Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Giáo dục pháp luật đối với học sinh tại các trường Trung học phổ thông, từ thực tiễn Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THỊ TỨ

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HỌC SINH TẠI
CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG, TỪ THỰC TIỄN QUẬN 10,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS Hoàng Thế Liên

Hà Nội, năm 2019


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với Ban giám hiệu,
phòng Sau Đại học, các thầy giáo, cô giáo đã tham gia quản lý, giảng dạy và giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ sự biết ơn, sự kính trọng đặc biệt đến GS.TS Hoàng Thế Liên
- người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ về khoa học để tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn:
- Lãnh đạo, chuyên viên Sở GD&ĐT thành phố Hồ Chí Minh
- Ban giám hiệu, các giáo viên dạy trường THPT thành phố Hồ Chí Minh là
trường Trường THPT Nguyễn Khuyến; Trường THPT Nguyễn Du; Trường THPT
Nguyễn An Ninh; Trường THPT Sương Nguyệt Anh; Trường THPT Diên Hồng
- Gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, cổ vũ, khích lệ và giúp đỡ tôi


trong suốt thời gian qua.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong suốt quá trình thực hiện đề tài, song có thể
còn có những mặt hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp và sự
chỉ dẫn của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp.
Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2019
TÁC GIẢ

HOÀNG THỊ TỨ


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận văn là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi,
không trùng lặp với bất kỳ kết quả nghiên cứu nào đã có. Số liệu và kết quả nghiên
cứu trong luận văn này là trung thực. Tôi cũng xin cam đoan rằng các kết quả trích
dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc hoặc chỉ rõ trong tài liệu tham
khảo.
Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2019
HỌC VIÊN

HOÀNG THỊ TỨ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ GIÁO DỤC PHÁP

LUẬT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG…………….....6
1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật……………………………………………….6
1.2. Đặc điểm của giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông……….8
1.3. Vai trò của giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông ... …….12

1.4. Quy định pháp luật về giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ
thông……………………………………………………………………………12
1.5. Yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ
thông……………………………………………………………………………20
Tiểu kết Chương 1………………………………………………………………..22
Chương 2: THỰC TIỄN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TẠI
CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 10,
THÀNH PHÔ HỒ CHÍ MINH …………………………………………….……23
2.1. Khái quát về thực trạng bậc học ở trung học phổ thông Quận 10, thành phố
Hồ Chí Minh.......................................................................................................23
2.2. Thực trạng giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông tại Quận
10, thành phố Hồ Chí Minh.................................................................................27
2.2.1. Mục tiêu, phương pháp lấy mẫu, phương pháp khảo sát ........................27
2.2.2. Kết quả khảo sát và kết luận....................................................................30
2.3. Đánh giá chung về thực trạng giáo dục pháp luật cho học sinh trung học
thông trên địa bàn Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh …..…

…….………...50

2.3.1. Ưu điểm ………………….…………………………...………………..50


2.3.2. Hạn chế……………………………………………………. ……………50
2.3.3. Nguyên nhân………………………………………………..……………53
Tiểu kết Chương 2………………………………………………………………...56
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO
DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUẬN 10,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH…………………………………………………..57
3.1. Quan điểm chung về giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ
thông………………………………………………………………………..….57

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ
thông Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh…………………………………….....57
3.2.1. Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch
về phổ biến, giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông, Quận
10…………………………………………………………..……………………………57
3.2.2. Xây dựng nội dung, chương trình giáo dục pháp luật phù hợp với học
sinh trung học phổ thông………………………………….……………………58
3.2.3. Nâng cao vai trò, tính tích cực của các thầy giáo, cô giáo, tuyên truyền
viên các tổ chức đoàn thể trong công tác giáo dục pháp luật cho học sinh trung
học phổ thông trên đại bàn Quận 10…………………………...……………….62
3.2.4. Đa dạng hình thức, đổi mới phương pháp giáo dục pháp luật cho học sinh
trung học phổ thông Quận 10………………………...………………………...64
3.2.5. Từng bước đổi mới, hiện đại hóa về cơ sở vật chất đáp ứng công tác giáo
dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông, Quận 10

………………….68

Tiểu kết Chương 3……………………………………………………………...…69
KẾT LUẬN………………………………………………………………………..70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BGH

: Ban giám hiệu

CBQL, GV, NV


: Cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên

CHXHCN

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CSVC

: Cở sở vật chất

CTĐ

: Công tác Đoàn

ĐTN

: Đoàn Thanh niên

GD

: Giáo dục

GD&ĐT

: Giáo dục và đào tạo


GDPL

: Giáo dục pháp luật

GDCD

: Giáo dục công dân

HS

: Học sinh

THPT

: Trung học phổ thông

PPDH

: Phương pháp dạy học

KHCN

: Khoa học công nghệ

UBND

: Ủy ban nhân dân

XHCN


: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật là cơ sở tổ chức hoạt động của chính quyền, là sự ghi nhận, bảo vệ
và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, là phương thức quản lý xã
hội có hiệu lực nhất. Vì vậy, việc ban hành pháp luật và bảo đảm thực thi pháp luật
là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Nhà nước. Để thực hiện đúng pháp luật trước
hết cần phải tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật. Vì vậy, tuyên
truyền giáo dục pháp luật là một bộ phận có ý nghĩa đặc biệt trong hệ thống giáo
dục chung của Đảng và Nhà nước nhằm giáo dục đạo đức, ý thức tôn trọng và chấp
hành pháp luật và góp phần xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ mới.
Quận 10 là một trong những quận nội thành của Thành phố Hồ Chí Minh có
nhiều điều kiện thuận lợi trong việc giao lưu kinh tế, văn hóa xã hội với các quận
trung tâm và ngoại thành, là cơ hội để thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của
quận trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong thời gian vừa
qua, các cấp ủy, chính quyền, cùng lãnh đạo các trường phổ thông đã có biện pháp
tích cực trong nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng giáo dục bậc
THPT (Trung học phổ thông) nói riêng. Đối với công tác giáo dục pháp luật cho
học sinh đã được các trường tổ chức triển khai nhằm trang bị kiến thức, hiểu biết
pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật, làm hình thành lối sống và làm việc theo pháp
luật cho học sinh; giúp học sinh hiểu rõ về các quyền con người, quyền công dân,
về quyền học sinh...Tuy nhiên, trong những năm qua bên cạnh những thành tựu
quan trọng đạt được cũng còn bộc lộ những hạn chế, bất cập trên nhiều mặt, từ việc
xác định mục tiêu, lựa chọn nội dung, phương pháp cho đến hình thức GDPL (giáo
dục pháp luật) cho học sinh. Có thể thấy, công tác GDPL cho học sinh trong các
trường THPT Quận 10 tuy đã được chú trọng, nhưng chưa được tiến hành thường
xuyên; còn thiếu trọng tâm, trọng điểm, thiếu sự gắn kết nhịp nhàng, phối hợp đồng

bộ, hiệu quả giữa các cơ quan, tổ chức, giữa các cấp, các ngành có liên quan; tình

1


trạng học sinh vi phạm pháp luật nói chung vẫn còn xảy ra, nhiều học sinh chưa vận
dụng được các quy định của nhà nước trong việc bảo vệ quyền và thực hiện nghĩa
vụ của mình. Do vậy, chất lượng, hiệu quả của công tác này chưa đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ của thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, Việc tiếp
tục đổi mới và nâng cao chất lượng và hiệu quả GDPL cho học sinh các trường
trung học phổ thông trên phạm vi toàn quốc nói chung và ở Quận 10, thành phố Hồ
Chí Minh nói riêng đang là một yêu cầu khách quan, có tầm quan trọng và mang
tính cấp thiết, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu thấu đáo về mặt lý luận và sự tổng kết
thực tiễn từ quy mô hẹp đến quy mô lớn nhằm tạo lập cơ sở lý luận và thực tiễn
vững chắc cho một công việc quan trọng và có tính lâu dài này.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Giáo dục pháp luật đối với học
sinh tại các trường Trung học phổ thông, từ thực tiễn Quận 10, Thành phố Hồ
Chí Minh” làm luận văn tốt nghiệp, đóng góp một phần nhỏ bé vào sự nghiệp lớn
đã đề cập ở trên.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong hoạt động giáo dục thì vấn đề tuyên truyền, giáo dục pháp luật được
triển khai dưới nhiều hình thức. Đối tượng hướng đến là các học sinh nói chung,
đặc biệt là các học sinh trung học phổ thông. Trong những năm gần đây, tình trạng
học sinh trung học phổ thông nói riêng, người chưa thành niên phạm tội nói chung
phạm tội diễn biến rất phức tạp. Có rất nhiều vụ án hình sự đã xuất hiện tình trạng
trẻ hóa đối tượng phạm tội đã trở thành vấn đề nhức nhối của xã hội, đặc biệt là các
vụ án phức tạp, đặc biệt nghiêm trọng, gây bức xúc lớn cho dư luận xã hội.
Với tình hình đó đã có một số công trình nghiên cứu về GDPL cho học sinh,
sinh viên như sau:

Lê Thị Thu Hạnh (2011), Giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh thông qua
dạy học phần công dân với pháp luật chương trình Giáo dục công dân lớp 12 ở các

2


trường THPT dân lập trên địa bàn thành phố Vinh, Luận văn thạc sĩ Khoa học giáo
dục, Nghệ An.
Trần Ngọc Minh (2016), Giáo dục pháp luật cho sinh viên từ thực tiễn các
trường cao đẳng tỉnh Bình Dương, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
Trần Thị My Ly (2018), Phổ biến, giáo dục pháp luật cho Thanh niên từ
thực tiễn Tỉnh Quảng Bình, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
Các công trình đã áp dụng các quy định pháp luật về phổ biến, giáo dục pháp
luật đối với đối tượng học sinh, sinh viên qua quá trình nghiên cứu lý luận và thực
tiễn nói chung về cơ bản đã đáp ứng với yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp ở
nước ta hiện nay. Với ý nghĩa đó, giáo dục pháp luật với đối tượng học sinh THPT
mà tác giả sẽ nghiên cứu sẽ có ý nghĩa thực tiễn cao, trong đó các công trình đã
nghiên cứu trên giúp cho tác giả nghiên cứu luận văn này có thêm tư liệu để tham
khảo và nghiên cứu sâu hơn.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật cho học sinh, đánh
giá thực trạng và luận chứng một số giải pháp nhằm nâng cao công tác giáo dục pháp luật
cho học sinh trên địa bàn Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn cần có những nhiệm vụ chủ yếu
sau:
- Làm rõ, làm sâu sắc hơn những vấn đề lý luận về GDPL cho học sinh tại các
trường Trung học phổ thông
- Phân tích, đánh giá thực trạng GDPL đối với học sinh tại các trường Trung

học phổ thông từ thực tiễn tại Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh làm rõ những ưu,
nhược điểm và nguyên nhân của những nhược điểm đó.

3


- Đề xuất một số giải pháp nâng cao công tác GDPL đối với học sinh tại các
trường Trung học phổ thông từ thực tiễn tại Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Công tác GDPL cho học sinh tại các trường Trung học phổ thông
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu:
+ Những vấn đề lý luận trực tiếp liên quan đến GDPL trong các trường phổ thông
trung học.
+ Quy định pháp luật liên quan đến GDPL trong trường phổ thông trung học.
+ Thực tiễn GDPL trong các trường THPT tại Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.
- Về thời gian:
Từ khi có Luật phổ biến giáo dục Pháp luật năm 2012 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin, chủ yếu sử dụng phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phân tích và
tổng hợp, lịch sử cụ thể. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp của các bộ
môn khoa học khác, cụ thể:
Một là, kết hợp giữa phân tích với tổng hợp, diễn dịch với quy nạp làm rõ nội
dung cần nghiên cứu trong vấn đề nghiên cứu về giáo dục pháp luật cho học sinh
THPT thông qua các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam được ghi nhận tại
chương 1 cũng như thực tiễn áp dụng từ thực tiễn tại trường THPT Quận 10, Thành
phố Hồ Chí Minh và chương 2 của đề tài.
Hai là, luận văn vận dụng phương pháp điều tra xã hội học để thống kê, phân
tích số liệu, so sánh, đối chiếu, kết quả tổng kết và các quan điểm khác nhau để rút


4


ra kết luận, tìm hiểu nguyên nhân vấn đề và các giải pháp hữu hiệu khắc phục hạn
chế. Các phương pháp này được áp dụng trong chương 2 và chương 3 của đề tài.
Thông qua đó, tác giả muốn đưa ra một bức tranh toàn cảnh về giáo dục pháp luật cho
học sinh THPT nói chung và thực tiễn áp dụng trong thực tế cũng như một số biện pháp
nhằm hoàn thiện yêu cầu đề ra của công tác này, đáp ứng với yêu cầu hội nhập và
phát triển đất nước. Phù hợp với chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn làm sáng tỏ, làm sâu sắc hơn, một cách hệ thống một số vấn đề lý
luận về giáo dục pháp luật cho học sinh ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích làm rõ những kết quả, hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế
trong giáo dục pháp luật cho học sinh tại các trường THPT Quận 10, Thành phố Hồ
Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật
cho học sinh THPT tại Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phục lục, thì nội dung chính của
luận văn gồm có 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ
thông
Chương 2: Thực trạng giáo dục pháp luật cho học sinh trường THPT, từ thực tiễn
Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Một số giải pháp tăng cường và nâng cao chất lượng giáo dục pháp
luật cho học sinh các trường THPT Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.

5



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1.

Khái quát về giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông

* Giáo dục
Giáo dục - hiểu theo nghĩa rộng là quá trình trao đổi và chuyển giao tri thức, là
sự đạt được những giá trị và các mô hình hành vi theo một mục đích, yêu cầu định
sẵn. Hiểu theo nghĩa hẹp, giáo dục là một quá trình hình thành nhân cách con người
dưới ảnh hưởng của hoạt động có mục đích của nhà giáo dục trong hệ thống các cơ
quan giáo dục và dạy học. [26]
Dưới góc độ triết học, có thể hiểu, giáo dục là một quá trình hai mặt, một mặt,
đó là sự tác động từ bên ngoài vào đối tượng giáo dục; mặt khác, thông qua sự tác
động này làm cho đối tượng tự biến đổi bản thân mình, tự hoàn thiện, tự nâng mình lên
qua giáo dục. [27]
Theo Từ điển Từ và ngữ Hán - Việt : “Giáo dục là quá trình hoạt động có ý
thức, mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho con người những
phẩm chất, đạo đức và những tri thức cần thiết để người ta có khả năng tham gia
mọi mặt của đời sống xã hội”. [27]
Về bản chất, giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống, hoạt động và giao lưu
cho đối tượng được giáo dục, nhằm giúp họ nhận thức đúng, tạo lập tình cảm và
thái độ đúng, hình thành những thói quen hành vi văn minh trong cuộc sống, phù
hợp với chuẩn mực xã hội; nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển,
tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại được kế thừa, phát huy trên cơ sở đó mà xã
hội loài người không ngừng tiến lên.
* Giáo dục pháp luật


6


- Trong thực tiễn hiện nay đang tồn tại một số quan niệm khác nhau về giáo
dục pháp luật:
Có quan điểm cho rằng giáo dục pháp luật là một bộ phận của giáo dục chính
trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức. Nếu biết tiến hành quá trình giáo dục chính trị tư
tưởng, giáo dục đạo đức tốt thì sẽ đem lại ý thức pháp luật cao, có sự tôn trọng và
tuân thủ pháp luật ở con người. Hay nói một cách khác giáo dục chính trị tư tưởng,
giáo dục đạo đức hình thành ý thức pháp luật ở con người. Bên cạnh đó, pháp luật là
qui tắc xử sự có tính bắt buộc chung. Mọi công dân đều phải tuân thủ pháp luật, do
đó không cần phải đặt vấn đề về giáo dục pháp luật, bởi vì bản thân pháp luật sẽ tự
thực hiện chức năng của mình bằng các qui định về quyền và nghĩa vụ thông qua
các chế tài đối với những người tham gia vào các quan hệ xã hội do pháp luật điều
chỉnh.[13]
Mặt khác cũng có người coi giáo dục pháo luật đồng nhất với việc tuyên
truyền, phổ biến, giới thiệu pháp luật bằng các biện pháp khác nhau để mọi người
tuân thủ làm theo pháp luật. [26]
Có thể thấy, GDPL là một khái niệm rộng bao gồm cả quá trình nâng cao tri thức
pháp luật cho đối tượng và bằng mọi cách (Thuyết phục, nêu gương, ám thị...) hình
thành tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng, từ đó nâng cao ý thức tôn trọng
pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng. Giáo dục pháp luật là
khâu đầu tiên của quá trình thi hành pháp luật và có vai trò hết sức quan trọng trong
việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Tóm lại: khái niệm giáo dục pháp luật dù được tiếp cận dưới góc độ nào thì
trong khoa học pháp lý, giáo dục pháp luật cần theo tính định hướng của các cơ
quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội, trong đó người giáo dục và người được
giáo dục luôn tác động qua lại lẫn nhau, thiết lập những hành vi xử sự phù hợp với
các quy phạm pháp luật. Tổ chức thực hiện GDPL nhằm hình thành ở con người

thói quen xử sự phù hợp với đòi hỏi của pháp luật. Giáo dục pháp luật là quá trình

7


tác động có tính liên tục lâu dài, thường xuyên. Vì thế, giáo dục pháp luật phải
thông qua nhiều cơ quan, tổ chức chính trị xã hội, nhưng cần phải có sự phối hợp
chặt chẽ với các ban ngành liên quan nhằm mục đích hướng dẫn hành vi của con
người xử sự phù hợp với các quy định pháp luật.
Từ các nghiên cứu trên, chúng tôi đưa ra khái niệm GDPL như sau: GDPL là
hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên
đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên nhằm mục đích hình
thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với các đòi hỏi
của pháp luật hiện hành.
1.2. Đặc điểm của giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông
Hoạt động giáo dục pháp luật là một hoạt động giáo dục cụ thể gắn bó hữu cơ
với hoạt động giáo dục nói chung. Nội dung GDPL cho HS THPT là một phần của
nội dung chương trình giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo
dục quốc dân. Nói cách khác, GDPL cho HS THPT là một hoạt động tự thân,
thường xuyên của ngành giáo dục khác một số ngành khác. Giáo dục pháp luật
trong nhà trường thực hiện thông qua việc dạy và học nội dung, kiến thức pháp luật
trong chương trình giáo dục chính khóa qua các môn học như giáo dục công dân
(phổ thông), hoặc được lồng ghép, tích hợp vào các môn học có liên quan đạo đức,
tìm hiểu tự nhiên xã hội, sinh học, lịch sử…
GDPL cho HS THPT trong nhà trường được thực hiện thông qua các hoạt
động giáo dục ngoại khóa, giáo dục ngoài giờ lên lớp với các hình thức như nói
chuyện pháp luật, thi tìm hiểu pháp luật, viết báo tường, sinh hoạt theo chủ đề pháp
luật, tọa đàm, hội thảo chuyên đề, tham dự phiên tòa… GDPL cho HS THPT góp
phần củng cố những tri thức được học trong chương trình, bồi dưỡng tình cảm,
niềm tin pháp luật, đồng thời rèn luyện, uốn nắn hình thành hành vi ứng xử theo

chuẩn mực pháp luật quy định. [30]
GDPL cho HS THPT (Học sinh trung học phổ thông) là một bộ phận của
GDPL nói chung, nghĩa là nó cũng phải tuân theo các quy luật chung của quá trình

8


GDPL cho các đối tượng xã hội khác, phải đáp ứng các yêu cầu về mục tiêu, chủ
thể, đối tượng, nội dung, phương pháp và hình thức GDPL. Bên cạnh đó, GDPT cho
HS THPT còn có những nét đặc trưng riêng xuất phát từ các đặc điểm về độ tuổi,
trình độ, sự phát triển tâm sinh lý. Theo tinh thần đó, GDPT cho HS THPT có
những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, GDPL cho HS THPT từ lớp 10 đến hết lớp 12 trong hệ thống
giáo dục quốc dân ở nước ta hiện nay, độ tuổi chủ yếu của các em là trong khoảng
16 đến 18. Ở lứa tuổi này học sinh THPT là thời kỳ đầu của giai đoạn tuổi thanh
niên. Học sinh THPT ở giai đoạn này cơ thể đang dần đi đến hoàn thiện về mọi mặt:
cơ bắp, chiều cao, trọng lượng cơ thể tăng nhanh. So với học sinh THCS, thì nhiều
mặt ở lứa tuổi này đã phát triển và trưởng thành hơn nhiều. Do vậy, khả năng hoạt
động trí tuệ ở học sinh THPT vượt xa học sinh THCS. Các em có khả năng tiếp
nhận tác động vô cùng phong phú, phức tạp của thế giới xung quanh. Vì vậy, khả
năng nhận thức của các em về những sự vật hiện tượng thường xuyên xảy ra trong
giới tự nhiên và xã hội được nâng lên, nhân sinh quan và thế giới quan của các em
khá rõ nét. Có thể nói, đây là độ tuổi chủ thể con người đang ở thời kỳ hài hoà, đẹp
đẽ với sức lực dồi dào nhất.
Thứ hai: GDPL cho HS THPT trang bị cho HS những thông tin, kiến thức về
những lĩnh vực pháp luật thiết yếu, gần gũi và phù hợp với mục tiêu, nhu cầu giải
quyết những vấn đề pháp lý nảy sinh trong cuộc sống của HS. Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, luôn đặt pháp luật ở vị trí
thượng tôn nên với tư cách là những công dân, HS THPT rất cần đến thông tin, kiến
thức pháp luật để có thể “Sống, làm việc theo pháp luật”. Ngoài ra, cần trang bị cho

HS THPT những kỹ năng cần thiết để họ có thể vận dụng pháp luật vào việc giải
quyết các sự kiện, vấn đề pháp luật xảy ra trong thực tế cuộc sống. [19]
Thứ ba: Hoạt động GDPL cho HS THPT được thực hiện thông qua các
phương pháp GDPL có tính đặc thù, phù hợp. GDPL cho HS THPT có những nét
đặc thù về mục tiêu, nội dung và đối tượng nên các chủ thể GDPL cần chủ động tìm

9


ra các phương pháp GDPL tối ưu, phù hợp nhất. Tùy theo từng nội dung GDPL cụ
thể, chủ thể phải có sự tìm tòi, vận dụng linh hoạt, sáng tạo phương pháp GDPL sao
cho sinh động, hấp dẫn, cuốn hút HS THPT bằng cách đặt các câu hỏi, nêu những
tình huống, sự kiện pháp lý cụ thể, hoặc cũng có thể lồng ghép với các hoạt động
giáo dục trong và ngoài giờ lên lớp. [11]
Thứ tư: GDPL cho HS THPT được thực hiện bằng những hình thức GDPL đa
dạng, phong phú. Trong GDPL nói chung có thể sử dụng rất nhiều hình thức GDPL.
Mỗi hình thức lại được các chủ thể GDPL sử dụng phù hợp với mục tiêu, đối tượng
tiếp nhận khác nhau, như tuyên truyền miệng về pháp luật; GDPL qua các phương
tiện thông tin đại chúng; thi tìm hiểu pháp luật; biên soạn tài liệu phổ biến GDPL;
trợ giúp pháp lý; tư vấn pháp luật; bồi dưỡng kiến thức pháp luật... Tùy thuộc vào
mục tiêu, nội dung GDPL cho HS THPT để lựa chọn hình thức GDPL phù hợp với
lớp. [30]
Thứ năm. Những quá trình nghiên cứu tâm lý đã chỉ ra rằng ở lứa tuổi này
các em có những rung cảm mãnh liệt, đặc biệt là tính tích cực cao, thể hiện ở sự
nhiệt tình, sôi nổi của tuổi trẻ. Song cũng bộc lộ tâm trạng phong phú, phức tạp nên
vai trò xã hội và hứng thú xã hội của học sinh không chỉ mở rộng về số lượng và
phạm vi mà còn biến đổi cả về chất lượng. Một đặc điểm hết sức rõ nét của tuổi học
sinh THPT là sự hứng thú nhận thức rộng rãi. Các em khao khát được tìm hiểu,
được tiếp nhận những thông tin mới trên mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội. Nhưng
sự nhận thức của các em là sự nhận thức có phê phán. Do đó, các em thường có

những tranh cãi sôi nổi về thế giới xung quanh. Các em mong muốn không những
“hiểu biết bản thân mình” mà còn quan tâm đến thế giới nội tâm của con người. Do
vậy, thái độ có ý thức của các em đối với học tập ngày càng phát triển. Đó là lý do sự
tự ý thức hình thành rõ rệt ở học sinh THPT. [16]
1.3. Vai trò của giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông

10


Thứ nhất: Góp phần giáo dục đạo đức, lối sống, hình thành nhân cách, rèn
luyện hành vi ứng xử cho thế hệ trẻ ngay từ trên ghế nhà trường tạo nếp sống, hành
động “Sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật.”
Thứ hai: Thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện
GDPL cho HS THPT có vai trò to lớn đối với sự phát triển toàn diện con
người Việt Nam trong đó có việc hình thành ý thức pháp luật, văn hoá pháp lý trong
nhân dân. GDPL cho HS THPT là một hoạt động giáo dục cụ thể gắn bó hữu cơ với
hoạt động giáo dục nói chung. Nội dung GDPL cho HS THPT là một phần của nội
dung chương trình giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục
quốc dân. GDPL cho HS THPT không chỉ góp phần ổn định hoạt động của ngành
mà còn góp phần trực tiếp vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm giáo dục, góp
phần quan trọng đào tạo nguồn nhân lực, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Thực tế hiện nay cho thấy, tình hình vi phạm pháp luật trong xã hội ngày càng
tăng nhất là trong lứa tuổi thanh thiếu niên mà một trong những nguyên nhân đó là
tình trạng “mù” pháp luật, không hiểu biết gì về pháp luật, hoặc hiểu biết pháp luật
không đầy đủ, từ đó dẫn đến việc có những hành vi vi phạm pháp luật. [30]
Xã hội càng phát triển, nhu cầu hiểu biết pháp luật và vận dụng pháp luật
trong các hoạt động kinh tế hay để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi cá
nhân trong xã hội càng lớn. Do đó, ngoài việc trang bị các kiến thức văn hoá, khoa
học kỹ thuật, việc phổ biến, giáo dục pháp luật vào nhà trường nhằm trang bị những
tri thức pháp luật cơ bản cho học sinh, giáo dục ý thức tự giác tuân thủ pháp luật

cho các công dân trẻ - chủ nhân tương lai của đất nước là việc làm đúng đắn, cần
thiết và cấp bách đáp ứng đòi hỏi khách quan của sự phát triển của xã hội nhằm
nâng cao dân trí pháp lý và thực hiện chủ trương của Đảng đã đề ra trong các Nghị
quyết hội nghị Trung ương.
Đẩy mạnh GDPL cho HS THPT là việc trang bị cho các em những tri thức
pháp luật cần thiết, bồi dưỡng tình cảm và đặc biệt là xây dựng và hình thành trong
các em ý thức pháp luật làm cơ sở cho sự hình thành hành vi và thói quen hành có

11


các hành vi phù hợp pháp luật, phù hợp với chuẩn mực đạo đức, với kỷ cương, nề
nếp xã hội yêu cầu. Trường học là môi trường giáo dục pháp luật tốt nhất, dễ đạt
hiệu quả cao. Do việc sử dụng các hình thức, phương pháp đặc trưng của giáo dục
nhà trường trong hoạt động giáo dục pháp luật. Thực hiện GDPL cho HS THPT
trong nhà trường là góp phần đưa pháp luật đến với những công dân trẻ tuổi bằng
con đường ngắn nhất, nhanh nhất, hiệu quả nhất, góp phần thực hiện tốt nhất mục
tiêu giáo dục toàn diện mà Đảng, Nhà nước và Ngành Giáo dục Đào tạo đã xác
định. [43]
1.4. Quy định pháp luật về giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ
thông
Quốc Hội ban hành Luật phổ biến, giáo dục pháp luật (2012), Quyết định số
1042/QĐ-TTg ngày 17/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ ban hành - Kế hoạch thực
hiện Chiến lược phát triển thanh niên giai đoạn II (2016 - 2020); Quyết định số
228/QĐ-BTP ngày 21/02/2018 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành - Kế hoạch tiếp
tục thực hiện đề án “Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng
cao ý thức pháp luật cho thanh, thiếu niên giai đoạn 2010 - 2015” đến năm 2020.
Với quan niệm giáo dục pháp luật cho học sinh trong các nhà trường là giáo
dục đạo đức, lối sống, giáo dục ý thức công dân, ý thức làm người, Nhà nước ta đã
ban hành nhiều văn bản pháp luật thể chế hoá các Nghị quyết của Đảng, khẳng định

vai trò chiến lược của công tác giáo dục pháp luật trong nhà trường, tạo cơ sở pháp
lý cho việc triển khai thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường. Theo
đó, GDPL cho học sinh trung học phổ thông được xác định là một hệ thống bộ phận
trong hệ thống giáo dục quốc dân, gắn liền chặt chẽ giáo dục nghề nghiệp, giáo dục
truyền thống đạo đức và thực hiện quy tắc chuẩn mực xã hội.
Nội dung của pháp luật về giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ
thông bao gồm:
(i) Xác định mục đích giáo dục giáo dục pháp luật cho học sinh trung học
phổ thông

12


- Xác định mục đích GDPL cho HS THPT là vấn đề quan trọng hàng đầu đối
với việc xây dựng nội dung giáo dục và toàn bộ công tác tổ chức thực hiện. Vì vậy,
cần phải căn cứ theo các tiêu chí sau:
+ Căn cứ từ nhu cầu giáo dục toàn diện cho HS.
+ Căn cứ từ thực trạng tình hình tuyên truyền và hiểu biết pháp luật và ý thức
tôn trọng pháp luật cùng hiểu biết về tệ nạn xã hội, nguy cơ ảnh hưởng đến an toàn
của đất nước.
+ Căn cứ đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi.
Từ những tiêu chí cơ bản trên, ta có thể nhận thấy mục tiêu của GDPL cho
HS THPT phải đạt được:
Cần phải hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng hệ thống tri thức về
pháp luật cho HS. Thông qua GDPL cho HS THP, HS được trang bị những tri thức
cơ bản về pháp luật, vai trò điều chỉnh của pháp luật, các chuẩn mực của pháp luật
trong từng lĩnh vực đời sống.
Hình thành tri thức pháp luật là nền móng cơ bản để xây dựng tình cảm pháp
luật, đất nước giúp HS hiểu hơn về pháp luật và biết cách đánh giá một cách đúng
đắn các hành vi pháp lý. Tri thức pháp luật góp phần định hướng cho lòng tin đúng

đắn vào các giá trị pháp luật, tạo cơ sở hình thành hành vi hợp pháp cho HS, đồng
thời giúp HS điều khiển hành vi của mình trên cơ sở các chuẩn mực pháp lý, tri
thức pháp luật đã nhận thức được. Các hành vi phù hợp với pháp luật chỉ được hình
thành trên cơ sở các chuẩn mực pháp lý, tri thức pháp luật đã nhận thức được. [35]
Giáo dục tình cảm công bằng là giáo dục cho GDPL choHS THPT biết nhìn
nhận, đánh giá một hành vi nào đó xảy ra là đúng hay sai để từ đó, bày tỏ thái độ bất
bình, phê phán, lên án cái sai; bênh vực, ủng hộ và đấu tranh bảo vệ cái đúng dựa
trên cơ sở kiến thức, hiểu biết pháp luật có được.
Giáo dục tình cảm trách nhiệm là GDPL cho HS THPT biết được bổn phận,
nghĩa vụ pháp lý của mình, để thực hiện các hành vi sao cho phù hợp với quy định

13


của pháp luật, biết rõ trách nhiệm pháp lý của mình và luôn hoàn thành trách nhiệm
đó trong mối quan hệ với các chủ thể pháp luật khác. Tình cảm trách nhiệm là cơ sở
để mỗi HS THPT sống đoàn kết, gắn bó, chia sẻ và có trách nhiệm với gia đình, nhà
trường, bạn bè trong học tập và lao động.
Giáo dục tình cảm không khoan nhượng đối với các hành vi phạm tội, về
thực chất, là GDPL cho HS THPT nhận thức đầy đủ về tính nguy hiểm cho xã hội
của các hành vi phạm tội, rằng tội phạm không chỉ xâm hại tới lợi ích của Nhà
nước, tập thể, cộng đồng; mà còn xâm hại tới tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân.
(ii) Quy định về nội dung giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ
thông (Điều 23, Luật phổ biến, giáo dục pháp luật (2012)).
Nội dung GDPL và đối tượng GDPL có mối liên hệ mật thiết với nhau, nghĩa
là phải căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu tiếp nhận kiến thức pháp luật của từng nhóm
đối tượng GDPL để lựa chọn các nội dung GDPL phù hợp. [30]
Các nội dung pháp luật được phổ biến trong các trong trường học thường gắn
với giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục nhân cách học sinh, tập trung vào các lĩnh

vực như : giáo dục về quyền trẻ em, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, bảo vệ
môi trường, chấp hành luật giao thông, phòng chống ma túy, tội phạm và các tệ nạn
xã hội trong học đường, phòng chống HIV/AIDS, luật nghĩa vụ quân sự, giáo dục
giới tính và kỹ năng sống, bình đẳng giới, phòng chống bạo lực gia đình ...
Nội dung về hệ thống các văn bản QPPL của Nhà nước cũng cần được
truyền đạt cho học sinh THPT một cách khái quát nhất. Trong đó, cần thiết nhất là:
Thứ nhất, nhìn trên phương diện hệ thống các văn bản QPPL do Nhà nước
ban hành, nội dung GDPL cho HS THPT bao gồm các bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị
định, các loại văn bản QPPL khác, đang có giá trị và hiệu lực thực thi, như Hiến
pháp, Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động, Luật đất đai, Luật hôn nhân và gia đình,
Luật phòng, chống bạo lực gia đình, Luật bình đẳng giới, Luật khiếu nại, Luật giáo
dục, ...

14


Thứ hai, nhìn trên phương diện các văn bản QPPL dưới luật do các cấp, các
ngành giáo dục ban hành, nội dung GDPL cho HS THPT bao gồm: Các quy định
pháp luật về cán bộ, công chức; các quy định pháp luật về thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí; các quy định pháp luật về hội nhập quốc tế; các quy định pháp luật
về thực hiện quy chế dân chủ; các quy chế về đào tạo, rèn luyện học sinh, sinh viên;
các bộ luật, luật liên quan tới giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của giáo viên,
học sinh..
(iii) Quy định về hình thức giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ
thông (Điều 24, Luật phổ biến, giáo dục pháp luật (2012)).
GDPL cho HS THPT thông qua một số hình thức sau:
Hình thức thuyết phục kết hợp rèn luyện thực hành: Là những phương pháp
tác động vào lý trí tình cảm của HS để xây dựng những niềm tin pháp luật, gồm các
nội dung sau: Giảng giải về pháp luật: được tiến hành trong giờ dạy môn chuyên
cũng như trong các giờ học môn khác, giờ sinh hoạt lớp. Đồng thời nêu gương

người tốt, việc tốt bằng nhiều hình thức như: nói chuyện, kể chuyện, đọc sách báo,
mời những người có gương phấn đấu tốt đến nói chuyện, nêu gương tốt của GV và
HS trong trường. Từ đó, hình thành hành động thực tế như rèn luyện thói quen tuân
thủ pháp luật thông qua các hoạt động cơ bản của nhà trường: dạy học trên lớp, lao
động, hoạt động xã hội đoàn thể và sinh hoạt tập thể và rèn luyện pháp luật thông
qua các phong trào thi đua trong nhà trường là biện pháp tác động tâm lý rất quan
trọng nhằm thúc đẩy các động cơ kích thích bên trong của HS. Vì vậy, nhà trường
cần tổ chức các phong trào thi đua và động viên HS tham gia tốt phong trào này…
Thông qua các môn học chính khóa trong nhà trường: Đây là con đường
thuận lợi, tích cực chủ động và ngắn nhất giúp HS nắm bắt kiến thức về pháp luật,
phòng, chống tệ nạn xã hội một cách đầy đủ có hệ thống. Dạy học còn là con đường
quan trọng nhất trong tất cả các con đường Giáo Dục. Do vậy, GDPL cho HS THPT
nếu được tích hợp qua các môn học bằng con đường dạy học trong các nhà trường
thì vai trò và ý nghĩa càng có tác dụng to lớn. Hình thức này yêu cầu cần phải có sự

15


đồng ý của các cơ quan quản lý nhà nước về mặt chuyên môn như bộ Giáo dục và
Đào tạo, và phải được thể hiện bằng khung chương trình đào tạo. Bồi dưỡng, nâng
cao nhận thức về PL, làm phát triển ý thức công dân ở HS thông qua dạy học, nhất
là các bộ môn có liên quan như giáo dục công dân, văn học, lịch sử trong nhà
trường phổ thông.
Thông qua những hoạt động ngoại khóa: GDPL cho HS không chỉ đóng
khung trong các giờ dạy trên lớp mà nên thực hiện lồng ghép với các hoạt động
ngoại khóa và các hoạt động phong trào, nhằm đa dạng hóa các loại hình tổ chức
hoạt động và thu hút đông đảo lực lượng sinh viên, các tổ chức và tầng lớp xã hội
cùng tham gia.
Thông qua các hoạt động xã hội: GDPL cho HS thông qua các hoạt động xã
hội giúp HS hiểu biết hơn nhưng về thế giới, cuộc sống xã hội ngày càng được mở

mang, và kinh nghiệm hoạt động được phát huy tính tích cực xã hội được phát huy
tạo động lực thu hút HS tham gia các hoạt động xã hội phong phú và đa dạng. Các
hoạt động xã hội thường được tổ chức dưới các hình thức như các hoạt động tình
nguyện, tuổi trẻ xung kích vì cộng đồng, thông qua các hoạt động của Đoàn Thanh
niên…
Thông qua giáo dục của gia đình: Qua môi trường giáo dục gia đình, HS
được học hỏi tiếp thu những kiến thức, những chuẩn mực về đạo đức, hành vi ứng
xử đúng đắn, về những vấn đề có liên quan đến phòng, chống tệ nạn xã hội, yêu cầu
đối với hình thức giáo dục này là những người lớn trong gia đình phải thực sự
gương mẫu, mẫu mực sống, có văn hóa, có trách nhiệm, biết quan tâm sẻ chia với
nhau những kiến thức kinh nghiệm về phòng chống tệ nạn xã hội
Thông qua hình thức tự giáo dục của HS: Cũng như các hoạt động giáo dục
khác, việc GDPL cho HS sẽ phát huy hiệu quả khi và chỉ khi bản thân sinh viên ý
thức được những tác hại và hậu quả mà tệ nạn xã hội gây ra cho mọi người, gia đình
và toàn xã hội. Từ đó có ý thức chủ động tích cực học tập rèn luyện tu dưỡng bản
thân để phòng chống các tệ nạn xã hội.

16


Thông qua tổ chức nói chuyện, kể chuyện, thi tìm hiểu về truyền thống để bồi
dưỡng niềm tin, ý thức pháp luật cho HS. Thông qua các hoạt động này để nâng cao
nhận thức tư tưởng, tình cảm, cổ vũ, động viên, khích lệ tinh thần của pháp luật
trong giữ gìn, phát huy GDPL của nhà trường. Nói chuyện, kể chuyện, thi tìm hiểu
về pháp luật thường được tổ chức nhân những sự kiện chính trị của dân tộc, của
Đảng. Khi tổ chức phải có lãnh đạo, chỉ huy, tổ chức chặt chẽ, nghiêm túc, chu đáo
từ việc xác định nội dung, đến hình thức, cách tổ chức cụ thể và khi tổ chức nói
chuyện, kể chuyện về pháp luật.
Bên cạnh đó, để thực hiện được GDPL cho HS cần tổ chức các hình thức
như:

+ Khen thưởng: là tán thành, coi trọng, khích lệ những cố gắng của HS làm
cho bản thân HS đó vươn lên hơn nữa và động viên khuyến khích các em khác noi
theo.
+ Xử phạt : là phê phán những khiếm khuyết của HS. Khi xử phạt cần phải
làm cho HS thấy rõ sai lầm, khuyết điểm, thấy hối hận và đặc biệt sau đó phải theo
dõi, giúp đỡ, động viên HS sửa chữa khuyết điểm, cần phải tỏ rõ thái độ nghiêm
khắc nhưng không có lời nói, cử chỉ thô bạo đánh đập, xỉ nhục hoặc các nhục hình
xúc phạm đến thân thể HS.
(iv). Quy định về phương pháp GDPL cho học sinh trung học phổ thông
Các phương pháp giáo dục nói chung và công tác GDPL cho HS THPT nói
riêng, có thể phân thành 2 nhóm cơ bản:
Nhóm các phương pháp hình thành ý thức cá nhân:
- Phương pháp đàm thoại: sử dụng các đề tài, chủ đề có liên quan đến nội dung
phòng, chống tệ nạn xã hội để HS có cơ hội trao đổi, trình bày quan điểm của mình
nhằm nâng cao kiến thức, hình thành thái độ và có hành vi đúng đắn về công tác
phòng chống tệ nạn xã hội.

17


- Phương pháp nêu gương: sử dụng những tấm gương tốt hoặc xấu của các cá
nhân tập thể để kích thích HS, khiến họ được giáo dục, học tập làm theo những cái
đúng cái tốt và tránh những hành vi xấu.
- Phương pháp giảng dạy: sử dụng những hình ảnh, pano, áp phích,…để giải
thích, minh họa cho HS để nắm bắt liên quan đến vấn đề phòng chống tệ nạn xã hội.
Nhóm phương pháp tổ chức hoạt động xã hội và hình thành kinh nghiệm ứng xử
xã hội cho HS bao gồm:
- Phương pháp giao việc: phương pháp này chú trọng việc tổ chức các hoạt động
nhằm thu hút HS THPT vào các hoạt động đa dạng phong phú của tập thể, qua đó
giúp sinh viên ý thức đầy đủ ý nghĩa công việc mình làm và tích cực hoạt động.

- Phương pháp tập thói quen: Đây là phương pháp tổ chức cho sinh viên thực
hiện đều đặn và có kế hoạch hành động đúng đắn nhất định, nhằm biến những hành
động thành thói quen ứng xử và thành kỹ năng, kỹ xảo.
- Phương pháp tạo tình huống giáo dục: Là phương pháp tổ chức cho HS được
thể hiện thái độ nhận thức của mình về những vấn đề nảy sinh trong thực tế cuộc
sống, qua đó nhằm hình thành, củng cố những hành vi, thực hiện những kỹ năng
chính xác, đúng đắn để giải quyết vấn đề.
- Phương pháp tạo dư luận xã hội: là một hình thức biểu thị trạng thái ý kiến của
xã hội khi một hiện tượng xã hội xuất hiện, một số người nắm bắt được, họ truyền
đi cho những người khác cùng trao đổi, bàn bạc, tranh luận, xem xét, lên án hiện
tượng đó và tạo ra dư luận tốt hoặc xấu về hiện tượng đó để mọi người biết và có
những hành vi ứng xử phù hợp.
(v). Quy định về các điều kiện đảm bảo giáo dục pháp luật cho học sinh
trung học phổ thông (Điều 38 và Điều 39, Luật phổ biến, giáo dục pháp luật
(2012)).
Để thực hiện GDPL cho HS cần thiết có những điều kiện như :
Về mặt nhân lực : Sư phối hợp, huy động giữa các lực lượng giáo dục.

18


Để đạt hiệu quả cao trong công tác GDPL cho HS cần phải phối hợp với các
lực lượng trong nhà trường (Ban giám hiệu, giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn,
các tổ chức đoàn thể). Phối hợp với các lực lượng xã hội (các ban, ngành, chính
quyền địa phương và các tổ chức xã hội). Phối hợp với gia đình các em HS.
Trong GDPL cho HS, đội ngũ hỗ trợ GDPL cho HS như cán bộ QL, GV,
Đoàn thanh niên... là những người trực tiếp biến mục tiêu GDPL cho HS thành hiện
thực. Họ là nhân tố quyết định chất lượng GDPL cho HS. Vì vậy, điều kiện tiên
quyết để thực hiện được các mục tiêu GDPL cho HS là các giáo viên làm nhiệm vụ
GDPL cho HS phải được trang bị đầy đủ các kiến thức và kiến thức về pháp luật để

có năng lực cần thiết thực hiện các nhiệm vụ GDPL cho HS.
Trong các lực lượng trên thì gia đình đóng vai trò quan trọng. Vì gia đình đóng
vai trò vô cùng quan trọng trong việc nuôi dạy, giáo dục và rèn luyện HS, là ngôi
trường đầu tiên xây dựng nền tảng cho phát triển tri thức, đạo đức, tính cách, tâm lý
và kết hợp cùng nhà trường, cộng đồng xã hội tiếp tục nuôi dưỡng và phát triển
nhân cách toàn diện cho HS.
Vật lực: Cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài liệu giảng dạy (Điều 38, Luật phổ
biến, giáo dục pháp luật (2012)).
Các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, phát thanh, truyền hình, mạng
Internet, Tủ sách pháp luật...) có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động GDPL cho
HS. Một mặt, do khả năng đưa thông tin đến với mọi người, mọi nhà, trong đó có
các gia đình HS, một cách nhanh chóng, cập nhật, kịp thời nên các phương tiện
thông tin đại chúng thường được sử dụng như một kênh thông tin quan trọng,
chuyển tải các thông tin, kiến thức pháp luật, giải thích pháp luật... phục vụ GDPL
cho HS một cách hiệu quả.
Thiết bị, máy móc và đồ dùng dạy học là công cụ để giáo viên tiến hành các
phương pháp khi tổ chức thực hiện GDPL cho HS. Hiệu quả của việc sử dụng các
phương pháp, hình thức GDPL cho HS phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện về thiết bị,
cơ sở, thiết bị. Do vậy, muốn tổ chức GDPL cho HS các trường cần phải có các

19


×