Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong luật hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh hà giang)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 106 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

VNG C THO

Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
trong Luật hình sự Việt Nam
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2016


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

VNG C THO

Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
trong Luật hình sự Việt Nam
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v T tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. TRNH TIN VIT

H NI - 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy, tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

VƢƠNG ĐỨC THO


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TÌNH TIẾT TĂNG
NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM .................................................................................. 9
1.1.

Khái niệm, ý nghĩa và phân loại các tình tiết tăng nặng trách

nhiệm hình sự .................................................................................... 9

1.1.1.

Khái niệm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ...................... 9

1.1.2.

Ý nghĩa của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự .................. 16

1.1.3.

Phân loại các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ...................... 18

1.2.

Đặc điểm và vai trò của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự trong việc quyết định hình phạt ....................................... 24

1.2.1.

Đặc điểm của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ............... 24

1.2.2.

Vai trò các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong việc
quyết định hình phạt .......................................................................... 26

1.3.


Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của quy định về
các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong luật hình sự
Việt Nam từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1999 ...................................................... 30

1.3.1.

Giai đoạn từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến pháp điển
hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 ................... 30

1.3.2.

Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự năm 1999 ..................... 35


Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM
1999 VỀ CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ VÀ THỰC TIẾN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH HÀ GIANG ........................................................................... 40
2.1.

Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về các
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự........................................ 40

2.1.1.

Nội dung ............................................................................................ 40

2.1.2.


Nhận xét ............................................................................................ 57

2.2.

Thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự trên địa bàn tỉnh Hà Giang ....................................................... 61

2.2.1.

Khái quát đặc điểm kinh tế - xã hội của địa bàn tỉnh Hà Giang ....... 61

2.2.2.

Thực tiễn quyết định hình phạt và việc áp dụng các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Giang ...................... 63

2.2.3.

Một số tồn tại, hạn chế của việc áp dụng các tình tiết tăng nặng
TNHS trong việc quyết định hình phạt trên địa bàn tỉnh Hà
Giang và nguyên nhân cơ bản ........................................................... 65

Chƣơng 3: TIẾP TỤC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG
GIẢI PHÁP

NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC

TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................ 76

3.1.

Sự cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp
dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong luật
hình sự Việt Nam............................................................................. 76

3.1.1.

Về mặt lý luận ................................................................................... 76

3.1.2.

Về mặt thực tiễn ................................................................................ 77

3.1.3.

Về mặt lập pháp ................................................................................ 78

3.2.

Tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ............................ 79

3.2.1.

Nhận xét ............................................................................................ 79


3.2.2.


Tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 2015 về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự................. 83

3.3.

Những giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng quy định
của Bộ luật hình sự Việt Nam về các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự ........................................................................ 88

3.3.1.

Kiện toàn đội ngũ cán bộ xét xử ....................................................... 88

3.3.2.

Một số giải pháp phối hợp khác ........................................................ 90

KẾT LUẬN .................................................................................................... 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 94


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HĐTP:

Hội đồng thẩm phán

HĐXX:

Hội đồng xét xử


TAND:

Tòa án nhân dân

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

TTTN:

Tình tiết tăng nặng

VKSND:

Viện Kiểm sát nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Bảng tổng hợp kết quả xét xử của Tòa án nhân dân

tỉnh Hà Giang từ 2010 - 2015

63

Bảng 2.2: Bảng tổng hợp áp dụng một số tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự trong xét xử sơ thẩm của Tòa án
nhân dân hai cấp tỉnh Hà Giang từ 2010 - 2015

64


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lý luận khoa học luật hình sự, khái niệm tội phạm là khái niệm
cơ bản nhất. Khái niệm này một mặt là cơ sở thống nhất cho việc xác định
những tội phạm cụ thể trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự, mặt khác
cũng thể hiện một cách rõ nét những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt
Nam. Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009 đã nêu khái niệm tội
phạm như sau:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ
quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng,
an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi
ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa [39, Điều 8].
Việc xác định tội phạm và lựa chọn biện pháp xử lý thích hợp cho các
trường hợp phạm tội cụ thể là quá trình hoạt động phức tạp. Trong thực tiễn
tội tạm thể hiện hết sức đa dạng và phong phú. Do đó, “Nhà nước không thể

quy định một mức hình phạt cụ thể và chính xác áp dụng cho từng hành vi
phạm tội, mà chỉ có thể quy định khung hình phạt cho một hành vi phạm tội
giống nhau cơ bản về chất nhưng khác nhau về lượng” [34, tr.100]. Sự khác
nhau về lượng phụ thuộc vào nhiều yếu tố và được Nhà nước quy định thành
hai nhóm tình tiết có nội dung ý nghĩa trái ngược nhau, làm thay đổi mức độ
của hành vi phạm tội và được gọi là tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự...
Theo quy định tại Điều 45 Bộ luật hình sự Việt Nam, thì khi quyết

1


định hình phạt, Tòa án không chỉ căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình
sự, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội, nhân thân người phạm tội, mà còn phải căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ
và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Như vậy, Bộ luật hình sự đã quy định các
tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự là một trong những căn
cứ cần thiết để Tòa án xem xét khi quyết định hình phạt. Quyết định hình
phạt là hoạt động áp dụng pháp luật quan trọng trong giai đoạn xét xử vụ án
hình sự. Quyết định hình phạt chính xác, khách quan là cơ sở để đạt được các
mục đích của hình phạt: trừng trị và giáo dục, cải tạo người phạm tội; ngăn
ngừa họ phạm tội mới; răn đe, ngăn ngừa những người khác trong xã hội. Chỉ
khi hình phạt được quyết định một cách chính xác thì mục đích của hình phạt
mới đạt được, giúp cho người bị kết án tự mình ý thức được sự công bằng
của pháp luật và bản thân họ cũng thấy rõ lỗi lầm, sai phạm mà quyết tâm cải
tạo trở thành người công dân có ích cho xã hội. Hình phạt được quyết định
quá nhẹ so với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm đã được thực
hiện sẽ sinh ra ở người phạm tội và ở những người khác thái độ coi thường
pháp luật, còn hình phạt được quyết định quá nặng sẽ gây ra ở người bị kết
án, cũng như những người khác tâm lý oán hận, mất niềm tin, tiếp tục chống

đối Nhà nước và xã hội.
Như vậy, cùng với các căn cứ khác và các tình tiết giảm nhẹ, các tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có vai trò quan trọng trong việc lượng
hình. Do đó, việc nghiên cứu riêng rẽ để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn xung quanh các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự sẽ góp phần
giải quyết vụ án hình sự được khách quan, chính xác, công bằng, đúng pháp
luật, đồng thời thể hiện rõ nội dung phương trâm - “nghiêm trị kết hợp với
khoan hồng”, “trừng trị kết hợp với giáo dục” trong chính sách hình sự của
Nhà nước ta, cũng như bảo đảm thực hiện tốt hơn nguyên tắc phân hóa trách

2


nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội. Tuy nhiên,
trong quá trình quyết định hình phạt, việc nhận thức và áp dụng các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự còn khá nhiều bất cập ví dụ như: tình tiết
“phạm tội có tổ chức” (điểm a khoản 1 Điều 48); “xâm phạm tài sản Nhà
nước” (điểm i khoản 1 Điều 48); “phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” (điểm k khoản 1 Điều 48); “lợi
dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc
những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội” (điểm l khoản 1 Điều
48); v.v... Đặc biệt, vai trò của các tình tiết này trong việc quyết định hình
phạt cũng đòi hỏi cần làm sáng tỏ hoặc có văn bản hướng dẫn áp dụng thống
nhất pháp luật. Vừa qua, Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 đã làm rõ các tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự sau: Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi,
phụ nữ có thai, người đủ 70 tuổi trở lên (trước đây, quy định phạm tội đối với
trẻ em, phụ nữ có thai và người già); phạm tội đối với người ở trong tình trạng
không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng,
người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật
chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác. Như vậy, về cơ bản, những tình

tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự
năm 2015 không có nhiều sửa đổi so với quy định tương ứng trong Bộ luật
hình sự năm 1999 hiện hành. Một số điểm mới so với quy định của Bộ luật
hình sự năm 1999 đó là Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 bổ sung thêm
trường hợp phạm tội đối với người bị hạn chế khả năng nhận thức là tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, cũng như sửa đổi
cho chính xác một số tình tiết tăng nặng như phạm tội đối với người dưới 16
tuổi, phạm tội đối với người đủ 70 tuổi trở lên; v.v... Tuy nhiên, việc nhận
thức và áp dụng tình tiết này còn nhiều hạn chế chính vì vậy, việc tiếp tục
nghiên cứu đề tài này và thực tiễn áp dụng trên địa bàn cụ thể là tỉnh Hà

3


Giang rõ ràng có tính cấp thiết, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội
phạm trong tình hình mới.
2. Tình hình nghiên cứu
Qua tham khảo luận văn và nhiều công trình nghiên cứu về các tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nói chung đã được đề cập với
tư cách là một căn cứ quyết định hình phạt, còn nghiên cứu riêng rẽ về các
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chưa có nhiều mà mới đề cập chung,
chẳng hạn như:
(1) Sách chuyên khảo, sách tham khảo, giáo trình…:
- Trịnh Quốc Toản, Chương XVI - Quyết định hình phạt, Trong sách:
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2001, tái bản 2007, GS.TSKH. Lê Văn Cảm chủ biên;
- Lê Văn Đệ, Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự
Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2005;
- Dương Tuyết Miên, Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb. Lao
động Xã hội, Hà Nội, 2007;

- Đinh Văn Quế, Tìm hiểu hình phạt và quyết định hình phạt trong luật
hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2000;
- Đinh Văn Quế, Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình
sự trong luật hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2000; v.v...
(2) Luận án, luận văn thạc sĩ luật học:
- Dương Tuyết Miên, Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt
Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004;
- Nguyễn Thị Bình, Quyết định hình phạt trong đồng phạm, Luận văn
thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009;
- Đào Thị Nga, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1997;

4


- Nguyễn Minh Khuê, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2006;
- Phạm Mạnh Toàn, Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối
với người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012; v.v...
(3) Các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành:
- Lê Cảm, Trịnh Tiến Việt, Vai trò của các tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội trong việc quyết
định hình phạt, Phần III, số 1/2002;
- Bùi Kiến Quốc, Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 6/2000;
- Trịnh Tiến Việt, Bàn về các tình tiết tăng nặng trong việc cá thể hóa
trách nhiệm hình sự và hình phạt, Tạp chí Kiểm sát, số 4/2003;
- Trịnh Tiến Việt, Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Một số

vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Nghề luật, số 4/2006;
- Vũ Thành Long, Áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999
về tình tiết tăng nặng "phạm tội có tổ chức" và phạm tội nhiều lần, Tạp chí
Kiểm sát, số 21(11)2006;
- Vũ Thành Long, Bàn về việc áp dụng tình tiết tăng nặng “Xâm phạm
tài sản của nhà nước” đối với người phạm tội tham ô tài sản, Tạp chí Kiểm
sát, số 6/2006;
- Nguyễn Đức Mai, "Giết trẻ em" hay "Phạm tội đối với trẻ em?", Tạp
chí Toà án nhân dân, số 16(8)/2008;
- Nam Phương, Áp dụng tình tiết định khung tăng nặng hay tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 10/2011; v.v…
Như vậy, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mới chỉ được đề

5


cập riêng rẽ trong bài viết, hoặc được đề cập chung trong một trong các căn
cứ quyết định hình phạt, mà chưa có đề tài, công trình nào đề cập chung đến
toàn bộ các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó, việc nghiên cứu
đề tài đã nêu dưới góc độ một luận văn thạc sĩ luật học và trong phạm vi
không gian trên địa bàn tỉnh Hà Giang rõ ràng có tính thời sự cấp thiết, qua
đó không những bảo đảm việc áp dụng được đúng đắn và chính xác, mà còn
góp phần bảo đảm nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam. Đối
với tư pháp, công bằng là nền tảng để tồn tại như một nhà luật học danh tiếng
(A.M.Jekovev, GS. TS. Võ Khánh Vinh dẫn) đã viết: “Thiếu sự cưỡng chế tư
pháp hình sự sẽ không có sức mạnh, thiếu sự giáo dục tư pháp sẽ vô nhân
đạo. Nhưng thiếu công bằng tư pháp nói chung sẽ không tồn tại” [52, tr.47].
3. Đối tƣợng và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là các tình tiết tăng nặng trách

nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn
tỉnh Hà Giang.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ nghiên
cứu như sau:
- Xây dựng khái niệm, ý nghĩa và phân loại các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự, từ đó chỉ ra ý nghĩa và việc phân loại các tình tiết này;
- Đặc điểm của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và vai trò
của nó trong việc quyết định hình phạt;
- Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của quy định về các tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam từ sau cách
mạng tháng tám năm 1945 đến đến khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999,
trong đó phân tích quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về vấn
đề này để rút ra nhận xét, đánh giá;

6


- Đánh giá thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự của tội phạm trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2010 - 2015, từ đó chỉ
ra một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản;
- Luận chứng việc tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và kiến nghị giải pháp
nâng cao hiệu quả và chất lượng của việc áp dụng khi quyết định hình phạt.
4. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy
vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng
Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được
thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI (2011) và XII (2016)

và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
26/5/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa
học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
5. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới về khoa học của luận văn
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã
làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và phân loại của các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự, vai trò của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
của tội phạm trong việc quyết định hình phạt; phân tích, đánh giá nội dung
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự của tội phạm, đồng thời đưa ra các kiến nghị tiếp tục
hoàn thiện các quy định này ở khía cạnh lập pháp và các giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng từ khía cạnh thực tiễn.

7


Bên cạnh đó, về điểm mới về khoa học của luận văn ở một chừng mực
nhất định có thể khẳng định rằng, đây là nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu
tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ đề cập riêng đến các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam. Điều đó càng trở nên quan
trọng hơn vì đây là các tình tiết để quyết định hình phạt chính xác, công bằng,
tránh vi phạm và sai lầm trong việc áp dụng. Đặc biệt, nó còn có ý nghĩa làm
tài liệu tham khảo cần thiết cho các cán bộ nghiên cứu khoa học, cán bộ giảng
dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư
pháp hình sự.
6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Đặt vấn đề, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết
cấu của luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về các
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh
Hà Giang.
Chương 3: Tiếp tục hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong luật hình
sự Việt Nam.

8


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, ý nghĩa và phân loại các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự
1.1.1. Khái niệm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Theo quy định của Điều 45 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi năm
2009 quy định: Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ
luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách
nhiệm hình sự. Do đó, cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách
nhiệm hình sự là một trong những căn cứ để quyết định hình phạt, là một
trong những điều quan trọng của việc cá thể hóa hình phạt.
Trong lý luận khoa học luật hình sự, khái niệm tội phạm là khái niệm
cơ bản nhất. Có rất nhiều cách định nghĩa về tội phạm. Khoản 1 Điều 8 Bộ
luật hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009 định nghĩa về tội phạm như sau:

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa [39, Điều 8].
Khái niệm này là cơ sở cho việc xác định những tội phạm cụ thể, thể

9


hiện một cách rõ nét những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam. Nó
không chỉ làm tiền đề cho việc xây dựng các khái niệm khác, mà nó còn là sự
biểu hiện tập trung, thống nhất quan điểm của Nhà nước ta về tội phạm, từ đó
giúp cho các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử áp dụng thống nhất pháp luật
hình sự trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Khái niệm tội phạm
được coi là khái niệm "trung tâm" trong luật hình sự Việt Nam. Khái niệm
này một mặt là cơ sở để xây dựng những mô hình pháp lý của các loại tội
phạm và đồng thời nó cũng là cơ sở để xây dựng những khung hình phạt
tương ứng cho từng loại tội.
Như vậy, theo luật hình sự Việt Nam, hành vi bị coi là tội phạm được
phân biệt với hành vi không phải là tội phạm qua các dấu hiệu như: Tính nguy
hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự và tính phải bị xử lý về
hình sự (hay có tài liệu gọi là tính phải chịu hình phạt). Với tính chất vừa là khái
niệm pháp lý về hình thức cấu trúc vừa là hình thức thể hiện tính nguy hiểm cho
xã hội của một loại tội phạm, cấu thành tội phạm được coi là cơ sở pháp lý của
trách nhiệm hình sự. Hành vi nguy hiểm cho xã hội có nghĩa là hành vi đó phải

gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại đáng kể cho những quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ và người thực hiện hành vi đó phải có lỗi. Để xác định
tính nguy hiểm cho xã hội thì cần phải căn cứ vào nội dung, tính chất của quan
hệ xã hội mà pháp luật hình sự bảo vệ, tính chất và mức độ lỗi, thủ đoạn, động
cơ, mục đích, nhân thân người phạm tội… và đặt những căn cứ này vào mối liên
hệ thống nhất với nhau. Đây là dấu hiệu khách quan của tội phạm.
Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý bất lợi mà một người phải chịu
khi thực hiện hành vi phạm tội [51, tr.218]. Trách nhiệm hình sự chỉ được đặt
ra khi một người thực hiện hành vi phạm tội mà nó đáp ứng đầy đủ các dấu
hiệu của một cấu thành tội phạm đã được quy định trong Bộ luật hình sự.
Hành vi đó sẽ không được coi là tội phạm nếu nó không được quy định trong
Bộ luật hình sự.

10


Khi một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và xác định
hành vi đó thỏa mãn dấu hiệu nguy hiểm cho xã hội và dấu hiệu lỗi, dẫn đến
là hậu quả mà người thực hiện hành vi đó phải gánh chịu khi làm trái với quy
định của pháp luật hình sự. Khái niệm hình phạt theo quy định tại Điều 26 Bộ
luật hình sự năm 1999 được hiểu là “…biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc
nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người
phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Tòa án quyết
định”. Do đó, "tính phải chịu hình phạt" được hiểu là áp dụng hoặc đe dọa bị
áp dụng các hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự chứ không phải
trong mọi trường hợp thì tội phạm đều bị áp dụng hình phạt, vì có trường hợp
Tòa án miễn hình phạt.
Thực tiễn xét xử đã cho ta thấy rõ bức tranh về tội phạm ở Việt Nam là
hết sức đa dạng và phức tạp với những hành vi phạm tội hết sức tinh vi. Chính
vì vậy, việc lựa chọn các biện pháp xử lý thích hợp với từng trường hợp phạm

tội cụ thể là việc rất quan trọng và gây nhiều khó khăn cho các cơ quan tư
pháp. Do đó, để giải quyết vụ án hình sự một cách đúng đắn, khách quan và
công bằng thì các cơ quan tiến hành tố tụng không chỉ xem xét dựa trên hành
vi phạm tội có thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm hay không mà
phải hành vi ấy phải được xem xét một cách toàn diện. Khi quyết định hình
phạt cho một hành vi phạm tội cụ thể Tòa án còn phải xem xét các tình tiết
liên quan đến tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi như tình tiết tăng nặng,
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Điều này đáp ứng được các nguyên tắc
cơ bản của luật hình sự Việt Nam như: nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc công
bằng, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt...
Hành vi được xác định là tội phạm thì các tình tiết, biểu hiện của nó
phải được làm rõ để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm để xử lý một cách
thỏa đáng. Hơn nữa, khi quyết định hình phạt, Tòa án “…cân nhắc tính chất

11


và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm
tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự” (Điều 45 Bộ luật
hình sự). Cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
thực chất là việc xem xét và đánh giá các tình tiết tạo nên tính nguy hiểm của
tội phạm. Những tình tiết đó có thể là tình tiết thuộc về hành vi phạm tội,
thuộc về đối tượng tác động của tội phạm, thuộc về nhận thức, thái độ của
người phạm tội đối với việc phạm tội, thuộc về những đặc điểm riêng biệt,
phẩm chất cá nhân của người phạm tội… Những tình tiết đó có thể được quy
định là tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự (khoản 1 Điều
46 và khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009). Trong
đó, các tình tiết tăng nặng của tội phạm phản ánh mức độ nguy hiểm khác
nhau của các trường hợp phạm tội cụ thể (trong khung hình phạt); phản ánh
khả năng cải tạo, giáo dục của người phạm tội và qua đó phản ánh mức độ

trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Do vậy, các tình tiết này được Bộ
luật hình sự quy định làm căn cứ quyết định hình phạt đối với người phạm tội,
Bộ luật hình sự quy định ba loại tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đó là:
- Tình tiết tăng nặng định tội.
- Tình tiết tăng nặng định khung.
- Tình tiết tăng nặng chung.
Hiện nay, trong Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009, nhà làm
luật nước ta không ghi nhận định nghĩa pháp lý của khái niệm này, đồng thời
trong khoa học luật hình sự Việt Nam cũng còn nhiều quan điểm khác nhau.
Theo sách từ điển giải thích thuật ngữ Luật học thì:
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tình tiết làm cho
mức độ nguy hiểm của trường hợp phạm tội cụ thể của một loại
tội phạm tăng lên so với trường hợp bình thường và do đó được
coi là căn cứ để tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với trường
hợp phạm tội đó [17, tr.116].

12


Còn theo nguyên Thẩm phán, chánh án Tòa hình sự, Tòa án nhân dân
tối cao Đinh Văn Quế trong cuốn "Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự" thì cho rằng:
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có ảnh hưởng tới
mức độ nguy hiểm của một tội phạm trong các trường hợp cụ thể khác
nhau và có ý nghĩa khi quyết định hình phạt vì chúng… làm tăng lên
mức hình phạt cần áp dụng với tội phạm đã thực hiện trong giới hạn
khung hình phạt mà luật quy định với tội phạm đó [32, tr. 236-237].
Theo sách giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Trường Đại học Cảnh sát
(nay là Học viện Cảnh sát nhân dân), Hà Nội thì:
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là những tình tiết

trong một vụ án cụ thể làm tăng mức độ nghiêm trọng của hành vi
phạm tội và người phạm tội phải chịu một hình phạt nghiêm khắc
hơn trong một khung hình phạt [30, tr.305].
Theo tác giả Trần Văn Sơn định nghĩa:
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là những tình tiết phản ánh
mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm tăng lên trong phạm vi một khung
hình phạt của một tội phạm cụ thể [41, tr.36];
Còn PGS.TS. Dương Tuyết Miên trong bài viết "Các tình tiết giảm nhẹ,
tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự năm 1999" đăng trên Tạp
chí Tòa án nhân dân, số 1/2003, tr.19, viết:
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là những tình tiết
được quy định trong Bộ luật hình sự phản ánh mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, khả năng cải tạo giáo dục của
người phạm tội. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có ý
nghĩa trong việc quyết định hình phạt, làm tăng hình phạt trong giới
hạn một khung hình phạt [41, tr.19]; v.v...

13


Tóm lại, từ những quan điểm nêu trên, đồng thời căn cứ vào các quy
định của pháp luật hình sự liên quan đến các tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự, theo quan điểm của mình, học viên cho rằng: Tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự là tình tiết được ghi nhận trong Phần chung của Bộ luật hình sự,
đồng thời nó có ý nghĩa trong việc lượng hình - làm thay đổi mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi theo hướng nghiêm trọng hơn trong phạm vi khung hình
phạt của một tội phạm cụ thể khi áp dụng đối với người phạm tội.
Như vậy, khi xét xử một vụ án hình sự, khâu lượng hình là một khâu rất
quan trọng, nó là kết quả cuối cùng của toàn bộ quá trình tố tụng trước đó. Hình
phạt cụ thể mà Tòa án tuyên đối với người phạm tội thể hiện sự đánh giá chính

thức của Nhà nước về tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm mà một
trong những căn cứ để Tòa án quyết định hình phạt là các tình tiết tăng nặng và
giảm nhẹ. Các tình tiết tăng nặng không chỉ đơn thuần ảnh hưởng đến hình phạt
do Tòa án quyết định mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ trách nhiệm hình sự.
Luật hình sự Việt Nam khi đặt trách nhiệm hình sự và áp dụng hình
phạt đối với người phạm tội không chỉ nhằm trừng trị mà còn nhằm cải tạo họ
trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc
cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Một bản án công
bằng có tính đến sự kết hợp giữa yếu tố chung và riêng biệt trong quyết định
hình phạt có tác động mạnh về mặt tâm lý đối với người phạm tội. Sự phán
xét công bằng cũng chỉ có thể tiến hành trên cơ sở xác định trách nhiệm hình
sự có sự kết hợp, xem xét tính chất mức độ phạm tội cũng như nhân thân
người phạm tội với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của các tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự trong từng trường hợp phạm tội cụ thể thì kéo theo
đó trách nhiệm hình sự của người phạm tội cũng thay đổi, thể hiện ở ba mức
độ khác nhau: tội danh nặng hơn; khung hình phạt cao hơn; mức hình phạt
nặng hơn [32, tr.236].

14


Khi một hành vi phạm tội thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý cơ bản của một
tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự thì đây là cơ sở căn cứ đầu tiên
và duy nhất để giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng xác định trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội. Dựa trên cấu thành tội phạm cơ bản đó, căn cứ
vào tình hình phạm tội và yêu cầu đấu tranh phòng chống của mỗi loại tội, nhà
lam luật đã xây dựng lên một hoặc nhiều cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc
giảm nhẹ. Những cấu thành tội phạm này bao gồm những dấu hiệu của cấu
thành tội phạm cơ bản và những dấu hiệu bổ sung phản ánh mức độ nguy hiểm

cho xã hội của mỗi loại tội phạm (các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ).
Những dấu hiệu bổ sung này là những dấu hiệu định tội, định khung
được nhà làm luật quy định trong Bộ luật hình sự. Khi mà những dấu hiệu đó
thỏa mãn sẽ cho phép chuyển trách nhiệm hình sự của người phạm tội ở mức
độ nguy hiểm hơn và có thể chuyển khung hình phạt được áp dụng từ bình
thường lên khung tăng nặng hơn.
Ví dụ: Tội cướp tài sản trong trường hợp bình thường (khi tội phạm
thỏa mãn cấu thành cơ bản) bị áp dụng khung hình phạt từ ba năm đến mười
năm (khoản 1 Điều 133), nhưng trong trường hợp tội phạm đó có dấu hiệu
của các tình tiết tăng nặng thì có thể chuyển khung hình phạt sang mức nặng
hơn là từ bảy năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình (khoản 2, 3,4 Điều
133 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009).
Có thể thấy, mức hình phạt cao hơn ở đây là mức hình phạt cao hơn của
một loại hình phạt hoặc loại hình phạt nặng hơn trong một khung hình phạt
của một tội phạm cụ thể. Khung hình phạt cao hơn ở đây là khung hình phạt
cao hơn trong cùng tội quy định ở một điều luật. Tuỳ từng trường hợp nhà
làm luật quy định khung hình phạt cao hơn trước hoặc sau. Nhưng chỉ những
tội quy định cấu thành tội phạm cơ bản có khung hình phạt thấp nhất thì mới
có khung hình phạt nặng hơn, mỗi tội có thể có một hoặc nhiều khung hình
phạt tăng nặng.

15


Những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ là những tình tiết được quy
định trong Bộ luật hình sự, đó được coi là những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
phổ biến và quan trọng nhất. Những tình tiết này được các nhà làm luật xây
dựng trên phương diện khách quan, phương diện chủ quan của tội phạm và
nhân thân người phạm tội. Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ này nếu nó
xuất hiện trong một loại tội phạm nào đó thì đó là căn cứ để cho ta phân biệt

mức độ nguy hiểm khác nhau của hành vi phạm tội trong một số khung hình
phạt của một loại tội cụ thể.
1.1.2. Ý nghĩa của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định trong Bộ
luật hình sự đều có ý nghĩa làm tăng trách nhiệm hình sự mà chủ yếu là tăng
hình phạt đối với người phạm tội. Xuất phát từ khái niệm đã nêu trên và phân
tích quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009 có liên quan
đến các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và thực tiễn áp dụng, chúng ta
có thể chỉ ra ý nghĩa của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Về mặt chính trị - xã hội
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thể hiện cụ thể đường lối,
chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Khoản 2 Điều 3 Bộ luật hình sự
năm 1999, sửa đổi năm 2009 đã thể hiện rõ đường lối xử lý nghiêm trị kết
hợp với khoan hồng đối với người phạm tội - mọi người phạm tội đều bình
đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo,
thành phần, địa vị xã hội.
Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu
manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên
nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng. Khoan hồng đối với người tự thú,
thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối
cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra.

16


Việc quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật
hình sự thể hiện chính sách xử lý có phân hóa trong khi xác định trách nhiệm
hình sự và hình phạt đối với người phạm tội, giáo dục khuyến khích họ tích
cực sửa chữa, cải tạo trở thành người lương thiện.

Việc quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật
hình sự còn có tác dụng thống nhất việc vận dụng đường lối xét xử trong cả
nước góp phần hạn chế việc vận dụng tùy tiện các tình tiết tăng nặng bảo đảm
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực hình sự. Mặt khác, thông
qua việc quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và việc vận
dụng nó trong việc xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, Nhà
nước làm cho mọi công dân thấy rõ những trường hợp nào cần xử lý nặng,
những trường hợp nào cần khoan hồng. Điều này tác động tích cực trong việc
đấu tranh phòng, chống tội phạm.
- Về mặt pháp lý
Bên cạnh ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội, các tình tiết tăng nặng còn
có ý nghĩa về mặt pháp lý. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là
những tình tiết làm tăng mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã được
thực hiện, do vậy chúng có ý nghĩa làm tăng trách nhiệm hình sự và hình phạt
đối với người đã thực hiện tội phạm cụ thể đó [43, tr.21]. Về mặt này, chúng
có ý nghĩa rất quan trọng trong việc cá thể hóa hình phạt ở chỗ cho phép đánh
giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực hiện, là một
trong những cơ sở cho việc xác định mức độ trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội.
Bên cạnh đó, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự không có giá trị
tăng nặng như nhau trong mỗi tội phạm cụ thể. Có những tình tiết có ý nghĩa
tăng nặng lớn, nhưng có tình tiết chỉ có ý nghĩa tăng nặng phần nào trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội. Do vậy, việc hiểu và vận dụng đúng đắn các tình

17


×