VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN HIẾU NGHĨA
CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM Ở KHÍA CẠNH PHÁP LUẬT VÀ XÃ HỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, Năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦNN HIÉU NGHĨA
CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM Ở KHÍA CẠNH PHÁP LUẬT VÀ XÃ HỘI
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA
HÀ NỘI – Năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả được đề cập trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc trích dẫn rõ
ràng và chính xác.
Tác giả luận văn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1 NHẬN THỨC VỀ CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ TỪ KHÍA CẠNH PHÁP LUẬT VÀ XÃ HỘI .......................6
1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ..6
1.2. Cơ sở của việc quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ............... 10
1.3. Ý nghĩa pháp lý và ý nghĩa xã hội của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự .............................................................................................................................. 16
Chương 2: QUY ĐỊNH VÀ ÁP DỤNG CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TỪ KHÍA CẠNH PHÁP LUẬT VÀ XÃ HỘI .... 21
2.1. Quy định của pháp luật hình sự về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
và thực tiễn áp dụng ................................................................................................. 21
2.2. Tác động của việc quy định và áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự từ khía cạnh xã hội .............................................................................................. 52
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÁC TÌNH TIẾT
TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TỪ KHÍA CẠNH PHÁP LUẬT VÀ
KHÍA CẠNH XÃ HỘI ........................................................................................... 58
3.1. Các giải pháp nâng cao hiệu quả của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
từ khía cạnh pháp luật .............................................................................................. 58
3.2. Nâng cao nhận thức của cơ quan áp dụng pháp luật về các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự .................................................................................................. 65
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 74
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thị trường hiện nay, sự gia
nhập và tiếp nhận một số hình thức văn hóa xã hội của các nước ngoài thì sự gia
tăng và biến đổi của tội phạm cũng ngày càng tăng. Đặc biệt phát sinh và hình thành
thêm nhiều tội phạm mới, đa dạng, phức tạp, tăng tính chất và mức độ nguy hiểm
của tội phạm.
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự tại Khoản 1 Điều 48. Đồng thời quy định tại khoản 2 là: “Những tình tiết đã
là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng
nặng”. Đến Bộ luật hình sự 2015, cơ bản các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
được giữ nguyên, tuy nhiên đối với một số tình tiết đã được quy định rõ và cụ thể
hơn, phù hợp hơn trong quá trình áp dụng để xác định tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Tuy nhiên, Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 vừa chính thức có hiệu lực
ngày 01/01/2018 quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại Điều 52 có
một số tình tiết gây hiểu sai trong cách áp dụng, đòi hỏi cần phải có hướng dẫn áp
dụng thống nhất.
Quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có những ý nghĩa nhất định về
mặt pháp lý và xã hội. Đó là cơ sở pháp lý để cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc
áp dụng pháp luật, đồng thời là một trong những dấu hiệu thể hiện sự công bằng khi
xử lý tội phạm, thể hiện tính răn đe, giáo dục cao đối với những cá nhân, pháp nhân
phạm tội có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, thể hiện tính phòng ngừa tội
phạm.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có vai trò rất quan trọng, là một trong
những căn cứ để Tòa án xem xét, quyết định việc áp dụng hình phạt đối với người
phạm tội. Do đó, nếu cách hiểu, cách áp dụng không thống nhất thì sẽ dẫn đến
trường hợp quyết định hình phạt không phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm
5
cho xã hội của hành vi. Việc áp dụng đúng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự trong thực tiễn sẽ góp phần không nhỏ trong công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm, đảm bảo được mục đích trừng trị, răn đe và phòng ngừa tội phạm.
Vì vậy, tác giả quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài “Các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam ở khía cạnh pháp luật và xã hội”
làm luận văn thạc sĩ của mình. Nhằm làm rõ quy định các tính tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự 2015, những khó khăn, vướng mắc
trong áp dụng. Và từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
các tình tiết này trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, việc nghiên cứu những quy định của Bộ luật hình sự nói chung, quy định
về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nói riêng đã được nhiều học giả nghiên
cứu ở nhiều mặt và nhiều cấp độ khác nhau. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
liên quan đến nhiều chế định khác nhau của pháp luật hình sự cũng được nhắc đến
hoặc đề cấp đến trong nhiều nghiên cứu khác nhau. Có thể kể đến một số công trình
nghiên cứu như: Luận án tiến sĩ luật học của Tiến sĩ Dương Tuyết Miên (2003) về
Quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam; Lê Cảm (2002), Một số vấn đề
lý luận cơ bản. Vai trò của các tình tiết tăng nặng & giảm nhẹ thuộc về nhân thân
người phạm tội đối với việc cá thể hoá TNHS và hình phạt); Luận văn thạc sĩ “Các
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Hòa Bình” của tác giả Lê Thị Hảo (2017); Luận văn thạc sĩ “Các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam” của tác giả Trần Thị
Thùy Trang (2015); Luận văn thạc sĩ của Thạc sĩ Đức Hồng Hà (1991) về Áp dụng
tình tiết định tội, tình tiết định khung, tình tiết tăng nặng - giảm nhẹ trong luật hình
sự Việt Nam; Luận văn thạc sĩ của Thạc sĩ Trần Mạnh Toàn (2011) về Các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội; Luận văn
thạc sĩ của Thạc sĩ Bùi Văn Lam (2002) về Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
trong Luật hình sự Việt Nam; Luận văn thạc sĩ của Thạc sĩ Phan Hồng Thúy (2010)
về Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam - một số
6
vấn đề lý luận và thực tiễn; Luận văn thạc sĩ của Thạc sĩ Nguyễn Thị Phương về
Phạm tội vì động cơ đê hèn với tư cách là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự trong Luật hình sự Việt Nam; Thạc sĩ Lê Văn Luật (2007) về Bàn về tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội đối với trẻ em”.
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (2018), Trường Đại học Luật Hà Nội, nhà xuất
bản Công an nhân dân.
Những công trình này nghiên cứu chủ yếu tiếp cận dưới góc độ tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự theo nghĩa hẹp, chủ yếu theo khía cạnh pháp luật, chứ chưa có
nghiên cứu nào về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự cả về khía cạnh pháp luật
và xã hội. Tuy nhiên, các bài viết này thực sự là những tài liệu có giá trị tham khảo
lớn đối với luận văn tốt nghiệp mà bản thân đang nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là thông qua việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp
lý về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự dựa trên hai khía cạnh, đó là khía cạnh
pháp luật và khía cạnh xã hội. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra những đề xuất hoàn
thiện về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trên hai khía cạnh pháp luật và
khía cạnh xã hội, nhất là các quy định chưa rõ ràng, các tình tiết liên quan cần được
bổ sung hoặc việc hướng dẫn áp dụng chưa cụ thể, rõ ràng và thuyết phục.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ nghiên
cứu sau:
- Trình bày nhận thức đầy đủ và sâu sắc về những vấn đề lý luận cơ bản của tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự trên khía cạnh pháp luật và xã hội.
- Phân tích và đánh giá nội dung các quy định về tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự trong Bộ luật hình sự năm 2015 ở khía cạnh pháp luật và xã hội. Chỉ ra
những vướng mắc, bất cập của quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự, các quy định chưa rõ ràng, các tình tiết liên quan cần được bổ sung.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện pháp luật nâng cao hiệu quả
của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ khía cạnh pháp luật và khía cạnh
xã hội.
7
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin,
trong đó có sự vận dụng tổng hợp phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
Vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các văn bản pháp luật Việt Nam về tội phạm và hình phạt, kết hợp với các
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, logic… Để lý giải các vấn đề
lý luận, đánh giá các quy định của pháp luật cũng như đánh giá các vấn đề thực tiễn
có liên quan, giúp cho việc nghiên cứu được nhìn nhận dưới góc nhìn đa chiều và
hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về các tình tiết tăng
nặng TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam. Phân tích các quy định của Bộ luật
hình sự về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự dưới khía cạnh pháp luật và
xã hội. Chỉ nghiên cứu các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với chủ thể là
cá nhân, không nghiên cứu chủ thể là pháp nhân. Phạm vi nghiên cứu trong những
năm 2013 đến năm 2019.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự, giúp cho các nhà nghiên cứu có góc nhìn toàn diện
hơn, đầy đủ hơn về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và việc áp dụng quy định
về các tình tiết này ở khía cạnh pháp luật và xã hội. Luận văn cũng bổ sung nguồn
tài liệu tham khảo, giảng dạy, trao đổi kinh nghiệm, nghiên cứu các vấn đề có liên
quan đến tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và thực tiễn áp dụng quy định này.
Kết quả nghiên cứu của luận văn giúp các nhà quản lý, hoạch định chính sách, xây
dựng pháp luật có cách tiếp cận đầy đủ về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
quy định trong pháp Luật hình sự. Từ đó, có thể hoàn thiện pháp luật, đưa ra và thực
hiện các giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự trong giải quyết các vụ án hình sự. Ngoài ra, còn giúp các cán bộ làm công
tác thực tiễn nhất là Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân hiểu thấu đáo và vận dụng
8
chính xác các quy định của pháp luật hiện hành về các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự 2015.
7.
Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì luận văn có bố cục
gồm 3 Chương:
Chương 1: Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: khía cạnh pháp luật.
Chương 2: Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: khía cạnh xã hội.
Chương 3: Các giải pháp tăng cường khía cạnh pháp luật và xã hội của các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự.
9
Chương 1
CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ:
KHÍA CẠNH PHÁP LUẬT.
1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại các tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự
Theo quy định tại Điều 50 Bộ luật hình sự 2015 thì khi quyết định hình phạt, Tòa án
căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và
tăng nặng trách nhiệm hình sự. Như vậy, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là
một trong những căn cứ được Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc khi quyết định
hình phạt đối với cá nhân, pháp nhân phạm tội.
Tội phạm là một hiện tượng xã hội, là hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật
hình sự cấm thực hiện. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi mà cá nhân, pháp nhân thực hiện để xem xét quyết định đó có phải là tội
phạm hay không, nếu hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy
hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các
biện pháp khác.
Nếu tính chất và mức độ xâm phạm như nhau thì vẫn có những yếu tố khác nhau
như: Nhân thân, không gian, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh lúc phạm tội, v.v.. Để
làm căn cứ xem xét. Chính vì vậy, Bộ luật hình sự không quy định mức hình phạt
cụ thể cho từng hành vi phạm tội mà chỉ quy định khung hình phạt cho một nhóm
hành vi giống nhau cơ bản về chất nhưng khác nhau về lượng. Sự khác nhau về
lượng phụ thuộc vào nhiều yếu tố và được nhà làm luật quy định thành hai nhóm
tình tiết có nội dung ý nghĩa trái ngược nhau [22, tr.23].
Hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự,
nhưng về cơ bản, có thể khái quát như sau:
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tình tiết được quy định trong Bộ luật hình
sự với tính chất là tình tiết tăng nặng chung và là một trong những căn cứ để Tòa án
10
quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo hướng nghiêm khắc hơn trong
phạm vi một khung hình phạt nếu trong vụ án hình sự có tình tiết này.
Từ khái niệm trên có thể rút ra được các đặc điểm của tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự bao gồm:
Thứ nhất, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phải là các tình tiết được quy định
cụ thể trong Bộ luật hình sự. Ngoài Bộ luật hình sự, không có văn bản pháp lý nào
được quy định về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà chỉ có văn bản hướng
dẫn việc áp dụng và Tòa án cũng không được quyền quyết định một tình tiết ngoài
các tình tiết được quy định trong Bộ luật hình sự là tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự.
Thứ hai, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là một trong những căn cứ quan
trọng để Tòa án xem xét quyết định hình phạt đối với cá nhân, pháp nhân phạm tội
nếu trong vụ án xuất hiện tình tiết này. Còn nếu tình tiết tăng nặng xuất hiện nhưng
không liên quan đến vụ án thì Tòa án sẽ không xem xét.
Thứ ba, trong một vụ án cụ thể và đối với người phạm tội cụ thể thì tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự chỉ làm cho tội phạm thay đổi mức độ nguy hiểm theo
hướng nghiêm trọng hơn.
Thứ tư, khi tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được luật quy định là tình tiết
định khung làm thay đổi mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và là căn cứ cho
phép Tòa án tăng mức hình phạt đối với người phạm tội chuyển sang khung hình
phạt khác nặng hơn thì Tòa án không được sử dụng tình tiết đó với tính chất là tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung khi quyết định hình phạt. Vì như vậy là
trái với mục đích và nguyên tắc của Bộ luật hình sự.
Thứ năm, khi tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được luật quy định là tình tiết
định tội thì nghĩa là tình tiết tăng nặng này đã làm thay đổi tính chất nguy hiểm của
tội phạm. Trong trường hợp này, Tòa án không được sử dụng tình tiết đó với tính
chất là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung khi quyết định hình phạt.
Thứ sáu, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có tính chất ổn định tương đối về
cả số lượng và chất lượng. Tùy theo tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của
11
từng thời kì mà các quy định về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được sửa
đổi, bổ sung thêm hoặc được bỏ đi sao cho phù hợp.
Căn cứ vào tính chất của tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có thể phân
loại thành: Tình tiết tăng nặng thuộc về mặt khách quan của tội phạm, tình tiết tăng
nặng thuộc mặt về chủ quan của tội phạm, tình tiết tăng nặng thuộc về khách thể
của tội phạm, tình tiết tăng nặng thuộc về chủ thể của tội phạm và tình tiết tăng
nặng thuộc về nhân thân người phạm tội.
-
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về khách thể của tội phạm.
Chẳng hạn: Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người ở trong tình
trạng không thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh
thần, công tác hoặc các mặt khác và xâm phạm tài sản của nhà nước. Đối tượng bị
tác động trong khác thể của tội phạm là một trong các căn cứ tăng nặng trách nhiệm
hình sự của người phạm tội trong phạm vi một khung hình phạt. Khi người phạm tội
có một trong những tình tiết này thì mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự của họ
lớn hơn, mức hình phạt của họ sẽ cao hơn so với trường hợp bình thường.
-
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về chủ thể của tội phạm. Một
số cấu thành tội phạm cụ thể quy định rõ về chủ thể của tội phạm ngoài hai điều
kiện về tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự còn phải thoả mãn thêm các dấu hiệu
như: Có chức vụ, giới tính, nghề nghiệp, quan hệ gia đình… Những chủ thể này gọi
là chủ thể đặc biệt của tội phạm. Dấu hiệu chủ thể đặc biệt có thể quy định là dấu
hiệu định tội, dấu hiệu định khung hoặc dấu hiệu tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên, chủ thể đặc biệt với tư cách là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự chỉ được áp dụng đối với người có chức vụ, quyền hạn.
-
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về mặt khách quan của tội
phạm. Khách quan của tội phạm bao gồm hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả
nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện,
phương pháp, thủ đoạn phạm tội, thời gian và hoàn cảnh phạm tội. Những dấu hiệu
này đều có ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội ở nhiều mức độ khác nhau. Trong các dấu hiệu trên thì dấu hiệu
12
hành vi nguy hiểm được quy định trong tất cả các cấu thành tội phạm với ý nghĩa là
dấu hiệu định tội. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội không phải là dấu hiệu có tính chất
bắt buộc trong tất cả các cấu thành tội phạm cụ thể, nhưng trong nhiều trường hợp
việc xác định hậu quả lại đóng vai trò quyết định.
-
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về mặt chủ quan của tội phạm.
Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội bao
gồm lỗi, động cơ, mục đích phạm tội. Trong đó lỗi được phản ánh trong tất cả các
cấu thành tội phạm, còn động cơ, mục đích phạm tội không phải là những dấu hiệu
trong tất cả các cấu thành tội phạm cụ thể. Tình tiết thể hiện mặt chủ quan của tội
phạm như “cố tình thực hiện tội phạm đến cùng” thể hiện tính nguy hiểm cao hơn
so với trường hợp phạm tội bình thường hoặc phạm tội do lỗi vô ý. Hoặc trong các
động cơ phạm tội, có những động cơ thể hiện sự ích kỷ, xấu xa, bội bạc, phản trắc
của người phạm tội được quy định trong pháp Luật hình sự là “động cơ đê hèn” và
là tình tiết tăng nặng mức trách nhiệm hình sự trong phạm vi một khung hình phạt
nếu tình tiết này không được quy định là tình tiết định tội hay tình tiết định khung
của tội phạm đó [33].
-
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội.
Một số đặc điểm nhân thân người phạm tội còn được xác định là tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự như phạm tội có tính chất côn đồ, phạm tội nhiều lần, tái phạm,
tái phạm nguy hiểm…. Các tình tiết này thường được quy định là tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự định khung và tăng nặng trách nhiệm hình sự chung, có ý nghĩa
và đóng vai trò quan trọng trong việc xem xét quyết định hình phạt.
Tóm lại, dù phân loại các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo tiêu
chí nào đi nữa thì vai trò và ý nghĩa của các tình tiết tăng nặng này cũng chính là
làm tăng mức độ nguy hiểm, hoặc tăng tính chất nguy hiểm của tội phạm.
1.2. Cơ sở pháp lý của việc quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được xây dựng dựa trên các
cơ sở pháp lý sau:
13
Thứ nhất, căn cứ vào Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
hiện nay là hiến pháp năm 2013. Đây là đạo luật gốc cao nhất, cơ bản nhất của Việt
Nam, quy định những nguyên tắc, nội dung tổng quát nhất làm cơ sở cho việc xây
dựng các Bộ luật, đạo Luật trong mọi lĩnh vực như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự,
Luật thương mại, Luật đất đai… Bộ luật hình sự 2015 nói chung, quy định các tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nói riêng cũng được các nhà làm luật nghiên cứu
xây dựng dựa trên nội dung của Hiến pháp, không được trái với nguyên tắc, nội
dung của Hiến pháp.
Thứ hai, căn cứ một số Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Pháp luật Việt
Nam nói chung, Bộ luật hình sự Việt Nam nói riêng, khi được nghiên cứu xây dựng
đều phải cân nhắc, xem xét đến các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia là
thành viên. Đối với trường hợp người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại
giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được
giải quyết theo quy định của Điều ước quốc tế; Trường hợp Điều ước quốc tế đó
không quy định thì được giải quyết bằng con đường ngoại giao, do đó.
Thứ ba, quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại Bộ luật hình sự
2015 còn được xây dựng mang tính kế thừa từ các Văn bản pháp luật được ban hành
trước đó như “Pháp lệnh trừng trị các tội phản Cách Mạng” (ngày 30/10/1967), sau
đó đến “Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN”, “Pháp lệnh trừng trị
các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân” (ngày 21/10/1970); Bản tổng kết thực
tiễn vận dụng các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ kèm theo Công văn số 38/NCPL
ngày 16/01/1976 của Tòa án nhân dân tối cao (năm 1976); Bộ luật hình sự năm
1985; Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi), bổ sung năm 2009 và nay là Bộ luật hình
sự 2015 [30, tr.12-14].
Bộ luật Hình sự năm 2015 đã kế thừa, hoàn thiện, bổ sung những điểm mới về các
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phù hợp với yêu cầu của thực tiễn để đảm
14
bảo việc áp dụng mang tính trừng phạt, răn đe, đồng thời mang tính giáo dục, cảm
hóa đối với người phạm tội.
Tại Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định 15 (mười
lăm) tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại khoản 1 Điều 52, và các Điều kiện
khi áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Đối với các tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự quy định, như: Có tổ chức, có
tính chất chuyên nghiệp… Tình tiết có thể là hành vi, chủ thể, động cơ…; Nhưng có
tình tiết tăng nặng là một “tổ hợp” các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Ví dụ:
Điểm n khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: Dùng thủ đoạn (thuộc
chủ quan), phương tiện (thuộc khách quan), có khả năng gây nguy hại cho nhiều
người (thuộc khách thể bảo vệ của Bộ luật hình sự năm 2015).Trong số các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự, có tình tiết được quy định là dấu hiệu định tội hoặc
định khung hình phạt trong các Điều luật. Bộ luật hình sự năm 2015 có 15 tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự thì đến 9/15 điểm (chín trên mười lăm) quy định
trong định tội, định khung hình phạt.
So với Bộ luật hình sự năm 1999 là 12/14 (mười hai trên mười bốn) tình tiết tặng
nặng trách nhiệm hình sự là dấu hiệu định tội, định khung trong các tội danh cụ thể.
Như vậy, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm
2015 đã được quy định chặt chẽ và cụ thể hơn, ít các khoản mang tính “tổ hợp” và
các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ít lặp lại trong các Điều, khoản định tội
hoặc định khung hình phạt so với Bộ luật hình sự năm 1999 [27].
Tại Điều 52, Bộ luật hình sự 2015. Đối với cá nhân phạm tội thì chỉ các tình tiết sau
đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Phạm tội có tổ chức; Phạm tội có
tính chất chuyên nghiệp; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; Phạm tội có
tính chất côn đồ; Phạm tội vì động cơ đê hèn; Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;
Phạm tội 02 lần trở lên; Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; Phạm tội đối với người
dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, người đủ 70 tuổi trở lên; Phạm tội đối với người ở
trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc
biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt
15
vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác; Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh,
tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã
hội để phạm tội; Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, tàn ác để phạm tội; Dùng thủ
đoạn, phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội; Xúi giục
người dưới 18 tuổi phạm tội; Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn
tránh hoặc che giấu tội phạm.Và các tình tiết đã được Bộ luật hình sự quy định là
dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng
nặng.
Đặc biệt, lần đầu tiên Bộ luật hình sự 2015 quy định chủ thể của tội phạm ngoài cá
nhân còn có pháp nhân phạm tội, và dành hẳn một chương để quy định truy cứu
trách nhiệm hình sự, xử lý hình sự đối với pháp nhân phạm tội. Trong đó có quy
định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân tại Điều 85 như
sau:
Đối với pháp nhân thương mại thì chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng
trách tnhiệm hình sự: Cấu kết với pháp nhân thương mại khác để phạm tội; Cố ý
thực hiện tội phạm đến cùng; Phạm tội 02 lần trở lên; Tái phạm hoặc tái phạm nguy
hiểm; Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc
những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội; Dùng thủ đoạn tinh vi để
phạm tội hoặc nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm.
Và cũng như đối với cá nhân phạm tội, các tình tiết đã được Bộ luật hình sự quy
định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt đối với pháp nhân thì không
được coi là tình tiết tăng nặng.
Như vậy, cơ sở pháp lý để xây dựng quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự năm 2015 trước hết chính là Hiến pháp 2013 quy định về những nguyên tắc
chung, thẩm quyền của Quốc Hội, cơ quan lập hiến, lập pháp. Trên cơ sở Hiến
pháp, một số Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và kế thừa các quy định
pháp luật về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong các văn bản pháp lý được
ban hành trước đó, Bộ luật hình sự 2015 cùng với quy định các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự được xây dựng, ban hành. Quy định các tình tiết tăng nặng
16
trách nhiệm hình sự không được trái Hiến pháp, không được trái với những nguyên
tắc cơ bản bản Bộ luật hình sự.
1.3. Ý nghĩa pháp lý của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự có ý
nghĩa nhất định về mặt pháp lý. Đó sẽ là căn cứ pháp lý để các cơ quan có thẩm
quyền xác định đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội trong
trường hợp có thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Và căn cứ vào quy định
đối với các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, Tòa án có thể quyết định đúng,
chính xác loại, mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm tội phạm và
người phạm tội. Việc Tòa án xem xét, cân nhắc và áp dụng chính xác quy định các
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong quá trình giải quyết vụ án chính là biểu
hiện sự tôn trọng của các cơ quan tư pháp hình sự đối với các nguyên tắc tiến bộ
của Luật hình sự Việt Nam như nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc bình đẳng trước
Luật hình sự, nguyên tắc công minh… Trong thực tiễn áp dụng pháp Luật hình sự.
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có mối quan hệ mật thiết với các quy
định của Bộ luật hình sự trong việc xác định tội phạm, định tội danh và định khung
hình phạt. Do đó, việc quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong
các Điều luật của Bộ luật hình sự là cần thiết và hợp lý.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan có thẩm quyền cần phải xác
định rõ tội danh, khung hình phạt và các tình tiết tăng nặng (và tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự). Các loại tình tiết này có vai trò bổ sung và hỗ trợ cho nhau
trong quá trình định tội cũng như lượng hình đối với người phạm tội. Vì vậy, khi áp
dụng Tòa án cần phân biệt được tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào là tình
tiết định tội, là tình tiết định khung hay tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
chung, mối liên hệ chặt chẽ hữu cơ giữa chúng để có thể đưa ra quyết định hình
phạt chính xác, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Đây cũng là một trong
những ý nghĩa pháp lý quan trọng của quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự mà các nhà làm luật xây dựng trong Bộ luật hình sự.
17
Đối với một vụ án hình sự cụ thể, chỉ sau khi xác định được tình tiết định tội mới
xác định được tình tiết định khung và tình tiết định khung có tác dụng là căn cứ để
đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội một cách cụ thể, rõ ràng hơn. Khi
đã xác định được tội danh và khung hình phạt cụ thể thì mới có cơ sở xem xét các
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung (và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự), đây là bước cụ thể hóa tiếp theo để đánh giá mức độ nguy hiểm hành vi
phạm tội, giúp Tòa án đưa ra được một biện pháp xử lý đúng.
1.4. Quy định của pháp luật hình sự về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay quy định về các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự đối với cá nhân phạm tội tại Điều 52 Bộ luật hình sự 2015.
Muốn xác định đúng và chính xác các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khi
chứng minh tội phạm và để có căn cứ quyết định hình phạt thì phải nắm rõ và hiểu
được đặc điểm, tính chất của từng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội có tổ chức
Phạm tội có tổ chức là trường hợp có từ hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một
tội phạm, các đối tượng này có sự cấu kết chặt chẽ với. Theo Nghị quyết 02HĐTP/NQ ngày 16/11/1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, sự
câu kết này có thể thể hiện dưới các dạng sau đây:
a) Những người đồng phạm đã tham gia một tổ chức phạm tội như: Đảng phái, hội,
đoàn phản động, băng, ổ trộm, cướp… Có những tên chỉ huy, cầm đầu. Tuy nhiên,
cũng có khi tổ chức phạm tội không có những tên chỉ huy, cầm đầu mà chỉ là sự tập
hợp những tên chuyên phạm tội đã thống nhất cùng nhau hoạt động phạm tội. Ví
dụ: Sau khi đã hết hạn tù, một số tên chuyên trộm cắp đã tập hợp nhau lại và thống
nhất cùng nhau tiếp tục hoạt động phạm tội.
b) Những người đồng phạm đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo một kế hoạch đã
thống nhất trước. Ví dụ: Một số nhân viên nhà nước đã thông đồng với nhau tham ô
nhiều lần; Một số tên chuyên cùng nhau đi trộm cắp; Một số tên hoạt động đầu cơ,
buôn lậu có tổ chức đường dây để nắm nguồn hàng, vận chuyển, thông tin về giá cả.
18
c) Những người đồng phạm chỉ thực hiện tội phạm một lần, nhưng đã tổ chức thực
hiện tội phạm theo một kế hoạch được tính toán kỹ càng, chu đáo, có chuẩn bị
phương tiện hoạt động và có khi còn chuẩn bị cả kế hoạch che giấu tội phạm. Ví dụ:
Trong các trường hợp trộm cắp, cướp tài sản của công dân mà có phân công điều tra
trước về nơi ở, quy luật sinh hoạt của gia đình chủ nhà, phân công chuẩn bị phương
tiện và hoạt động của mỗi người đồng phạm; Tham ô mà có bàn bạc trước về kế
hoạch sửa chữa chứng từ sổ sách, hủy chứng từ, tài liệu hoặc làm giả giấy tờ; Giết
người mà có bàn bạc hoặc phân công điều tra sinh hoạt của nạn nhân, chuẩn bị
phương tiện và kế hoạch che giấu tội phạm.
Trong trường hợp phạm tội có tổ chức, mỗi một đối tượng phạm tội đều đóng một
vai trò nhất định, có thể là người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người
giúp sức, và những người này được gọi là đồng phạm. Tuy nhiên với một số trường
hợp, phạm tội có đồng phạm nhưng khi xem xét thì các đồng phạm này không phải
chịu trách nhiệm hình sự với tình tiết tăng nặng phạm tội có tổ chức vì thuộc trường
hợp đồng phạm mang tính chất giản đơn. Khi đã xác định được trường hợp cụ thể
đó là phạm tội có tổ chức thì phải áp dụng tình tiết tăng nặng này đối với tất cả
những người cùng thực hiện tội phạm (người tổ chức, người thực hành, người xúi
giục, người giúp sức). Mức độ tăng nặng phụ thuộc vào quy mô tổ chức, vai trò của
từng người trong việc tham gia vụ án.
Người tổ chức được xác định là kẻ chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội
phạm. Thường là người khởi xướng việc tội phạm; Vạch kế hoạch thực hiện, kế
hoạch che giấu tội phạm; Rủ rê, lôi kéo người khác cùng thực hiện tội phạm; Phân
công trách nhiệm cho những đồng phạm khác để thống nhất thực hiện tội phạm;
Điều khiển, chỉ huy hành động của những đồng phạm khác; Đôn đốc, thúc đẩy
người đồng phạm khác thực hiện tội phạm [26].
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Trực tiếp thực hiện tội phạm
là trực tiếp có hành vi thuộc khách quan của cấu thành tội phạm như: Trực tiếp cầm
dao chém nạn nhân, cầm súng bắn nạn nhân, trực tiếp chiếm đoạt tài sản, trực tiếp
nhận hối lộ. Người thực hành là người có vai trò quyết định việc thực hiện tội
19
phạm. Nếu không có người thực hành thì tội phạm chỉ dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị
phạm tội, mục đích tội phạm không được thực hiện, hậu quả vật chất của tội phạm
chưa xảy ra và trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác sẽ được
xem xét theo quy định khác của Bộ luật hình sự. Trách nhiệm hình sự của những
người đồng phạm khác phụ thuộc rất lớn vào hành vi của người thực hành.
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
Người xúi giục chỉ chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội có tổ chức
khi hành vi xúi giục có liên quan trực tiếp đến toàn bộ hoạt động tội phạm của
những người đồng phạm khác và người thực hiện tội phạm trước khi bị xúi giục
chưa có ý định tội phạm nhưng vì có người xúi giục nên họ mới nảy sinh ý định tội
phạm. Tuy nhiên, không phải trường hợp thực hiện hành vi kích động, dụ dỗ nào
cũng là người xúi giục. Nếu việc xúi giục không liên quan trực tiếp đến hoạt động
tội phạm của những người đồng phạm khác và người thực hiện tội phạm đã có sẵn ý
định tội phạm, thì đó không phải là người xúi giục trong vụ án có đồng phạm có
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội có tổ chức. Ví dụ: Như A đi nhậu ở
nhà bạn về thấy có hai nhóm thanh niên đang đuổi đánh nhau, mặc dù không biết họ
là ai nhưng thấy có đánh nhau, A liền hô hào “Đánh chết chúng nó đi”. Hậu quả là
hai nhóm thanh niên đánh nhau dẫn đến một người trong đó bị thương tích nặng
phải đi cấp cứu và tử vong. Ở đây, hành vi của A hô hào “Đánh chết chúng nó đi”
nhưng A không biết họ là ai, không nói là ai đánh chết ai. Việc hô hào của A không
phải là xúi giục hành vi phạm tội của nhóm thanh niên, vì hai nhóm thanh niên đã
đuổi đánh nhau từ trước, dù A có hô hào hay không thì hai nhóm đó vẫn cứ đánh
nhau, không từ bỏ ý định phạm tội, do đó A không phải là người xúi giục mặc dù
nhìn qua thì nghĩ rằng A xúi giục nhóm thanh niên phạm tội.
Trường hợp thực hiện hành vi xúi giục người dưới 18 tuổi, người không có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm, thì hành vi xúi giục được coi là hành vi
thực hành thông qua hành vi của người bị xúi giục. Nếu xúi giục người dưới 18 tuổi
phạm tội thì người xúi giục còn phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
"xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội".
20
Ở đây, khi xem xét một hành vi xúi giục thì đó phải là hành vi xúi giục phải cụ thể,
tức là người xúi giục phải nhằm vào tội phạm cụ thể và người phạm tội cụ thể. Còn
nếu chỉ có lời nói có tính chất thông báo hoặc gợi ý chung chung thì không phải là
người xúi giục và không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tội phạm của
người thực hiện tội phạm.
Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội
phạm. Trong một vụ án có đồng phạm có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
phạm tội có tổ chức thì vai trò của người giúp sức cũng rất quan trọng, nếu không
có người giúp sức thì người thực hiện tội phạm sẽ gặp khó khăn. Ví dụ: A hứa với B
sẽ tiêu thụ toàn bộ số tài sản nếu B trộm cắp được. Như vậy, vì có sự hứa hẹn của A
nên đã thúc đẩy B quyết tâm thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vì đã có nơi nhận
tiêu thụ tài sản trộm cắp được.
Hành vi tạo điều kiện về tinh thần cho người thực hiện hành vi phạm tội của người
giúp sức thường là hứa hẹn sẽ che giấu tội phạm, hứa ban phát cho người phạm tội
một lợi ích tinh thần nào đó như đề bạt, thăng cấp, tăng lương cho người phạm tội;
Hướng dẫn cung cấp cho người phạm tội những thông tin nhằm tạo sự thuận lợi, dễ
dàng để thực hiện hành vi phạm tội như nói cho người phạm tội biết chủ nhà thường
vắng nhà vào giờ nào để đến trộm cắp, thói quen sinh hoạt của các bị hại... Tạo điều
kiện vật chất cho việc thực hiện tội phạm là việc thực hiện hành vi cung cấp phương
tiện tội phạm như dao, xe máy, xe ô tô... Để người phạm tội thực hiện tội phạm.
Tuy nhiên, dù là hành vi tạo điều kiện tinh thần hay vật chất cho việc thực hiện tội
phạm thì đó cũng chỉ là nhằm giúp người thực hiện tội phạm dễ dàng hơn trong việc
thực hiện tội phạm chứ không trực tiếp thực hiện. Do đó, hành vi của người giúp
sức trong vụ án đồng phạm có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội có tổ
chức không phải là hành vi đóng vai trò chủ chốt.
Đối với một số tội phạm như tổ chức đánh bạc, tổ chức đua xe trái phép… Thì “tổ
chức” quy định trong các tội phạm cụ thể nêu ở trên là hành vi phạm tội. Tình tiết
tăng nặng phạm tội có tổ chức, nhất thiết phải có từ hai người trở lên, là một hình
thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ, có sự phân công trách nhiệm... Còn tổ chức
21
đánh bạc, tổ chức đua xe trái phép... Có thể chỉ có một người cũng có thể thực hiện
được hành vi tổ chức để phạm tội. Như vậy, hành vi tổ chức trong các tội phạm này
không coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự do đó tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự “phạm tội có tổ chức” vẫn có thể áp dụng đối với các tội này nếu có
đủ dấu hiệu về tình tiết “phạm tội có tổ chức”.
Và khi xem xét quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm tội có tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội có tổ chức” thì cần phải chú ý là: Với vai trò
nào thì tất cả những người phạm tội trong vụ án đều bị áp dụng tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự là "phạm tội có tổ chức". Mức độ tăng nặng nhiều hay ít của
từng người tuỳ thuộc vào vai trò của họ trong vụ án. Đối với vụ án có nhiều bị can
và bị kết án về nhiều tội khác nhau thì cần phân biệt trường hợp nào là phạm tội có
tổ chức, trường hợp nào không thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức và bị cáo nào
phạm tội bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội có tổ chức”
(“Phạm tội có tổ chức” không phải là tình tiết định khung hoặc định tội).
Ngoài ra, cần chú ý đối với trường hợp người phạm tội đã tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội và được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm, nhưng hành vi
thực tế đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành một tội phạm khác, thì người đó không
phải chịu trách nhiệm về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội có tổ
chức”.
Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” được
quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự 1999, đến Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ
sung năn 2017) vẫn giữ nguyên tình tiết “Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” là
một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Căn cứ theo hướng dẫn
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 01/2006/NQHĐTP ngày 12/5/2006 thì tình tiết "Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" được áp
dụng khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
22
- Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy
cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xoá án tích;
- Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của
việc phạm tội làm nguồn sống chính.
Về vấn đề động cơ, mục đích của người có hành vi được coi là phạm tội có tính chất
chuyên nghiệp vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau, xoay quanh việc hiểu như
thế nào là lấy việc chiếm đoạt tài sản của người khác làm nghề sống chính và lấy tài
sản chiếm đoạt được làm nguồn thu nhập chính (hay chủ yếu).
Theo quan điểm cá nhân của tác giả thì khi xác định động cơ, mục đích của người bị
coi là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, chúng ta chỉ cần xác định người đó
phạm tội vì động cơ vụ lợi, làm giàu bất chính và lấy kết quả của việc phạm tội làm
nguồn thu nhập chính hoặc chủ yếu, chứ không cần yếu tố người đó lấy việc phạm
tội là nghề sống chính. Hoặc chúng ta chỉ cần xác định được người đó phạm tội vì
vụ lợi, làm giàu bất chính và lấy việc phạm tội làm nghề sống chính là đủ mà không
cần phải chứng minh thêm yếu tố người đó lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn
thu nhập chính hoặc chủ yếu. Giải quyết vấn đề này vừa có căn cứ khoa học đồng
thời cũng không gây khó khăn lớn cho các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án trong
việc xác định tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, bảo đảm việc đấu tranh
chống tội phạm này.
Về thời hiệu thực hiện tội phạm, thì không phân biệt các lần phạm tội đó về cùng
một tội phạm (hoặc một số tội phạm) đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị
truy cứu trách nhiệm hình sự nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
hoặc chưa được xóa án tích.
Về nhân thân người phạm tội, người bị áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất
chuyên nghiệp có nhân thân rất xấu, thể hiện tính chống đối xã hội cao. Người có
nhân thân xấu theo pháp luật hình sự Việt Nam về nguyên tắc chung là người có
tiền án, tiền sự (hoặc cả tiền án, tiền sự).
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội.
23
Lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội là việc người có chức vụ đã lợi dụng vị trí
công tác, lợi dụng quyền hạn trong khi thực hiện công vụ để phạm tội.
Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình
thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công
vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Chức vụ,
quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện tội phạm một cách dễ
dàng [11].
Lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội được quy định trong một số loại tội phạm
cụ thể, có tính chất đặc thù, đặc biệt là nhóm tội phạm tham nhũng, chức vụ. Đây là
loại tội phạm dễ dàng gây hậu quả thiệt hại lớn cho xã hội do những người có chức
vụ thực hiện, là những người có điều kiện để thực hiện tội phạm mà những chủ thể
không có chức vụ, quyền hạn không thể thực hiện được. Mặt khác, việc thực hiện
tội phạm của những người có chức vụ, quyền hạn sẽ gây ảnh hưởng xấu đến dư luận
xã hội, làm giảm uy tín của nhà nước, của tổ chức… Đối với các tầng lớp nhân dân
loại tội phạm này thường khó phát hiện, xử lý, tỷ lệ tội phạm ẩn là khá cao.
Hiện nay, Bộ luật hình sự 2015 quy định tình tiết “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
phạm tội” là một tình tiết định khung tăng nặng đồng thời còn được xác định là tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự vì nó đã làm tăng tính chất mức độ nguy hiểm
cho xã hội do hành vi phạm tội. Tuy nhiên, người phạm tội bị áp dụng tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội” nếu thật sự
có việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội, còn nếu tội phạm được thực hiện
nhưng không liên quan gì đến chức vụ, quyền hạn của họ thì không bị coi là có tình
tiết tăng nặng này. Cũng như một số các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
khác, tình tiết "lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội" chỉ được coi là tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự khi nó không phải là tình tiết định tội hoặc định
khung hình phạt đã được quy định trong cấu thành cụ thể.
Phạm tội có tính chất côn đồ.
Tính chất côn đồ là chỉ hành vi của con người khi thực hiện tội phạm. Tình tiết
phạm tội có tính chất côn đồ được quy định là tình tiết định khung trong một số tội
24
phạm, và cũng là một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy
định tại Điều 52 Bộ luật hình sự 2015. Mặt khác, tại điểm c khoản 1 Điều 3 Bộ luật
hình sự 2015 về nguyên tắc xử lý có quy định: “Nghiêm trị người chủ mưu, cầm
đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để phạm tội”.
Tuy nhiên, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 3 Bộ luật hình sự 2015 là dùng để áp
dụng với con người có bản chất côn đồ là kẻ luôn coi thường pháp luật, thích gây
gổ, hành hung xâm phạm tính mạng, danh dự, sức khỏe người khác. Còn đối với
người “phạm tội có tính chất côn đồ” được pháp Luật hình sự quy định là tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự, là tình tiết được xem xét khi quyết định hình phạt thì
không áp dụng điểm c khoản 1 Điều 3 Bộ luật hình sự 2015. Đây là điểm thể hiện
sự nghiêm minh của pháp luật nhưng vẫn bảo đảm tính nhân đạo, khoan hồng của
pháp luật hình sự Việt Nam.
Hiện nay, kể từ khi Bộ luật hình sự 2015 có hiệu lực pháp luật thì vẫn chưa có Văn
bản nào hướng dẫn về việc áp dụng tình tiết “Phạm tội có tính chất côn đồ” quy
định trong Bộ luật hình sự 2015. Do đó, để vận dụng đúng và khách quan đối với
tình tiết này đòi hỏi cần phải đánh giá dựa trên nhiều yếu tố, như nguyên nhân, điều
kiện dẫn đến hành vi phạm tội; Thời gian, địa điểm, không gian tội phạm được thực
hiện; Nhân thân người phạm tội… Để từ đó đánh giá ý thức thực hiện hành vi phạm
tội của họ là có coi thường pháp luật hay không, có thách thức pháp luật hay không
và ở mức độ nào? Động cơ, mục đích, công cụ, phương tiện, thủ đoạn phạm tội là
gì? Tương quan lực lượng, hậu quả pháp lý mà tội phạm gây ra. Như vậy, việc áp
dụng tình tiết “phạm tội có tính chất côn đồ” mới được đúng đắn, đạt được hiệu quả
trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Phạm tội vì động cơ đê hèn
Phạm tội vì động cơ đê hèn là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền tự do của công dân, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện dưới hình thức
25