Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (733.79 KB, 66 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM OANH KIỀU

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT CHÍNH THEO PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TÂN BIÊN,
TỈNH TÂY NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM OANH KIỀU

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT CHÍNH THEO PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TÂN BIÊN,
TỈNH TÂY NINH
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐẶNG QUANG PHƯƠNG.

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

PHẠM OANH KIỀU


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT
CHÍNH ............................................................................................................. 6
1.1. Khái niệm hình phạt chính, các loại hình phạt chính và điều kiện áp
dụng ............................................................................................................... 6
1.2. Các nguyên tắc áp dụng hình phạt chính ............................................. 17
1.3. Mục đích và ý nghĩa của áp dụng hình phạt chính đúng pháp luật ..... 21
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ BỘ
LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT CHÍNH........ 24
2.1. Quy định về căn cứ quyết định hình phạt và các tình tiết giảm nhẹ và
tăng nặng trách nhiệm hình sự .................................................................... 24
2.2. Quy định về quyết định hình phạt trong các trường hợp cụ thể .......... 28
2.3. Quy định về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi ................ 33
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT CHÍNH TẠI TOÀ ÁN
NHÂN DÂN HUYỆN TÂN BIÊN VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP
DỤNG HÌNH PHẠT CHÍNH ĐÚNG PHÁP LUẬT.................................. 37
3.1. Thực tiễn áp dụng hình phạt chính tại Toà án nhân dân huyện Tân Biên
..................................................................................................................... 37

3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt chính đúng pháp luật ........ 50
KẾT LUẬN .................................................................................................... 57
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CHXHCN

:Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

BLHS

:Bộ luật hình sự

PLHS

:Pháp luật hình sự

TAND

:Tòa án nhân dân

TANDTC

:Tòa án nhân dân tối cao

TNHS

:Trách nhiệm hình sự


XHCN

:Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1. Tỷ lệ áp dụng các hình phạt chính. ................................................ 38
Bảng 3.2. Tỷ lệ áp dụng hình phạt chính đối với người dưới 18 tuổi ............ 41


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong những năm gần đây thể
hiện tình hình tội phạm diễn biến hết sức phức tạp, tinh vi, với nhiều thủ đoạn khác
nhau. Việc tăng cường công tác đấu tranh phòng chống tội phạm là đòi hỏi bức thiết
đời sống xã hội đặt ra. Trong đó phải kể đến công cụ hữu hiệu đầu tiên là Luật hình
sự, việc áp dụng pháp luật hình sự cụ thể hơn là áp dụng hình phạt của Tòa án, bởi
lẽ hoạt động thường xuyên của Tòa án là việc quyết định hình phạt nói chung và
hình phạt chính nói riêng, do vậy việc đưa ra bản án chính xác, công bằng và đúng
pháp luật không chỉ đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật của Nhà nước.
Thực tế chứng minh là trong áp dụng pháp luật hình sự, sai sót phổ biến của
Tòa án chủ yếu ở hoạt động áp dụng hình phạt chính. Trong nhiều trường hợp, Tòa
án quyết định hình phạt còn quá nhẹ hoặc quá nặng. Hậu quả là trong những trường
hợp này, hình phạt đã tuyên không làm cho bị cáo thấy được sự nghiêm minh của
luật pháp cũng như tính đúng đắn của bản án, từ đó làm cho bị cáo cũng như quần
chúng nhân dân thiếu tin tưởng vào pháp luật của nhà nước, ảnh hưởng xấu tới cuộc
đấu tranh phòng chống tội phạm.
Hiện nay các quy định của pháp luật hình sự của Nhà nước ta về áp dụng
hình phạt đang trong giai đoạn hoàn thiện, trong chừng mực nhất định quy định đó

còn chưa phù hợp với thực tế và yêu cầu xét xử của đất nước. Một số quy định về
áp dụng hình phạt còn mang tính khái quát cao, thiếu chặt chẽ... Chính những hạn
chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động áp dụng hình phạt của
Tòa án. Do đó, để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật
làm cơ sở cho hoạt động áp dụng hình phạt của Tòa án được chính xác, đúng pháp
luật, bảo đảm bản án tuyên tương xứng với tính chất mức độ của các hành vi phạm
tội và đảm bảo lẽ công bằng là điều không dễ dàng, đặc biệt khi đánh giá tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong bối cảnh tình trạng phạm
tội đang diễn biến hết sức phức tạp hiện nay. Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước
pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam, để đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng
1


chống tội phạm có hiệu quả cao, bên cạnh việc cụ thể hóa các căn cứ áp dụng hình
phạt nói chung và quyết định hình phạt chính nói riêng, việc nghiên cứu và làm rõ
cơ sở pháp lý của các quy định áp dụng hình phạt chính từ thực tiễn áp dụng pháp
luật của Tòa án nhân cấp huyện phần nào góp phần giải quyết vấn đề đặt ra nêu
trên.
TAND huyện Tân Biên càng không là ngoại lệ. Bên cạnh kết quả xét xử
đúng tội danh, quyết định đúng loại hình phạt, mức hình phạt thì vẫn còn một số
trường hợp áp dụng chưa đúng pháp luật. Những vi phạm, sai lầm đó có nhiều
nguyên nhân khác nhau. Hiện nay, ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu
về áp dụng hình phạt nhưng chưa có đề tài nghiên cứu về thực tiễn áp dụng hình
phạt chính tại Tòa án nhân cấp huyện một cách sâu sắc, đầy đủ, có hệ thống và toàn
diện, mà chỉ nghiên cứu trong phạm vi về quyết định hình phạt nói chung đặc biệt là
tại TAND huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh. Để góp phần làm rõ thêm những vấn đề
lý luận về áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự Việt Nam và làm rõ thực
tiễn áp dụng tại TAND cấp huyện làm rõ các nguyên nhân cụ thể cũng những vi
phạm, sai lầm và từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng xét xử là hết sức
cần thiết. Đó là lý do để tác giả chọn đề tài “Áp dụng hình phạt chính theo pháp

luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh” làm Luận văn
thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc áp dụng hình phạt chính ở các mức độ khác nhau đã được đề cập đến
trong một số công trình khoa học, nhưng số tài liệu về vấn đề này còn rất ít, có thể
kể đến như: “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Phần chung” Đinh Văn Quế chủ
biên, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2006; “Bình luận khoa học Bộ luật
hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017” TS. Trần Văn Biên - TS. Đinh Thế
Hùng chủ biên, NXB Thế giới, Hà Nội, 2018; “Giáo trình Luật hình sự Việt Nam Phần chung”, GS. TSKH Lê Văn Cảm chủ biên, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội,
2005; “Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần chung” của Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh, 2013... Nguyễn Anh Tú “Quyết định hình phạt đối với

2


người chưa thành niên phạm tội từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” luận văn
thạc sĩ luật học, Luật hình sự & Tố tụng hình sự, Học viện Khoa học xã hội, 2014;
Trần Quốc Học “Áp dụng hình phạt tiền theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực
tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”, Luật hình sự & Tố tụng hình sự, Học viện Khoa học
xã hội, 2014; Chu Xuân Quyền “Quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở
hữu từ thực tiễn Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh”, Luật hình sự & Tố tụng
hình sự, Học viện Khoa học xã hội, 2014; Nguyễn Lê Hoàng Yến “Áp dụng hình
phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ
Chí Minh”, Luật hình sự & Tố tụng hình sự, Học viện Khoa học xã hội, 2016; Tô
Thị Ngọc Phượng “Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
Quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh”, Luật hình sự & Tố tụng hình sự, Học
viện Khoa học xã hội, 2016.
Các công trình khoa học nói trên là những tài liệu rất quý giá, góp phần xây
dựng được khung lý luận chung về áp dụng hình phạt, đã gợi mở cho tác giả luận
văn nhiều ý tưởng khoa học được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài. Trên

cơ sở kế thừa và phát triển, mục đích của Luận văn hướng đến là nghiên cứu một
cách hệ thống về áp dụng hình phạt chính dưới góc độ về lý luận và thực tiễn, cũng
như tổng kết đánh giá thực tiễn áp dụng, chỉ ra các tồn tại, vướng mắc trong thực tế
áp dụng áp dụng hình phạt chính tại TAND cấp huyện, từ đó đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt chính theo quy định pháp luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, đánh giá những quy định của luật hình sự Việt Nam
hiện hành về quyết định hình phạt, thực tiễn áp dụng những quy định này, nhằm đưa
ra những ý kiến đề xuất nâng cao chất lượng áp dụng hình phạt, đáp ứng được yêu
cầu cải cách tư pháp.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, luận văn tập trung làm rõ những nội dung
nghiên cứu sau:

3


1) Góp phần làm rõ lý luận về hình phạt chính và áp dụng hình phạt chính.
2) Đánh giá, phân tích các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luât
hình sự năm 2015 về áp dụng hình phạt chính và thực tiễn áp dụng tại TAND huyện
Tân Biên, tỉnh Tây Ninh.
3) Đề xuất một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các hình phạt chính.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Với mục đích nhiệm vụ nghiên cứu đã nêu, đối tượng nghiên cứu của đề tài
là các quan điểm cũng như quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về áp dụng
hình phạt chính; thực tiễn áp dụng hình phạt chính tại TAND huyện Tân Biên, tỉnh
Tây Ninh từ năm 2014 – 2018.
4.2 Phạm vi nghiên cứu

Trong phạm vi nghiên cứu đề tài, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu những vấn
đề sau:
- Một số vấn đề Lý luận về áp dụng hình phạt chính
- Quy định của BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 về áp dụng hình phạt
chính
- Thực tiễn áp dụng hình phạt chính tại TAND huyện Tân Biên tỉnh Tây
Ninh và các giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt chính đúng pháp luật.
Do BLHS năm 2015 mới quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân
cũng như thực tiễn Tòa án cấp huyện chỉ có thẩm quyền xét xử tội phạm đến tội
phạm rất nghiêm trọng – đến 15 năm tù nên chỉ nghiên cứu thực tiễn áp dụng hình
phạt chính: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn đến tội phạm
rất nghiêm trọng – đến 15 năm tù tại huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh đối với cá nhân
phạm tội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp luận. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
được sử dụng trong Luận văn là phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp so

4


sánh, phương pháp thống kê… đồng thời, việc nghiên cứu còn dựa vào số liệu
thống kê trong các báo cáo và các vụ án hình sự từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân
dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, để làm sáng tỏ các tri thức khoa học luật hình
sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng
hình phạt chính; phân tích so sánh đối chiếu những quy định về các hình phạt chính,
áp dụng hình phạt chính theo BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015. Từ kết quả
nghiên cứu đó đưa ra những kiến nghị, đề xuất bảo đảm áp dụng hình phạt chính

đúng pháp luật.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo
cho những độc giả có quan tâm về vấn đề này. Với vai trò là một tài liệu tham khảo,
đề tài cũng góp phần nâng cao nhận thức và hiệu quả thực tiễn công tác của những
người áp dụng hình phạt chính tại Tòa án nhân dân cấp huyện.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lí luận về áp dụng hình phạt chính.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 & Bộ luật hình sự năm
2015 về áp dụng hình phạt chính.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng hình phạt chính tại TAND huyện Tân Biên và
các giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt chính đúng pháp luật.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT CHÍNH
1.1. Khái niệm hình phạt chính, các loại hình phạt chính và điều kiện áp
dụng
1.1.1. Khái niệm hình phạt chính
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, là công
cụ hữu hiệu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Chế định hình phạt là một
trong những chế định quan trọng nhất của luật hình sự Việt Nam.
Bộ luật hình sự năm 1999, lần đầu tiên đã đưa ra khái niệm pháp lý chính
thức của hình phạt tại Điều 26: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc
nhất của Nhà nước nhằm tước đoạt hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm
tội. Hình phạt được quy định trong BLHS và do Toà án quyết định” [40, tr.27].
Điều 30 của Bộ luật hình sự năm 2015 đã kế thừa quy định của Bộ luật hình sự năm

1999 về hình phạt và khẳng định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc
nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng
đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế
quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó” [46, tr.26].
Hệ thống hình phạt quy định trong bộ luật hình sự của nước ta được cấu
thành bởi các hình phạt cụ thể có nội dung, phạm vi và điều kiện áp dụng được quy
định rất chặt chẽ, phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của từng
trường hợp phạm tội. Dựa trên những tiêu chí, mục đích khác nhau mà có cách phân
loại hình phạt khác nhau. Điều 28 BLHS năm 1999 chia hệ thống hình phạt thành
hai loại là: Hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Cụ thể có bảy loại hình chính áp
dụng đối với người phạm tội gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục
xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình. Tại khoản 2 Điều 28 BLHS năm 1999
quy định bảy loại hình phạt bổ sung gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; tước một số quyền công dân; Phạt tiền,
khi không áp dụng là hình phạt chính; trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt
chính. Kế thừa BLHS năm 1999, Điều 32 BLHS năm 2015 quy định về các hình
6


phạt đối với người phạm tội vẫn giữ nguyên quy định về bảy loại hình phạt chính và
hình phạt bổ sung đối với người phạm tội.
Theo đó, hình phạt chính là loại hình phạt được áp dụng chính thức cho
người phạm tội, được Tòa án tuyên một cách độc lập và chỉ được áp dụng một hình
phạt chính đối với một trường hợp phạm tội cụ thể. Trong khi đó, hình phạt bổ sung
không được tuyên độc lập mà chỉ được tuyên kèm với hình phạt chính và có thể
không áp dụng, áp dụng một hoặc nhiều hình phạt bổ sung đối với một trường hợp
cụ thể. So với hình phạt bổ sung thì hình phạt chính mang tính nghiêm khắc, nặng
hơn rất nhiều, cụ thể: Hình phạt chính đánh thẳng vào các quyền cơ bản của công
dân như quyền tự do, quyền sống; khi áp dụng hình phạt chính có thể áp dụng thêm
một hoặc nhiều biện pháp hình phạt bổ sung.

1.1.2. Các loại hình phạt chính và điều kiện áp dụng
Hình phạt chính được áp dụng đối với người phạm tội theo quy định Điều 28
BLHS năm 1999 và Điều 32 BLHS năm 2015 gồm bảy loại hình phạt: Cảnh cáo,
phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình.
Riêng đối với người chưa thành niên phạm tội, Điều 71 BLHS năm 1999 và Điều
98 BLHS năm 2015 đều quy định người chưa thành niên phạm tội chỉ bị áp dụng
một trong các hình phạt sau đây đối với mỗi tội phạm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo
không giam giữ và tù có thời hạn. Đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi
từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì không áp dụng hình phạt tiền. Mỗi hình phạt
chính có vị trí, vai trò, ý nghĩa và điều kiện áp dụng khác nhau trong hệ thống hình
phạt, có phương thức liên kết với nhau theo một trật tự tăng dần về tính chất nghiêm
khắc của từng loại hình phạt.
1.1.2.1. Hình phạt cảnh cáo
- Khái niệm:
Bộ luật hình sự năm 1999 không đưa ra khái niệm hình phạt cảnh cáo mà chỉ
quy định điều kiện áp dụng nhưng nhìn chung hình phạt cảnh cáo hiện nay được
hiểu tương đối thống nhất như: “Cảnh cáo là sự khiển trách công khai của Tòa án

7


đối với người bị kết án” [28, tr.361] hay “Cảnh cáo là sự khiển trách công khai của
Nhà nước do Tòa án tuyên đối với người bị kết án” [32, tr.53].
Cảnh cáo được xếp ở vị trí đầu tiên trong hệ thống hình phạt chính, là hình
phạt có mức độ nghiêm khắc thấp nhất trong hệ thống hình phạt, không có khả năng
đưa lại những hạn chế pháp lý liên quan trực tiếp đến các quyền và lợi ích thiết thân
về thể chất và tài sản… của người bị kết án nhưng với tư cách là khiển trách công
khai của Nhà nước đối với người phạm tội, cảnh cáo cũng gây ra cho người bị kết
án những tổn hại nhất định về mặt tinh thần, phải chịu sự lên án của Nhà nước về
hành vi phạm tội của mình.

- Điều kiện áp dụng
+ Tội phạm mà người đó thực hiện phải là tội ít nghiêm trọng. Theo đó căn cứ
để xác định tội ít nghiêm trọng được quy định ngay trong điều luật, mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội phạm ít nghiêm trọng tối đa là 03 năm tù.
+ Người phạm tội phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ: Tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự là những tình tiết không có ý nghĩa về mặt định tội, định khung hình
phạt mà chỉ có tác dụng làm giảm mức hình phạt trong phạm vi một khung hình
phạt, được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999. Nghĩa là ít
nhất phải có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên theo quy định tại Điều 46, có thể có
một tình tiết giảm nhẹ qui định tại khoản 1 và một tình tiết giảm nhẹ qui định tại
khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999, thậm chí cả 2 tình tiết giảm nhẹ đều được qui
định tại khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999 (trường hợp này Toà án phải ghi rõ trong
bản án là tình tiết nào và vì sao lại áp dụng tình tiết đó).
Nếu thiếu một trong các điều kiện trên thì không thể áp dụng hình phạt cảnh
cáo với người phạm tội. Khi áp dụng hình phạt cảnh cáo, Tòa án phải cân nhắc tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm
tội, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Khi áp dụng hình
phạt cảnh cáo còn phải chú ý tới một nội dung “hành vi phạm tội chưa đến mức
được miễn hình phạt”. Hậu quả pháp lý giữa áp dụng hình phạt cảnh cáo và miễn
hình phạt đối với người phạm tội là hoàn toàn khác biệt. Người được miễn hình

8


phạt theo quy định tại Điều 54 BLHS năm 1999 sẽ được xóa án tích ngay sau khi
quyết định miễn hình phạt.
Ngoài ra, hình phạt cảnh cáo cũng có thể được Tòa án áp dụng ngay cả trong
trường hợp điều luật không quy định hình phạt cảnh cáo đó là trường hợp quyết
định hình phạt theo quy định tại Điều 54 BLHS năm 2015.
So với quy định tại Điều 29 BLHS năm 1999 thì Điều 34 BLHS năm 2015

giữ nguyên không có sự sửa đổi, bổ sung nào.
1.1.2.2. Hình phạt tiền
Khái niệm
Mặc dù BLHS năm 1999 không đưa ra khái niệm về “phạt tiền”, nhưng với
tư cách là một biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được quy định trong BLHS và do
Tòa án áp dụng, khái niệm về hình phạt tiền có thể hiểu như sau: “Phạt tiền là hình
phạt tước của người bị kết án một khoản tiền nhất định để sung công quỹ Nhà
nước” [28, tr.129].
Với định nghĩa nêu trên, phạt tiền là hình phạt tước đi những quyền lợi vật
chất của người bị kết án, tác động đến tình trạng tài sản của họ và qua đó tác động
đến ý thức của người phạm tội thông qua việc buộc người phạm tội phải nộp một
khoản tiền sung quỹ nhà nước. Tuy hình phạt tiền không phải là hình phạt chính
duy nhất tác động về mặt kinh tế đối với người phạm tội chẳng hạn hình phạt cải tạo
không giam giữ cũng có khả năng tác động về mặt kinh tế đối với người bị kết án
thông qua quy định nghĩa vụ khấu trừ từ 5% đến 20% thu nhập của người bị kết án
để sung quỹ Nhà nước. Tuy nhiên, phạt tiền có khả năng tác động về mặt kinh tế đối
với người phạm tội mạnh hơn, trực tiếp hơn chứ không tác động một cách hạn chế
như hình phạt khác cũng như có ý nghĩa hạn chế các điều kiện về tài sản mà người
phạm tội có thể sử dụng để tiếp tục phạm tội.
Điều kiện áp dụng
So với quy định tại khoản 1 Điều 30 BLHS năm 1999 thi điều kiện áp dụng
hình phạt tiền theo Bộ luật hình sự năm 2015 tiếp tục được mở rộng hơn. Chẳng hạn
như bổ sung thêm người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, phạm tội

9


rất nghiêm trọng trong một số trường hợp được bộ luật quy định và trường hợp phạt
tiền được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung đối với pháp nhân
thương mại phạm tội.

Như vậy, điều kiện để áp dụng hình phạt tiền theo quy định tại BLHS năm
1999 là chỉ áp dụng đối với các tội phạm ít nghiêm trọng. Tội phạm ít nghiêm trọng
như đã đề cập ở phần hình phạt cảnh cáo, được quy định tại khoản 3 Điều 8 BLHS
năm 1999 điểm a khoản 1 BLHS năm 2015 được quy định áp dụng đối với người
phạm tội ít nghiêm trọng và cả người phạm tội nghiêm trọng trong một số trường
hợp được nêu trong Bộ luật hình sự 2015 và người phạm tội rất nghiêm trọng xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng...
So sánh quy định tại Điều 30 BLHS năm 1999 và Điều 35 BLHS năm 2015
chúng tôi thấy Điều 35 BLHS năm 2015 đã mở rộng, nêu rõ phạm vi áp dụng hình
phạt tiền, cụ thể: Hình phạt tiền được áp dụng cả đối với người phạm tội ít nghiêm
trọng và người phạm tội nghiêm trọng trong một số trường hợp được nêu trong Bộ
luật hình sự 2015 và người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng...
1.1.2.3. Hình phạt cải tạo không giam giữ
Khái niệm
Điều 31 BLHS năm 1999 không đưa ra khái niệm về Cải tạo không giam
giữ, nhưng có thể hiểu đây là hình phạt chính nhẹ hơn phạt tù có thời hạn, nhưng
nặng hơn cảnh cáo và phạt tiền và người bị kết án vẫn được cải tạo ngoài xã hội với
sự giám sát và giúp đỡ của gia đình, cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương,
tính chất nghiêm khắc của hình phạt cải tạo không giam giữ thể hiện ở chỗ tuy
người bị kết án không bị tước quyền tự do thân thể, không bị cách ly bởi môi trường
sống bình thường nhưng họ phải chịu sự giám sát, quản lý chặt chẽ của cơ quan, tổ
chức nơi họ làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi họ cư trú kết hợp với gia
đình.
Điều kiện áp dụng

10


Theo quy định tại khoản 1 Điều 31 BLHS năm 1999: “Cải tạo không giam

giữ được áp dụng từ sáu tháng đến ba năm đối với tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm
trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường
trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội”,
hiểu theo tinh thần của điều luật, để có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không
giam giữ người phạm tội phải có đủ điều kiện sau:
Thứ nhất, hình phạt cải tạo không giam giữ áp dụng đối với người phạm tội
ít nghiêm trọng và người phạm tội nghiêm trọng. Các tội phạm ít nghiêm trọng và
nghiêm trọng là những tội phạm mà hậu quả thiệt hại gây ra cho xã hội không quá
lớn, có thể khắc phục được trong môi trường bình thường, không cần phải cách ly
họ ra khỏi đời sống xã hội mà vẫn có thể đạt được mục đích của hình phạt. Trong hệ
thống hình phạt chính, cải tạo không giam giữ là hình phạt chính tính nghiêm khắc
có phần hạn chế nên không được áp dụng cho người phạm tội rất nghiêm trọng hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Thứ hai, người phạm tội đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ
ràng, cải tạo không giam giữ là hình phạt trong đó người bị kết án có thể tự cải tạo,
tự giáo dục dưới sự giám sát của cơ quan tổ chức chính quyền địa phương trong sự
phối hợp với gia đình. Do đó, hiệu quả hình phạt sẽ không đạt được nếu người đó
không có nơi làm việc ổn định hoặc nơi cư trú rõ ràng.
Thứ ba, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã
hội thì Tòa án có thể áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Nói cách khác, hình
phạt này được quyết định áp dụng trong trường hợp Tòa án xét thấy không cần thiết
phải cách ly người phạm tội ra khỏi môi trường sống bình thường, chỉ hạn chế tự do
của người bị kết án không làm cho mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội tiếp tục
phát triển, gây nguy hại cho xã hội mà người phạm tội vẫn có thể tự cải tạo, giáo
dục được thì Tòa án có thể cân nhắc và quyết định áp dụng hình phạt cải tạo không
giam giữ.
So với BLHS năm 1999 BLHS năm 2015 có những sửa đổi, bổ sung như
sau:

11



Thứ nhất, cụ thể hóa nội dung cải tạo không giam giữ đối với người không
có việc làm, theo đó, người bị kết án không có việc làm ổn định hoặc mất việc làm
trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao
động phục vụ cộng đồng trong một thời hạn nhất định do Tòa án quyết định. Quy
định này thể hiện quan điểm giáo dục cải tạo người phạm tội thông qua lao động.
Xác định cụ thể thời gian lao động phục vụ cộng đồng là không quá 4 giờ/một ngày
và không quá 5 ngày/một tuần. Điều luật cũng quy định rõ: Không áp dụng biện
pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với năm đối tượng người bị kết án cải tạo
không giam giữ sau đây: (1) Phụ nữ đang có thai; (2) phụ nữ đang nuôi con dưới 06
tháng tuổi; (3) người già yếu; (4) người bị bệnh hiểm nghèo; (5) người khuyết tật
nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng. Nhìn chung, đây là những đối tượng yếu thế,
cần có chính sách bảo vệ đặc biệt.
Thứ hai, bổ sung quy định không khấu trừ thu nhập đối với người đang thực
hiện nghĩa vụ quân sự, bởi khi thực hiện nghĩa vụ quân sự, người đó không có thu
nhập (lương) hàng tháng mà chỉ có một khoản phụ cấp tiêu vặt để phục vụ cho nhu
cầu sinh hoạt cá nhân.
1.1.2.4 Tù có thời hạn
Khái niệm
Hình phạt tù nằm trong hình phạt chính, bao gồm hình phạt tù có thời hạn và
tù chung thân và cũng được sắp xếp theo thứ tự từ nhẹ đến nặng, có mức độ nghiêm
khắc phù hợp với các mức độ nghiêm trọng, nguy hiểm của từng loại tội phạm.
Theo Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định đây là hình phạt tước tự do của
người phạm tội trong khoảng thời gian nhất định. Trường hợp phạm một tội thì mức
tối thiểu là 3 tháng còn tối đa là 20 năm.
Điều kiện áp dụng
Hình phạt tù mang đầy đủ các nội dung cơ bản của hình phạt, là biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước. Theo quy định Điều 33 BLHS năm
1999 có thể thấy điều kiện áp dụng hình phạt tù là phải được quy định trong Bộ luật

Hình sự và do Tòa án áp dụng. Hình phạt tù chỉ có thể áp dụng đối với người phạm

12


tội và áp dụng có thời hạn. Đối với trường hợp phạm nhiều tội mà hình phạt đã
tuyên là tù có thời hạn, theo quy định tại Điều 55 BLHS thì hình phạt chung không
được vượt quá 30 năm. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 38 BLHS năm 2015 bổ sung thêm
01 điều kiện về áp dụng hình phạt tù có thời hạn là không áp dụng hình phạt tù có
thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ
ràng. Qua thực tiễn xét xử cho thấy hình phạt tù là hình phạt được áp dụng phổ biến
nhất. Quy định này nhằm hạn chế áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người
phạm tội khi xét thấy tính chất mức độ phạm tội chưa đến mức phải tước đi tự do
của người phạm tội mới đạt được mục đích áp dụng hình phạt đối với người phạm
tội.
Một nội dung hết sức quan trọng khi nghiên cứu về hình phạt tù có thời hạn
đó là chế định án treo, một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Đây
là trường hợp ngoại lệ đặc biệt của việc thi hành hình phạt tù, người bị kết án tù có
thời hạn không buộc phải chấp hành hình phạt tại trại giam mà được chấp hành hình
phạt ngoài xã hội với những điều kiện ràng buộc nhất định. Tại Điều 60 Bộ luật
Hình sự năm 1999 quy định rõ các căn cứ, điều kiện cho người bị kết án được
hưởng án treo, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 3
năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy
không cần buộc phải chấp hành hình phạt tù thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn
định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm được hướng dẫn áp dụng cụ thể
tại Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng thẩm phán
TAND Tối cao. Và nhằm mục đích thể chế hóa chính sách hình sự của Nhà nước ta
và Hiến pháp năm 2013, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tiếp tục ghi
nhận chế định án treo. So với Điều 60 BLHS năm 1999 [1] (sửa đổi, bổ sung năm
2009) thì chế định về án treo quy định tại Điều 65 BLHS năm 2015 đã được nhà

làm luật sửa đổi, bổ sung về nội dung đầy đủ, bao quát hơn, câu từ rõ nghĩa, chính
xác hơn. Cụ thể: Tại khoản 1, ngoài sử dụng ký tự số “03” thay cho chữ “ba”, nhà
làm luật bổ sung cụm từ “thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy
định của Luật thi hành án hình sự.”.

13


* Điều kiện để xem xét cho người bị phạt tù được hưởng án treo theo quy
định pháp luật:
Tại Điều 60 BLHS năm 1999 và Điều 65 BLHS năm 2015 không có sự thay
đổi nhiều về điều kiện áp dụng án treo. Tuy nhiên, Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP
ngày 06/11/2013 của TAND Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 60 BLHS năm 1999
và Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 hướng dẫn áp dụng Điều 65
BLHS năm 2015 có nhiều sửa đổi theo hướng mở rộng điều kiện áp dụng án treo
đối với người phạm tội, một số điểm mới cơ bản về điều kiện cho hưởng án treo
như:
- Bị xử phạt tù không quá 3 năm về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội
rất nghiêm trọng theo phân loại tội phạm quy định tại khoản 3 Điều 8 BLHS năm
1999; nhưng tại Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP chỉ quy định bị xử phạt tù không
quá 3 năm không giới hạn loại tội phạm gì.
- Quy định về “nhân thân tốt” tại Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày
06/11/2013 là người không vi phạm các điều mà pháp luật cấm; chưa bao giờ bị kết
án, bị xử lý vi phạm hành chính, bị xử lý kỷ luật. Trong khi Nghị quyết
02/2018/NQ-HĐTP quy định chi tiết cụ thể hơn về người đã bị kết án nhưng đã
được xóa án tích, xóa tiền sự... và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho
hưởng án treo.
- Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 chỉ quy định đơn giản
“có nơi cư trú rõ ràng” Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP quy định cụ thể chi tiết
trường hợp nào là nơi cư trú rõ ràng theo Luật cư trú: Nơi cư trú, nơi làm việc.

- Đặc biệt quy định Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 quy
định: “Không có tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại khoản 1 Điều 48 BLHS và
có từ 02 tình tiết giảm nhẹ TNHS trở lên, trong đó có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ
quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS; nếu có một tình tiết tăng nặng TNHS thì phải
có từ 03 tình tiết giảm nhẹ TNHS trở lên, trong đó có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ
quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS; Đối với trường hợp không có tình tiết tăng
nặng thì hai Nghị quyết đều quy định giống nhau là có ít nhất 1 tình tiết giảm nhẹ

14


tại khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 tương đương khoản 1 Điều 51 BLHS năm
2015. Nhưng trong trường hợp có 1 tình tiết tăng nặng Nghị quyết 01/2013/NQHĐTP ngày 06/11/2013 quy định có từ 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
trở lên, trong đó có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định
tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự. Trong khi Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP
quy định “Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự”.
Đối với quy định về một số trường hợp không cho hưởng án treo cũng có
nhiều thay đổi:
- Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 quy định
“Người phạm tội thuộc đối tượng cần phải nghiêm trị quy định tại khoản 2 Điều 3
của Bộ luật hình sự bao gồm: người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống
đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm
tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên
nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng; phạm tội đặc biệt nghiêm trọng”; Điều 3
Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP chỉ giới hạn đối với trường hợp cố ý gây hậu quả
đặc biệt nghiêm trọng.
- Điểm c khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013

quy định trường hợp “Trong hồ sơ thể hiện là ngoài lần phạm tội và bị đưa ra xét
xử, họ còn có hành vi phạm tội khác đã bị xét xử trong một vụ án khác hoặc đang bị
khởi tố, điều tra, truy tố trong một vụ án khác” nhưng Điều 3 Nghị quyết
02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 quy định: “Người được hưởng án treo phạm
tội mới trong thời gian thử thách; người đang được hưởng án treo bị xét xử về một
tội phạm khác thực hiện trước khi được hưởng án treo” và “Người phạm tội thuộc
trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm.”
Có thể thấy Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 đã kế thừa bổ
sung nhiều quy định Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 theo hướng

15


quy định chi tiết hơn điều kiện áp dụng và mở rộng phạm vi áp dụng án treo đối với
người phạm tội.
* Điều kiện áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Do xuất phát từ những đặc điểm của người chưa thành niên nên Điều 69
BLHS năm 1999 quy định không áp dụng một số hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội gồm: Hình phạt tù chung thân; hình phạt tử hình, hình phạt tiền
đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, các
hình phạt bổ sung. Điều 98 BLHS năm 2015 quy định các hình phạt được áp dụng
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội “người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ bị áp dụng
một trong các hình phạt sau đây đối với mỗi tội phạm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo
không giam giữ và tù có thời hạn.”
Thứ nhất, hình phạt cảnh cáo:Khi áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với người
chưa thành niên phạm tội, Tòa án phải căn cứ vào quy định tại Điều 29 BLHS năm
1999, chỉ áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với người chưa thành niên phạm tội ít
nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt.
Bởi lẽ, không có quy định riêng nên việc áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với người
chưa thành niên phạm tội vẫn phải tuân thủ quy định chung tại Điều 29 BLHS năm

1999.
Thứ hai, hình phạt tiền: Phạt tiền cũng là một trong 4 hình phạt chính được
áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Khoản 5 Điều 69 BLHS năm 1999
và tại Điều 72 BLHS năm 1999, hình phạt tiền chỉ được áp dụng đối với người
phạm tội từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng;
mức phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai mức
tiền phạt mà điều luật quy định. Quy định mới này nhằm hạn chế việc áp dụng hình
phạt tù đối với người chưa thành niên đồng thời việc áp dụng phạt tiền đối với
người chưa thành niên phạm tội trong trường hợp này vẫn đảm bảo được mục đích
của hình phạt thể hiện rõ chính sách nhân đạo của nước ta hướng tới mục đích giáo
dục cải tạo người chưa thành niên là chính.

16


Thứ ba, hình phạt cải tạo không giam giữ: Bộ luật hình sự Việt Nam không
quy định điều kiện áp dụng riêng đối với người chưa thành niên phạm tội nhưng
quy định thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên thấp hơn,
không được vượt qua một phần hai thời hạn mà điều luật quy định so với người
thành niên phạm tội.
Thứ tư, hình phạt tù có thời hạn: Đây là hình phạt có tính nghiêm khắc nhất
trong các hình phạt chính áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Điều 74
BLHS 1999 quy định điều kiện để áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người
chưa thành niên phạm tội là chỉ áp dụng trong trường hợp thật cần thiết và điều luật
được áp dụng quy định. Bộ luật hình sự quy định không xử phạt tù chung thân hoặc
tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội; khi xử phạt tù có thời hạn, người
chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với
người đã thành niên phạm tội tương ứng theo quy định.
BLHS không có quy định điều kiện áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo
cũng đối với người chưa thành niên nên khi quyết định hình phạt tù cho hưởng án

treo đối với người chưa thành niên vẫn tuân thủ các điều kiện chung về áp dụng án
treo đối với người trên 18 tuổi. Nhưng Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP quy định
không cho hưởng án treo đối với người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về
nhiều tội. Đến Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 sửa đổi “Người
phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội, trừ trường hợp người phạm tội
là người dưới 18 tuổi”, như vậy sửa đổi theo hướng mở rộng phạm vi được hưởng
án treo đối với người dưới 18 tuổi nếu đáp ứng các điều kiện chung khác về án treo
kể cả trong trường hợp bị xét xử cùng một lần về nhiều tội.
1.2. Các nguyên tắc áp dụng hình phạt chính
1.2.1. Các nguyên tắc chung áp dụng hình phạt chính
1.2.1.1. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Khi áp dụng hình phạt, Tòa án phải tuân thủ các quy định của pháp luật hình
sự.
Nội dung của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa

17


i. Có thể áp dụng hình phạt chỉ đối với hành vi phạm tội được quy định cụ
thể trong luật.
ii. Tòa án chỉ có thể tuyên những hình phạt phải tuân theo trình tự pháp luật
được quy định trong BLHS và việc áp dụng hình phạt phải tuân thủ theo trình tự và
các điều kiện áp dụng tùy thuộc vào từng loại hình phạt cụ thể.
iii. Nguyên tắc này yêu cầu phải có tính hợp lý trong việc áp dụng hình phạt
phạt, được thực hiện ở chỗ Tòa án phải được lựa chọn một loại hình phạt và một
mức hình phạt đúng luật và phải phù hợp với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm
tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình
sự.
1.2.1.2. Nguyên tắc công bằng
Nội dung của nguyên tắc công bằng thể hiện ở các đặc điểm sau:

i. Loại và mức hình phạt do Tòa án phải tuyên tương xứng với tội phạm đã
thực hiện và nhân thân người phạm tội.
ii. Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải cân nhắc các đặc điểm, tính cách,
địa vị xã hội của người phạm tội.
iii. Hình phạt được tuyên cần phải phản ánh một cách đúng đắn dư luận xã
hội, ý thức pháp luật và đạo đức xã hội; phải có đủ sức thuyết phục mọi người ở
tính đúng đắn, tính công bằng của chính sách xét xử của nhà nước.
1.2.1.3. Nguyên tắc nhân đạo
Nguyên tắc nhân đạo trong quyết định hình phạt được thực hiện ở các đặc
điểm sau:
i. Tòa án phải cân nhắc lợi ích của xã hội, của nhà nước và của người phạm
tội một cách hài hòa và hợp lý. Nhân đạo đòi hỏi phải có thái độ đúng đắn cả đối
với lợi ích của Nhà nước lẫn đối với của bị cáo.
ii. Nguyên tắc này thể hiện ở việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội
chủ yếu nhằm cải tạo, giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội. Hình phạt
không gây đau đớn về thể xác của người phạm tội. Bộ luật hình sự có nhiều quy
định tạo điều kiện cho người phạm tội tự cải tạo, có cơ hội để sớm hoà nhập vào

18


cộng đồng như: Quy định về miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, án treo và
một số hình phạt không tước quyền tự do như hình phạt cảnh cáo.
iii. Hạn chế sự trừng trị trong áp dụng hình phạt, không cho phép quyết định
hình phạt quá mức cần thiết.
1.2.1.4. Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt
Nội dung của nguyên tắc cá thể hóa TNHS thể hiện ở các đặc điểm sau:
i. Tòa án phải căn cứ vào quy định của pháp luật hình sự, cân nhắc tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và
các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt cụ thể

ở mức lớn nhất tạo điều kiện cho việc đạt được mục đích của hình phạt.
ii. Luật pháp đã quy định hai loại chế tài: Chế tài xác định tương đối và chế
tài tùy nghi. Đa số các chế tài quy định khung hình phạt rất rộng và quy định bằng
hai hoặc nhiều loại hình phạt, cho phép Tòa án lựa chọn áp dụng hình phạt phù hợp
với từng loại tội phạm.
1.2.1.5. Nguyên tắc mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình
phạt chính
Khoản 3 Điều 27 BLHS quy định nguyên tắc quan trọng trong áp dụng hình
phạt chính đó là:
+ Hình phạt chính được tuyên độc lập;
+ Hình phạt chính được vận dụng riêng rẽ chứ không đồng thời áp dụng đối
với người phạm tội, chỉ áp dụng một trong các hình phạt chính.
+ Khi áp dụng một hình phạt chính có thể áp dụng thêm một hoặc nhiều biện
pháp hình phạt bổ sung.
Nghĩa là một hành vi phạm tội, người phạm tội chỉ bị áp dụng độc lập, riêng
lẻ và duy nhất một hình phạt chính được BLHS quy định.
1.2.2. Các nguyên tắc áp dụng hình phạt chính đối với người dưới 18 tuổi
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trẻ em, người dưới 18 tuổi là đối tượng cần
bảo vệ, chăm sóc và quan tâm đặc biệt đối với cả hai trường hợp, khi họ là chủ thể
của tội phạm cũng như khi họ là nạn nhân của tội phạm. Nhận thức này đã được thể

19


×