩ Châu Nhật Cường sau khi sử dụng ma túy đã có hoang tưởng rằng cô gái cùng
sử dụng ma túy bị ma nhập nên đã nhét hơn 30 nhánh tỏi vào miệng nạn nhân, gây
tắc phế quản dẫn đến tử vong vào ngày 05/03/2018.
Khi sử dụng ma túy, số tiền bỏ ra để mua ma túy không phải nhỏ, tốn rất
nhiều tiền của. Bên cạnh đó, liều lượng khi sử dụng ngày càng tăng lên mới đáp ứng
được “độ phê”, đồng nghĩa với việc tiền bỏ ra ngày càng nhiều hơn, dẫn đến kiệt
quệ kinh tế, dễ sa vào con đường phạm pháp như lừa đảo, trộm cắp, cướp giật, rơi
vào đường giây buôn bán ma túy...miễn sao mục đích cuối cùng là để có được tiền
sử dụng ma túy.
Nạn sử dụng ma túy tăng thêm gánh nặng cho Nhà nước, hàng năm Nhà nước
bỏ ra hàng nghìn tỷ đồng cho việc tuyên truyền, phòng chống ma túy, trả lương cho

cán bộ phục vụ cai nghiện, xây dựng thêm các cơ sở hạ tầng....
Chính vì tác hại của ma túy to lớn như thế, nên không thể tránh khỏi việc
cộng đồng kỳ thị những người nghiện ma túy. Kỳ thị và phân biệt đối xử bất cứ đối
tượng nào cũng dễ dẫn đến hậu quả tiêu cực, làm cho người bị kỳ thị cảm thấy bị cô
lập, rơi vào trạng thái trả thù hoặc buông xuôi, trượt dài hơn.
Với những người sau cai nghiện ma túy, đặc biệt là những người cai nghiện
dạng bắt buộc, họ không sinh hoạt tại cộng đồng nơi họ sinh sống một thời gian (từ
12 tháng đến 24 tháng), trải qua một quá trình học tập, lao động trị liệu và cách ly
với ma túy. Người nghiện ma túy cũng có những trăn trở, có hoài bão và có ước
mơ.... Nhiều người sau khi cai nghiện nhận ra lỗi lầm của mình, họ cũng có những
kế hoạch và dự định sau khi tái hòa nhập cộng đồng họ sẽ làm lại từ đầu, bắt đầu
cuộc sống mới. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là: sau khi trở về họ sẽ gặp những rào cản,
khó khăn gì? Gia đình đối xử ra sao? Trở về có công ăn việc làm không? Họ có bị
kỳ thị và bị coi thường không? Rất nhiều câu hỏi khác nữa đặt ra, trong đó có câu
hỏi của tôi là bao giờ xã hội hết kỳ thị người nghiện ma túy? Hiện nay, xã hội đã

2


nhìn nhận người nghiện như thế nào? Và họ đối xử như thế nào với những người
sau cai nghiện ma túy trở về tái hòa nhập cộng đồng?
Xuất phát từ những vấn đề trên, đề tài nghiên cứu “Ứng xử của cộng đồng
đối với người sau cai nghiện ma túy – Nghiên cứu tại Quận Phú Nhuận, Thành
phố Hồ Chí Minh” nhằm góp phần phản ánh rõ hơn nhìn nhận của cộng đồng, những
người xung quanh người sau cai nghiện hiện nay ở mức nào để có thể giúp ích được
thông tin cho các tổ chức/ Chính quyền địa phương thực hiện chính sách và hỗ trợ dành
cho người sau cai nghiện ma túy hợp lý hơn trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Để hiểu rõ hơn về quá trình tái nghiện chúng ta cần hiểu được các hội chứng
về tâm lý và cơ thể mà người sau cai nghiện ma túy gặp phải:

Việc cai nghiện ma túy được hiểu là việc ngưng sử dụng hoặc giảm đáng kể
chất ma túy mà người nghiện thường sử dụng (nghiện) dẫn đến việc xuất hiện hội
chứng cai và vì vậy người nghiện cần phải được điều trị. Hội chứng cai là trạng thái
phản ứng của cơ thể khi cắt cơn hoặc giảm chất ma túy sử dụng ở người nghiện ma
túy. Biểu hiện lâm sàng của hội chứng cai khác nhau phụ thuộc vào loại ma túy
đang sử dụng.
Người nghiện ma túy nhóm OPIATS (gồm thuốc phiện, heroin…) trong thời
gian cắt cơn thường có những biểu hiện hội chứng cai như: Cảm giác thèm ma túy
rất cao độ, ngạt mũi, chảy nước mắt, đau cơ hoặc chuột rút, buồn nôn, giãn đồng tử,
nổi da gà hoặc ớn lạnh, nhịp tim nhanh hoặc tăng huyết áp. Người nghiện ma túy
dạng Amphetamine (ATS) có những hiểu hiện hội chứng cai như mất ngủ hoặc ngủ
lịm và mệt mỏi, chậm chạm hoặc kích động tinh thần vận động, trầm cảm, cảm giác
thèm nhớ ma túy, tăng khẩu vị ăn nhiều hơn lúc bình thường.
Ngoài những biểu hiện của hội chứng cai về mặt cơ thể ra trong giai đoạn cắt
cơn người nghiện thường có một số biểu hiện về mặt tâm lý như sau:
Sự thèm muốn sử dụng ma túy ở họ lên đến đỉnh điểm vì khi cắt cơn người
nghiện sẽ ngưng sử dụng ma túy hoàn toàn dẫn đến xuất hiện hội chứng cai như đã
nói ở trên. Vì sự ngưng dung nạp (sử dụng) ma túy vào cơ thể một cách đột ngột

3


nên dẫn đến sự thèm nhớ ma túy lên đến đỉnh điểm, họ thay đổi hoàn toàn hành vi,
biến động bất thường ở họ luôn xuất hiện cảm xúc giận giữ, cáu gắt, tội lỗi, mặc
cảm, hoảng hốt, lo lắng…
Tâm lý muốn buông xuôi tất cả, mất niềm tin vào bản thân, không muốn cố
gắng nữa.
Một số người trước khi bước vào giai đoạn cắt cơn thường tỏ ra rất quyết tâm
nhưng họ nhanh chóng thay đổi ý định khi phải đối mặt với cơn thèm nhớ ma túy và
các đau đớn của hội chứng cai. Lúc đầu họ sẵn sàng phối hợp với cán bộ, người thân để

tham gia điều trị nhưng khi họ không vượt qua được hội chứng cai thì sẽ thay đổi ý
định không muốn điều trị nữa. Tất cả những điều đó nếu họ không vượt qua được họ sẽ
tìm mọi cách để tìm đến sử dụng lại ma túy, có thể tự làm đau bản thân, tự tử… để
thoát khỏi sự kiểm soát của người khác và khi biết mình đã tái nghiện trở lại ở họ có
thể xuất hiện trạng thái tâm lý muốn bỏ cuộc, buông xuôi tất cả.
Như vậy, hội chứng cai chủ yếu là những biểu hiện đau đớn, khó chịu về mặt
cơ thể nhưng có thể trở thành rào cản tâm lý cho người nghiện trong quá trình cai.
Vì không ít trường hợp người nghiện tái nghiện, thậm chí cai nghiện gián đoạn (bỏ
dở quá trình cai) vì họ không vượt qua hội chứng cai, hoặc xuất hiện tâm lý sợ hội
chứng cai (đau bụng, hay đau đớn về mặt cơ thể khác, mất ngủ, cơ thể mệt mỏi
v.v...) Từ đó làm giảm quyết tâm và niềm tin cai nghiện thành công của họ.
Thời gian Cai nghiện tại các cơ sở được các bác sĩ, cán bộ quản lý... điều trị
bằng tâm lý, động viên và có các phác đồ điều trị từ thể chất đến tinh thần. Người
nghiện được học cách đối phó với các cơn thèm nhớ, được tham gia lao động trị
liệu, học nghề, tham gia sinh hoạt văn nghệ.... Người nghiện bắt đầu ý thức về bản
thân, đi từ sự lệch lạc hành vi sang các hành vi đúng đắn, biết suy nghĩ và ý thức
hơn, trách nhiệm hơn. Tuy nhiên, khi tái hòa nhập cộng đồng, nếu như họ không
được sự giúp đỡ và không được thuận lợi như hòa nhập cuộc sống sinh hoạt, gặp
khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ xã hội, bị kỳ thị, bị quản lý, khó khăn trong
việc làm, khó khăn trong tình yêu, hôn nhân gia đình.... Họ sẽ dần chán nản, thất

4


vọng và muốn tìm lại ma túy để xóa đi cảm giác đang gặp phải, con đường tái
nghiện cũng xuất phát từ đây.
Ma túy gây rối loạn cảm xúc và cảm xúc lo âu trong thời kỳ quá liều và thời
kỳ cai. Rối loạn cảm xúc trong mức độ từ lo lắng vừa phải đến triệu chứng nặng phù
hợp với tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn tâm thần.
Ma túy gây ra rối loạn cảm xúc kéo dài ở mức độ trầm trọng. Triệu chứng

không kéo dài quá 1 tháng sau khi sử dụng, nhưng có thể xảy ra trong khi đang ngộ
độc hoặc ở trạng thái cai. Thay đổi cảm xúc bao gồm cảm giác buồn chán, lo lắng,
lâng lâng, không quan tâm đến các hoạt động gây hứng thú. Điều này giải thích tại
sao người nghiện ma túy khi trở về thường ít muốn tham gia các hoạt động tại cồng
đồng. Hay trở nên thụ động hơn trong các hoạt động tập thể.
Đối với các bệnh nhân có biểu hiện lo âu và rối loạn cảm xúc từ trước hoặc
việc sử dụng ma túy diễn ra trong thời gian dài thì việc sử dụng ma túy trở lại có
nguy cơ kích hoạt các triệu chứng.
Về sinh lý
Việc sử dụng ma túy thường xuyên trong một thời gian dài sẽ khiến cơ thể
của người sử dụng có nhiều sự thay đổi. Về cơ bản, dần dần, cơ thể sẽ thích ứng với
sự có mặt một cách thường xuyên của ma túy, từ đó, cơ thể chỉ có thể hoạt động
bình thường khi có đủ ma túy mà thôi. Điều đó dẫn đến, khi thiếu ma túy, cơ thể sẽ
rơi vào trạng thái “vật vã”, “đói thuốc”, xuất hiện liên tục các triệu chứng của hội
chứng cai: nóng lạnh thất thường, đổ mồ hôi, chân tay run rẩy, đau nhức xương
khớp… đặc trưng ở những người sử dụng chất gây nghiện thuộc nhóm opiats: thuốc
phiện, heroin, cần sa… Đây còn được gọi là tình trạng lệ thuộc về thể chất vào ma
túy ở người nghiện.
Tuy nhiên, sự lệ thuộc về thể chất sẽ biến mất sau khoảng từ 7 – 15 ngày tùy
vào cơ địa và hành vi sử dụng ma túy của mỗi người nghiện. Đó là khoảng thời gian
cần và đủ để cơ thể có thể quay trở lại hoạt động bình thường, thích nghi trở lại với
việc không còn các chất ma túy được đưa vào trong cơ thể.
Tại viện Nghiên cứu tâm lý người sử dụng ma túy (PSD), chúng tôi áp dụng
thời gian điều trị cắt cơn cho mỗi học viên - những người đang tham gia điều trị

5


nghiện ma túy - lên đến 30 ngày. Trong thời gian đó, học viên được điều trị cắt cơn
theo phác đồ của Bộ y tế trong những ngày đầu tiên. Tiếp đó, học viên được thường

xuyên tham gia các hoạt động nhằm phục hồi thể chất, tăng cường nhận thức về tác
hại của ma túy và nâng cao động lực, quyết tâm cai nghiện.
Sau thời gian 30 ngày điều trị cắt cơn, học viên được phục hồi đáng kể về thể
chất, hội chứng cai được loại bỏ hoàn toàn, tâm lý ổn định và sẵn sàng bước sang
giai đoại trị liệu tâm lý tiếp theo.
Về tâm lý
Nghiện ma túy hay còn gọi là tình trạng lệ thuộc vào ma túy gây ra đồng
thời cả sự lệ thuộc về thể chất và sự lệ thuộc về tâm lý. Trong khi sự lệ thuộc về thể
chất có thể được dễ dàng xóa bỏ thông qua thời gian điều trị cắt cơn thì sự lệ thuộc
về tâm lý lại vẫn tồn tại ngay cả khi người nghiện đã dừng hoàn toàn hành vi sử
dụng ma túy sau nhiều năm. Về cơ bản, sự lệ thuộc về tâm lý được thể hiện chính
bằng “cơn thèm nhớ”. Người nghiện vẫn có thể thấy nhớ, thấy thèm những cảm
giác do ma túy mang lại dù sau nhiều năm ngừng sử dụng. Và chính cơn thèm nhớ
về mặt tâm lý này đã thôi thúc người nghiện tìm đến với ma túy để tái sử dụng và
tái nghiện, bất chấp những hậu quả do nó đem lại.
Như vậy, loại bỏ được sự lệ thuộc về tâm lý hay loại bỏ được cơn thèm nhớ
ma túy giúp người nghiện không còn ham muốn sử dụng ma túy chính là một mục
tiêu vô cùng quan trọng giúp cho quá trình cai nghiện đạt được thành công mang
tính lâu dài, bền vững, ngăn chặn hiệu quả nguy cơ tái sử dụng, tái nghiện ma túy
trở lại.
Để thực hiện được mục tiêu loại bỏ ham muốn sử dụng ma túy ở người, PSD
sử dụng phương pháp trị liệu tâm lý nhằm giúp học viên hoàn toàn kiểm soát, làm
chủ được những suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của bản thân ngay cả khi tiếp xúc
trực tiếp với các yếu tố gợi nhớ mạnh mẽ đến việc sử dụng ma túy như: người bạn
nghiện, nơi mua bán ma túy, bơm kim tiêm, giấy bạc… Chính sự kiểm soát bản
thân một cách hiệu quả giúp học viên có thể đối phó và dễ dàng vượt qua những cơn
thèm nhớ ma túy bất chợt xuất hiện; lâu dài sẽ xóa bỏ được ham muốn sử dụng ma
túy, hình thành nên những hành vi mang tính lành mạnh mới – hành vi không sử
dụng ma túy.


6


Về xã hội
Giải quyết được triệt để hai yếu tố trên: sinh lý và tâm lý cho phép chúng ta
đặt ra những kỳ vọng lớn vào những kết quả khả quan của công tác cai nghiện. Tuy
nhiên, kết quả này sẽ không mang tính bền vững, lâu dài nếu chúng ta bỏ qua yếu tố
xã hội.
Thông thường, người nghiện sẽ tái nghiện rất nhanh nếu chỉ được điều trị cắt
cơn trong một thời gian ngắn và khi trở lại về cuộc sống hàng ngày, họ phải đối mặt
với những vấn đề nan giải như: sự mâu thuẫn, căng thẳng trong gia đình, sự kỳ thị
của những người xung quanh, công việc không ổn định… Nếu mỗi người nghiện
không nhận được sự đồng hành, trợ giúp tích cực từ gia đình và xã hội; họ sẽ rất
khó để có thể tạo lập trở lại một cuộc sống cân bằng, ổn định. Những mâu thuẫn,
khó khăn và sự kỳ thị dễ dẫn họ tới tâm lý căng thẳng, chán nản, bế tắc, thậm chí là
tuyệt vọng và cuối cùng đẩy họ trở lại vào con đường tái nghiện ma túy.
Chính vì vậy, yếu tố xã hội cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng ảnh
hưởng đến sự thành công trong việc cai nghiện của mỗi cá nhân.
Chính sự quan tâm, chú trọng đồng bộ đến cả ba yếu tố: sinh lý, tâm lý và xã
hội đã góp phần giúp làm tăng hiệu quả điều trị nghiện ma túy, giảm đáng kể số
người tái nghiện sau khi tham gia điều trị tại viện Nghiên cứu tâm lý người sử dụng
ma túy PSD.
Nguyên nhân tái nghiện:
Có 3 yếu tố chính ảnh hưởng đồng thời đến nguy cơ tái sử dụng và tái nghiện
ở người nghiện ma túy bao gồm: sinh lý, tâm lý và xã hội. Việc cai nghiện chỉ có
thể được thực hiện thành công và mang tính bền vững khi cả 3 yếu tố này đều được
quan tâm đầy đủ. Việc cai nghiện từ trước tới nay gặp nhiều khó khăn với tỷ lệ tái
nghiện cao vì chúng ta chưa đưa ra được những phương pháp giải quyết được đồng
bộ cả 3 yếu tố trên mà thường chỉ tập trung vào yếu tố sinh lý hoặc xã hội, đặc biệt
yếu tố tâm lý thường là yếu tố bị bỏ quên, xem nhẹ.

Nhìn chung, nguyên nhân chính dẫn đến tái nghiện xét cho cùng là do người
nghiện đã không tự giải thoát bản thân trước sức cám dỗ của ma túy. Nhưng cũng

7


phải thừa nhận những lý do khác như sự mặc cảm, kỳ thị của những người xung
quanh; thái độ thờ ơ, lãnh đạm của chính gia đình; thất nghiệp và nguy hiểm nhất là
sự kết nối của bạn nghiện đã khiến người đi cai nghiện về, vốn đang trong tâm lý
chán chường, trở lại con đường cũ.
Những động cơ chính gây tái nghiện gồm nội tâm bệnh nhân và những quan
hệ cá nhân của đối tượng, hoặc cả hai cùng phối hợp. Về cảm xúc chúng ta có thể
thấy rằng do hoàn cảnh sống, bệnh nhân nếu bị trầm cảm hay hưng phấn, hai trạng
thái này đều dễ dẫn tới tái nghiện. Còn về hành vi thì người nghiện rất thường thiếu
kỹ năng xử lý tình huống. Họ dễ bị lôi cuốn khi gặp bạn bè cũ, những tình huống
nguy cơ. Những thời gian nghiện ngập tạo cho bệnh nhân một phản xạ xấu: thấy ma
túy là sử dụng (tính bốc đồng khi có cơ hội). Bên cạnh đó về nhận thức người
nghiện ma túy thường có biểu hiện như: kém nhiệt tình học tập trong quá trình điều
trị, tiếp thu kém; không tin rằng mình có khả năng đoạn tuyệt với ma túy; có thương
tổn trong đầu óc, không có khả năng tiếp thu điều trị.
Về môi trường và quan hệ cá nhân: Thiếu hỗ trợ của gia đình và xã hội, bị áp
lực của bạn bè xấu, thất nghiệp hay lâm vào hoàn cảnh khó khăn, để thời gian rỗi
quá nhiều. Còn về mặt sinh lý người nghiện ma túy thường không thắng được cảm
giác thèm thuốc, có bệnh đau mãn tính. Về mặt tâm thần, tâm linh họ thường có
mặc cảm tội lỗi, xấu hổ âm thầm trong nội tâm không xóa được. Cảm giác trống
rỗng chẳng có mục đích ý nghĩa gì. Bên cạnh đó khi người nghiện ma túy sống tập
trung tại các trung tâm cai nghiện thì một phần nhân viên điều trị đã gây ra ấn tượng
xấu vào tâm trí bệnh nhân. Kế hoạch điều trị không thích ứng, kế hoạch theo dõi
hậu cai nghiện chưa đầy đủ.
Dấu hiệu tái nghiện:

Có nhiều dấu hiệu của người nghiện ma túy nhưng dưới đây là một số dấu
hiệu tiêu biểu cho chúng ta dễ nhận thấy: Tiếp xúc lại với bạn nghiện cũ từ trong
trường cai nghiện trở về hoặc những người đang sử dụng ma túy trong địa bàn, cộng
đồng; vẫn còn lui tới những điểm nhạy cảm về tệ nạn xã hội; hay thường xuyên mặc
cảm, xấu hỗ; Sử dụng những chất gây nghiện khác như: rượu, bia, thuốc lá, thuốc
ngủ…; Tâm lý căng thẳng, bối rối do xung đột nội tâm (giữa bỏ hay không bỏ ma

8


túy); Ăn uống kém kèm rối loạn giấc ngủ; Kém tập trung trong lao động, học tập;
Không thực hiện theo phát đồ điều trị bằng thuốc.
Hậu quả của việc tái nghiện
Hậu quả gây ra đối với người nghiện ma túy là rất lớn. Đối với bản thân
người nghiện: sau khi cai nghiện ma túy lại tái nghiện bao giờ cũng nghiện nặng
hơn. Thông thường những đối tượng nghiện hút, hít nếu tái nghiện thì thường
chuyển sang sử dụng bằng hình thức tiêm chích. Và hầu hết người nghiện ở tình thế
thiếu tiền nên thường sử dụng ma túy bằng hình thức tiêm chích ít tốn kém mà mức
độ thỏa mãn lại cao. Những người tái nghiện không nhận thức được hoặc coi
thường sự nguy hiểm của hình thức tiêm chích, vốn có nguy cơ mắc bệnh rất lớn vì
dùng ống bơm kim tiêm hoặc dùng chung lọ thuốc trong điều kiện không đảm bảo
vệ sinh. Người nghiện ma túy vốn cơ thể trạng yếu khi tái nghiện càng trở nên suy
kiệt về thể chất. Qua điều tra ở một số địa bàn cho thấy 70% - 75% người tái nghiện
mắc các bệnh như: lao, giang mai, sốt rét, 80% suy kiệt về thể chất; 70% số người
nhiễm HIV là do tiêm chích ma túy.
Tái nghiện ma túy dễ dẫn đến nguy hiểm về tính mạng cho người nghiện. Do
không làm chủ được bản thân, khi lên cơn nghiện mà chưa có ma túy đáp ứng khiến
người nghiện dễ bị tai nạn lao động, tai nạn giao thông hoặc bị tử vong do sử dụng
ma túy quá liều. Do tình trạng sức khẻo suy sụp,người tái nghiện sẽ mất dần khả
năng lao động và như vậy nếu có việc làm họ cũng rất dễ bị sa thải, khiến nguồn thu

nhập mất đi. Kết quả tất yếu là họ phải sa vào con đường phạm tội trộm cắp, cướp
giật, hành nghề mại dâm để có tiền chích, hút ma túy. Tệ hại hơn, người nghiện vốn
đã bị suy sụp về tinh thần, về trạng thái tâm lý lại càng suy sụp hơn trong tình trạng
tái nghiện cùng với sự tẩy chay, kỳ thị của người thân, gia đình và cộng đồng. Từ
đó, người tái nghiện càng trở nên mất dần niềm tin, dẫn đến mắc các sai lầm, thậm
chí quẫn trí, bất cần đời.
Bên cạnh đó hậu quả đối với gia đình có người tái nghiện: hậu quả đầu tiên
chúng ta có thể kể đến đó là thiệt hại về kinh tế. Và thiệt hại về kinh tế sẽ nặng nề
hơn so với nghiện lần đầu. Bên cạnh đó các thành viên trong gia đình bị tổn thương

9


về tinh thần do phải chịu sức ép tâm lý nặng nề, không khí gia đình căng thẳng, mất
lòng tin với người nghiện.
Đối với cộng đồng, xã hội: tái nghiện là nghiện nặng hơn và vì vậy, phác đồ
điều trị cai nghiện cũng phức tạp, khó khăn hơn rất nhiều so với cai nghiện lần đầu,
chi phí điều trị cai nghiện tăng. Xã hội phải gánh chịu hàng loạt vấn đề phức tạp
khác như: mất trật tự an ninh xã hội, tội phạm gia tăng, các tệ nạn xã hội khác trở
nên nghiêm trọng hơn, sức lao động xã hội bị giảm sút.
2.1 Các nghiên cứu quốc tế
Nghiên cứu về việc phân biệt và kỳ thị trong đối xử đã diễn ra trong thời gian
dài trên thế giới. Việc nghiên cứu các hành vi này được tiến hành trên nhiều nhóm,
đối tượng khác nhau. Các tác phẩm tập trung về những đối tượng đặc biệt điển hình
như người nhiễm HIV/AIDS hay người nghiện ma túy.
Tại diễn đàn Liên Hợp Quốc, nguyên Tổng thư ký B. Ghali đã đánh giá:
"Tình trạng nghiện hút đã trở thành hiểm họa lớn của toàn nhân loại. Không có một
quốc gia nào, dân tộc nào có thể thoát khỏi vòng xoáy khủng khiếp của nó, ma túy
làm tăng bạo lực, tham nhũng, cạn kiệt nguồn lực, tài lực, hủy diệt những nguồn
tiềm năng quý báu khác mà lẽ ra phải được huy động để phát triển kinh tế - xã hội,

mang lại ấm no hạnh phúc cho toàn dân"[12].
Tại Vienna, ngày 24/02/2010 - Ủy ban Kiểm soát Ma túy Quốc tế (INCB) [9]
báo cáo “cần chú trọng các hoạt động phòng ngừa lạm dụng ma túy, nhấn mạnh sự
cần thiết phải có nhiều hành động và cam kết thực hiện. Nhìn từ phương diện cá
nhân, rõ ràng chỉ cần một lần duy nhất sử dụng ma túy cũng có thể dẫn đến những
hậu quả nghiêm trọng như bị tổn thương về sức khỏe, tâm thần hoặc thậm chí quá
liều, mất mạng. Nhìn từ góc độ Xã hội, lạm dụng ma túy là nguyên nhân gây tổn
thất đáng kể về kinh tế do phải tăng chi phí cho các hoạt động hành pháp, phúc lợi
xã hội, chăm sóc sức khỏe và giảm năng suất lao động.”
Theo báo cáo tình hình ma túy toàn cầu năm 2016 của Cơ quan phòng chống
Ma túy và tội phạm Liên Hợp Quốc (UNODC), ước tính trên toàn thế giới có

10


khoảng 275 triệu người sử dụng ma túy, chiếm 5,6% dân số trên toàn cầu ở lứa tuổi
từ 15 tuổi đến 64 tuổi.

Theo báo cáo, trong năm 2016, ước tính 1.410 tấn cocaine được sản
xuất trên toàn thế giới, mức cao nhất được ghi nhận tới nay. Hầu hết được sản
xuất tại Colombia và được bán tại Bắc Mỹ. Châu Phi, Châu Á là trung tâm
mới nổi về buôn lậu và tiêu thụ. Từ năm 2016 đến 2017, sản lượng thuốc phiện
toàn cầu tăng 65%, lên đến 10.500 tấn, cao nhất được UNODC ghi nhậ n từ khi bắt
đầu theo dõi toàn cầu vào đầu thế kỷ XXI cho đến nay. Thuốc phiện được sản xuất
chính ở Afghanistan và chuyển theo con đường Balkan đến Thổ Nhĩ Kỳ và Tây Âu.
Madaes.C. (1981) đã tiếp cận vấn đề nghiện heroin theo quan niệm gia đình
như sau: “Trong gia đình có người nghiện heroin thì đặc trưng là sự xáo trộn các
thứ bậc, các hành vi vi phạm công khai hoặc nảy sinh những lời phê phán, chê bai
về các quy định hoặc điều cấm của xã hội. Như một nguyên tắc mà việc xáo trộn
các hành vi sẽ ảnh hưởng đến các vấn đề tâm lý của các thành viên còn lại trong gia

đình” [10]. Các tác giả đưa ra biện pháp khuyến nghị đó là việc tư vấn cho gia đình
và động nghiệp để không kỳ thị và có thể hỗ trợ cho người nghiện ma túy.
Nghiên cứu của Bác sĩ Apisak về điều trị bệnh nhân lạm dụng
Methamphetamin đã chỉ ra rằng việc lạm dụng hay sử dụng các chất ma túy là do
các yếu tố tâm lý xã hội bao gồm xung đột trong gia đình, long tự trọng kém, ở
trong môi trường có vấn nạn ma túy. Nhiều bệnh nhân thú nhận rằng sự chấp nhận
của xã hội là rất quan trọng để giúp giữ vững tinh thần của họ khi từ bỏ ma túy [11].
Tại Hội nghị Báo cáo tình hình ma túy trên toàn thế giới của Ủy ban Quốc tế
về phòng chống ma túy của Liên Hợp Quốc (UNODC) phối hợp cùng văn phòng
thường trực cơ quan phòng chống ma túy (SODC) tổ chức, đánh giá. Trong suốt
100 năm trên thế giới đã kiên trì đấu tranh tội phạm liên quan đến ma túy. Kết quả
đạt được có nhiều ấn tượng song ma túy vẫn chưa được loại bỏ tận gốc khỏi đời
sống con người [14]
Nghiên cứu của Richardson, Mywers, Bing (1997) [19], chứng minh rằng sự
rối loạn tâm lý, lo âm và căng thẳng dự báo khả năng nghiện ma túy nặng. Đó là

11


cách tiếp cận lý thuyết về cái tôi, nhận thức về cái tôi hiệu quả là chìa khóa của các
nghiên cứu hiện tượng (Phenomenological) do Rogers làm đại diện thì “cái tôi”
trong lý thuyết này còn thêm một loại hiện tượng mới đi kèm dẫn đến hiện tượng
nghiện ngập.
Cách tiếp cận phân tâm học: Cách này được phổ biến ở Pháp. Thuyết này
nêu việc dụng ma túy có liên quan đến sự xung đột và các rối loạn trong sự tiến bộ
O.F.Kernberf (1975) thì cho rằng xung đột Edipe tồn tại ở độ tuổi thanh thiếu niên,
những người trong gia đoạn này tò mò và tìm kiếm sự giải thoát tội lỗi và các kiềm
nén khác trong việc dùng ma túy.
Điều này, lý giải tại sao thanh thiếu niên là lứa tuổi nhạy cảm với ma
túy. Người nghiện ma túy phản ánh phòng thủ sự lệ thuộc vào gia đình. Ma túy làm

cho mối quan hệ của người sử dụng nó co cụm lại, bó hẹp với các mối quan hệ ngày
càng thu hẹp. Cách tiếp cận này tập trung vào quá trình phát triển, đặc biệt giai đoạn
tuổi mới lớn của con người và sự lệch lạc kéo theo những rối loạn hành vi. Quá
trình điều trị phân tâm nếu cảm hóa được những xung đột này thì người nghiện sẽ
vượt qua cảm giác lệ thuộc vào ma túy [20].
2.2 Các nghiên cứu tại Việt nam.
Các nghiên cứu cũng như các báo cáo tại Việt Nam cho thấy sự kỳ thị xuất
phát từ nhiều góc cạnh của người nghiện ma túy cũng như những người liên quan
hay chịu hậu quả từ ma túy. Đó có thể là môi trường sống như gia đình, hàng xóm,
bạn bè, đồng nghiệp, công việc… tất cả các yếu tố kỳ thị đó góp phần làm cho con
đường hội nhập của họ trở nên khó khăn hơn bao giờ hết.
Theo báo cáo năm 2017 của Bộ Công an cho biết: “hiện các chất ma túy mới
xuất hiện ngày càng đa dạng, nhiều loại, kiểu mẫu và các chất kích thích mới đang
ngày càng gia tăng tại Việt Nam. Năm 2015, danh sách các chất và tiền chất ma túy
có số lượng là 292 chất, đến nay sau 3 năm danh mục này đã tăng gần gấp đôi với
số lượng 559 chất và tiền chất. Có những chất và tiền chất ma túy mới xuất hiện
chưa nằm trong danh mục tại Việt Nam. Điều đáng nói, những chất mới ngày càng
có nguy cơ tử vong cao và tác hại của nó là rất lớn” [25].

12


Tại buổi họp báo thông tin về tình hình dịch HIV và tháng hành động quốc
gia phòng chống HIV/AIDS 2017 [24]: Ông Hoàng Đình Cảnh, Phó cục Trưởng
cục phòng chống HIV/AIDS thì việc sử dụng ma túy, sử dụng các chất gây nghiện
làm tổn thương não khiến việc hồi phục khó khăn, điều này dẫn đến việc tái nghiện
đối với những người sử dụng ma túy là khá phổ biến. Khi những tổn thương não
không hồi phục và giảm các chất nội tiết do hậu quả của việc sử dụng na túy dẫn
đến người sử dụng ma túy lệ thuộc vào ma túy. Việc lệ thuộc ấy thôi thúc họ tái
nghiện nếu có điều kiện và nếu bản thân không có bản lĩnh ý thức làm chủ được.

Việc cai nghiện rất khó khăn, nhưng tái nghiện thì khá phổ biến. Vì vậy, công tác
quản lý người nghiện, người sau cai nghiện, dự phòng tái nghiện và tuyên truyền về
phòng chống ma túy là cả một thách thức của đất nước ta nói riêng và cả Thế giới
nói chung.
Theo thống kê của Bộ Công an, trên thế giới số người sử dụng ma túy trong
độ tuổi từ 15 đến 64 tuổi năm 2010 có 226 triệu người sử dụng ma túy, năm 2017
có 255 người, tăng 29 triệu người trong vòng 7 năm. Đáng nói, số người sử dụng
ma túy tổng hợp ở khu vực Đông Nam Á chiếm 1/2 số người sử dụng loại ma túy
này trên toàn thế giới.
Trong kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIV ngày 31/10/2018, Đại biểu Hoàng
Văn Liên (Đoàn đại biểu Quốc hội Tỉnh Long An) chất vấn Bộ trưởng Công An về
tình hình tội phạm ma túy năm 2018?
Trả lời chất vấn trên, Đại tướng Tô Lâm – Bộ trưởng Bộ Công an cho biết
“hiện nay, trên toàn quốc có 224.690 người nghiện có hồ sơ quản lý, tăng 2.690
người so với thời điểm tháng 12/2017. Nhưng trên thực tế, tổng số người nghiện
(bao gồm những người không có hồ sơ quản lý) thì lớn hơn rất nhiều. Hiện nay, mới
chỉ đưa khoảng 10% người nghiện vào các cơ sở cai nghiện tập trung”
Phát biểu tại Hội nghị cung cấp thông tin cho báo chí về công tác nhân quyền
và thông tin đối ngoại tháng 8/2018, Ông Nguyễn Xuân Lập – Cục trưởng cục
Phòng chống Tệ nạn Xã Hội (Bộ Lao động, Thương Bình và Xã hội) cho biết:
“Hiện nay trên địa bàn cả nước có 222.852 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý,
trong đó trên 67,5% người nghiện đang sinh sống ngoài xã hội, 13,5% người đang

13


trong cơ sở cai nghiện bắt buộc, 19% người trong trại tạm giam, tạm giữ, cơ sở giáo
dục, trường giáo dưỡng... tỷ lệ người nghiện ma túy đang gia tăng và trở thành “xu
thế” đòi hỏi sự quan tâm và chỉ đạo gắt gao hơn của các đơn vị chức năng”. Ông
Lập đánh giá, hệ lụy của việc sử dụng ma túy đá, ma túy tổng hợp, sử dụng kép chất

ma túy là đặc biệt nghiêm trọng ở các tỉnh, thành phố trọng điểm… Đánh giá rõ sự
nguy hại này, Quốc hội, Chính phủ, các ngành, các cấp đều quan tâm, chỉ đạo quyết
liệt công tác cai nghiện. Bằng chứng cho thấy việc thực hiện cai nghiện được can
thiệp bởi nhiều mặt, từ lĩnh vực y tế cho đến giải quyết tâm lý cho người nghiện và
các vấn đề xã hội khác.
Trong nghiên cứu của Viện nghiên cứu tâm lý người sử dụng ma túy đã chỉ
ra rằng khi người nghiện sử dụng ma túy lâu dài, những chất có trong ma túy tác
động vào các hệ thống chức năng ở não bộ, tạp thành một hệ thống chức năng mất
khả năng tự điều chỉnh, tự thích nghi và hậu quả là, người nghiện ma túy chỉ hướng
đến hành vi tìm, sử dụng ma túy để “cân bằng”, bù đắp lại “lỗ hổng” bệnh lý trong
hệ thống chức năng.
Cơ chế tự điều chỉnh trở thành bệnh lý dẫn đến việc mất cân bằng, rối loạn
quá trình giảm các chức năng trong cơ thể, có những chức năng bị hạn chế và sự
tăng cường hoạt động của các chức năng khác để bù đắp lại. Ví dụ: Khả năng nhận
thức của người nghiện ma túy sau một thời gian dài sử dụng ma túy sẽ bị giảm sút,
không kiểm soát được lời nói, hành vi…cộng với việc thời gian dài chỉ tiếp xúc với
bạn nghiện, ma túy…những mối quan hệ giao tiếp, xã hội của họ hầu như là không
có, người nghiện ma túy không nắm bắt được diễn tiến xã hội xảy ra xung quanh.
Đây chính là một phần của nguyên nhân tại sao người nghiện ma túy dễ gây mất
lòng hoặc khó để có thể bắt kịp và đáp ứng được nhu cầu của công việc.
Do vậy, suốt thời gian dài chìm vào những làn khói trắng, người nghiện ma
túy bị kìm hãm về kỹ năng, về kiến thức cũng như sự phát triển xã hội. Người
nghiện ma túy sau khi cắt cơn trở về, những ứng xử, hành vi của họ trở nên không
phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội. Điều này cũng là một trong những nguyên
nhân dẫn đến sự tự kỳ thị ở người nghiện ma túy. Họ cảm thấy bản thân tụt hậu, yếu
kém, dễ dàng buông bỏ quá trình cai nghiện để trở về với cộng đồng.

14



Chính sự phân biệt đối xử là nguyên nhân dẫn đến việc bộ phận người
nghiện ngày càng bị tách ra khỏi cộng đồng xã hội. Sự tách biệt này càng kéo giãn
sự ngăn cách, kỳ thị của mọi người đối với người nghiện ma túy và cũng khoét sâu
mặc cảm tự ti trong chính bộ phận người nghiện, khiến họ càng tụt dốc trong con
đường cai nghiện, tái hòa nhập cộng đồng.
Sự kỳ thị đó cũng khiến cho người nghiện ma túy khó tiếp cận với các dịch vụ
y tế và chăm sóc sức khỏe, cản trở mong muốn được điều trị, trị liệu của họ. Từ đó,
cơ hội được chăm sóc sức khỏe, quay trở lại cộng đồng cũng khó khăn, trắc trở hơn
đối với những con người này. Như vậy, sự kỳ thị đối với người nghiện ma túy hoàn
toàn có thể gây ra những hệ lụy nghiêm trọng, dễ trở thành thói quen, thành cách suy
nghĩ, hành động tiêu cực trong toàn xã hội nếu không được khắc phục sớm.
Sự kỳ thị, phân biệt đối xử hay sự trừng phạt chẳng những không giúp người
nghiện từ bỏ ma túy mà ngược lại, sự xa lánh, thù ghét càng đẩy những người
nghiện về con đường tội phạm, hoặc làm cho những người đã cai nghiện cảm thấy
chán nản, buông xuôi và tái nghiện nhanh chóng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thái độ của cộng đồng thông qua việc đánh giá về niềm tin đối với
người sau cai cũng như cách ứng xử thông qua tiếp xúc, đối xử với người sau cai
trong cộng đồng và trong các hoạt động hàng ngày.
Thông qua đó nhằm tìm ra thực trạng vấn đề của người sau cai cũng như quá
trình tái nghiện của họ. Bên cạnh đó cũng tìm hiểu vai trò của cộng đồng đối với
việc tái hòa nhập của người sau cai nhằm đưa ra những khuyến nghị và giải pháp hỗ
trợ tái hòa nhập cộng đồng cho người sau cai nghiện ma túy.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu thái độ của cộng đồng với người sau cai.
- Phân tích tác động của thái độ đó đối với tâm lý và hành động của người
nghiện ma túy và quá trình tái nghiện của họ.

15



- Tìm ra các giải pháp nhằm kiến nghị, đề xuất mới cho việc quản lý và hỗ
trợ người sau cai nghiện.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
- Thái độ của cộng đồng với người sau cai nghiện ma túy.
4.2. Khách thể nghiên cứu.
- Các cá nhân là người sinh sống và làm việc tại Quận Phú Nhuận, Tp. Hồ
Chí Minh.
4.3 Phạm vi nghiên cứu
4.3.1 Về nội dung
- Đề tài tập trung nghiên cứu về thái độ và cách cư xử, các yếu tố ảnh hưởng
đến thái độ và cách cư xử của những người sinh sống trong cộng đồng người sau cai
nghiện ma túy. Khái quát thực trạng và đưa ra vấn đề cần thay đổi hiện nay về sự
nhìn nhận của cộng đồng đối với người sau cai nghiện ma túy.
4.3.2 Về thời gian
- Tác giả bắt đầu lập kế hoạch nghiên cứu và thu thập thông tin, phân tích và
xử lý từ tháng 04/2018 đến tháng 01/2019.
4.3.3 Về không gian
- Vì một số hạn chế nên tác giả chỉ tiến hành khảo sát nghiên cứu trên 200
người dân sinh sống xung quanh người sau cai nghiện và phỏng vấn sâu 10 trường
hợp (3 trường hợp sau cai, 5 người dân và 1 cán bộ quản lý sau cai, 1 tổ trưởng khu
phố có người nghiện sinh sống).
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thu thập tài liệu:
5.1.1. Phương pháp phân tích số liệu sẵn có
Trong đề tài này tác giả sử dụng một số thông tin và số liệu trong các sách
báo, tạp chí chuyên nghành và các công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước
trong nước và trên thế giới, đồng thời sử dụng các số liệu thống kê do Tổng cục

thống kê và các viện nghiên cứu đã tiến hành.
Một số dữ liệu, cơ sở lập luận được sử dụng như những lý luận để phân tích
làm rõ một số luận điểm trong luận văn. Nguồn tài liệu phục vụ cho giai đoạn này

16


từ các thư viện: Thư viện tổng hợp (67 Lý Tự Trọng, quận 1, Thành phố Hồ Chí
Minh); Thư viện Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (12-14 Đinh Tiên Hoàng,
quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh), các báo cáo một số cơ quan như: báo cáo của
viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo của Viện kiểm sát nhân
dân Quận Phú Nhuận, báo cáo của Cục Phòng chống tệ nạn xã hội (Bộ Lao độngThương binh và Xã hội), báo cáo của Chi cục Phòng chống tệ nạn xã hội (Sở Lao
động- Thương binh và Xã hội thành phố Hồ Chí Minh).
5.1.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
Trong đề tài này tác giả sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi nhằm
thu thập thông tin về thái độ của cộng đồng đối với người nghiện ma túy. Việc sử
dụng các câu hỏi đóng với trường thông tin nhằm đo cách ứng xử của cộng đồng.
Thông qua đó có thể xác định được thái độ của người dân đối với người nghiện ma
túy, hay người sau cai.
Thông qua phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên khoảng 200 bảng hỏi sử dụng
phương pháp phân tích SPSS để phân tích.
STT

SỐ LƯỢNG

TIÊU CHÍ
Người dân sống xung quanh

1


GHI CHÚ

MẪU
200

người sau cau nghiện ma túy
Tổng cộng

200

5.1.3. Phương pháp phỏng vấn sâu.
Để thu thập thêm một số thông tin thông qua 10 mẫu phỏng vấn sâu được chọn
thông qua việc khảo sát thực tế tại địa bàn.
STT
1
2
3
4

SỐ LƯỢNG

TIÊU CHÍ

GHI CHÚ

MẪU

Người dân sống xung quanh
người sau cau nghiện ma túy
Người sau cai nghiện ma túy

Cán bộ quản lý sau cai tại địa
phương.
Tổ trưởng khu phố có người

5
3
1
1

17


sau cai nghiện ma túy sinh sống
Tổng cộng

10

Phương pháp phỏng vẫn sâu được sử dụng trong đề tài nhằm thu thập thông
tin về thái độ cũng như niềm tin và sự hiểu biết của người dân xung quanh vấn đề
về người nghiện ma túy trong cộng đồng của họ. Các yếu tố này không thể xác định
hết thông qua phương pháp định lượng trong bảng hỏi.
Các yếu tố tác động đến suy nghĩ và thái độ của người dân trong cộng đồng
đối với người nghiện ma túy cần những câu hỏi mang tính mở để làm rõ vấn đề về
cách nhìn và đánh giá của cộng đồng đối với người nghiện ma túy qua đó chúng ta
có thể so sánh và đối chiếu với nguyên nhân dẫn đến thái độ ứng xủa đó.
5.2. Phương pháp xử lý thông tin.
Đối với những số liệu thống kê tôi sử dụng phần mềm thống kê SPSS 22.0 để
phân tích, xem xét và so sánh đối chiếu với các kết quả nhằm làm rõ cho các câu hỏi
nghiên cứu kết hợp với các nguồn thông tin khác.
Đối với thông tin thu thập được từ phỏng vấn sâu, tôi sẽ sử dụng phương

pháp phân tích định tính nhằm liệt kê, phân loại và nhóm những thông tin thu được
dùng để trích dẫn trong một số trường hợp cần thiết trong báo cáo.
5.3 Chọn mẫu.
Đề tài sử dụng cả hai phương pháp định lượng và định tính để làm rõ mối
liên hệ thái độ của cộng đồng và ảnh hưởng của nó tới người sau cai nghiện đang
sinh sống và làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Với phương pháp định lượng tôi dựa trên số liệu về người sau cai từ các
Phường đang quản lý, chọn Phường 2, Phường 3 và Phường 8 quận Phú Nhuận,
Thành Phố Hồ Chí Minh.
Việc lựa chọn 3 Phường trên vì cả 3 phường này đều có người sau cai nghiện
sinh sống, được sự hỗ trợ của chính quyền địa phương tạo điều kiện cho việc mượn
hội trường để khảo sát và phỏng vấn sâu.
Với phương pháp định tính tôi sử dụng phương pháp chọn mẫu chỉ tiêu theo
loại hình nghề nghiệp và giới tính. Số lượng 10 mẫu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1 Ý nghĩa lý luận

18


Nghiên cứu này góp phần lý giải một số lý thuyết Xã hội học như: lý thuyết
tương tác biểu trưng, lý thuyết hành động xã hội của Max Weber, lý thuyết gán
nhãn... Đồng thời, nghiên cứu cũng đóng góp thêm sự phong phú và đa dạng cho
lĩnh vực nghiên cứu, làm tư liệu tổng quan cho các đề tài nghiên cứu sau tham khảo.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả đề tài nghiên cứu đưa ra được các chỉ số về nhận thức, thái độ của người
dân tại Quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh nhận thức như thế nào về người sau
cai nghiện ma túy. Từ đó, giúp cho Các tổ chức/Chính quyền địa phương có được thông
tin để có thể đưa ra những chính sách hoặc điều chỉnh bổ sung để phù hợp cho việc quản
lý và hỗ trợ tốt hơn cho người sau cai nghiện ma túy hòa nhập cộng đồng.

Đề tài cũng giúp cho người sau cai nghiện ma túy hiểu được những giá trị và
nhận thức tốt hơn về bản thân, có sự chuẩn bị tâm lý, có kế hoạch để hòa nhập cộng đồng
tốt hơn.
Đối với tác giả, qua nghiên cứu đề tài, giúp cho bản thân tác giả có thêm kiến
thức thực tế, hiểu sâu hơn về người sau cai nghiện ma túy, nắm bắt được thái độ và nhận
thức hiện nay của cộng đồng đối với người sau cai nghiện ma túy. Từ đó có thể vận dụng
tốt hơn công tác truyền thông và trong công việc giảng dạy tại cơ quan
7. Kết cấu luận văn.
Kết cấu luận văn gồm 3 phần: Mở đầu, Nội dung, Kết luận và kiến nghị.
Phần 1: Mở đầu
Khái quát vấn đề cấp thiết cần nghiên cứu, mô tả mục tiêu, đối tượng, phạm vi
nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
Phần 2: Nội dung chính được chia làm 3 chương bao gồm:
Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài.
Chương 2: Ứng xử của cộng đồng đối với người sau cai nghiện ma túy
Chương 3: Tác động của thái độ cư xử của cộng đồng đến người sau cai nghiện.
Phần 3: Kết luận và kiến nghị
Phần này luận văn tổng kết thái độ và tác động của thái độ của cộng đồng
đến người sau cai nghiện ma túy, đưa ra một số kiến nghị đến các Cơ quan/Tổ chức,
gia đình, xã hội và chính người nghiện để có thêm thông tin và có cách cư xử, hòa
nhập được tốt hơn.

19


×