I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
TRN TH HNG
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
thuộc về nhân thân ng-ời phạm tội
trong Luật hình sự Việt Nam
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)
LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2016
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
TRN TH HNG
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
thuộc về nhân thân ng-ời phạm tội
trong Luật hình sự Việt Nam
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v T tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04
LUN VN THC S LUT HC
Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS NGUYN NGC CH
H NI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Trần Thị Hƣơng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH TIẾT TĂNG
NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THUỘC VỀ NHÂN
THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI ............................................................. 9
1.1.
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự .................................. 9
1.1.1.
Khái niệm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ....................... 9
1.1.2.
Phân loại các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự....................... 11
1.2.
Khái niệm, đặc điểm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự thuộc về nhân thân ngƣời phạm tội ................................. 20
1.2.1.
Khái niệm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về
thân người phạm tội ........................................................................... 20
1.2.2.
Đặc điểm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về
nhân thân người phạm tội .................................................................. 24
1.2.3.
Ý nghĩa của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc
về nhân thân người phạm tội ............................................................. 30
1.3.
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân
ngƣời phạm tội trong luật hình sự một số nƣớc trên thế giới ............ 34
1.3.1.
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định của
Bộ luật hình sự Liên bang Nga .......................................................... 34
1.3.2.
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định của
Bộ luật hình sự Nhật Bản .................................................................. 36
1.3.3.
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định của
Bộ luật hình sự của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ....................... 36
Chƣơng 2: QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ THUỘC VỀ NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI
Ở HÀ GIANG .................................................................................. 38
2.1.
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân
thân ngƣời phạm tội trong luật hình sự Việt Nam ....................... 38
2.1.1.
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân
người phạm tội trong luật hình sự từ 1945 đến trước 1999 .............. 38
2.1.2.
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân
người phạm tội trong Bộ luật hình sự 1999 ...................................... 41
2.2.
Thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự thuộc về nhân thân ngƣời phạm tội ở Hà Giang ..................... 56
2.2.1.
Tình hình áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
thuộc về nhân thân người phạm tội ở Hà Giang ............................... 56
2.2.2.
Nguyên nhân hạn chế của tình hình áp dụng các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội ở
Hà Giang ............................................................................................ 66
Chƣơng 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG TÌNH TIẾT TĂNG
NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THUỘC VỀ NHÂN
THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI ...................................................... 71
3.1.
Cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật .............................................. 71
3.1.1.
Đòi hỏi phát triển của nền kinh tế thị trường .................................... 71
3.1.2.
Những hạn chế của Bộ luật hình sự 1999, trong đó có hạn chế
trong việc qui định các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự .................................................................................... 72
3.2.
Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân
thân ngƣời phạm tội ........................................................................ 74
3.2.1.
Hoàn thiện pháp luật hình sự về các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội ........................... 74
3.2.2.
Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội .................. 75
KẾT LUẬN .................................................................................................... 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 87
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:
Bộ luật Hình sự
BLTTHS:
Bộ luật tố tụng hình sự
TAND:
Tòa án nhân dân
TNHS:
Trách nhiệm hình sự
TTTN:
Tình tiết tăng nặng
XHCN:
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1. Kết quả xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm và số bị cáo áp
dụng tình tiết tăng nặng TNHS của TAND hai cấp tỉnh
Hà Giang
Bảng 2.2. Cơ cấu của việc áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS
58
59
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các tình tiết tăng nặng TNHS là một trong những căn cứ để Tòa án cân
nhắc khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội nên nó có ý nghĩa quan
trọng trong các Bộ luật hình sự. Ở Việt Nam, các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự đã được qui định khá lâu trong lịch sử, đặc biệt là sau khi đất
nước giành độc lập (từ năm 1945) trong một số các văn bản pháp lý hình sự
đơn hành, như: Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/3/1946 của Chính Phủ quy định về
mặt tội danh và hình phạt; Sắc lệnh số 25/SL ngày 25/02/1946 quy định việc
trừng trị đối với hành vi phá hủy công sản... . Bộ luật hình sự năm 1985 (Bộ
luật hình sự đầu tiên của nhà nước ta) qui định các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự như là những chế định độc lập trong pháp luật hình sự một
cách chi tiết và khá hoàn thiện. Trên cơ sở thực tiễn thi hành, trong lần pháp
điển thứ hai, Bộ luật Hình sự năm 1999 tiếp tục quy định các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự với một số sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực
tiễn xử lý tội phạm. Qui định về tình tiết tăng nặng TNHS của BLHS 1999 đã
tạo ra cơ sở pháp lý đề Tòa án cân nhắc, xem xét khi quyết định hình phạt cho
phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội trong từng trường hợp cụ thể, đồng
thời những tình tiết tăng nặng TNHS còn góp phần phân hóa TNHS, cá thể
hóa hình phạt trong quá trình xử lý tội phạm. Cùng với các qui định khác về
căn cứ quyết định hình phạt, các tình tiết tăng nặng TNHS còn thể hiện chính
sách hình sự trừng trị nghiêm khắc đối với người phạm tội ngoan cố, chủ
mưu, cầm đầu, quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng, tái phạm… đồng thời
khoan hồng, nhân đạo đối với người phạm tội lần đầu, thật thà khai báo, ăn
năn hối cải, lập công chuộc tội… của nhà nước ta góp phần tích cực vào công
cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
1
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử của Tòa án bên cạnh những kết quả đạt
được còn để xảy ra tình trạng quyết định hình phạt chưa tương xứng với tính
chất, mức độ của tội phạm, làm cho hình phạt không đạt được mục đích khi
áp dụng, làm giảm hiệu lực thi hành bản án, ảnh hưởng đến tính công bằng
của pháp luật và làm giảm lòng tin của người dân vào sự công minh của Tòa
án cũng như hệ thống tư pháp XHCN. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân,
trước hết, là do những qui định của BLHS về tình tiết tăng nặng TNHS chưa
thật sự phù hợp với thực tế tội phạm xảy ra, chưa đảm bảo tính nhất quán về
mặt logic pháp lý, chưa chặt chẽ về mặt lập pháp dẫn đến khó khăn trong áp
dụng. Mặt khác, trình độ, năng lực, phẩm chất và bản lĩnh của thẩm phán còn
có hạn chế nhất định và các yếu tố khác đã ảnh hưởng đến việc áp dụng các
tình tiết tăng nặng TNHS đối với các trường hợp cụ thể khi quyết định hình
phạt. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt
khoa học các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc nhân thân người phạm tội và vấn đề áp
dụng trong thực tiễn, đồng thời đưa ra những giải pháp hoàn thiện các quy
định của chế định này, cũng như nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những
quy định về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người
phạm tội có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng. Do đó, việc
nghiên cứu vai trò của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về
nhân thân người phạm tội đối với việc quyết định hình phạt đối với người
phạm tội có ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận - thực tiễn và pháp lý trong
quá trình áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết vụ án hình sự, đồng thời thể
hiện rõ nội dung phương châm “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”, “trừng
trị kết hợp với giáo dục” trong chính sách hình sự của Nhà nước ta, cũng như
bảo đảm thực hiện tốt hơn nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể
hóa hình phạt đối với người phạm tội. Đây chính là lý do luận chứng cho việc
2
tôi quyết định lựa chọn đề tài “Các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân
thân người phạm tội trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn tại địa
bàn tỉnh Hà Giang)” làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 48
Bộ luật hình sự năm 1999 đã được đề cập, phân tích trong các công trình
nghiên cứu, một số giáo trình và sách tham khảo, luận văn như:
1. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), NXB Đại học Quốc
Gia, Hà nội -1997;
2. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), NXB Đại học Quốc
Gia, Hà nội -2001, 2003, 2007, Tập thể tác giả do TSKH. Lê Cảm chủ biên
(tái bản lần thứ 3),
3. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, 2003.
Tập thể tác giả do GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên,
4. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung). Tập thể tác giả do
PGS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên. Đại học Huế. NXB Giáo dục, Hà nội, 2005,
5. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự - Đinh Văn
Quế- Sách tham khảo (2000), NXB Chính trị Quốc gia,
6. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999- Phần chung. NXB Thành
phố Hồ Chí Minh, 2000 của ThS. Đinh Văn Quế...
Hoặc được đề cập trong một số bài viết khác trên các tạp chí chuyên
ngành như: 1) Trịnh Tiến Việt- “Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách
nhiệm hình sự trong BLHS 1999 và một số kiến nghị”- Tạp chí Tòa án nhân
dân số 13 tháng 7/2004; 2) Phạm Hồng Hải - “Một vài ý kiến về chế định tái
phạm, tái phạm nguy hiểm theo quy định của Bộ luật hình sự 1999” - Tạp chí
Tòa án nhân dân số 4/2001; 3) Nguyên Hồng - “Những bất cập trong mốt số
điều khoản của BLHS và kiến nghị sửa đổi, bổ sung” - Tạp chí Nghiên cứu
3
lập pháp số 91, tháng 01/2007; 4) Trịnh Tiến Việt – “Bàn về các tình tiết tăng
nặng trong việc cá thể hóa TNHS và hình phạt” - Tạp chí Kiểm sát số 4/2003;
5) Dương Tuyết Miên – “Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS theo BLHS
1999” - Tạp chí Tòa án nhân dân số 01/2003...
Đặc biệt đáng chú ý trong lĩnh vực này có một số công trình nghiên cứu
đó là: Luận văn Thạc sỹ luật học của Bùi Văn Lam về “Các tình tiết tăng nặng
TNHS trong Luật hình sự Việt Nam”, bảo vệ năm 2002 của Trường Đại học
Luật, Hà Nội; luận văn Thạc sỹ của Phan Hồng Thúy về “Các tình tiết tang
nặng trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam. Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn”, bảo vệ năm 2010 của Khoa Luật – Đại học Quốc gia, Hà Nội. Hai
Tác giả đều nghiên cứu các tình tiết tăng nặng TNHS trong đó đề cập đến một số
tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái
phạm nguy hiểm... tuy nhiên kết quả nghiên cứu đã trên 5 đến 14 năm, các vấn
đề tác giả đề cập đã được pháp điển hóa hoặc không mang tính thời sự.
Đối với luận văn này, tác giả sẽ đi sâu phân tích các quy định của pháp
luật, việc áp dụng các tình tiết tăng nặng thuộc về nhân thân người phạm tội
tại các điểm b, c, g, m, o theo Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Đồng thời,
tác giả sẽ tập trung nghiên cứu những giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp
dụng tình tiết tăng nặng thuộc về nhân thân người phạm tội.
3. Mục đích và nhiệm vụ
3.1. Mục đích của luận văn từ việc nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn
đề về mặt lý luận, các quy định của pháp luật hình sự về các tình tiết tăng
nặng TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội và thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật hình sự về tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân
người phạm tội, tác giả mong muốn đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội
trong thực tiễn thi hành pháp luật hình sự Việt Nam.
4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích, phạm vi nghiên cứu nêu trong luận văn này, tác giả tập
trung vào giải quyết những nhiệm vụ chính sau:
- Phân tích và xây dựng khái niệm khoa học của tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân, tình tiết định tội, tình tiết định khung;
nghiên cứu và phân tích đặc điểm cơ bản và ý nghĩa của các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội và so sánh nó
với các tình tiết định tội, định khung hình phạt.
- Khái quát sự hình thành và phát triển của các quy định về các tình tiết
tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội trong pháp luật hình sự
Việt Nam.
- Phân tích nội dung, điều kiện áp dụng các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội trong Bộ luật hình sự hiện
hành (năm 1999), và thực tiễn áp dụng. Từ đó phân tích một số tồn tại xung
quanh việc quy định và áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân
thân người phạm tội.
- Luận chứng cho sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về
nhân thân người phạm tội, những phương hướng cơ bản của việc hoàn thiện
phù hợp với chính sách hình sự của Nhà nước ta, đáp ứng nhiệm vụ yêu cầu
của Cải cách tư pháp, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999 cần được nhà làm
luật nước ta ghi nhận trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành cũng như
giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
thuộc về nhân thân người phạm tội trong thực tiễn thi hành pháp luật hình sự.
4. Đối tƣợng và Phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là các tình tiết tăng nặng trách
5
nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội trong luật hình sự Việt
Nam và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Hà Giang những năm gần đây.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là một trong những chế
định phức tạp, có nhiều nội dung liên quan đến các chế định khác trong Bộ
luật hình sự như: Hình phạt, trách nhiệm hình sự, Miễn trách nhiệm hình sự,
Tái phạm, tái phạm nguy hiểm, án treo. v.v... Trên cơ sở đối tượng nghiên
cứu trên, Luận văn có phạm vi nghiên cứu và giải quyết một số vấn đề xung
quanh các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người
phạm tội, cụ thể là:
1) Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự thuộc nhân thân người phạm tội.
2) Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy phạm về các tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội trong
luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
3) Phân tích nội dung, điều kiện áp dụng các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội trong Bộ luật hình sự hiện
hành (năm 1999). Đánh giá thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
4) Luận chứng và đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội.
Ngoài ra Luận văn cũng tham khảo các quy định trong pháp luật hình
sự một số nước trên thế giới về các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc nhân thân
người phạm tội.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận là phép duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, lý luận Chủ nghĩa Mác - Lê nin về Nhà nước và pháp luật,
6
về tội phạm học, quan điểm của Đảng và Nhà nước về nguyên tắc xử lý tội
phạm và chính sách hình sự trong luật Hình sự Việt Nam, về cải cách tư pháp
được ghi nhận trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, X, IX và các Nghị
quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác
tư pháp trong thời gian tới”; Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về “Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là cơ sở phương
pháp luận để nhận thức các ảnh hưởng của các điều kiện lịch sử đến các quy
định của pháp luật hình sự về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Nhờ đó
người nghiên cứu làm rõ những nét đặc thù và giá trị kế thừa trong các quy
định về tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội. Qua đó
hình dung sự biến đổi biện chứng của các quy định này trong lịch sử lập pháp
hình sự của nước ta cũng như trang bị cách tiếp cận biện chứng trong thực
tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội.
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu như: phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch
sử và thống kê, tổng hợp cũng như các thành tựu của khoa học Luật hình sự,
khoa học Luật tố tụng hình sự, xã hội học pháp luật. v.v. trong các công trình
của các nhà khoa học, luật gia ở trong và ngoài nước.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào các số liệu trong các báo
cáo của hệ thống Tòa án nhân dân, của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Hà
Giang và một số vụ án hình sự cụ thể tại địa phương, trong nước.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới của Luận văn
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã
làm rõ khái niệm, bản chất pháp lý và các đặc điểm cơ bản của các tình tiết
tăng nặng thuộc về nhân thân người phạm tội, nội dung và điều kiện áp dụng
các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trên cơ sở xem xét những quy định
7
của pháp luật hình sự hiện hành, đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện
các quy phạm của chế định này ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng chúng
trong thực tiễn.
Điểm mới của Luận văn là tác giả đã thực hiện nghiên cứu đề tài thực
tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân
người phạm tội trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Đặc biệt, để kết hợp giữa trừng trị
nghiêm khắc người phạm tội với việc nhân đạo hóa trong chính sách hình sự
của Nhà nước ta, đồng thời để phù hợp với thực tiễn xét xử đáp ứng yêu cầu
Cải cách tư pháp của Đảng, Nhà nước và quy định của Hiến pháp năm 2013,
tác giả luận văn đề xuất, kiến nghị giải pháp, biện pháp nâng cao chất lượng
áp dụng pháp luật, đặc biệt đối với việc vận dụng, áp dụng các tình tiết tăng
nặng TNHS thuộc nhân thân người phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam.
Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa là tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích cho
cán bộ làm công tác thực tiễn trong các cơ quan tiến hành tố tụng, các cán bộ
nghiên cứu khoa học, giảng dạy, học viên cao học, sinh viên thuộc chuyên
ngành tư pháp hình sự.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn thạc sỹ luật học này bao gồm:
Phần mở đầu;
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội.
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội ở Việt Nam.
Chương 3: Hoàn thiện hệ thống pháp luật và các giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân
người phạm tội.
Kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo.
8
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ THUỘC VỀ NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI
1.1. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
1.1.1. Khái niệm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Theo Điều 45 BLHS về căn cứ quyết định hình phạt: “Khi quyết định
hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người
phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”. Như vậy,
các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS có ý nghĩa hết sức quan trọng khi
quyết định hình phạt.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, qua nghiên cứu cho thấy nó là
khái niệm dùng để chỉ những tình tiết làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm hoặc tình tiết làm tăng tính nguy hiểm của nhân thân người phạm
tội, do đó người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự nặng hơn. Những tình
tiết đó mang tính khách quan được các nhà làm luật nhận thức và quy định
trong BLHS để đảm bảo tính công bằng, tính nghiêm minh của pháp luật hình
sự. Trách nhiệm hình sự, hình phạt chỉ đạt được mục đích trừng trị, giáo dục,
cải tạo người phạm tội khi chúng được Tòa án tuyên hình phạt và các biện
pháp tư pháp khác tương xứng tới tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm và người phạm tội.
Tình tiết tăng nặng TNHS là tình tiết làm cho TNHS đối với người
phạm tội trong từng trường hợp phạm tội cụ thể cao hơn, thể hiện ở ba mức
độ khác nhau: Tội danh nặng hơn; Khung hình phạt cao hơn; Mức hình phạt
nặng hơn. Tội danh nặng hơn được hiểu là tội danh dạng đặc biệt của tội danh
cơ bản chung, tức là cấu thành tội phạm của tội danh nặng hơn là một dạng
9
đặc biệt của cấu thành tội phạm cơ bản mà không có tình tiết này thì hành vi
đã cấu thành tội phạm cơ bản. Do đó một tội phạm thỏa mãn cấu thành tội
phạm nặng hơn thì coi như mặc nhiên nó đủ yếu tố cấu thành tội phạm cơ bản
(nhẹ hơn). Hay nói cách khác, cấu thành tội phạm thuộc tội danh nặng hơn
chính là tội phạm tăng nặng định tội. Việc quy định thành các tội như vậy là
vì nhà làm luật cho rằng giữa các trường hợp đó có sự khác nhau về tính chất
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. “Như vậy, để hành vi cấu thành tội danh
riêng nặng hơn, hành vi đó bao gồm các yếu tố cấu thành tội phạm chung, tức
là nếu không có tình tiết tăng nặng định tội hành vi cũng đã cấu thành một tội
phạm và người phạm tội phải chịu TNHS. Tình tiết tăng nặng chỉ làm cho
TNHS nặng hơn theo một tội có chế tài nặng hơn mà thôi” [23, tr.15].
Mức hình phạt cao hơn ở đây là mức hình phạt cao hơn của một loại
hình phạt hoặc loại hình phạt nặng hơn trong một khung hình phạt của một tội
phạm cụ thể. Khung hình phạt cao hơn ở đây là khung hình phạt cao hơn
trong cùng tội quy định ở một điều luật. Tùy từng trường hợp mà nhà làm luật
quy định khung hình phạt cao hơn trước hoặc sau trong điều luật. Nhưng chỉ
những tội quy định cấu thành tội phạm cơ bản có khung hình phạt thấp nhất
thì mới có khung hình phạt nặng hơn, mỗi tội có thể có một hoặc nhiều khung
hình phạt tăng nặng. Ví dụ: Ở tội Giết người (Điều 93), khung hình phạt cao
hơn thuộc khoản 1, khung hình phạt cơ bản thuộc khoản 2; tại các tội Hiếp
dâm (Điều 111), Trộm cắp tài sản (Điều 138) thì khung hình phạt cao hơn
thuộc khoản 2 và khung hình phạt cơ bản thuộc khoản 1 của điều luật.
Để đảm bảo yêu cầu phân hóa trách nhiệm hình sự tương ứng với các
mức tăng nặng TNHS dựa trên mức độ làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội
của từng tình tiết đối với từng tội phạm nhiều hay ít. Vì thế, để tương ứng với
ba mức độ tăng nặng TNHS trên, BLHS quy định ba loại tình tiết tăng nặng
TNHS đó là: Tình tiết tăng nặng định tội; tình tiết tăng nặng định khung; tình
tiết tăng nặng chung.
10
Từ những phân tích trên, chúng tôi nhất trí với tác giả Bùi Văn Lam đã
đưa ra khái niệm về tình tiết tăng nặng TNHS:
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tình tiết thuộc yếu
tố chủ quan hoặc khách quan của tội phạm hay tình tiết thuộc nhân
thân người phạm tội, mà khi có tình tiết đó, tính nguy hiểm cho xã
hội của người phạm tội hoặc tội phạm tăng lên và do đó TNHS tăng
lên, thể hiện ở việc tội phạm bị xử lý theo tội danh nặng hơn, khung
hình phạt nặng hơn hoặc mức hình phạt cao hơn [19].
1.1.2. Phân loại các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
1.1.2.1. Phân loại căn cứ vào tính chất của tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự
Các tình tiết tăng nặng TNHS thể hiện việc làm tăng tính nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm, song do các tình tiết đó đều là biểu hiện sự nguy
hiểm hơn các yếu tố cấu thành tội phạm, của nhân thân người phạm tội nên
giữa các tình tiết đó có sự khác nhau về tính chất. Căn cứ theo tiêu chí này có
thể chia các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thành 3 nhóm sau: nhóm
các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc yếu tố chủ quan của tội phạm; nhóm các
tình tiết tăng nặng TNHS thuộc yếu tố khách quan của tội phạm; nhóm các
tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội.
Cách phân loại này sẽ giúp chúng ta một phần trong việc đánh giá đúng
ý nghĩa của từng tình tiết tăng nặng đối với từng loại tội phạm, đưa ra phạm vi
áp dụng của từng loại tình tiết tăng nặng. Cũng vì vậy, chỉ cần phân loại các
tình tiết tăng nặng ở Điều 48 BLHS mà không phân loại các tình tiết tăng
nặng đã quy định là tình tiết định tội hay tình tiết định khung bởi vì đó là
những tình tiết tăng nặng đã được quy định trong từng tội cụ thể, chỉ có giá trị
định tội, định khung hình phạt.
11
Nhóm tình tiết tăng nặng TNHS thuộc yếu tố chủ quan của tội phạm:
Là những tình tiết phản ánh quá trình hoạt động, diễn biến tâm lý bên
trong của chủ thể thực hiện hành vi phạm tội (mặt chủ quan của tội phạm),
đồng thời làm cho hành vi phạm tội cũng trở nên nguy hiểm hơn so với các
trường hợp thông thường khác mà không có những tình tiết này. Các tình tiết
tăng nặng thuộc yếu tố chủ quan gồm:
- Phạm tội vì động cơ đê hèn;
- Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;
Nhóm tình tiết tăng nặng TNHS thuộc yếu tố khách quan của tội phạm:
là những tình tiết thuộc về dấu hiệu bên ngoài của tội phạm (mặt khách quan
của tội phạm) mà trong vụ án nếu có các tình tình tiết này thì hành vi nguy
hiểm cho xã hội trong mặt khách quan của tội phạm trở nên nguy hiểm hơn so
với các trường hợp thông thường khác mà không có các tình tiết này. Những
tình tiết này phản ánh tính chất hành vi, công cụ, phương tiện, thủ đoạn, đối
tượng phạm tội, hậu quả của tội phạm. Đó là các tình tiết:
- Phạm tội có tổ chức;
- Phạm tội có tính chất côn đồ;
- Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người ở trong tình
trạng không thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc mình về mặt vật chất,
tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;
- Xâm phạm tài sản của Nhà nước;
- Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;
- Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch
bệnh hoặc những khó khăn dịch bệnh khác của xã hội để phạm tội;
- Xúi giục người chưa thành niên phạm tội.
Nhóm các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc nhân thân người phạm tội: là
những tình tiết phản ánh đặc điểm thuộc về con người phạm tội thể hiện tính
12
nguy hiểm ít hay nhiều của người phạm tội. Xét đến đặc điểm nhân thân
không trái với nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật song lại
rất cần thiết bởi Tòa án thực hiện xét xử đối với một tội phạm cụ thể và cũng
là con người cụ thể. Hình phạt chỉ có thể đảm bảo hợp tình, hợp lý, công bằng
cũng như chỉ có thể phát huy đầy đủ tác dụng của nó khi nó được xem xét
toàn diện tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội với tính chất,
mức độ nguy hiểm của bản thân người phạm tội.
Rõ ràng có những đặc điểm nhân thân người phạm tội liên quan hữu cơ
với việc thực hiện tội phạm, nói lên mức độ nguy hiểm khác nhau của hành vi
cũng như của người phạm tội, làm sáng tỏ mặt khách quan và chủ quan của
tội phạm, khả năng tiếp thu, giáo dục, cải tạo của họ... Các tình tiết tăng nặng
thuộc nhóm này bao gồm:
- Phạm tội có tính chuyên nghiệp;
- Phạm tội nhiều lần, tái phạm; tái phạm nguy hiểm;
- Dùng thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác phạm tội hoặc thủ đoạn phương tiện
có khả năng gây hại cho nhiều người;
- Có hành động xảo quyệt, hung hãn nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm.
1.1.2.2. Phân loại căn cứ vào ý nghĩa pháp lý của các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự
Do tính đa dạng, phức tạp của tội phạm nên để cá thể hóa trách nhiệm
hình sự được triệt để, các nhà làm luật trước hết phải chia tội phạm thành các
nhóm tội, các tội phạm khác nhau, trong mỗi tội có khung hình phạt khác
nhau (có một số tội có khung hình phạt duy nhất). Trong mỗi khung hình phạt
của một tội thì mức độ nguy hiểm cho xã hội biểu hiện cũng khác nhau. Do
đó nhà làm luật phải quy định các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS chung
để áp dụng cho các loại tội phạm trong một khung hình phạt nhất định. Các
tội phạm khác nhau có thể khác nhau về chủ thể, khách thể, đối tượng tác
13
động, về khách quan, hành vi, hậu quả về chủ thể, hình thức, tính chất mức độ
lỗi. Vì vậy, mức độ ảnh hưởng của mỗi tình tiết tăng nặng TNHS đối với các
loại tội khác nhau, các tội khác nhau cũng nhiều, ít khác nhau. Có những tình
tiết làm thay đổi tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm nhưng cũng có
tình tiết chỉ làm thay đổi mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Đó
chính là ý nghĩa pháp lý của tình tiết tăng nặng TNHS.
Căn cứ vào tiêu chí này, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được
phân chia thành 3 loại:
- Tình tiết tăng nặng TNHS định khung,
- Tình tiết tăng nặng TNHS thuộc cấu thành tội phạm nặng hơn,
- Tình tiết tăng nặng TNHS chung (được quy định tại Điều 48 BLSH).
* Tình tiết tăng nặng định khung.
Tình tiết tăng nặng định khung hình phạt là tình tiết làm tăng mức độ
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm một cách đáng kể. Do đó trách nhiệm hình
sự, hình phạt đối với trường hợp tội phạm có tình tiết đó cao hơn, TNHS cao
hơn đó thể hiện ở chế tài được quy định ở khung cao hơn đối với chế tài ở
khung hình phạt cơ bản.
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là liên tục không tách rời. Tuy
nhiên, để đảm bảo thuận lợi cho các thể hóa TNHS, tránh tùy tiện trong áp
dụng pháp luật thì hình phạt được chia thành từng khung nhất định. Khoảng
cách giữa mức độ cao nhất và mức độ thấp nhất của hình phạt của một tội
càng lớn thì sẽ có nhiều khung hình phạt trong một tội (nhiều cấu thành tội
phạm tăng nặng). Tương ứng như vậy, tình tiết tăng nặng nào biểu hiện tính
nguy hiểm cho xã hội lớn hơn đáng kể so với tình tiết khác thì sẽ ở khung
hình phạt cao hơn.
Nhìn chung, chỉ có tình tiết tăng nặng thuộc hậu quả vật chất của tội
phạm và các tình tiết khác thuộc mặt khách quan của tội phạm có tính định
14
lượng là phản ánh phạm vi rộng nhất mức độ ảnh hưởng của nó đến tính
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Do đó tình tiết này có mặt ở hầu hết
khung hình phạt tăng nặng. Còn các tình tiết tăng nặng định khung khác chỉ
có mặt ở một khung nhất định. Có những tình tiết tăng nặng định khung
được dùng phổ biến ở nhiều nhóm tội, nhiều tội như: “phạm tội có tổ chức”,
“phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”, “tái phạm, tái phạm nguy hiểm”,
“phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng”... Có những tình tiết chỉ áp dụng cho một nhóm tội như: nhiều người
phạm tội đối với một người, làm nạn nhân có thai... trong các tội phạm tình
dục. Có những tình tiết chỉ áp dụng cho một tội riêng biệt như “hành hung
để tẩu thoát” ở tội Trộm cắp tài sản.
* Tình tiết tăng nặng định tội
Tình tiết tăng nặng định tội là tình tiết làm thay đổi tính chất nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm theo hướng tăng lên, tức là tình tiết đó làm
tăng tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Vì vậy, tội phạm phải bị xử
lý về tội nặng hơn.
Cần lưu ý rằng đây là tình tiết tăng nặng TNHS định tội chứ không phải
là tình tiết định tội, tuy nó đều đóng vai trò là một yếu tố trong cấu thành tội
phạm nhưng đây là yếu tố thuộc cấu thành tội phạm tăng nặng định tội. Nếu
là tình tiết định tội thì khi không có tình tiết đó, hành vi không cấu thành tội
phạm. Còn đối với các tình tiết tăng nặng định tội thì khi không có tình tiết đó
(giả định luật không quy định đó là tình tiết tăng nặng) thì hành vi cũng đã
cấu thành một tội phạm khác nhẹ hơn. Tình tiết đó chỉ đóng vai trò tăng thêm
tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm (tính nguy hiểm cho xã hội đã có sẵn)
mà sự tăng thêm đó làm cho tội phạm thay đổi về tính chất.
Trong Luật hình sự Việt Nam, có những tình tiết tăng nặng TNHS đóng
vai trò định tội trong các cấu thành tội phạm cơ bản như: tình tiết người bị hại
15
là trẻ em trong tội Hiếp dâm trẻ em (Điều 112 BLHS), tội cưỡng bức trẻ em
(Điều 114 BLHS). Đây là tình tiết tăng nặng thuộc đối tượng tác động của tội
phạm. Rõ ràng nếu luật không quy định phạm tội đối với trẻ em là tình tiết
tặng nặng thì người có hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm người khác cũng đã
phạm vào tội hiếp dâm, cưỡng dâm.
Do đó những năm gần đây, tình trạng xâm phạm tình dục trẻ em ngày
càng gia tăng và hậu quả là đặc biệt nghiêm trọng trên nhiều mặt, bởi lẽ: trẻ
em là đối tượng bảo vệ đặc biệt của Nhà nước và xã hội, các nhà làm luật cho
rằng hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm trẻ em có tính nguy hiểm cho xã hội cao
hơn nhiều so với những trường hợp hiếp dâm, cưỡng dâm những người
trưởng thành. Vì vậy, để góp phần đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này
đạt hiệu quả, Luật hình sự nước ta đã quy định hiếp dâm, cưỡng dâm đối với
trẻ em thành từng tội riêng (trước đây phạm tội đối với trẻ em chỉ là tình tiết
tăng nặng định khung trong tội hiếp dâm, tội cưỡng dâm).
Khi nghiên cứu tình tiết tăng nặng này cần phân biệt với tình tiết người
bị hại là trẻ em trong một số tội như: tội Giao cấu với trẻ em (Điều 115
BLHS), tội Dâm ô với trẻ em (Điều 116 BLHS) là những tình tiết định tội và
tình tiết trẻ em chưa đủ 13 tuổi là tình tiết tăng nặng định khung trong tội
Hiếp dâm trẻ em. Nói phạm tội đối với trẻ em là tình tiết định tội trong tội
Giao cấu với trẻ em, dâm ô đối với trẻ em bởi vì nếu không có tình tiết đó thì
hành vi không cấu thành tội phạm.
Tình tiết vi phạm quy tắc hành chính hoặc quy tắc nghề nghiệp trong
tội Vô ý làm chết người (Điều 99 BLHS) và tội Cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc
quy tắc hành chính (Điều 109 BLHS). Cơ sở để quy định các tội danh này
nặng hơn tội Vô ý làm chết người (Điều 98 BLHS) và tội Vô ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác (Điều 108 BLHS) là quy tắc
16
nghề nghiệp và quy tắc hành chính đã được “luật hóa”, rõ ràng hơn mọi người
có nghĩa vụ tuân thủ, làm theo những quy trình nhất định. Do đó, tính chất nó
khác với quy tắc xã hội. Vì vậy, trường hợp vô ý làm chết người do vi phạm
quy tắc nghề nghiệp, quy tắc hành chính thì mức độ lỗi cao hơn. Tuy nhiên do
cả hai trường hợp đó đều có lỗi vô ý nên nếu không quy định thành một tội
riêng ở Điều 99 thì cả hai trường hợp đều bị xử lý ở tội Vô ý làm chết người.
Ngoài ra, trong BLHS còn có một số tình tiết tương tự như tình tiết
tăng nặng định tội: như tình tiết nhằm chống chính quyền nhân dân ở tội
khủng bố (Điều 84 BLHS), tình tiết tài sản là công trình, phương tiện quan
trọng về an ninh quốc gia trong tội Phá hủy các công trình, phương tiện quan
trọng về an ninh quốc gia (Điều 231 BLHS). Đây là những tình tiết thuộc
những tội có dấu hiệu giống và nặng hơn các tội Giết người, Cố ý gây thương
tích và Huỷ hoại tài sản. Tuy nhiên theo chúng tôi, do những tội trên không
xâm phạm cùng nhóm khách thể nên không thể coi những tình tiết đó là tình
tiết tăng nặng định tội.
* Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung là những tình tiết thuộc
yếu tố chủ quan, yếu tố khách quan và nhân thân người phạm tội làm cho tính
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm tăng lên ở mức độ nhất định so với trường
hợp không có tình tiết đó, có tác dụng tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội trong một khung hình phạt cụ thể của một tội phạm cụ thể. Ý
nghĩa pháp lý của những tình tiết này là nhằm đảm bảo cá thể hóa hình phạt
được chính xác, triệt để. Mức độ ảnh hưởng của các tình tiết tăng nặng chung
đến tính nguy hiểm cho xã hội và do đó đến mức độ tăng nặng TNHS thấp
hơn tình tiết tăng nặng định tội và tình tiết tăng nặng định khung.
Cách phân loại trên giúp ta định hướng trong việc nghiên cưứ các tình
tiết tăng nặng TNHS, xây dựng các tội phạm, các cấu thành tăng nặng phù
17