Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Quản lý Nhà nước về tôn giáo từ thực tiễn tỉnh Bình Dương (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (632.75 KB, 98 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ VĂN GẤM

LÊ VĂN GẤM

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

KHÓA VIII ĐỢT 1 - 2017

HÀ NỘI - 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ VĂN GẤM

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG

Ngành

: Luật hiến pháp và luật hành chính


Mã số

: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐỖ THỊ KIM ĐỊNH

HÀ NỘI - 2019


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, cho phép tôi gửi lời cảm ơn đến:
Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo, cùng Quý thầy, cô giáo Học viện
Khoa học xã hội đã giảng dạy và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập
tại Học viện; Quý thầy, cô giáo Khoa Luật đã tạo điều kiện cho tôi trong quá
trình học tập và thực hiện luận văn.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Đỗ Thị Kim Định Người Cô rất nhiệt tình, chu đáo đã chỉ dạy cho tôi rất nhiều, với sự tận tâm,
tận tình hướng dẫn về khoa học và phương pháp nghiên cứu trong suốt quá
trình học và thực hiện luận văn, Cô đã tạo điều kiện, quan tâm và giúp đỡ để
luận văn này được hoàn thành. Kiến thức, sự nhiệt huyết và tấm lòng của Cô
luôn là điều làm cho tôi ngạc nhiên và nể phục.
Tôi xin cảm ơn PGS.TS.GVCC. Bùi Đức Kháng (Học viện Hành chính
Quốc gia) và gia đình TS.GVC. Bùi Quang Xuân (Học viện Chính trị Khu vực
2) đã động viên, khích lệ và tạo điều kiện giúp đỡ trong quá trình học tập và
thực hiện luận văn, cũng như hỗ trợ tôi trong việc tìm kiếm các số liệu liên
quan đến đề tài và những ý kiến trao đổi đến đề tài luận văn.
Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn và kính chúc sức khỏe Quý
thầy, cô giáo, Quý cơ quan đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực
hiện luận văn này.
Học viên kính ghi


Lê Văn Gấm


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Đỗ Thị Kim Định và chưa được công bố trên
bất kỳ phương tiện nào. Các thông tin, số liệu sử dụng trong đề tài được dẫn
nguồn cụ thể theo quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về mặt pháp
lý và đạo đức đối với lời cam đoan này.
Người cam đoan

Lê Văn Gấm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ TÔN GIÁO ................................................................................ 1
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về tôn giáo ............. 9
1.2. Nội dung quản lý nhà nước về tôn giáo ................................................ 14
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về tôn giáo ...................... 25
Tiểu kết Chương 1 ....................................................................................... 30
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO TỪ
THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG ......................................................... 31
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Bình
Dương .......................................................................................................... 31
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Bình Dương ............. 38
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo từ thực tiễn tỉnh Bình
Dương .......................................................................................................... 52

Tiểu kết Chương 2 ....................................................................................... 60
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ TÔN GIÁO Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG ................................................ 61
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tôn
giáo………………………………………………………………………….61
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tôn giáo ở tỉnh Bình
Dương……………………………………………………………………….67
Tiểu kết Chương 3 ....................................................................................... 78
KẾT LUẬN................................................................................................. 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CB,CC, VC : Cán bộ, công chức, viên chức
KT-XH

: Kinh tế - xã hội

QLNN

: Quản lý nhà nước

TW

: Trung ương

UBND

: Ủy ban nhân dân


XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước đa dân tộc, đa tôn giáo, với đời sống tôn giáo đa
dạng và khá phức tạp. Hiện nay, theo xu hướng chung của các tôn giáo trên
thế giới (thế tục hóa, đa dạng hóa và dân tộc hóa), tình hình đời sống tôn giáo
ở Việt Nam cũng có sự biến đổi. Các tôn giáo có sự phục hồi, phát triển nhanh
chóng và phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống xã hội. Trong khi đó,
các thế lực xấu lợi dụng tôn giáo, nhân quyền nhằm chống phá nước ta. Vì
vậy, đòi hỏi nhà nước phải nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tôn giáo,
nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Bình Dương là tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, nằm trong Vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam, một trong những trung tâm phát triển năng động, có tốc
độ đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa cao. Tỉnh Bình Dương có 1 thành
phố, 4 thị xã và 4 huyện (với 41 phường, 2 thị trấn và 50 xã), với nhiều khu
công nghiệp thu hút lao động của các tỉnh, thành phố trong cả nước và cả
người nước ngoài đến sinh sống và làm việc. Nhận thức được tôn giáo là vấn
đề “nhạy cảm”, dễ xảy ra “điểm nóng chính trị” và là lĩnh vực mà các thế lực
thù địch trong và ngoài nước thường lợi dụng để chống phá nhà nước ta, chính
quyền địa phương, Ủy ban nhân dân các cấp trong tỉnh Bình Dương xác định
công tác quản lý nhà nước về tôn giáo có tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn.
Thực hiện tốt quản lý nhà nước về tôn giáo đã góp phần đảm bảo quyền tự do

tôn giáo của một bộ phận nhân dân có đạo, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn
xã hội và giải quyết tốt mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo; đại đa số chức
sắc, tín đồ tôn giáo chấp hành tốt chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà
1


nước, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, nhân đạo, từ thiện, góp phần
vào sự nghiệp chung của tỉnh theo phương châm “Sống tốt đời đẹp đạo”.
Trong những năm qua, tại tỉnh Bình Dương chưa để xảy ra “điểm nóng”
hay những bất ổn về tình hình tôn giáo. Tuy nhiên, trong hoạt động QLNN về
tôn giáo đôi khi còn lúng túng và để xảy ra một số hạn chế, bất cập nhất định
đã ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu lực và hiệu quả của QLNN về tôn giáo như:
việc triển khai Luật tín ngưỡng, tôn giáo và các văn bản quy phạm pháp luật
ở một số địa phương vẫn còn lúng túng; công tác giám sát, theo dõi, nắm tình
hình chưa thường xuyên; một số cán bộ, công chức còn chưa thực sự am hiểu
lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo và chính sách, pháp luật liên quan đến hoạt động
tôn giáo.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Quản lý Nhà nước về
tôn giáo từ thực tiễn tỉnh Bình Dương” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
thạc sĩ ngành Luật hiến pháp và luật hành chính, với mục đích nghiên cứu
những giải pháp hữu hiệu để tăng cường quản lý nhà nước cả về phương diện
pháp lý lẫn thực tiễn ở lĩnh vực tôn giáo của tỉnh Bình Dương.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, vấn đề tôn giáo nói chung và quản lý nhà nước về
tôn giáo nói riêng vẫn luôn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Đã
có rất nhiều bài viết trên các tạp chí, các sách, các báo, nhiều luận văn, luận
án, các công trình nghiên cứu khoa học đề cập đến vấn đề này. Có thể kể đến
các công trình nghiên cứu về tôn giáo và quản lý nhà nước về tôn giáo có liên
quan trực tiếp đến đề tài luận văn, cụ thể như:
- Đỗ Thị Kim Định (2014), Thực tiễn áp dụng pháp luật về tôn giáo ở

Việt Nam hiện nay, Tạp chí nghiên cứu Tôn giáo. Trong bài viết này, tác giả
đã phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay, cả thành tựu
và hạn chế, để thấy việc hoàn thiện pháp luật về tôn giáo ở nước ta đang là
2


một yêu cầu , một mục tiêu trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
[19, tr. 19 - 30].
- Nguyễn Hồng Dương (2015), Những thách thức của đa dạng tôn giáo
tại Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội, Số 6 (148), tr.
3 - 10. Bài viết nghiên cứu vấn đề đa dạng tôn giáo ở Việt Nam đem lại cho
tôn giáo ở Việt Nam diện mạo mới, làm phong phú đời sống tâm linh - tôn
giáo ở Việt Nam. Nền văn hóa Việt Nam dưới tác động của đa dạng tôn giáo
đã và đang được bổ sung thêm những giá trị văn hóa - tôn giáo mới,… Song
đa dạng tôn giáo ở Việt Nam đã và đang đặt ra những thách thức, đồng thời
đặt ra những vấn đề đối với công tác quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay. Bài viết đi vào hai nội dung chính: (1) Những thách thức của đa
dạng tôn giáo; (2) Những vấn đề đặt ra đối với quản lý nhà nước về tôn giáo
tại Việt Nam hiện nay.
- Trần Xuân Nghĩa (2017), Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và điểm
mới về chính sách tôn giáo của Đảng và nhà nước ta, Tạp chí Khoa học Đại
học Văn Lang, (số 5), tr. 16 -20. Tác giả bài viết đã đề cập về tư tưởng đoàn
kết dân tộc trong đó có đoàn kết tôn giáo là một nội dung quan trọng trong
chiến lược đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Luận điểm sáng tạo của
Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của đoàn kết tôn giáo trong khối đại đoàn kết
toàn dân tộc đã được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo phù hợp
với tình hình thực tiễn trong giai đoạn hiện nay.
- Đỗ Thu Hường và Nguyễn Thị Hòa (2017), Một số quan điểm của
Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo và việc vận dụng vào nước ta hiện nay, Bài
viết đề cập cán bộ công tác tôn giáo vừa giỏi về nghệ thuật quản lý, vừa giỏi

về công tác vận động đồng bào tôn giáo với những phương thức uyển chuyển
và sáng tạo là tư tưởng cốt lõi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo.
Bài viết thể hiện tư tưởng của Người về tín ngưỡng tôn giáo và công tác tôn
3


giáo, qua đó đề xuất giải pháp vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về tôn giáo vào thực tiễn công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay [24,
tr. 64 – 69].
- Học viện Hành chính Quốc gia (2006), Quản lý nhà nước về tôn
giáo, dân tộc, NXB Giáo dục. Trong phần thứ nhất của cuốn sách đề cập đến
quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo với các nội dung như: Khái
quát chung về tôn giáo; những vấn đề cơ bản về tôn giáo ở nước ta; nội dung
quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo.
- Nguyễn Hữu Khiển (2001), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo trong điều kiện xây dựng Nhà nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam hiện
nay, NXB Công an nhân dân. Nội dung cuốn sách trình bày các quan điểm
của Đảng và Nhà nước về hoạt động tôn giáo, xây dựng và hoàn thiện từng
bước bộ máy quản lý các hoạt động tôn giáo, tạo điều kiện thuận lợi về sinh
hoạt cho đồng bào có đạo, ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tôn giáo để tuyên
truyền chính trị trái với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Bùi Hữu Dược (2014), Quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam từ
năm 1975 đến nay, Luận án Tiến sĩ Tôn giáo học, Học viện Khoa học xã hội.
Luận án trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của QLNN về tôn giáo ở Việt
Nam. Đánh giá, phân tích thực trạng kết quả QLNN về tôn giáo ở Việt Nam
từ năm 1975 đến nay, đồng thời dự báo và khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả, hiệu lực của QLNN về tôn giáo ở Việt Nam trong thời gian tới.
- Nguyễn Hồng Sơn (2016), Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo ở
Quảng Bình - Những kinh nghiệm bước đầu, Tạp Chí cộng sản. Bài viết đã
góp phần nhận thức và vận dụng quan điểm của Đại hội XII của Đảng về công

tác tôn giáo, từ tổng kết thực tiễn công tác quản lý nhà nước về tôn giáo ở tỉnh
Quảng Bình, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm bước đầu.
- Nguyễn Hồng Thúy (2012), Quản lý nhà nước về tôn giáo của Ủy
4


ban nhân dân cấp huyện từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc
sĩ Luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Luận văn đã nghiên cứu
những vấn chung về tôn giáo và quản lý nhà nước về tôn giáo của Ủy ban
nhân dân cấp huyện; thực tiễn quản lý nhà nước về tôn giáo của Ủy ban nhân
dân cấp huyện từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh; giải pháp nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước về tôn giáo của Ủy ban nhân dân cấp huyện [34].
- Nguyễn Quốc Vũ (2013), Pháp luật về các tổ chức, cơ sở tôn giáo,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Luận văn
đã nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sỏ pháp lý về tổ chức, cơ sở tôn giáo; thực
trạng pháp luật về tổ chức, cơ sở tôn giáo và giải pháp hoàn thiện từ thực tiễn
tỉnh Đồng Nai [51].
- Đề tài khoa học cấp tỉnh: “Tôn giáo ở Bình Dương, thực trạng và
giải pháp” của Ban Tôn giáo tỉnh Bình Dương, nghiệm thu năm 2005. Đề tài
đã khái quát đặc điểm cộng đồng các tôn giáo ở Bình Dương dưới góc độ nhân
khẩu học, mô tả hiện trạng các tôn giáo ở Bình Dương. Từ thực trạng các tôn
giáo ở Bình Dương, đề tài đã đặt ra ba vấn đề cần lưu ý trong công tác quản
lý nhà nước về tôn giáo là: mối quan hệ chặt chẽ và có hệ thống giữa các tôn
giáo ở Bình Dương với giáo hội các tôn giáo ở ngoài tỉnh và nước ngoài; hoạt
động của các phần tử cực đoan luôn tác động đến tôn giáo ở Bình Dương và
việc phát triển các tôn giáo bất hợp pháp và khôi phục các hội đoàn công giáo.
Điều đó, đòi hỏi công tác quản lý nhà nước của các cơ quan chức năng phải
ngày càng chặt chẽ, đảm bảo đúng pháp luật và đáp ứng nhu cầu chính đáng
về tín ngưỡng của tín đồ, giáo hội.
Hầu hết các nghiên cứu này chủ yếu tập trung về việc nghiên cứu tổ

chức giáo hội của các tôn giáo ngoại sinh, cũng như một số tôn giáo ra đời ở
Việt Nam và được công nhận theo quy định của pháp luật của Nhà nước; nhận
thức về tôn giáo và QLNN về tôn giáo, công tác tuyền truyền vận động cũng
5


như sự quan tâm giải quyết thỏa đáng của đồng bào các tôn giáo theo quy định
của pháp luật nhà nước. Các công trình nêu trên đã đề cập nhiều khía cạnh
khác nhau của vấn đề tôn giáo cả về lý luận lẫn thực tiễn. Riêng đối với vấn
đề quản lý nhà nước về tôn giáo ở Bình Dương hiện nay chưa có đề tài nào đi
sâu nghiên cứu, đặc biệt là đối với nghiên cứu về công tác quản lý nhà nước
về tôn giáo dựa trên cơ sở pháp luật tín ngưỡng, tôn giáo (Luật Tín ngưỡng,
tôn giáo năm 2016). Rõ ràng, từ khi ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm
2016, trên thực tế có một số tác giả nghiên cứu về vấn đề tôn giáo và quản lý
tôn giáo. Tuy nhiên, các nghiên cứu này tập trung nhiều vào miêu tả thực trạng
tôn giáo hoặc về tổ chức, cơ sở tôn giáo; dần dần có một số nghiên cứu tìm
hiểu về sự quản lý của nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo. Trên tinh thần
đó, với mục đích kế thừa, phát triển những kết quả nghiên cứu đã có; phân
tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo ở tỉnh Bình Dương, từ
đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN về tôn giáo ở nước ta nói
chung và tỉnh Bình Dương nói riêng trong những năm tiếp theo, việc lựa chọn
đề tài của luận văn là phù hợp và đảm bảo không có sự trùng lặp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà
nước về tôn giáo nói chung và tôn giáo tại tỉnh Bình Dương nói riêng, từ đó
đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung của quản lý nhà
nước về tôn giáo, cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến QLNN về tôn giáo.

- Đánh giá thực trạng về hoạt động quản lý nhà nước về tôn giáo tại tỉnh
Bình Dương; phân tích, làm sáng tỏ những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân
của những hạn chế.
6


- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao quản lý nhà nước về tôn giáo
nói chung và tôn giáo tại tỉnh Bình Dương nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước về tôn giáo
tại tỉnh Bình Dương; những quy định pháp luật về quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo tại tỉnh Bình Dương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: tại địa bàn tỉnh Bình Dương
- Phạm vi thời gian: luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề QLNN về tôn
giáo theo quy định của pháp luật trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận là chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh về tự do
tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam và những quan điểm, chính sách của Đảng,
Nhà nước để hoạch định cơ chế chính sách, pháp luật và phương thức quản lý
nhà nước về tôn giáo; thực tiễn tình hình quản lý nhà nước về tôn giáo của
tỉnh Bình Dương hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương
pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp đánh giá, phương pháp thống kê, mô
tả, phương pháp so sánh, phương pháp quan sát trực tiếp…
Chương 1: Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để phân tích các

dữ liệu, các thông tin đã thu thập có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Từ đó,
tổng hợp để nghiên cứu về những vấn đề lý luận của QLNN về tôn giáo.

7


Chương 2: Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá, thống
kê, mô tả, so sánh, quan sát trực tiếp, đối chiếu, diễn dịch, quy nạp để từ đó
thấy được quá trình vận động và phát triển của các tôn giáo trên địa bàn tỉnh;
nguồn gốc sâu xa của hiện trạng này cũng như nguyên nhân của những tồn tại
đó, nhận xét và đánh giá thực trạng để tìm ra những giải pháp phù hợp ở
chương 3.
Chương 3: Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, để đưa ra những
giải pháp phù hợp với yêu cầu lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về tôn
giáo trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận:
Làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về tôn giáo nói
chung và quản lý nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Bình Dương nói riêng.
Về mặt thực tiễn
Đề tài có giá trị tham khảo, giúp cho các cơ quan, ban ngành của tỉnh
trong hoạt động quản lý nhà nước về tôn giáo được thực hiện một cách hiệu
lực và hiệu quả trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh
và trật tự ở địa phương. Đồng thời, luận văn cũng là một tài liệu tham khảo có
giá trị cho những ai quan tâm nghiên cứu đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được chia làm 3 chương, không kể phần mở đầu, kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo, cụ thể:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước về tôn giáo
- Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo từ thực tiễn tỉnh

Bình Dương
- Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về tôn giáo ở tỉnh Bình Dương
8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ TÔN GIÁO
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về tôn giáo
1.1.1. Khái niệm về tôn giáo, quản lý nhà nước về tôn giáo
1.1.1.1. Khái niệm về tôn giáo
Tôn giáo: (Tiếng Latinh - Religio) đồng nghĩa với sự sùng đạo, mộ đạo,
đối tượng được sùng bái. Trong các từ điển thông dụng, thường định nghĩa
tôn giáo là sự sùng bái và sự thờ phụng của con người đối với thần linh hoặc
các mối quan hệ của con người đối với thần linh [25, tr.13].
Theo tác giả Nguyễn Bá Dương (2017) cho rằng: “Tôn giáo là một hiện
tượng xã hội mang tính lịch sử, bao gồm ý thức tôn giáo, hoạt động tôn giáo
và tổ chức tôn giáo, mà sự tồn tại, phát triển của nó là do sự phản ánh hư ảo
hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người” [12, tr.11].
Theo Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học (2012) thì: “Tôn giáo là
hình thái ý thức xã hội gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng bái
những lực lượng siêu tự nhiên, cho rằng có những lực lượng siêu tự nhiên
quyết định số phận con người, con người phải phục tùng và tôn thờ. Tôn giáo
nảy sinh từ rất sớm, từ trong xã hội nguyên thủy. Tôn giáo là hệ thống những
quan niệm tín ngưỡng một hay những vị thần linh nào đó và những hình thức
lễ nghi thể hiện sự sùng bái ấy. Ở Việt Nam có nhiều tôn giáo: đạo Phật, đạo
Thiên Chúa, đạo Cao Đài, v.v,” [31, tr.1293].
Cần khẳng định một luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng
cho rằng: “Con người sáng tạo ra tôn giáo, chứ tôn giáo không sáng tạo ra

con người” [36, tr.569]. Ph. Ăngghen cũng viết: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng
qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người, của những lực

9


lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hằng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh
trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu
trần thế” [37, tr.437].
Hiện nay, ở phương Tây, nhiều nhà khoa học về tôn giáo coi trọng luận
điểm của C. Mác cho rằng, tôn giáo vừa là sự phản ánh, vừa là sự phản kháng
thế giới hiện thực. Tôn giáo mang tính xã hội. Có thể xem tôn giáo là một
phạm trù thuộc đời sống tinh thần của con người, nó phản ánh những điều
con người cảm nhận một cách hoang tưởng, siêu lý từ xã hội và tự nhiên mà
họ đang sống, theo cách suy nghĩ của nền văn hóa đang chi phối họ. Tôn giáo
là một sản phẩm của con người - xã hội, rồi lại chi phối đời sống của con
người, của xã hội.
Dưới góc độ pháp lý, tôn giáo được hiểu là “niềm tin của con người tồn
tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý,
giáo luật, nghi lễ và tổ chức” (Khoản 5, Điều 2, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo
năm 2016).
Dưới góc độ tiếp cận của QLNN, tôn giáo là đối tượng của quản lý nhà
nước. Trong QLNN về các hoạt động tôn giáo (tôn giáo cá nhân và tôn giáo
có tổ chức) chúng ta cần đặc biệt chú ý hoạt động của các tôn giáo có tổ chức,
khái niệm tôn giáo có tổ chức được hiểu như sau: “tôn giáo là một tổ chức,
đại diện cho một cộng đồng người có chung một đức tin, theo một giáo lý hay
một giáo chủ và có một kết cấu là tổ chức giáo hội” [25, tr. 15].
1.1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước về tôn giáo
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền
lực nhà nước và sử dụng pháp luật và chính sách để điều chỉnh hành vi của cá

nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ
máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát
triển của xã hội [26, tr.3]. Theo đó, QLNN về tôn giáo là một dạng quản lý xã
10


hội đặc biệt của nhà nước, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp
luật và chính sách tôn giáo để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trên
lĩnh vực của đời sống về tôn giáo do các cơ quan nhà nước thực hiện, nhằm
phục vụ nhân dân, đảm bảo quyền tự do tôn giáo, duy trì sự ổn định và phát
triển của xã hội.
QLNN về tôn giáo là quá trình tác động, điều hành, điều chỉnh để các
hoạt động tôn giáo diễn ra theo đúng quy định của pháp luật [25, tr.51].
QLNN về tôn giáo là việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực
hiện sự quản lý nhà nước đối với tôn giáo nhằm đảm bảo quyền tự do tôn giáo
của nhân dân, hướng các tôn giáo vào các hoạt động tôn giáo phục vụ lợi ích
chính đáng của các tín đồ vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN.
Hoạt động tôn giáo là hoạt động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo
và quản lý tổ chức của tôn giáo (Khoản 11, Điều 2, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo
năm 2016).
Như vậy, có thể hiểu QLNN về tôn giáo là quá trình quản lý bảo đảm
việc chấp hành pháp luật về tổ chức hoạt động của các tổ chức cơ sở tôn giáo
diễn ra theo quy định của pháp luật như việc giảng đạo, hành đạo, nghi lễ tôn
giáo,v.v…
1.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về tôn giáo
Một là, chủ thể QLNN về tôn giáo rất đặc biệt, đặc thù vì mang tính
quyền lực nhà nước, do các cơ quan nhà nước thực hiện đối với lĩnh vực hết
sức phức tạp, vấn đề nhạy cảm. Đó là các cơ quan, cá nhân trong bộ máy nhà
nước được trao quyền, gồm: Ở Trung ương có Ban Tôn giáo Chính phủ là cơ

quan trực thuộc Bộ Nội vụ; ở cấp tỉnh có Ban Tôn giáo là cơ quan trực thuộc
Sở Nội vụ; ở cấp huyện có bộ phận tôn giáo thuộc Phòng Nội vụ. Các cơ quan
nhà nước thực thi quyền lực đặc biệt của xã hội để tác động, điều chỉnh hoạt
11


động tôn giáo, để hoạt động tôn giáo được tiến hành theo quy định pháp luật,
quản lý nhà nước về tôn giáo dựa trên cơ sở thực thi pháp luật.
Hai là, đối tượng quản lý của Nhà nước về tôn giáo, gồm có: (1) Đối
tượng QLNN về tôn giáo là tín đồ, nhà tu hành, chức sắc: Theo quy định của
pháp luật về tôn giáo hiện hành (Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016) thì “Tín
đồ là người tin, theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo đó thừa nhận”
(Khoản 6, Điều 2); “Nhà tu hành là tín đồ xuất gia, thường xuyên thực hiện
nếp sống riêng theo giáo lý, giáo luật và quy định của tổ chức tôn giáo” (Khoản
7, Điều 2); “Chức sắc là tín đồ được tổ chức tôn giáo phong phẩm hoặc suy cử
để giữ phẩm vị trong tổ chức” (Khoản 8, Điều 2). Đội ngũ chức sắc và tín đồ
làm chức năng truyền đạo, quản lý việc hành đạo từ cơ sở, một quốc gia, đến
phạm vi toàn thế giới (như Giáo hội Công giáo). Các chức sắc tôn giáo được
các tổ chức giáo hội đào tạo, quản lý chặt chẽ theo quy định của giáo lý, giáo
luật. (2) Các cơ sở vật chất (như nhà thờ, nhà chùa, thánh đường…) phục vụ và
đảm bảo các điều kiện về vật chất, trang thiết bị cho hoạt động của tôn giáo và
các sinh hoạt tôn giáo đối với các tôn giáo khác nhau.
Thứ ba, quản lý nhà nước về tôn giáo mang tính quyền lực nhà nước,
sử dụng công cụ pháp luật, chính sách về tôn giáo để quản lý. Quyền lực ở
đây được hiểu là khả năng chi phối của một chủ thể đến một khách thể trong
mối quan hệ nào đó, nhằm đạt được một mục tiêu nhất định. Theo đó, quyền
lực của chủ thể lập quản lý nhà nước về tôn giáo hay cơ quan quản lý nhà
nước về tôn giáo được hiểu là khả năng chi phối lãnh đạo, quản lý đến đối
tượng quản lý (các chức sắc, nhà tu hành,…) trong mối quan hệ vận động phát
triển nhằm mục tiêu tổng thể, mục tiêu phát triển chung về kinh tế, xã hội và

các lĩnh vực khác, trong đó có lĩnh vực tôn giáo. QLNN về tôn giáo là hoạt
động thực thi quyền hành pháp, là sự tác động, điều chỉnh có tổ chức bằng
quyền lực pháp luật nhà nước đối với các hoạt động của các cá nhân, tổ chức
12


tôn giáo do các cơ quan thuộc bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương
đến cơ sở (Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp) tiến hành.
Thứ tư, mục tiêu của quản lý nhà nước về tôn giáo là phục vụ nhân dân,
đối với cộng đồng xã hội, người theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo, dựa
trên nền tảng tôn trọng quyền tự do tôn giáo của công dân nhằm duy trì sự ổn
định và phát triển của toàn xã hội, đặc biệt đối với chức sắc, chức việc và nhà
tu hành. Theo đó, QLNN về tôn giáo cần phải đảm bảo quyền tự do về tín
ngưỡng, tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật; thực hiện được mục tiêu
đoàn kết đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo và đồng bào không có tín ngưỡng
tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc; phát huy những giá trị tích cực của tôn giáo, khắc phục những
hạn chế, tiêu cực của tôn giáo trong quá trình xây dựng xã hội văn minh và
hội nhập quốc tế của đất nước hiện nay.
1.1.3. Vai trò của quản lý nhà nước về tôn giáo
Vai trò của QLNN về tôn giáo được thể hiện trong những nội dung
chính sau đây:
Thứ nhất, cho đến hiện nay, vấn đề tôn giáo đang được nhiều người
quan tâm về vai trò của nó, bởi lẽ tôn giáo không chỉ là vấn đề tinh thần, tâm
linh, đạo đức mà còn quan hệ đến các lĩnh vực khác của đời sống xã hội như
chính trị, kinh tế văn hóa. Vai trò của tôn giáo được thể hiện khác nhau qua
từng thời kỳ lịch sử. Điều này cho thấy rằng, QLNN về nước về tôn giáo rộng,
phức tạp, liên quan đến các vấn đề chính trị, kinh tế - xã hội và an ninh, trật
tự. Đồng thời, Đảng và Nhà nước cũng hết sức quan tâm đến công tác tôn
giáo, cho nên, hoạt động quản lý nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc

bảo đảm trật tự của xã hội, duy trì sự phát triển của xã hội theo định hướng
của nhà nước, qua đó hiện thực hóa mục tiêu chính trị của đảng cầm quyền
đại diện cho lợi ích của giai cấp cầm quyền trong xã hội.
13


Thứ hai, QLNN về tôn giáo là một trong những chức năng của nhà nước
để đảm bảo cho công dân có quyền tự do tôn giáo, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự
của các tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tôn
giáo hoặc lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước
[25, tr.55].
Thứ ba, trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt là xu hướng toàn cầu hóa đã
ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động quản lý nhà nước về tôn giáo ở nước ta.
Ngoài pháp luật về tôn giáo là công cụ của nhà nước để điều chỉnh các hoạt
động tôn giáo, còn chịu sự điều chỉnh của các Điều ước Quốc tế mà Nhà nước
tham gia ký kết hoặc thừa nhận. Trong số 06 tôn giáo lớn ở nước ta thì có 04
tôn giáo (Công giáo, Phật giáo, đạo Hồi và Tin lành) có nguồn gốc và mối
quan hệ với nước ngoài. Do đó, hoạt động QLNN về tôn giáo cần chú trọng
và thận trọng trong quan hệ quốc tế về tôn giáo.
1.2. Nội dung của quản lý nhà nước về tôn giáo
1.2.1. Xây dựng chính sách, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về
tôn giáo
Nhà nước là chủ thể chủ yếu trong xây dựng chính sách, ban hành văn
bản quy phạm pháp luật về tôn giáo. Đồng thời, Nhà nước cần thu hút rộng
rãi người dân, đặc biệt là người theo các tôn giáo vào quá trình xây dựng và
ban hành chính sách pháp luật về tôn giáo. Xây dựng chính sách, ban hành
văn bản quy phạm pháp luật về tôn giáo là hoạt động tuân thủ các quy định
của pháp luật về trình tự, thủ tục và hình thức được quy định trong Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Việc tuân thủ các bước trong

chu trình (quy trình) xây dựng chính sách pháp luật về tôn giáo sẽ đảm bảo
tính nguyên tắc, khách quan, dân chủ, pháp quyền, công khai, minh bạch và
trách nhiệm giải trình trong toàn bộ quá trình xây dựng chính sách pháp luật
14


về tôn giáo. Ngược lại, việc không tuân thủ các bước này trong quy trình xây
dựng chính sách pháp luật về tôn giáo sẽ dẫn đến tình trạng lạm dụng để xâm
phạm đến các quyền tự do tôn giáo của người dân.
Chính sách tôn giáo là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan
của nhà nước để lựa chọn mục tiêu và những giải pháp, công cụ chính sách
tôn giáo nhằm giải quyết các vấn đề chính sách tôn giáo theo mục tiêu tổng
thể đã xác định của đảng chính trị cầm quyền. Còn pháp luật về tôn giáo là hệ
thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do Nhà nước ban hành hoặc
thừa nhận, thể hiện ý chí, lợi ích của nhân dân, được nhà nước đảm bảo thực
hiện, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến hoạt động của tôn
giáo vì mục đích bảo vệ, bảo đảm các quyền, tự do về tôn giáo của con người
và sự phát triển bền vững.
Xây dựng chính sách, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về tôn giáo
là hoạt động xây dựng và đưa ra các quyết định chính sách, ban hành văn bản
quy phạm pháp luật. Các cơ quan đơn vị chuyên môn phân tích, xác định mục
tiêu chính sách, giải pháp chính sách, đánh giá tác động của văn bản quy phạm
pháp luật về tôn giáo để đưa ra những lựa chọn chính sách đúng đắn, các quy
định của pháp luật về tôn giáo. Đây thực ra là một quá trình mà thông qua đó
vấn đề tôn giáo xác định được đưa vào chương trình nghị sự của nhà nước cho
đến khi một chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về tôn giáo được ban
hành nhằm giải quyết vấn đề đã được đặt ra đó, đặc biệt là đối với công tác
QLNN về tôn giáo.
Nhà nước xây dựng chính sách, pháp luật về tôn giáo nhằm bảo đảm
các quyền con người về tôn giáo, đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần của

nhân dân, tạo ra cơ chế quản lý đối với các hoạt động tôn giáo. Chính sách,
pháp luật về tôn giáo đặt trong mối quan hệ với các quy định của pháp luật
khác trong tổng thể hệ thống pháp luật Việt Nam. Nhà nước xây dựng, ban
15


hành và đảm bảo thực hiện các quyền hiến định, luật định của con người và
công dân về tôn giáo, kiểm soát việc tuân thủ các quy định pháp luật về nội
dung, thủ tục liên quan đến các quyền con người về tôn giáo hay tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của người dân.
Ngay từ sớm, Quốc hội Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành
Nghị quyết ngày 26 tháng 3 năm 1955 về vấn đề tôn giáo đã thể hiện sự quan
tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta về công tác tôn giáo. Trước khi Luật
Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 ra đời (có hiệu lực ngày 01/01/2018) thì Pháp
lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004; Nghị định số 92/2012/NĐ-CP quy định
chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị số
01/2005/CTTTg ngày 4/12/2005 về một số công tác đối với đạo Tin lành; Chỉ
thị số 1940/CT-TTg ngày 31/12/2008 về nhà, đất liên quan đến tôn giáo,…
cùng nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác như Luật Hình sự, Luật Tố tụng
Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai,… đã tạo nên một hành lang pháp lý
bảo đảm quyền lợi của các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam; giúp các cơ quan
quản lý nhà nước nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác tôn giáo, phát huy sức
mạnh đoàn kết toàn dân tộc; là công cụ đảm bảo quyền tự do bình đẳng tôn
giáo, ngăn ngừa, xử lý các vi phạm pháp luật của mọi tổ chức, cá nhân tham
gia hoạt động tôn giáo.
Các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội trong lĩnh
vực tôn giáo, nhất là “Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016”, được ban hành
và áp dụng vào thực tiễn Việt Nam mới đây và tiếp tục được thể chế hóa như
Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 của Chính phủ quy định chi
tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã tạo hành

lang pháp lý thuận lợi trong việc bảm đảm quyền tự do tôn giáo và quyền tự
do không tôn giáo của người dân; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công
tác tôn giáo.
16


1.2.2. Quy định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo
Chủ thể QLNN về tôn giáo, bao gồm: Chính phủ; Bộ Nội vụ; Ban Tôn
giáo Chính phủ; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Sở Nội vụ; Cấp huyện; Cấp xã.
Theo quy định tại Điều 61, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 về trách
nhiệm quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo như sau:
Chính phủ thống nhất QLNN về tôn giáo trong phạm vi cả nước.
Cơ quan QLNN về tôn giáo ở Trung ương chịu trách nhiệm trước Chính
phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về tôn giáo.
Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về tôn giáo.
Đối với huyện không có đơn vị hành chính xã, thị trấn thì Ủy ban nhân
dân huyện đồng thời thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp
xã quy định tại Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016.
Căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành, tổ chức bộ máy quản lý
nhà nước về tôn giáo được quy định cụ thể như sau:
Chính phủ thống nhất quản lý các lĩnh vực kinh tế - chính trị - văn hóa
- xã hội, trong đó có hoạt động tôn giáo (thống nhất QLNN về tôn giáo trong
phạm vi cả nước).
Bộ Nội vụ thuộc Chính phủ, là cơ quan tham mưu, giúp Chính phủ quản
lý nhà nước về tôn giáo như: tham gia đóng góp xây dựng các văn bản quy
phạm pháp luật, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và tổ chức thực
hiện pháp luật về tôn giáo.
Ban Tôn giáo Chính phủ thuộc Bộ Nội vụ, đây là cơ quan tham mưu,
giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ quản lý nhà nước về tôn giáo. Theo Khoản 1, Điều

1, Quyết định số 32/2018/QĐ-TTg ngày 03/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Tôn giáo
Chính phủ trực thuộc Bộ Nội vụ cho thấy: “Ban Tôn giáo Chính phủ là cơ
17


quan tương đương Tổng cục trực thuộc Bộ Nội vụ, có chức năng tham mưu
giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ quản lý nhà nước về lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo
và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo trong phạm
vi cả nước; thực hiện các dịch vụ công thuộc lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo
theo quy định của pháp luật”.
Các Bộ, ngành khác có liên quan phối hợp với Bộ Nội vụ trong quản lý
nhà nước về tôn giáo (Bộ Công an, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam…) và UBND các cấp thực hiện chức năng quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo ở địa phương (Trong đó: Ban Tôn giáo thuộc
Sở Nội vụ là cơ quan chuyên môn thực hiện chức năng tham mưu giúp UBND
tỉnh, thành phố quản lý nhà nước về tôn giáo; Phòng Nội vụ là phòng chuyên
môn thực hiện chức năng tham mưu giúp UBND huyện, quận, thị xã trong
quản lý công chức, viên chức, xây dựng chính quyền, thi đua khen thưởng,
quản lý nhà nước về tôn giáo ở địa phương; còn ở UBND xã, thị trấn có các
công chức chuyên trách giúp Chủ tịch UBND quản lý nhà nước về tôn giáo).
Thẩm quyền QLNN về tôn giáo của chính quyền địa phương: Về chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan QLNN về tôn giáo ở các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương đều có cơ quan chuyên môn giúp UBND làm công
tác QLNN về tôn giáo, cấp tỉnh có Ban Tôn giáo trực thuộc Sở Nội vụ, cấp
huyện đều có Ban Tôn giáo hoặc cán bộ chuyên trách giúp UBND thực hiện
nhiệm vụ QLNN về tôn giáo. Nghị định số 22/2004/NĐ-CP ngày 12/01/2004
của Chính phủ quy định về kiện toàn bộ máy QLNN về tôn giáo thuộc UBND
các cấp đã góp phần củng cố và tăng cường hệ thống tổ chức bộ máy cán bộ,
công chức làm công tác tôn giáo. Đồng thời, Thông tư số 25/2004/TT-BNV

ngày 16/9/2004 của Bộ Nội vụ đã hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ quyền hạn
và cơ cấu tổ chức cơ quản chuyên môn giúp UBND QLNN về công tác tôn
giáo ở địa phương, trong đó quy định: Ban Tôn giáo là cơ quan chuyên môn
18


thuộc UBND tỉnh có chức năng tham mưu, giúp UBND cùng cấp QLNN về
lĩnh vực công tác tôn giáo tại địa phương và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền
hạn theo sự ủy quyền của UBND cùng cấp; góp phần bảo đảm sự thống nhất
quản lý trong lĩnh vực công tác tôn giáo từ Trung ương đến địa phương.
Đối với tổ chức bộ máy của Ban Tôn giáo cấp tỉnh, Trưởng ban Tôn
giáo đồng thời là Phó Giám đốc Sở Nội vụ, phân công các phòng ban chuyên
môn theo từng tôn giáo như Phòng Kitô, Phòng Phật giáo, Phòng các tôn giáo
khác,…nhằm quản lý có hiệu lực và hiệu quả các tôn giáo trên địa bàn tỉnh.
Việc phụ trách và chịu trách nhiệm về công việc đối với công tác tôn giáo của
UBND cấp huyện do Phòng Nội vụ đảm nhận và phân công các chuyên viên
phụ trách theo từng lĩnh vực như theo dõi về hoạt động của Công giáo, Phật
giáo, Tin Lành, Cao Đài và các tôn giáo khác nhằm nắm bắt kịp thời tư tượng,
nguyện vọng của các tín đồ, chức sắc về hoạt động của các tôn giáo trên địa
bàn. Đối với cấp xã, UBND cấp xã có các công chức chuyên trách giúp Chủ
tịch UBND quản lý nhà nước về tôn giáo.
1.2.3. Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo
Quản lý nhà nước về tôn giáo bằng pháp luật là quá trình cơ quan nhà
nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình để sử dụng pháp
luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình QLNN về tôn
giáo. Chính sách và pháp luật của Nhà nước về tôn giáo nói chung và các hoạt
động tôn giáo nói riêng là sự thể chế hóa đường lối, chủ trương, quan điểm
của Đảng đối với công tác tôn giáo. Pháp luật về tôn giáo của nhà nước là
công cụ bảo vệ quyền tự do tôn giáo của công dân, quyền hoạt động bình
thường của các tôn giáo, cũng là cơ sở pháp lý để đấu tranh, ngăn chặng các

hoạt động lợi dụng tôn giáo trong bảo đảm quyền con người, xâm phạm tới
các lợi ích được Nhà nước thừa nhận, bảo vệ và đảm bảo thực hiện trong thực
tiễn đời sống xã hội.
19


×