Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh tiền giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (718.11 KB, 76 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN NGỌC PHỤNG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA CÁC VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
TỪ THỰC TIỄN TỈNH TIỀN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂMKHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN NGỌC PHỤNG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA CÁC VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
TỪ THỰC TIỄN TỈNH TIỀN GIANG
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Nguyễn Đức Hạnh

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả luận văn

Nguyễn Ngọc Phụng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN
MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY ................................................... 7
1.1. Những khái niệm cơ bản liên quan đến vấn đề nghiên cứu .......................
7
1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy..... 15
1.3. Yêu cầu và quy định của pháp luật đối với Viện kiểm sát khi thực hành
quyền công tố các vụ án mua bán trái phép chất ma túy trong giai đoạn điều
tra..................................................................................................................... 23
Tiểu kết chương 1.................................................................................. 44
Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIA ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT
MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TIỀN GIANG VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ .............................................................................................................. 45
2.1. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án mua
bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Tiền Giang.................................. 45

2.2. Nguyên nhân của những khó khăn vướng mắc trong thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy trên
địa bàn tỉnh Tiền Giang ................................................................................... 56
2.3. Kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Tiền
giang ................................................................................................................ 61
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 66
KẾT LUẬN .................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCA:

Bộ Công an BLHS:

Bộ luật hình sự BLTTHS:

Bộ luật

tố tụng hình sự CSĐT:

Cảnh

sát điều tra CTTP:
tội phạm CQĐT:
tra KSĐT:

Cấu thành

Cơ quan điều
Kiểm sát điều tra

QPPL:

Quy phạm pháp luật

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

THQCT:

Thực hành quyền công tố

VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


VKSNDTC:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Thống kê số vụ án và bị can đã khởi tố, truy tố và xét xử phạm
tội về ma túy từ năm 2014 đến 2018…………………………………..…..47
Bảng 2.2: Tỷ lệ tội Mua bán trái phép chất ma túy so với tội phạm nói
chung từ năm 2014 đến năm 2018……………………………………...….48


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm vừa qua, tội phạm về ma túy ngày càng gia tăng về
số lượng, diễn biến ngày càng phức tạp về quy mô và tính chất gây ảnh hưởng
đến an ninh xã hội với phương thức, thủ đoạn luôn thay đổi, tinh vi, xảo
quyệt, khi bị phát hiện và bắt giữ thường manh động, chống trả quyết liệt khi
bị bắt.
Bên cạnh đó, quy mô, số lượng, tính chất và đối tượng phạm tội ma túy
đang có những diễn biến phức tạp không ngừng. Quy mô của tội phạm ma túy
không dừng ở địa phận từng quốc gia đơn lẻ mà nó còn mang tính chất quốc
tế, xuyên quốc gia, xuyên lục địa. Số lượng ma túy không ngừng tăng, có rất
nhiều loại ma túy ra đời, đôi khi Nhà nước không kịp cập nhật trong các văn
bản pháp luật quy định về danh mục chất và tiền chất ma túy. Thủ đoạn phạm
tội của các đối tượng ngày càng tinh vi và xảo quyệt, thậm chí còn lợi dụng cả
những khe hở của pháp luật để phạm tội. Trước tình hình đó, đặt ra cho các cơ
quan Nhà nước nói chung, đặc biệt là các cơ quan tư pháp như Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án những nhiệm vụ hết sức nặng nề trong đấu tranh

phòng chống tội phạm về ma túy để giữ vững ổn định và phát triển xã hội.
Địa bàn tỉnh Tiền Giang nằm trong tọa độ 105°50’–106°55’ kinh độ
Đông và vĩ độ Bắc. Phía Bắc giáp tỉnh Long An, phía Tây giáp tỉnh Đồng
Tháp, phía Nam giáp tỉnh Bến Tre và tỉnh Vĩnh Long, phía Đông Bắc
giáp Thành phố Hồ Chí Minh, phía Đông Nam giáp Biển Đông. Được chính
phủ quy hoạch là một trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nên cùng với
sự phát triển về kinh tế thì tệ nạn xã hội cũng không ngừng gia tăng và diễn
biến phức tạp, trong đó nổi bật nhất là tội phạm về ma túy. Nguồn ma túy chủ
yếu từ các thành phố Hồ Chí Minh và Long An chuyển đến gây hậu quả vô
cùng nghiêm trọng đến sự phát triển, tác động tiêu cực đến xã hội, đặc biệt là
1


tầng lớp thanh thiếu niên, từ đây kéo theo các hành vi tiêu cực và vi phạm
pháp luật khác. Tuy nhiên, hiện nay công tác thực hành quyền công tố đối với
các vụ án về ma túy của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang nói chung
vẫn còn những thách thức, hạn chế.
Nhằm góp phần đánh giá tính chất nguy hiểm của nhóm tội phạm về
ma túy, các giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án về ma túy
trong đó có giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố đối với
các vụ án này trong giai đoạn của tố tụng nói chung và đặc biệt là giai đoạn
điều tra, học viên đã lựa chọn đề tài: “Thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Tiền
Giang” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết
Để có cơ sở lý luận cho việc thực hiện đề tài luận văn, tác giả đã nghiên
cứu các công trình khoa học sau đây:
- Đinh Văn Quế (2006) Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (tập IV các
tội phạm về ma túy), Nxb Chính trị Hà Nội.

- Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự năm 1999, Hà Nội.
- Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự năm 2015, Hà Nội.
- Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình lý luận chung về định tội danh,
Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.
- Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần
chung), Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.
- Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần các
tội phạm), Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.
- Bên cạnh đó tác giả còn nghiên cứu các bài viết về nguyên nhân và
điều kiện phạm tội, về phòng ngừa tội phạmđược đăng tải trong những năm
2


qua trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Tạp chí Cảnh sát nhân dân, Công an
nhân dân, Tòa án nhân dân và Tạp chí Viện Kiểm sát.
2.2 Tình hình nghiên cứu thực tế
Tội phạm về ma túy được nhiều tác giải nghiên cứu với nhiều đề tài khác
nhau:
- Luận văn cao học “Đấu tranh phòng chống các tội phạm về ma túy
trên địa bàn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng” của thạc sĩ Đào Thị Huệ
năm 2011;
- Luận văn cao học “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo pháp luật
hình sự từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang” của thạc sĩ Triệu Thị Ngân Hà năm
2017;
- “Kiểm sát điều tra các tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất
ma túy theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí
Minh” của thạc sĩ Lê Viễn Phương;
Mỗi công trình nghiên cứu gắn với một địa bàn tỉnh thành cụ thể khác
nhau và được tiếp cận với nhiều góc độ khác nhau về công tác đấu tranh,
phòng chống tội phạm về ma túy.

Những vấn đề tiếp tục phải nghiên cứu: Hiện nay chưa có công trình
khoa học cụ thể nào nghiên cứu cụ thể, chuyên sâu về thực hành quyền công
tố các vụ án mua bán trái phép chất ma túy trong giai đoạn điều tra trên địa
bàn tỉnh Tiền Giang. Từ nhận định trên, luận văn này sẽ tập trung nghiên cứu,
phân tích vấn đề này và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Tiền giang để từ
đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác
này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

3


Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm làm rõ vấn đề lý luận về vai trò và
nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy nói chung
và trên địa bàn tỉnh Tiền Giang nói riêng. Đồng thời đưa ra một số kiến nghị,
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động thực hành quyền công tố
trong giai đoạn kiểm sát điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy trên
địa bàn tỉnh Tiền Giang.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu Luận văn đề ra các nhiệm vụ cụ thể
cần giải quyết sau đây:
-Nghiên cứu các khái niệm cơ bản liên quan đến hoạt động thực hành
quyền công tố nói chung và hoạt động thực hành quyền công tố trong giai
đoạn kiểm sát điều tra nói riêng; Phân tích, làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn kiểm sát
điều tra.
- Khảo sát nghiên cứu thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh

Tiền Giang, từ đó làm rõ nhận thức và đánh giá cơ bản về vai trò và hoạt động
của Kiểm sát viên khi kiểm sát điều tra các vụ án Mua bán trái phép chất ma
túy từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang.
- Thông qua khảo sát và nghiên cứu thực tiễn, đối chiếu với lý luận để
đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố trong giai đoạn kiểm sát điều tra đối với các vụ án mua bán trái phép
chất ma túy.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

4


Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật, các
quy định của ngành kiểm sát nhân dân và các hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên,..thể hiện vai trò và nhiệm vụ của
Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Tiền
Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài đi sâu vào trọng tâm nghiên cứu về quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự đối với vai trò và hoạt động của Viện kiểm sát khi thực hành quyền
công tố trong gia đoạn kiểm sát điều tra và đưa ra giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng thực hành quyền công tố.
Về không gian, đề tài khảo sát và thu thập số liệu thực tiễn đối với Viện
kiểm sát nhân dân hai cấp trên địa bàn tỉnh Tiền Giang.
Về thời gian, đề tài tập trung phân tích, đánh giá nghiên cứu trong giai
đoạn từ 2014 – 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và pháp
luật về cải cách tư pháp.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống: Phân
tích, tổng hợp, lịch sử cụ thể, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế... và phương
pháp phỏng vấn chuyên gia có kinh nghiệm công tác của các Kiểm sát viên
thuộc Viện kiểm sát nhân dân hai cấp của tỉnh Tiền Giang.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa đối với việc hoàn thiện pháp
luật, đóng góp thêm vào sự phát triển lý luận về vai trò và nhiệm vụ của Kiểm
5


sát viên khi được phân công thực hành quyền công tố trong giai đoạn kiểm sát
điều tra đối với các vụ án mua bán trái phép chất ma túy. Với việc đề xuất các
giải pháp, trong đó có việc đưa ra một số giải pháp – kiến nghị góp phần nâng
cao chất lượng hoạt động của Viện kiểm sát.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng
trong hoàn thiện pháp luật về tố tụng hình sự. Luận văn cũng là tại liệu tham
khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy, bồi dưỡng chuyên nghành kiểm
sát, hoàn thiện các quy chế công tác của nghành kiểm sát và những ai quan
tâm đến lĩnh vực này.
7. Kết cấu của luận văn.
Nội dung của Luận văn gồm 2 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy.
Chương 2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
các vụ án mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Tiền Giang và một
số kiến nghị


6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TÁC
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
1.1. Những khái niệm cơ bản liên quan đến vấn đề nghiên cứu
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà
Nội xuất bản năm 2008 đưa ra khái niệm TTHS là khái niệm pháp lý dùng để
chỉ trình tự (quá trình) tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định của
pháp luật (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự). Tố tụng
hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án); người tiến hành tố tụng (Thủ trưởng, Phó thủ
trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát, Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm và
Thư ký Tòa án); người tham gia tố tụng (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
người bào chữa; người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người bảo vệ quyền lợi của đương
sự, người làm chứng, người giám định và phiên dịch), của cá nhân, cơ quan
và tổ chức khác góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp
luật hình sự [tr.9-10]
Ngoài ra TTHS cũng còn được đề cập và hiểu là hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng từ khi có dấu hiệu tội phạm xảy ra cho đến khi vụ án
hình sự được xem xét giải quyết bằng quyết định hoặc bản án của Tòa án.
Hoạt động TTHS trong bất kỳ Nhà nước nào luôn là hoạt động được điều
chỉnh chặt chẽ bởi các quy định của luật. Điều này được giải thích bởi lý do
đây là hoạt động liên quan đến việc phát hiện, khám phá tội phạm và kẻ phạm
tội – lĩnh vực liên quan đến các lợi ích quan trọng hàng đầu mà Nhà nước

phải quan tâm bảo vệ. Phòng chống tội phạm luôn là hoạt động ưu tiên của
7


Nhà nước. Điều tra khám phá tội phạm, kẻ phạm tội, xác định các tình tiết sự
kiện của vụ án đã xảy ra ở thời quá khứ và các thông tin, dấu vết để lại của tội
phạm luôn có sự biến đổi do tác động của các quy luật khách quan. Trong
hoạt động này việc áp dụng những biện pháp cưỡng chế Nhà nước là cần thiết
khách quan, không thể tránh khỏi và hệ quả của nó là sự hạn chế, xâm phạm
đến các quyền và tự do hiến định của công dân. Vì vậy luật phải có những
quy định chặt chẽ về căn cứ, thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế
này. Để thực hiện nhiệm vụ khám phá tội phạm và kẻ phạm tội Nhà nước
thành lập hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng với các thẩm quyền, chức
năng khác nhau như Cơ quan điều tra, VKS và Tòa án. Có thể nói rằng hoạt
động TTHS là một dạng hoạt động quyền lực Nhà nước do các cơ quan Nhà
nước tiến hành nhằm thực hiện chức năng bảo vệ pháp luật của Nhà nước. Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước,
của xã hội, đến các quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân. Các cơ
quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ áp dụng mọi biện pháp do luật định để
khám phá tội phạm, đối tượng phạm tội và trừng phạt theo quy định của pháp
luật, bảo đảm nguyên tắc tội phạm không tránh khỏi hình phạt. Do vậy hoạt
động TTHS là hoạt động quyền lực công – hoạt động vì lợi ích chung của
Nhà nước, của xã hội. Nhiệm vụ phát hiện nhanh chóng, kịp thời tội phạm và
đối tượng phạm tội, phát hiện, thu thập đầy đủ các chứng cứ làm cơ sở xác
định lỗi của đối tượng phạm tội. Toàn bộ quá trình xem xét, giải quyết vụ án
hình sự phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của BLTTHS nhằm bảo đảm
bản án, quyết định của Tòa án trong vụ án là khách quan, công minh, xử đúng
người, đúng tội và áp dụng hình phạt công bằng cho đối tượng phạm tội,
không là oan người vô tội.
Bên cạnh đó bất kỳ hoạt động nào của con người cũng có thể diễn ra

dưới hình thức nhất định và có thể phân chia thành những giai đoạn được liên
8


kết với nhau bởi những mối quan hệ hoặc nguyên tắc nào đó nhằm thực hiện
được mục tiêu đề ra với hiệu quả cao nhất. Hoạt động TTHS cũng nằm trong
quy luật chung đó. Khái niệm TTHS có nghĩa là quá trình, tiến trình và quá
trình, tiến trình này vận động tiến lên phía trước để đạt đến mục tiêu của nó là
làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án thông qua những giai đoạn hay
những chặng đường nối tiếp nhau. Không phải vụ án hình sự nào cũng có thể
được khám phá, sự thật khách quan được xác định ngay lập tức, kể cả trong
trường hợp phạm tội quả tang mà luôn đòi hỏi phải có thời gian, phải tiến
hành những hành vi tố tụng cần thiết ngay sau khi phát hiện tội phạm để có
thể đưa ra Tòa án xét xử. Bản thân việc xét xử của Tòa án cũng đòi hỏi thời
gian và đòi hỏi hàng loạt những họat động tố tụng kèm theo từ khi nhận được
hồ sơ vụ án cho đến khi tuyên bản án hay quyết định. Bản chất của hoạt động
TTHS là sự tương tác giữa các chức năng cơ bản (buộc tội, bào chữa, xét xử)
do các chủ thể khác nhau thực hiện và nội dung của sự tương tác và vai trò
của các chủ thể rất khác nhau trong toàn bộ tiến trình giải quyết vụ án hình sự.
Mỗi chức năng cơ bản, mỗi chủ thể tố tụng đều có vai trò của mình trong tiến
trình đó. Họat động TTHS không phải là tổng thành cơ học của những hành vi
tố tụng tùy nghi d ocác chủ thể tham gia vào hoạt động này thực hiện mà là
tổng thành của hệ thống các hành vi tố tụng liên kết chặt chẽ với nhau, có
quan hệ ảnh hưởng qua lại với nhau một cách biện chứng và hệ thống này
được phân chia thành các giai đoạn khác nhau mà thông thường tiến trình tố
tụng của bất kỳ vụ án nào cũng phải trải qua. Đặc điểm của hoạt động TTHS
nói chung cũng như của từng hành vi tố tụng riêng lẻ là chúng luôn được luật
quy định và được tiến hành theo trình tự, hình thức do luật định. Yêu cầu này
của luật là yêu cầu chung trong mọi vụ án hình sự và bằng cách đó bảo đảm
tính hợp pháp cho hoạt động TTHS và những kết quả mà nó đạt được, bảo

đảm các quyền và tự do hiến định của những người tham gia trong tố tụng,
9


bảo đảm cho các bản án, quyết định của Tòa án luôn khách quan, công minh
[22, tr.25]
TTHS có những đặc điểm đó là: Luôn có tiến trình theo thời gian với các
bước, các giai đoạn nhất định, bắt đầu khi có thông tin về tội phạm và kết thúc
khi có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Mỗi một tiến trình thời gian
được gọi là một giai đoạn tố tụng hình sự. Nói cách khác giai đoạn tố tụng
hình sự là khoảng thời gian tính từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một vụ án
hình sự (Từ khi cơ quan điều tra, cơ quan được giao một số nhiệm vụ điều tra
tiếp nhận, thụ lý tin báo, tố giác tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố đến khi vụ án
được giải quyết xong). Trong mỗi một giai đoạn của tố tụng hình sự sẽ xác
định được một thời điểm bắt đầu, một thời điểm kết thúc, xác định được cơ
quan tiến hành tố tụng chủ yếu thực hiện chức năng của tố tụng nhằm buộc tội
hoặc kết tội… Quá trình tố tụng hình sự gồm các giai đoạn diễn ra liên tục và
nối tiếp nhau tạo thành một thể thống nhất, chúng tôi cho rằng tố tụng hình sự
có bốn giai đoạn là: Giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố (còn gọi là giai đoạn khởi tố hoặc giải quyết nguồn tin), tiếp theo
là giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Mặc dù Bộ luật tố tụng hình sự có quy
định một số thủ tục thi hành án nhưng thi hành án không được gọi là một giai
đoạn của tố tụng hình sự như các thủ tục đặc biệt giám đốc thẩm và tái thẩm
được quy định trong Bộ luật nhưng không phải là một gia đoạn của tố tụng
hình sự.
Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự do
cơ quan có thẩm quyền tiến hành, hoạt động chính là nhằm thu thập đầy đủ
các chứng cứ chứng minh tội phạm. Giai đoạn điều tra được hiểu theo hai
nghĩa rộng và hẹp. Nếu theo nghĩa rộng thì giai đoạn điều tra được bắt đầu từ
khi cơ quan có thẩm quyền điều tra tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm hoặc

kiến nghị khởi tố đến khi kết thúc việc điều tra , bản kết luận điều tra và hồ sơ
10


được chuyển đến Viện kiểm sát để truy tố hoặc vụ án được đình chỉ. Giai
đoạn điều tra theo nghĩa hẹp bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình
sự và kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền điều tra ban hành Bản kết luận điều
tra chuyển hồ sơ đến Viện kiểm sát đề đề nghị truy tố. Trong luận văn này tác
giả tập trung nghiên cứu toàn diện quá trình điều tra theo nghĩa rộng nhằm
làm rõ hơn vai trò của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong hoạt
động điều tra vụ án hình sự.[22, tr.23]
Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự là hoạt động của VKSND kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng
hình sự phát sinh trong giai đoạn điều tra, nhằm đảm bảo cho quá trình điều
tra vụ án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm việc điều
tra phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác; những vi phạm pháp luật
trong quá trình điều tra phải được phát hiện, khắc phục kịp thời và xử lý
nghiêm minh.
Các chủ thể có thẩm quyền tiến hành và tham gia tố tụng trong giai đoạn
điều tra bao gồm:
- Chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng là chủ thể thuộc các cơ quan
được tiến hành một số hoạt động điều tra và chủ thể thuộc các cơ quan tiến
hành tố tụng thực hiện những nhiệm vụ được quy định trong BLTTHS, chủ
thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể ban hành các quyết định nhằm
thúc đẩy tố tụng phát, chấm dứt một giai đoạn tố tụng hoặc chuyển sang một
giai đoạn tố tụng khác. Trong đó, chủ thể thuộc các cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như các cán bộ được giao nhiệm vụ
trong các cơ quan Hải quan, Kiểm Lâm, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển,
Kiểm ngư, các cơ quan trong lực lượng công an nhân dân và quân đội nhân
dân khi thực hiện nhiệm vụ mà phát hiện vi phạm. Chủ thể tiến hành tố tụng

trong giai đoạn điều tra bao gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều
11


tra, Điều tra viên, cán bộ điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát
viên, Kiểm tra viên. Lần đầu tiên nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm tra viên
được quy định cụ thể tại Điều 43 BLTTHS năm 2015, theo đó Kiểm tra viên
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân công của Kiểm sát viên; chịu
trách nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát và Kiểm sát viên về hành vi của mình. Mặc dù mới được quy định cụ
thể về thẩm quyền trong Luật tổ chức Viện kiểm sát và các Bộ luật chuyên
ngành nhưng điều đó khiến cho Kiểm tra viên được tham gia vào các hoạt
động tố tụng một cách đầy đủ và đảm bảo hơn trong một nên tố tụng ngày
càng đòi hỏi nâng cao về tất cả các mặt. Điều đó cũng đảm bảo pháp luật tố
tụng được thực thi một cách chặt chẽ, chính xác nhằm đảm bảo tính đồng bộ,
dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người và qua
đó sẽ giúp nâng cao được vị thế của ngành Kiểm sát nhân dân dân trong hệ
thống tư pháp. Hoạt động giải quyết vụ án hình sự yêu cầu phải bảo đảm tính
công minh, khách quan và tuân thủ đúng quy định của pháp luật nhằm làm
cho quá trình giải quyết vụ án được thực hiện một cách công bằng, khách
quan, chính xác, không để xảy ra trường hợp oan sai, bỏ lọt tội phạm. Để bảo
đảm cho quá trình tố tụng diễn ra một cách khác quan, chính xác, pháp luật tố
tụng hình sự quy định chủ thể tiến hành tố tụng phải lấy sự vô tư, khách quan
là điều kiện tiên quyết khi tham gia giải quyết vụ án hình sự, nếu không đảm
bảo sự vô tư trong quá trình giải quyết vụ án thì không được tham giam vào
việc giải quyết vụ án và phải được thay đổi người tiến hành tố tụng khác.
- Chủ thể tham gia tố tụng là những chủ thể có quyền và lợi ích hợp pháp
cần được pháp luật bảo vệ, những người có nghĩa vụ pháp lý phải tham gia
vào việc giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự
và những người tham gia tố tụng để hổ trợ pháp lý cho những người tham gia

tố tụng khác. Những người tham gia tố tụng khi tham gia vào quan hệ tố tụng
12


sẽ được thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình với tư cách cá nhân hoặc tổ
chức hoặc pháp nhân thương mại.
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là hoạt
động của VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể tham gia
quan hệ pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn điều tra nhằm đảm bảo quá
trình điều tra vụ án hình sự được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Theo các quy định của BTLTTHS năm 2015 và Luật tổ chức Cơ quan Điều
tra hình sự năm 2015, cơ quan có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự là cơ
quan điều tra và cơ quan được gia nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra. Đồng thời, quy định trách nhiệm của VKSND trong THQCT và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát
hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội,
pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp
thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật để không lọt tội phạm và người phạm tội,
pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội.
Hoạt động THQCT và KSĐT của VKSND được thực hiện thông qua
nhiệm vụ, quyền hạn của những người được phân công tiến hành hoạt động tố
tụng hình sự. Theo quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014 và BLTTHS
năm 2015 đối tượng KSĐT của VKSND là hoạt động điều tra của cơ quan
điều tra và hoạt động của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra.
Tại Khoản 1 Điều 11 Luật tổ chức CQĐT hình sự 2015 quy định: “Viện
kiểm sát tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra nhằm bảo đảm cho hoạt
động điều tra của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra tuân thủ các quy định của BLTTHS và Luật này; phải phát hiện

kịp thời và yêu cầu, kiến nghị CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
13


một số hoạt động điều tra khắc phục vu phạm pháp luật trong hoạt động điều
tra.”
Lần đầu tiên nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm tra viên được quy định cụ
thể tại Điều 43 BLTTHS năm 2015, theo đó Kiểm tra viên thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn theo sự phân công của Kiểm sát viên; chịu trách nhiệm trước
pháp luật và trước Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát
viên về hành vi của mình. Mặc dù mới được quy định cụ thể về thẩm quyền
trong Luật tổ chức Viện kiểm sát và các Bộ luật chuyên ngành nhưng điều đó
khiến cho Kiểm tra viên được tham gia vào các hoạt động tố tụng một cách
đầy đủ và đảm bảo hơn trong một nên tố tụng ngày càng đòi hỏi nâng cao về
tất cả các mặt. Điều đó cũng đảm bảo pháp luật tố tụng được thực thi một
cách chặt chẽ, chính xác nhằm đảm bảo tính đồng bộ, dân chủ, công khai,
minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người và qua đó sẽ giúp nâng cao
được vị thế của ngành Kiểm sát nhân dân dân trong hệ thống tư pháp.
BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sả, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên nhằm
nâng cao chức năng THQCT và KSĐT. Các chủ thể THQCT và KSĐT đều
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình.
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái
phép chất ma túy là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện
việc buộc tội của Nhà nước đối với người thực hiện hành vi phạm tội mua bán
trái phép chất ma túy, hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra đối với các vụ án mua bán trái phép chất ma túy bắt đầu từ khi có tố giác
hành vi mua bán trái phép chất ma túy, tin báo về tội phạm mua bán trái phép
chất ma túy hoặc kiến nghị khởi tố vụ án hình sự mua bán trái phép chất ma
túy (có nguồn tin báo về tội phạm mua bán trái phép chất ma túy) và kết thúc

thuộc một trong ba trường hợp đó là: Khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết
14


định đình chỉ việc giải quyết nguồn tin báo về tội phạm mua bán trái phép
chất ma túy; khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ vụ án mua bán
trái phép chất ma túy hoặc khi cơ quan có thẩm quyền kết thúc điều tra, ban
hành kết luận điều tra đối với vụ án mua bán trái phép chất ma túy và chuyển
hồ sơ đến Viện kiểm sát để đề nghị truy tố các bị can.[09, tr. 50 - 53]
1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma
túy
1.2.1. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi
thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
Theo quy định tại Điều 14 Luật tổ chức VKSND năm 2104 khi thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân
dân có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:
“1. Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ
án, khởi tố bị can.
2. Hủy bỏ các quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án trái pháp luật; phê chuẩn,
hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố bị can trái pháp luật.
3. Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can
trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định.
4. Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn
cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam và các biện pháp khác hạn chế quyền con
người, quyền công dân.


15


5. Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam, các biện pháp ngăn chặn và các biện pháp khác hạn chế quyền con
người, quyền công dân theo quy định của luật.
6. Phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ các quyết định tố tụng khác của
Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra.
7. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện việc điều tra để
làm rõ tội phạm, người phạm tội; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.
8. Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp để
kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn các lệnh, quyết định
của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra hoặc trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội
phạm, vi phạm pháp luật mà Viện kiểm sát nhân dân đã yêu cầu nhưng không
được khắc phục.
9. Khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát
hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội
phạm.
10. Quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, chuyển
vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
11. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc thực hành quyền
công tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.”
Theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì cơ
quan có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra là Viện
kiểm sát nhân dân. Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
của Viện kiểm sát nhân dân được thực hiện thông qua nhiệm vụ, quyền hạn

16


của những người tiến hành tố tụng có thẩm quyền pháp lý trong tố tụng hình
sự.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định cụ thể, chặt chẽ nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát trong THQT và trong hoạt động kiểm sát điều
tra. Điểm mới trong Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 liên quan
đến vấn đề thực hành quyền công tố là hoạt động kiểm sát điều tra của Viện
kiểm sát nhân dân.
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự,
VKSND có quyền đề ra yêu cầu điều tra để yêu cầu cơ quan CSĐT tiến hành
hoạt động điều tra, đây là nhiệm vụ được coi là quan trọng nhất của VKS
trong giai đoạn này. Để bảo đảm hoạt động điều tra được tiến hành tốt, Kiểm
sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra phải
nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, bám sát quá trình hoạt động của cơ quan điều tra
nhằm kịp thời đưa ra các yêu cầu điều tra một cách toàn diện để đảm bảo quá
trình điều tra được thực hiện đúng quy định của pháp luật và việc giải quyết
vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bên cạnh đó, để thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của mình, Viện kiểm sát có quyền trực tiếp thực hiện một số
hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật như: Hỏi cung bị can; Ghi lời
khai bị hại, người làm chứng, người liên quan; Tiến hành đối chất;…để củng
cố các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nhằm đánh giá một cách khách quan và
toàn diện toàn bộ vụ án.[9, tr. 50 – 53]
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự,
tùy từng trường hợp VKS có thể thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân
công theo quy định của BLTTHS nhằm bảo đảm việc điều tra khách quan,
toàn diện, đúng pháp luật, tuyệt đối không để xảy ra trường hợp oan sai hoặc
bỏ lọt tội phạm. Tùy từng trường hợp, VKS có thể tiến hành khởi tố vụ án,
khởi tố bị can hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can của cơ

17


quan điều tra nếu quá trình nghiên cứu phát hiện cơ quan điều tra đã thực hiện
không đúng quy định của pháp luật.
Đối với các vụ án có tính chất phức tạp, còn nhiều quan điểm khác nhau
thì tăng cường họp liên ngành; Kiểm sát viên, Điều tra viên cần tăng cường
trao đổi thống nhất việc đánh giá chứng cứ, chứng minh các tình tiết vụ án.
Trên cơ sở quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố
tụng hình sự 2015 thay đổi theo hướng tăng cường trách nhiệm của Kiểm sát
viên nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
vụ án hình sự, chống oan người vô tội và bỏ lọt tội phạm. Bên cạnh đó, nhiệm
vụ, quyền hạn của Kiểm tra viên là quy định mới, được quy định cụ thể tại
Điều 43 Bộ luật Tố tụng hình sự. Các chủ thể thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra đều phải chịu trách nhiệm trách pháp luật về hành vi, quyết
định của mình.
Theo quy định tại Điểm b, c Khoản 1 Điều 41 Bộ luật Tố tụng hình sự
thì Viện trưởng Viện kiểm sát có quyền phân công hoặc thay đổi Phó Viện
trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên. Việc phân công thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự được thể hiện bằng Quyết định phân
công theo mẫu do Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành. Quyết định phân
công do Viện trưởng ký, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên có
tên trong quyết định có trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.
Phân cấp thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự
được thực hiện ở Viện kiểm sát nhân dân tối cáo, Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh và Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện theo thẩm quyền xét xử của Tòa án
các cấp tương đương.

18



1.2.2. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi
thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái
phép chất ma túy
Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của Viện kiểm sát được chú trọng từ khi Cơ quan điều tra tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, xét
xử các vụ án. Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực
hành quyền công tố trong việc giải quyết nguồn tin về tội phạm. Viện kiểm
sát chỉ trực tiếp giải quyết khi phát hiện Cơ quan điều tra có vi phạm pháp
luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã
yêu cầu bằng văn bản nhưng sau 15 ngày kể từ ngày Cơ quan điều tra đang
thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố nhận được
văn bản mà không khắc phục thì Viện kiểm sát sẽ tiến hành kiểm tra, xác
minh làm rõ nội dung vụ án và trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố trên.
Nhiệm vụ, quyền hạn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự mua bán trái phép chất mà túy của Viện kiểm sát thể hiện bằng
các hình thức như:
- Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án
mua bán trái phép chất ma túy, khởi tố bị can trong vụ án mua bán trái phép
chất ma túy.
- Hủy bỏ các quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố vụ án mua bán trái phép chất ma túy, quyết định không khởi tố
vụ án mua bán trái phép chất ma túy trái pháp luật; phê chuẩn, hoặc hủy bỏ
19



×