Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

THỰC TRẠNG NGÀNH DƯỢC VIỆT NAM VÀ VẤN ĐỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ, XÂY DỰNG VÀ TRIỂN KHAI KẾ HOẠCH Y TẾ CỘNG ĐỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.47 KB, 23 trang )

BÀI 3

THỰC TRẠNG NGÀNH DƯỢC VIỆT NAM VÀ VẤN ĐỀ HỘI
NHẬP QUỐC TẾ, XÂY DỰNG VÀ TRIỂN KHAI KẾ HOẠCH Y
TẾ CỘNG ĐỒNG
A. MỤC TIÊU HỌC TẬP:
Sau khi học xong bài này, học sinh có khả năng:
1. Về kiến thức
- Hiểu được thực trạng hiện nay của ngành Dược Việt Nam và vấn đề hội nhập quốc tế.
- Hiểu được cách xây dựng và triển khai kế hoạch y tế cộng đồng.
2. Về kỹ năng
- Phân tích được điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với ngành Dược Việt
Nam hiện nay nói chung và đối với người làm công tác Dược nói riêng.
- Vận dụng kiến thức về xây dựng và triển khai kế hoạch y tế cộng đồng để phân tích
các kế hoạch y tế hiện nay.
3. Về thái độ:
- Có thái độ học tập nghiêm túc, tích cực, chủ động xây dựng bài.

B. NỘI DUNG:
I. THỰC TRẠNG NGÀNH DƯỢC VIỆT NAM VÀ VẤN ĐỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Ngành Dược Việt Nam được xếp vào nhóm những nước có ngành Dược mới nổi
(Theo phân loại của tổ chức IQVIA Institute). Do dân số Việt Nam đang bước vào giai đoạn
"già hóa" nhanh nhất từ trước tới nay khi tỷ trọng dân số từ 65 tuổi trở lên là 6,5% vào năm
2017 và dự kiến vào năm 2050 sẽ đạt 21%. Như vậy đồng nghĩa rằng khi tốc độ già hóa nhiều
thì nhu cầu chăm sóc sức khỏe cũng tăng lên do đó ngành Dược cũng có cơ hội phát triển
nhanh hơn.
Theo nhận định thì công nghiệp dược Việt Nam chỉ mới đáp ứng được khoảng 50%
nhu cầu sử dụng thuốc tân dược của người dân còn lại phải nhập khẩu. Nguyên nhân là do
Việt Nam chưa phát triển được công nghệ hóa dược hiện đại và chưa thành lập các vùng
chuyên sản xuất dược liệu đảm bảo tiêu chuẩn, chưa kể chi phí đầu tư công nghệ và nghiên
cứu tốn kém. Chính vì lý do đó mà việc áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất còn nhiều


trở ngại.
Bên cạnh đó, khi dân số càng tăng nhanh, thu nhập bình quân đầu người tăng cao mức
độ sẵn sàng chi trả cho các dịch vụ y tế có xu hướng tăng lên do thu nhập bình quân đầu
người và trình độ dân trí được cải thiện, trong khi môi trường sống ngày càng có nguy cơ ô
nhiễm cao làm gia tăng ngày càng nhiều loại bệnh tật nên nhu cầu sử dụng thuốc của người
dân sẽ ngày càng lớn... là yếu tố chính dẫn đến sự phát triển tất yếu của ngành dược. Chi tiêu
bình quân đầu người dành cho thuốc tại Việt Nam đã tăng dần từ 9,85 USD trong năm 2005
lên đến 22,25 USD trong năm 2010 và con số này tăng gần gấp đôi vào năm 2015 (37,97
USD). Theo thống kê của Cục Quản lý Dược VN, ngành sẽ tăng trưởng tiếp tục hai con số
trong vòng 5 năm tới và đạt 7,7 tỷ USD vào 2021. Mức tăng trưởng trung bình trong chi tiêu
dành cho thuốc hàng năm đạt 14,6% trong giai đoạn 2010-2015 và duy trì ở mức tăng ít nhất
14%/năm cho tới năm 2025, chi tiêu dành cho thuốc theo đầu người tại Việt Nam được dự


báo tăng gấp đôi lên 85 USD vào năm 2020 và 163 USD trong năm 2025. Theo đó, gần 78%
chuyên gia và doanh nghiệp dược dự báo, tốc độ tăng trưởng toàn ngành năm 2019 sẽ đạt trên
10%, cho thấy sự tự tin vào khả năng tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận... của các doanh
nghiệp dược hiện nay.

Chi tiêu tiền thuốc bình quân đầu người tại Việt Nam từ năm 2005 và dự báo đến năm 2027

Nguồn nguyên liệu sản xuất thuốc generic bị phụ thuộc và chưa tận dụng tiềm năng
phát triển đông dược là hai hạn chế lớn của ngành dược trong nước hiện nay. 100% doanh
nghiệp được hỏi cho biết vấn đề khó khăn lớn nhất doanh nghiệp đang gặp phải hiện nay là
"bị phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu chủ yếu được nhập khẩu từ nước ngoài". Năm 2017,
Việt Nam nhập khẩu 375 triệu USD nguyên phụ liệu dược phẩm, 78% trong số đó là từ Trung
Quốc và Ấn Độ - là hai nguồn cung cấp thuốc chủ yếu cho các nước đang phát triển có tham
gia sản xuất thuốc generic.
Trong khi đó, Việt Nam là nước có nguồn dược liệu rất phong phú. Cục Quản lý Y
dược cổ truyền (Bộ Y tế) cho biết, trong tổng số trên 5.000 loài cây và nấm làm thuốc đã biết,

có nhiều loài có tiềm năng khai thác tạo nguồn nguyên liệu làm thuốc phục vụ nhu cầu thị
trường. Về nhu cầu sử dụng, khoảng 80% dân số ở các nước đang phát triển sử dụng y học cổ
truyền hoặc thuốc từ thảo dược để chăm sóc và bảo vệ sức khỏe. Có thể thấy, tiềm năng của
mảng sản phẩm này là rất lớn, tuy nhiên, sản xuất đông dược chỉ đang chiếm thị phần rất nhỏ,
xấp xỉ 1 - 1,5%. Đây cũng là điểm hạn chế của ngành sản xuất dược trong nước hiện nay khi
chưa có sự đầu tư thích hợp cho dòng sản phẩm đông dược dễ dùng, tiện lợi, có tính an toàn
cao, thoát khỏi việc phụ thuộc nguyên liệu nhập để tối ưu giá thành sản xuất.


Nhiều doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước đua nhau rót vốn vào ngành dược là xu
thế đầu tư mới. Theo phân loại của tổ chức IQVIA Institute, Việt Nam hiện được xếp vào
nhóm những nước có ngành dược mới nổi (Pharmerging). Công ty Nghiên cứu thị trường
Euromonitor International cũng cho biết mức chi tiêu thuốc bình quân theo đầu người ở Việt
Nam chỉ mới dừng lại ở mức 49,9 USD vào năm 2016, bằng 1/3 mức trung bình của thế giới
(147,4 USD), và mới chỉ mới bằng khoảng một nửa mức trung bình của các nước
pharmerging. Thị trường dược phẩm đang được đánh giá là một “mảnh đất trù phú” thu hút
nhiều nhà đầu tư ngoại, các tập đoàn quốc gia trên thế giới, thậm chí cả những nhà đầu tư
trong nước hoạt động ngoài ngành. Miếng bánh này đương nhiên đã hấp dẫn nhiều tập đoàn
nước ngoài như Abbott (sở hữu 51,7% cổ phần của Domesco và mua lại Glomed
Pharmaceutical), Taisho (tăng sở hữu tại Dược Hậu Giang lên 34,3%), Stada Service Holding
B.V (được chấp thuận tăng tỷ lệ sở hữu lên tối đa 72% tại Pymepharco), Adamed Group (đã
thâu tóm 70% cổ phần của Davipharm)... Trong nước, ngành dược cũng đã và đang thu hút
đầu tư chiến lược của nhiều tên tuổi lớn như Vingroup, FPT, Masan Group, Vinamilk, Thế
giới Di Động, Digiworld, Nguyễn Kim … cũng đang tạo ra áp lực khá lớn với các doanh
nghiệp dược trong nước. Mức độ cạnh tranh trong thị trường dược những năm tới được đánh
giá sẽ diễn ra khốc liệt hơn trên hầu hết các phân khúc thị trường.
Các doanh nghiệp dược kỳ vọng, việc bắt tay với doanh nghiệp nước ngoài sẽ mang
thêm vốn, công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao cho các doanh nghiệp sản xuất dược
phẩm trong nước, hướng tới các dòng sản phẩm đạt tiêu chuẩn cao hơn như EU-GMP,
PIC/S..., trong khi việc kết nối với các nhà bán lẻ lớn sẽ giúp hoàn thiện chuỗi phân phối, mở

rộng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm, đồng thời ứng dụng hiệu quả công nghệ 4.0 hiện nay.
Doanh nghiệp dược chưa thực hiện hoạt động truyền thông hiệu quả. Mặc dù các
doanh nghiệp dược đã ý thức được vai trò của truyền thông, nhưng hoạt động truyền thông
của các doanh nghiệp dược thực tế còn rất hạn chế. Là một ngành nhạy cảm liên quan đến
sức khỏe, y tế, để người dân có thể hiểu đúng về dược phẩm, nhóm nghiên cứu khuyến nghị
các doanh nghiệp nên đầu tư hơn về mặt truyền thông, nhất là trong thời đại công nghệ thông
tin đang phát triển như hiện nay.
Trong năm 2018, 83% số doanh nghiệp nhận định, nghiên cứu các sản phẩm thuốc
mới sẽ là chiến lược ưu tiên đầu tiên. Rõ ràng, khi thị trường dược phẩm Việt Nam ngày càng
có sự phân hóa sâu sắc, việc đẩy mạnh nghiên cứu, cho ra đời những loại thuốc có chất
lượng, giá thành cạnh tranh với thuốc ngoại, mang giá trị của Việt Nam đang được các công
ty dược lưu tâm hàng đầu. Kết hợp với nâng cao chất lượng dược phẩm, các doanh nghiệp
trong ngành đồng thời đặt mục tiêu mở rộng, chiếm lĩnh thị phần. Có 67% doanh nghiệp phản
hồi sẽ phát triển, mở rộng kênh OTC trong năm tới, củng cố sức mạnh thông qua hệ thống
phân phối bán lẻ.


Kiến nghị chính sách: Doanh nghiệp dược kỳ vọng Chính phủ sẽ hoàn thiện hệ thống
hành lang pháp lý và Minh bạch quy trình đấu thầu thuốc tại các bệnh viện. Các doanh
nghiệp dược về cơ bản đều đánh giá cao vai trò của Chính phủ trong việc quản lý giá thuốc
hiện nay (sau khi Nghị định 54/2017/NĐ-CP được ban hành). Tuy nhiên, việc tỷ giá ngoại tệ
thay đổi dẫn đến giá nguyên liệu nhập khẩu biến động làm tăng giá thuốc thành phẩm, trong
khi giá bán lại bị khống chế mức trần khiến các doanh nghiệp bị ảnh hưởng không ít. Do vậy,
các doanh nghiệp đề xuất, Chính phủ và cụ thể hơn là Cục quản lý dược cần có lộ trình
hướng dẫn doanh nghiệp trong việc định giá và mức độ tăng giá với tỷ lệ hợp lý. Theo thống
kê mới nhất cho thấy chi tiêu bình quân đầu người dành cho thuốc tại Việt Nam đã tăng 37,97
USD vào năm 2015, khoảng 56 USD năm 2017 và duy trì chi tiêu dành cho dược phẩm ở
mức tăng ít nhất 14%/năm cho tới năm 2025.
Việc đấu thầu tại các bệnh viện cũng cần được minh bạch hơn. Khảo sát các doanh
nghiệp cho thấy, kênh ETC là kênh phân phối thuốc chính của nhiều doanh nghiệp hiện nay,

do đó các doanh nghiệp rất mong muốn quy trình đấu thầu cần công khai, minh bạch để cạnh
tranh công bằng, giúp người dân được sử dụng thuốc hiệu quả hơn. Ngành dược Việt Nam có
nhiều cơ hội để tăng trưởng. Tuy nhiên là ngành có ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe con
người, sự phát triển của ngành cần đi đôi với vấn đề đạo đức nghề nghiệp. Đồng thời uy tín
doanh nghiệp cũng cần được coi trọng đúng mức để có thể giúp người dân có những thông tin
hữu ích, hiệu quả và cần thiết trong quá trình khám chữa bệnh.
Ngành Dược Việt Nam hiện nay đang phát triển với tốc độ nhanh với sự dịch chuyển
lớn về số lượng và chất lượng và sẽ tiếp tục tăng trưởng hai con số trong vòng 5 năm tới và
đạt 7,7 tỷ USD vào 2021.
II. XÂY DỰNG VÀ TRIỂN KHAI KẾ HOẠCH Y TẾ CỘNG ĐỒNG.
2.1.

CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ KẾ HOẠCH Y TẾ
1. Xây dựng kế hoạch là gì?

Xây dựng kế hoạch là phương pháp có hệ thống nhằm đạt các mục tiêu trong tương lai
nhờ việc sử dụng nguồn lực hiện có và sẽ có một cách hợp lý và hiệu quả.
2. Các loại kế hoạch y tế
Có thể chia kế hoạch y tế thành các loại như: Kế hoạch chiến lược (hay quy hoạch), kế
hoạch dài hạn; kế hoạch một năm; và kế hoạch hành động.


Kế hoạch chiến lược: thể hiện định hướng phát triển của một đơn vị hay một tổ
chức chuyên ngành nào đó.



Kế hoạch dài hạn: là một bước cụ thể hóa định hướng phát triển đó theo lịch trình
thời gian nhiều năm với các hoạt động cụ thể gắn liền với phân bổ nguồn lực cần
thiết.


Khi đưa ra một quy hoạch phát triển cho một cơ quan, một lĩnh vực chuyên ngành phải
dựa trên chính sách chung, phải xuất phát từ việc phân tích tình hình thực tế, các bài học kinh
nghiệm trước đây và khả năng tài chính cũng như nguồn nhân lực, thiết bị kỹ thuật có thể huy
động được.


Quy hoạch y tế phải dựa trên các tiêu chí cơ bản sau: (i) Công bằng; (ii) Hiệu quả; (iii)
Chất lượng; và (iv) Khả thi và bền vững. Quy hoạch y tế của một địa phương cũng như định
hướng phát triển của một lĩnh vực phải nằm trong tổng thể quy hoạch phát triển kinh tế xã hội
của địa phương, của ngành y tế và của từng chuyên ngành. Không những thế, phải cân nhắc
đến tiềm năng nguồn lực và môi trường pháp lý hiện tại và trong tương lai.
Xa rời mục tiêu chính trị sẽ dẫn các bản quy hoạch không có tính lô-gíc. Ví dụ: trong
khi mục tiêu là cung cấp các dịch vụ cơ bản tối thiểu đến với tất cả mọi tầng lớp dân cư, đặc
biệt là nhóm dân nghèo và cận nghèo, một địa phương lại đưa ra quy hoạch phát triển hiện
đại hóa các khoa phòng ở bệnh viện với số vốn chiếm 80% tổng ngân sách dự kiến, chỉ 15%
vốn dành cho phát triển các trạm y tế cơ sở. Như vậy định hướng đầu tư đã hướng về phía các
dịch vụ chữa bệnh có chất lượng cao ở bệnh viện nhiều hơn là dịch vụ ở tuyến xã nơi mà
nhóm dân nghèo và cận nghèo có thể tiếp cận được.


Kế hoạch 5 năm: Kế hoạch 5 năm có thể coi là kế hoạch dài hạn cơ bản của một địa
phương hoặc một đơn vị. Điểm khác nhau giữa kế hoạch 5 năm với kế hoạch chiến
lược là có sự bố trí các nguồn lực để thực hiện các mục tiêu được xác định rõ ràng,
cụ thể hàng năm. Dựa trên bản kế hoạch này, kế hoạch hàng năm được xây dựng và
tổng hợp nhu cầu vốn để trình Quốc hội thông qua, cũng như phát triển các dự án
đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Ví dụ: Trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, khi thực hiện mục tiêu bảo hiểm y tế toàn
dân, các trạm y tế cơ sở (TYT xã) sẽ phải gánh vác một khối lượng công việc lớn hơn hiện

nay rất nhiều. Trong khi vẫn tiếp tục duy trì các hoạt động phòng bệnh và chống dịch , hoạt
động khám chữa bệnh sẽ tăng lên, nhất là khi phải thực hiện KCB bảo hiểm y tế ở xã, trước
hết là BHYT người nghèo. Với tình hình hiện nay, quy hoạch mạng lưới KCB ở tuyến xã cho
một tỉnh, huyện sẽ phải đạt được mục tiêu cụ thể gì về đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất, năng
lực quản lý họat động BHYT, bệnh viện huyện sẽ phải đầu tư vào các khoa phòng nào, cần có
bao nhiêu bác sỹ, cần có các loại phương tiện chuẩn đoán gì, hỗ trợ các TYT xã ra sao... Nếu
không có quy hoạch từ bây giờ sẽ không thể thực hiện được mục tiêu trên. Trên cơ sở quy
hoạch trên sẽ xây dựng kế hoạch dài hạn từ 2011 đến 2015, trong đó hàng năm sẽ phải thực
hiện được những nhiệm vụ gì và cần có nguồn lực nào, bao nhiêu. Các chỉ tiêu kế hoạch 5
năm cũng được xác định rõ. Trên cơ sở kế hoạch 5 năm sẽ xây dựng kế hoạch từng năm theo
một lịch trình xác định.
3. Các yêu cầu khi lập kế hoạch dài hạn và kế hoạch hàng năm
3.1.

Một bản kế hoạch phải đáp ứng ở mức cao nhất nhu cầu chăm sóc sức khỏe
hiện tại và trong tương lai

Mỗi nhóm dân cư có những nhu cầu không hoàn toàn giống nhau. Nhóm dân càng nghèo
nhu cầu chăm sóc sức khoẻ càng cao. Nhu cầu chăm sóc sức khỏe (CSSK) thể hiện chủ yếu
bằng gánh nặng bệnh tật. Gánh nặng bệnh tật bao gồm tình hình mắc bệnh, tình hình tử vong
hay phối hợp cả hai, và bằng các nguy cơ từ môi trường sống môi trường làm việc, nguy cơ
tai nạn, bạo lực, lối sống phản vệ sinh, có hại cho sức khoẻ...
Xác định nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của một cộng đồng sẽ giúp bố trí các dịch vụ CSSK
phù hợp với nhu cầu đó, cũng giống như việc tìm hiểu thị trường trước khi đưa ra một loại
hàng vào bán ở một địa phương.


Nhu cầu CSSK bao gồm nhu cầu khi chưa ốm (ví dụ như phòng bệnh, giáo dục và tư vấn
sức khoẻ), nhu cầu khi bị ốm (ví dụ như khám chữa bệnh) và khi ốm nhưng chữa không khỏi
hẳn (ví dụ như phục hồi chức năng).

3.2.

Các giải pháp và hoạt động phải được cộng đồng chấp nhận, sử dụng ở mức
cao nhất

Sử dụng dịch vụ y tế phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: nhu cầu CSSK; khả năng cung ứng
dịch vụ CSSK của cơ sở y tế; khả năng chi trả của người dân; khả năng tiếp cận dịch vụ y tế
(tiếp cận về khoảng cách xa -gần; tiếp cận về kinh tế: đắt - phù hợp-rẻ-cho không; tiếp cận về
dịch vụ thuận tiện, thái độ phục vụ, sự hài lòng hay yêu cầu CSSK được thoã mãn; tiếp cận
về văn hoá: các tập quán sử dụng dịch vụ KCB...).
Nội dung kế hoạch phải thể hiện các giải pháp bằng những nội dung hoạt động nhằm đạt
các chỉ tiêu của ngành do tuyến trên yêu cầu đồng thời phải giả thuyết được những yêu cầu
riêng của địa phương, những tồn tại của những năm trước.
3.3.

Bản kế hoạch phải hài hòa giữa các lĩnh vực KCB, phòng bệnh và trong từng
lĩnh vực.

3.4.

Bản kế hoạch phải có các nội dung phát triển

Khi lập kế hoạch đảm bảo duy trì các hoạt động thường quy cũng cần có tác giả pháp và
họat động nhằm tạo ra các bước chuyển biến mới thông qua các chương trình, dự án đầu tư
phát triển và tăng cường các nội dung hoạt động đang thực hiện.
3.5.

Kế hoạch phải dựa trên các quy định hành chính và quy chế chuyên môn,
không tách rời các yếu tố khác đang chi phối sự phát triển kinh tế, xã hội của
địa phương.


3.6.

Lập kế hoạch phải hướng trọng tâm phục vụ cho những nhóm cộng đồng dễ bị
tổn thương, khả năng chi trả thấp:

Những người thụ hưởng là những người dân thuộc diện bao phủ của một kế hoạch, của
dự án hoặc một dịch vụ y tế.
Câu hỏi của một dịch vụ y tế, một dự án y tế, một quyết định về chính sách y tế hay quyết
định thay đổi tổ chức quản lý của một cơ sở y tế là: ai sẽ được hưởng lợi. Không ít người
quản lý y tế vẫn chú ý tới việc tìm cách nào duy trì và phát triển cơ sở y tế của mình mà ít
hoặc không chú ý tới hoạt động của cơ sở y tế này sẽ mang lại lợi ích cho những ai. Nếu vì cơ
sở y tế đó thì người được hưởng lợi sẽ là các nhân viên y tế. Nếu vì dân, cho dân thì người
hưởng lợi phải là dân. Câu hỏi tiếp theo là: trong dân có rất ít nhóm người khác nhau, việc
mang lại lợi ích đồng đều cho tất cả mọi người là rất khó khăn về tài chính, vì vậy đối tượng
hưởng lợi cũng phải được sắp xếp ưu tiên theo các tiêu chí: nhóm dễ bị tổn thương (hay bị
ốm đau, dễ bị bệnh nặng) nhóm có khả năng chi trả thấp (nghèo, nhóm dân tộc thiểu số, vùng
núi cao ) và nhóm ưu đãi xã hội - gia đình chính sách. Tuỳ dự án mà có các mục tiêu ưu tiên
khác nhau. Nếu một sự thay đổi trong tổ chức quản lý cũng như chính sách y tế mà người
hưởng lợi thụôc ba tiêu chí trên càng nhiều thì mục tiêu "vì dân" càng được thể hiện rõ.
3.7.

Lập kế hoạch phải chú trọng tới hiệu quả khi sử dụng nguồn lực y tế

Hiệu quả gồm: Hiệu quả chi phí, hiệu quả kỹ thụât và hiệu quả đầu tư




Hiệu quả kỹ thuật: Hiệu quả kỹ thuật đòi hỏi không để lãng phí các nguồn lực, hay

nói cách khác tiết kiệm nguồn lực càng có hiệu quả kỹ thuật cao.

Một cơ sở y tế quản lý kém, các nguồn lực không được bố trí hợp lý, khập khễnh, nhân
viên y tế thiếu kỹ luật lao động, gây phiền hà cho người bệnh cũng là tình trạng hiệu quả kỹ
thuật thấp.
Sử dụng kỹ thuật không thích hợp như trong trường hợp bệnh nhân ốm nhẹ cũng được
chữa ở bệnh viện tuyến trên (vượt tuyến), nơi mọi chi phí đều cao hơn, làm cho chi phí nhiều
nguồn lực mà không hẳn chất lượng KCB đã cao hơn so với khi được chữa ở tuyến dưới.
Thiếu trách nhiệm trong quản lý, thiếu quy chế quản lý khoa học, thiếu chỉ đạo hướng
dẫn từ tuyến trên cũng làm lãng phí nguồn lực. Giảm chi phí y tế bằng sử dụng tối ưu nguồn
lực, không để thấp thoát, lãng phí và góp phần nâng cao hiệu quả kỹ thuật.


Hiệu quả chi phí (chi tiêu): Các chi phí đầu vào thấp nhất để có được một mức đầu
ra nhất định.

Khái niệm này chỉ dùng khi có ít nhất hai giải pháp can thiệp có cùng mục tiêu được so
sánh với nhau về đơn giá đầu ra. Từ đây chọn được giải pháp nào có đơn giá chi phí đầu ra
thấp nhất. Ví dụ: phương pháp tổ chức tiêm chủng vào một ngày cố định trong tháng, ở một
thời điểm cố định trong xã có mức chi phí 1 trẻ được tiêm đủ là 12.000 đồng chi phí này lớn
hơn so với khi tổ chức tiêm chủng tại nhà mà theo chiến dịch là 8000đ/trẻ. Như vậy, nếu giải
pháp thứ hai là khả thi và duy trì được thì người quản lý phải khuyến cáo chọm cách tổ chức
này.
Giống như hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả chi phí thuần tuý xem xét đưới góc độ kinh tế kỹ thuật vì vậy rất quan trọng đối với người quản lý y tế ở cấp xã, huyện, bệnh viện.


Hiệu quả đầu tư: đòi hỏi đầu tư vào đâu, đầu tư như thế nào để đạt được các mục
tiêu, các chỉ tiêu sức khoẻ đã đặt ra cho ngành y tế. Đây là yêu cầu hàng đầu trong
ba loại hiệu quả.


3.8.

Kế hoạch y tế cần phải hướng ưu tiên các nguồn lực và hoạt động cho các vấn
đề sức khoẻ thuộc loại hàng hóa y tế công cộng

Cho dù không nên dùng từ "hàng hóa y tế", trên thực tế các dịch vụ KCB vẫn ít nhiều
mang dáng dấp của hàng hóa: có nhu cầu, có người cung cấp và có người sử dụng phải trả
tiền.
Hàng hóa y tế khác với hàng hóa thông thường ở chỗ người mua (ngừơi sử dụng dịch vụ
y tế) ít khi hiểu hết giá trị của hàng hóa mà mình định mua, hoặc đã mua. Người "bán"
(Người cung cấp) nhất là y tế tư nhân dễ lợi dụng đặc điểm này vì chẳng mấy khi người mua
được quyết định giá phải trả.
Hàng hóa y tế chia làm ba loại:
-

Hàng hóa y tế tư nhân: Là dịch vụ y tế mà một khi người sử dụng nhận
được chỉ chính người đó, gia đình đó được hưởng lợi. Ví dụ, việc chữa
bệnh cao huyết áp cho một người, khám phát hiện bệnh viêm thận cho
một bệnh nhân...


-

Hàng hóa y tế công cộng: Là dịch vụ y tế mà một khi người sử dụng
nhận được thì không chỉ họ, gia đình họ được hưởng lợi mà còn cả
những người sống xung quanh, cả cộng đồng được hưởng lợi từ dịch vụ
đó. Ví dụ: việc chữa cho bệnh nhân lao, bệnh nhân tả, bệnh nhân bị bệnh
lây nhiễm, người bệnh khỏi được lợi, còn cộng đồng giảm được một
nguồn lây, giảm nguy cơ mắc bệnh.


-

Hàng hóa y tế có mức độ công-tư khác nhau: là dịch vụ y tế nằm giữa
hai cực trên, vừa công cộng vừa tư nhân. Khi một người nhận được dịch
vụ có thể cả họ, cả cộng đồng đều được hưởng lợi ở các mức độ khác
nhau. Ví dụ: bệnh suy dinh dưỡng ở trẻ em khi được chữa chỉ trẻ đó
được lợi. Tuy nhiên, nếu trong cộng đồng mà trẻ em bị suy đinh dưỡng
ít đi thì cả xã hội cũng được hưởng nhờ lực lượng lao động trong tương
lai khoẻ mạnh hơn.

Với loại hàng hóa y tế công cộng, nhà nước, cơ sở y tế phải tập trung mọi ưu điểm để
cung cấp các dịch vụ cần thiết, kể cả dịch vụ miễn phí, thu phí thấp. Với hàng hóa y tế tư
nhân, nhà nước cần có cơ chế thu phí thích hợp song song với việc cung ứng dịch vụ theo yêu
cầu và đúng với yêu cầu của họ. Với các hàng hóa có mức độ công - tư khác nhau, tuỳ thuộc
vào khả năng tài chính Nhà nước cung cấp dịch vụ y tế phù hợp với các mức thu khác nhau
hoặc không thu phí.
3.9.

Kế hoạch y tế phải hướng về các giải pháp thực hiện công bằng y tế

Công bằng y tế không có nghĩa là sự đồng đều trong việc hưởng lợi từ ngân sách nhà
nước của mọi thành viên trong cộng đồng. Nó cũng hoàn toàn không phải là sự sòng phẳng
như mua và bán.
Trong xã hội có những cộng đồng chịu nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sức khoẻ hơn, có
những nhóm người dễ bị tổn thương hơn và vì vậy ốm đau nhiều hơn. Như một quy luật, trẻ
em và người già ốm nhiều hơn các nhóm tuổi khác. Phự nữ có độ tuổi có đời sống kinh tế văn hóa hoặc ở vùng địa lý khác nhau lại có các chỉ số sức khoẻ không như nhau. Giới nữ ốm
nhiều hơn, vùng nghèo ốm nhiều - ốm nặng hơn vùng giàu, người có văn hóa cao ít ốm hơn
người có văn hóa thấp... tất cả thể hiện một phần của sự thiếu công bằng trong hưởng lợi các
dịch vụ y tế và các dịch vụ phúc lợi công cộng liên quan tới sức khoẻ.
Người nghèo khả năng chi trả thấp hơn, người vùng núi, vùng sâu vùng xa tiếp cận với

dịch vụ y tế khó khăn hơn (về kinh tế, về khoảng cách) vì vậy họ cần được toàn xã hội quan
tâm hơn, ưu tiên hơn, bao cấp y tế nhiều hơn. Người giầu hơn phải trả phí cao hơn để có thể
bao cấp chéo cho những người nghèo, Cải cách phương thức phân bổ ngân sách và hệ thống
thu phí dịch vụ y tế là yêu cầu đối với công bằng về mặt tài chính.
Bất kể người giầu hay nghèo, khi bị một bệnh như nhau, cần được chăm sóc chữa chạy
như nhau. Các nhu cầu khác nhau về dịch vụ y tế cần được chăm sóc theo nhu cầu phù hợp.
Đó là công bằng về mặt cung cấp dịch vụ y tế.
Một số câu hỏi cho người ra quyết định khi chọn ưu tiên một cách công bằng là:
- Ai sẽ được ưu tiên?: Nếu câu trả lời là người nghèo và vùng nghèo thì bản kế hoạch đã theo
đúng định hướng công bằng.


- Ưu tiên đối với dịch vụ gì?: Nếu câu trả lời là các dịch vụ đó khi cung cấp thì đa số người
nghèo được hưởng lợi thì đó là định hướng công bằng.
- Ở từng vùng địa lý, dân cư khác nhau mức cấp ngân sách ưu tiên bạo nhiêu là phù hợp. Sự
cam kết tài chính đối với chính sách công bằng y tế và phải được thể hiện trong bản kế hoạch
y tế của địa phương.
3.10.

Kế hoạch phải đảm bảo tính khả thi và bền vững

Muốn một kế hoạch y tế đảm bảo tính bền vững cần phải chú ý đến nguyện vọng và đời
sống của cán bộ y tế vì đây là một phần quan trọng của quản lý chất lượng toàn diện. Hơn
nữa, bản kế hoạch phải có tính khả thi mà muốn khả thi thì trước hết phải có nguồn lực cần
thiết và có phương án sử dụng hợp lý nguồn lực đó để đạt mục tiêu đề ra. Sau đó cũng cần
chú ý tới sự cam kết chính trị của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và Hội đồng nhân dân. Một
bản kế hoạch khả thi cần có sự cân nhắc rất kỹ càng các tình huống, khả năng có thể gặp phải
các cản trở từ trong cơ quan và ngoài có quan mình. Nếu kế hoạch được thực hiện nhưng làm
ảnh hưởng đến các bên có liên quan có thể sẽ gặp phải sự phản ứng tiêu cực. Nếu nguồn lực
từ ngành y tế chưa đủ cần nghĩ tớí các giải pháp tìm nguồn lực hỗ trợ khác.

2.2.

CÁC BƯỚC LẬP KẾ HOẠCH
1. Các câu hỏi đặt ra cho những người lập kế hoạch

Trước khi tiến hành từng bước xây dựng một bản kế hoạch y tế, người xây dựng kế hoạch
cần phải cân nhắc các câu hỏi sau đây:


Tình hình y tế hiện nay ra sao? có những vấn đề gì tồn tại?



Trong số các vấn đề tồn tại, những vấn đề nào được chọn là vấn đề ưu tiên giải
quyết?



Khi giải quyết các vấn đề ưu tiên đó, cần phải đặt ra các mục tiêu gì?



Sẽ áp dụng những giải pháp nào cho các vấn đề đó?



Khi thực hiện các giải pháp đó, cần phải thông qua hoạt động cụ thể nào?




Để thực hiện các hoạt động đó cần quỹ thời gian bao nhiêu, khi nào bắt đầu, khi
nào kết thúc? cần có các nguồn lực nào, bao nhiêu và ở đâu?



Cần chuẩn bị gì để bảo vệ kế hoạch?



Cần chuẩn bị gì để thực hiện kế hoạch và điều chỉnh kế hoạch trong khi triển
khai?

2. Các bước lập kế hoạch
Tương ứng với các câu hỏi đặt ra trên đây, có năm bước lập kế hoạch cho từng lĩnh vực
công tác hoặc/ và cho kế hoạch chung của một địa phương, một tuyến y tế như sau:


Bước 1: Phân tích tình hình thực tế và xác định các vấn đề ưu tiên.



Bước 2: Xác định các mục tiêu.



Bước 3: Chọn các giải pháp phù hợp.





Bước 4: Đưa ra các nội dung hoạt động và sắp xếp, bố trí các nguồn lực theo
thời gian.



Bước 5: Bảo vệ kế hoạch, chuẩn bị triển khai và các phương án điều chỉnh kế
hoạch.

2.1.

Phân tích, đánh giá tình hình y tế

Đặc điểm địa lý, dân cư:
Kế hoạch y tế phải phù hợp với đặc điểm địa lý dân cư nơi các đối tượng cần được
phục vụ sinh sống. Trong phần này cần nêu được những nét lớn về:


Đặc điểm địa lý: diện tích, địa hình phân bố diện tích đồng bằng, vùng núi thấp,
vùng núi cao, vùng ven biển, biên giới hoặc hải đảo (nếu có), đặc điểm khí hậu,
sinh thái các loại vectơ truyền bệnh, các mầm bệnh tự nhiên các yếu tố này tạo
điều kiện thuận lợi cho việc lan truyền các yếu tố gây bệnh, các bệnh dịch như
thế nào. Bên cạnh đó cũng phải nêu lên những đặc điểm địa lý, giao thông,
thông tin liên lạc có thể gây một só khó khăn hay tạo điều kiện thụân lợi trong
việc cung cấp các dịch vụ y tế.



Đặc điểm dân cư: Tổng số dân (tính đến mốc thời gian xác định), tháp dân số,
tỷ lệ trẻ em dưới một tuổi, năm tuổi, tỷ lệ phụ nữ 15-49, tỷ suất tăng dân số tự
nhiên, tăng dân số cơ học (do di dân), mật độ dân số theo từng vùng, tỷ lệ và

phân bố các dân tộc ít người. Khi mô tả tình hình địa lý dân cư cần tìm ra, nêu
lên những vùng nào có những nguy cơ gì cho sức khoẻ và vùng nào, dân tộc nào
cần được ưu tiên đầu tư.



Tình hình phát triển kinh tế-xã hội: Điểm qua những nét lớn về tình hình phát
triển kinh tế, các ngành nghề trong năm trước để thấy được những khó khăn,
những thuận lợi trong đời sống kinh tế các cộng đồng.

Đối với khu đô thị, việc phát triển sản xuất đi kèm với phát triển các cơ sở sản xuất
công nghiệp, các dịch vụ và du lịch có thể là nguyên nhân dẫn tới: ô nhiễm môi trường; đô thị
hóa; di dân; tệ nạn xã hội; thay đổi cơ cấu nghề nghiệp. Phát triển kinh tế làm tăng thu nhập
bình quân đầu người, thể hiện bằng: thu nhập bình quân đầu người (quy ra tiền hoặc quy ra
thóc) biến động theo các năm; tỷ lệ hộ nghèo/ hộ đói (theo tiêu chuẩn phân loại của Bộ Lao
động, Thương binh xã hội).
Khi phân tích tình hình phát triển kinh tế không chỉ nêu lên các con số mô tả định
hướng mà còn chú ý tới xu hướng tăng trưởng kinh tế hàng năm. Việc mô tả tình hình phát
triển kinh tế chung và so sánh giữa các khu vực dân cư, các vùng địa lý, tìm ra sự khác biệt
để từ đó giúp cho việc xác định vùng cần ưu tiên đầu tư phân bổ ngân sách nhiều hơn những
vùng khác.
Về phát triển văn hóa, giáo dục, cần nêu ra được các chỉ số về tỷ lệ mù chữ, tỷ lệ trẻ
em trong độ tuổi đến trường đi học, tỉ lệ dân được phổ cập phổ thông cơ sở, tỷ lệ trẻ bỏ học,
tỷ lệ trẻ em sống lang thang, tỷ lệ trẻ em phạm pháp ở tuổi vị thành niên. Ngoài các chỉ số
trên cũng cân nêu ra những tập tục lạc hậu ảnh hưởng tới sức khoẻ cộng đồng cũng như ảnh
hưởng tới việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế cộng đồng. Các chỉ số trên cần lập thành bảng
diễn đạt các xu hướng trong một năm, sự chênh lệch giữa các vùng địa lý, nhóm dân cư để
thấy được một số yếu tố thuận lợi hoặc cản trở đối với những tác nhân gây bệnh trong các



cộng đồng dân cư. Từ đó có những kế hoạch cho các hoạt động hỗ trợ cho công tác y tế địa
phương cũng như trực tiếp cho công tác truyền thông, giáo dục sức khoẻ, cho công tác vận
động quần chúng tham gia các phong trào vệ sinh phòng bệnh.
Tình hình sức khoẻ và nhu cầu CSSK nhân dân:
Tình hình sức khoẻ được thể hiện qua các chỉ tiêu sức khỏe cơ bản, số liệu có được từ
tổng kết tình hình mắc bệnh và tử vong qua các năm.
Trường hợp thấy số liệu báo cáo tình hình mắc bệnh tử vong giống nhau giữa các năm
cho thấy không có sự thay đổi đáng kể về yếu tố gây bệnh, yếu tố ngăn ngừa bệnh tật cũng
như các hoạt động y tế và hoạt động có liên quan tới y tế (kinh tế, giáo dục, thông tin đại
chúng...)
Trường hợp thấy số liệu báo cáo không giống nhau giữa các năm có thể là do chất
lượng báo cáo chưa đủ độ tin cậy, song cũng có thể là do có một số yếu tố gây bệnh vừa tăng
lên hay giảm đi, và cũng có thể do các hoạt động y tế hoặc các hoạt động khác có liên quan
tới sức khoẻ (như nêu ra trên đây), có những thay đổi tốt lên hoặc kém đi. Do nhiều bản kế
hoạch khi đưa ra nhận định tình hình sức khoẻ và giải thích chỉ dựa trên các số liệu thiếu độ
tin cậy cần thiết đã làm cho bản kế hoạch không khách quan. Vì thế, các định hướng công tác
cho tương lai có thể không chính xác.
Tình hình và khả năng cung cấp dịch vụ y tế:
Trong khi phân tích tình hình sức khoẻ nhân dân trong địa phương đã đề cập tới nhu
cầu chăm sóc sức khoẻ các cộng đồng dân cư những đặc điểm khác nhau. Ở phần mục này sẽ
phân tích tình hình cung cấp dịch vụ y tế và qua đó nhận định khả năng đáp ứng nhu cầu
CSSK cộng đồng của mạng lưới y tế trong địa bàn.
Để phân tích một cách hệ thống, nên lần lượt phân tích từ các chỉ số đầu vào, chỉ số
về tổ chức hoạt động và chỉ số thể hiện kết quả đầu ra.
Người làm công tác quản lý cần đặc biệt chú ý đặc biệt các chỉ số đầu vào bên cạnh chỉ số
đầu ra để thấy sự không đồng biến hoặc có thể nghịch biến (đầu vào tăng nhưng đầu ra giảm)
và từ đó đi tìm nguyên nhân. Điều này cũng hay gặp đối với cán bộ phụ trách chương trình.
2.2.

Những tồn tại cơ bản và xác định vấn đề ưu tiên.


Những vấn đề tồn tại cơ bản:
Những vấn đề cơ bản được xem xét và nhận biết dưới nhiều góc độ. Vấn đề tồn tại có
thể được mô tả theo thứ tự sau:


Các vấn đề sức khoẻ: thể hiện bằng tình hinh mắc bệnh hoặc/ và tử vong tính
chung và theo các nhóm cộng đồng có đặc điểm địa lý, kinh tế khác nhau, hoặc
có thể phối hợp các đặc điểm này với các loại đối tượng. Những vấn đề sức
khoẻ cũng đạt được thể hiện dưới hình thức các tỷ lệ mắc hoặc chết chung và do
một số bệnh cao hẳn lên ở một số địa phương, hay có sự tăng lên vào một giai
đoạn thời gian, một mùa, có thể là tình hình dịch bệnh.



Các vấn đề về nguồn lực y tế: Cơ sở y tế bố trí ở xa dân, nơi không thuận tiện
giao thông. Cũng có thể là những cản trở làm cho ngay cả có sẵn các nguồn lực,
ở không xa dân song người dân vẫn khó tiếp cận vì nghèo mà giá hoạt động y tế


lại cao; hoặc bố trí giờ giấc không thuận tiện; hoặc thái độ phục vụ kém; hoặc
phối hợp nhiều yếu tố cản trở.


Các vấn đề sử dụng: Mục tiêu của ngành Y tế là người khoẻ được phòng bệnh
và giáo dục sức khoẻ, người ốm được chữa bệnh và tư vấn y tế vì vậy vấn đề là
ở chỗ liệu người ốm có được chữa bệnh hợp lý không? Làm thế nào để nguồn
lực y tế sẵn có được người dân chấp nhận nhiều hơn để không bị lãng phí nguồn
lực đó? (không có nghĩa là phải cấm y tế tư nhân hay tuyệt đối không bán thuốc
tự do).




Các vấn đề liên quan tới chất lượng dịch vụ y tế: Chất lượng dịch vụ thể hiện
qua các chỉ số gián tiếp như cơ sở vật chất cho KCB, trình độ cán bộ y tế và sẵn
có của các nguồn thuốc. Chất lượng còn được thể hiện trực tiếp như tỷ lệ điều
trị khỏi, tỷ lệ biến chứng do điều trị, tỷ lệ chuẩn đoán đúng và tỷ lệ phải chuyển
viện hoặc sâu hơn; tỷ lệ bệnh chữa được nhưng phải chuyển viện hoặc tử vong.

Những vấn đề ưu tiên:
Xác định ưu tiên là một khâu trong xây dựng kế hoạch sẽ được trình bày trong một
bài riêng, tuy nhiên, cần lưu ý là vấn đề ưu tiên nêu ra trong bản kế hoạch phải luôn thể hiện
tính ưu việt của chế độ. Để chọn hoạt động ưu tiên, người xây dựng kế hoạch cần cân nhắc kỹ
thêm những yếu tố sau đây:

2.3.



Liệu đã có giải pháp hữu hiệu và khả thi nào chưa?



Nếu có giải pháp rồi, liệu có giải pháp nào khác cho ta hiệu quả tốt hơn nhưng
chi phí ít hơn hoặc không tốn kém hơn hay không?



Liệu giải pháp dự định sẽ áp dụng có được cộng đồng hoặc lãnh đạo cộng đồng
chấp nhận không?




Ai là người sẽ ủng hộ, ai là người sẽ phản ứng lại?



Giải pháp dự kiến áp dụng đã có đủ nguồn lực để thực hiện chưa? có duy trì
được không?



Vấn đề ưu tiên được chọn cũng phải là một vấn đề chung của địa phương và có
sự chỉ đạo của Bộ Y tế, Sở Y tế.
Các mục tiêu và chỉ tiêu kế hoạch

Định nghĩa:
Mục tiêu là đích hoặc là những điều cụ thể mà ta mong muốn, đặt ra để phấn đấu đạt
được trong thời gian nhất định nào đó.
Ví dụ: Nâng cao tỷ lệ các bà mẹ trong huyện X pha được gói Oresol tại nhà để cho trẻ
uống khi bị tiêu chảy từ 30% (1/2012) lên 90% vào 31/11/2012.
Phân tích mục tiêu trên:
- Hiện trạng: 30%
- Đích thời gian: 31/11/2012


- Đối tượng tác động: Các bà mẹ
- Khối lượng, đích muốn đạt là: 90%
- Nội dung: pha nước (pha đúng hướng dẫn) Oresol cho trẻ uống.
- Nơi/địa điểm tác động: Huyện X

Vai trò của việc xác định mục tiêu:
Trong công tác bảo vệ chăm sóc sức khoẻ có nhiều việc phải làm, rất nhiều khó khăn,
trong khi đó nguồn lực dành cho công tác CSSK hiện nay còn rất hạn chế. Sau khi phân tích
vấn đề sức khoẻ, chọn ưu tiên, việc tiếp theo là phải nêu ra được mục tiêu và biết xây dựng
mục tiêu cụ thể cho phù hợp với nguồn lực.
Dựa vào mục tiêu mà lập kế hoạch hành động có khả năng thực thi. Cũng dựa trên
mục tiêu mà tiến hành theo dõi, giám sát, điều chỉnh việc thực hiện kế hoạch trong quá trình
thực hiện. Đặc biệt phải dựa trên mục tiêu mà đánh giá kết quả thực hiện.
Không xây dựng mục tiêu đúng, ta không thể lập kế hoạch tốt (kế hoạch không thực
thi hoặc lãng phí). Bất cứ người quản lý nào cũng cần phải biết cách xây dựng và viết mục
tiêu cho kế hoạch một cách đúng đắn.
Xây dựng mục tiêu không hợp lý sẽ gây nhiều hậu quả. Nếu nêu mục tiêu quá thấp thì
sẽ gây lãng phí tiền bạc, lãng phí nhân lực, lãng phí thời gian, làm trì trệ sự phát triển. Nếu
đặt mục tiêu cao quá sẽ gây hoang mang, giảm lòng tin, và không đạt được mục tiêu đề ra. Cả
2 thái cực là hậu quả xấu, tiếc thay, lại hay xảy ra và khá phổ biến ở mọi tuyến.
Từ mục tiêu được xác định mới xây dựng các chỉ tiêu thực hiện kế hoạch. Từ chỉ tiêu
thực hiện mới xác định nguồn lực đầu vào, xây dựng các chỉ số đánh giá việc thực hiện kế
hoạch – dự án. Vì vậy mục tiêu phải chuẩn mực.
Các thông tin cần thiết để xây dựng mục tiêu:
Mục tiêu không phải chỉ là ý tưởng tốt, mục tiêu cũng không phải là sự áng chừng,
mục tiêu cũng không phải là càng cao càng tốt, làm được càng nhiều càng tốt. Để xây dựng
mục tiêu đúng hoặc gần đúng vào các thông tin, cơ sở khoa học, các dự báo, các dữ kiện sau:
-

Các thông tin cần và đủ liên quan đến kế hoạch – dự án (thông tin về
kinh tế, văn hoá - xã hội, sức khoẻ...).

-

Các giải pháp để thực hiện kế hoạch.


-

Nguồn lực bao gồm cả tài chính, nhân lực, trang thiết bị.

-

Sự chấp nhận và tham gia của cộng đồng.

-

Sự tham gia của những người hưởng lợi mà kế hoạch dự án tác động tới.

-

Các khó khăn, rủi ro có thể gặp trong quá trình thực hiện kế hoạch (thiên
tai, thảm hoạ...).

Hiện tượng thiếu thông tin và thông tin không chính xác để lập kế hoạch, để xây dựng
mục tiêu vẫn còn phổ biến. Đó là một trong những lý do vì sao nhiều kế hoạch tính khả thi
thấp, điều chỉnh nhiều lần, hiệu quả không tương xứng với nguồn lực bỏ ra.



Phương pháp xây dựng mục tiêu:
Việc mục tiêu phải ngắn gọn, rõ ràng. Đảm bảo đặc tính phẩm chất cơ bản mà một mục tiêu
phải có:
- Mục tiêu phải đặc thù, không lẫn lộn vấn đề này với vấn đề khác, đối
tượng này với đối tượng khác.
- Mục tiêu phải cụ thể, có thể đo lường được, quan sát được, theo dõi

được, đánh giá được.
- Mục tiêu phải thích hợp, phù hợp với vấn đề sức khoẻ đã được xác định.
- Mục tiêu phải có tính Thách thức, nghĩa là phải cố gắng, phải phấn đấu
thì mới đạt được, chứ không phải là thực hiện được một cách dễ dàng.
- Mục tiêu phải quy định khoảng thời gian phải đạt được những điều
mong muốn.
Các loại mục tiêu:


Mục tiêu đầu vào: Là nhóm mục tiêu mô tả các nguồn lực đầu vào cơ bản để một kế
hoạch, chương trình, dự án có thể thực hiện và đạt được các mục tiêu khác (mục tiêu
quá trình, đầu ra và tác động).

Các nhóm mục tiêu đầu vào của hoạt động CSSK chủ yếu là :
- Nguồn lực cán bộ (ví dụ : số bác sỹ/10.000 dân, tỷ lệ TYT có bác sỹ, tỷ lệ
TYT xã có YSSN, nữ hộ sinh...)
- Nguồn tài chính : Ngân sách y tế/ đầu dân, ngân sách được cấp/giường bệnh,
tỷ lệ dân tham gia bảo hiểm ytế...
- Các nguồn lực khác : Thuốc, trang thiết bị...
Các mục tiêu cần phải dựa vào nguồn lực hiện có, mức độ, phạm vi và thời gian các hoạt
động đề ra trong kế hoạch.


Mục tiêu quá trình: Trong kế hoạch dài hạn thường có nhiều can thiệp hoặc một can
thiệp nhưng được chia thành nhiều giai đoạn. Đối với mỗi hoạt động can thiệp và đối
với mỗi giai đoạn, cần phải đề ra mục tiêu cần đạt được, trên cơ sở đó có ké hoạch
thích hợp để triển khai các hoạt động của giai đoạn tiếp theo. Người ta gọi các mục
tiêu đó là mục tiêu quá trình.
- Thời gian thường ngắn (dưới 1 năm).
- Có khả năng thực thi.

- Đo lường được, đánh giá được.
- Mục tiêu quá trình, mục tiêu tác động được xây dựng dựa vào nguồn lực cho
phép của địa phương, của chương trình.
- Mục tiêu quá trình phải đo lường, phải hạch toán được.




Mục tiêu đầu ra–kết thúc: Là mức độ khối lượng công việc mà ta muốn đạt được hay
muốn duy trì được trong một khoảng thời gian nhất định khi kết thúc chương trình–kế
hoạch–dự án.
- Thường là mục tiêu lâu dài.
- Có khả năng thực thi.
- Phải đo lường được, đánh giá được.
- Liên quan trực tiếp đến vấn đề sức khỏe đã được xác định.
- Phải tính toán để đưa ra được mức độ/khối lượng là bao nhiêu mà chương
trình can thiệp sẽ tác động vào, và khi nào đạt được mức độ đó (hoàn thành).



Mục tiêu tác động: Mục tiêu tác động, hay còn gọi là mục tiêu can thiệp, là nội dung
và các mức độ tác động của can thiệp để làm giảm nguyên nhân gây nên vấn đề sức
khỏe nào đó, mức giảm ‘’vấn đề’’ mà ta mong muốn đạt được trong một thời gian
nhất định. Mục tiêu tác động nhằm nêu lên những tác động lâu dài, ảnh hưởng rộng
của hoạt động can thiệp đến vấn đề sức khỏe. Tác động của hoạt động có thể không
nhìn thấy trực tiếp ngay, mà phải một thời gian sau mới thấy tác động đó.
- Thường là mục tiêu dài hạn.
- Chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau.
- Phải có khả năng thực thi.
- Đo lường được, đánh giá được.

- Tác động trên diện rộng.
- Phải liên quan mật thiết với nguyên nhân trực tiếp gây ra “vấn đề”.
- Có ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác nhau khi can thiệp, ví dụ kinh tế, giáo
dục, xã hội...
Khi xây dựng mục tiêu đầu ra mong đợi cần phải dựa vào:
- Khả năng đạt được mục tiêu đầu ra.
- Tính bền vững, khả năng duy trì kết quả can thiệp.
- Sự thay đổi của vấn đề sức khỏe do tác động của chương trình can thiệp.
- Dự báo các yếu tố kinh tế, giáo dục, xã hội... xảy ra sau can thiệp.

Điều quan trọng nhất là quá trình tác động phải có hiệu quả thì mới có thể đạt được
các loại mục tiêu. Muốn đạt được mục đích tác động thì vấn đề là làm thế nào để duy trì và
phát huy được các kết quả trong quá trình can thiệp. Mặt khác, sau khi đã kết thúc chương
trình can thiệp, nếu không có kế hoạch tiếp thì vẫn phải làm thế nào để cộng đồng tự chăm lo
vấn đề sức khỏe của mình trên cơ sở được tiếp nhận kỹ thuật, phương pháp và thực hiện bằng
chính nguồn lực của cộng đồng. Như vậy thì cơ hội đạt mục tiêu tác động cao hơn.


Mục tiêu chỉ có thể được xác định và xây dựng khi chúng ta biết được các giả định.
Giả định là điều cần thiết phải xác định trước để đảm bảo chương trình, dự án có thể đạt được
các mục tiêu đề ra. Ví dụ, nếu mục tiêu của một chương trình là tăng tỷ lệ trẻ em được tiêm
chủng đầy đủ hoặc tăng các dịch vụ y tế ngoại trạm thì một giả định quan trọng đó là phải có
đủ phương tiện đi lại (nếu đủ xe) và có thể hoạt động được (có dự trù xăng xe...).


Các kế hoạch, các chương trình mục tiêu, các dự án: ở tuyến huyện cho dù ở
trên đưa xuống hay do huyện tự xây dựng cũng nên lập các loại mục tiêu: mục
đích đầu vào, mục tiêu quá trình (hoạt động) mục tiêu đầu ra và mục tiêu tác
động. Các kế hoạch, dự án nói chúng thực hiện ở tuyến xã, phường, thôn, ấp,
bản, làng. Thành quả ở đó phụ thuộc rất lớn vào việc chỉ đạo của huyện trong

việc xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện và giám sát, kiểm tra, đánh giá. Vì
vậy tuyến huyện không những cần xây dựng mục tiêu mà còn phải hướng dẫn
xã phường trong việc xây dựng các mục tiêu hoạt động sao cho phù hợp với
địa phương mình.

Các kế hoạch ngắn này thường chủ yếu chỉ xây dựng mục tiêu đánh giá quá trình và mục
tiêu đầu ra. Kế hoạch y tế xã thường chỉ xây dựng mục tiêu đầu ra, trên cơ sở đó sẽ lập các
chỉ tiêu thực hiện kế hoạch (mục tiêu quá trình).


Nêu và lựa chọn giải pháp để đạt mục tiêu đề ra: Chiến lược, giải pháp, biện pháp,
cách làm là đồng nghĩa ở một vài khía cạnh nhất định. Tuỳ theo tuyến, tuỳ theo loại
kế hoạch mà dùng thuật ngữ cho thích hợp. Ở tuyến Y tế huyện thì thường gọi là giải
pháp thực hiện. Kế hoạch lớn hơn thì có chiến lược thực hiện.

Thực tế khi xây dựng mục tiêu đã phải xem xét kỹ các giải pháp có thể. Vì có nhiều con
đường để đi tới đích vì vậy người lập kế hoạch luôn nghĩ làm thế nào để đạt được mục tiêu
một cách có hiệu quả hơn.
Một số yêu cầu chủ yếu với một giải pháp
- Đặc thù, phù hợp với mục tiêu và nội dung hoạt động của kế hoạch.
- Hiệu lực: thực hiện bằng giải pháp đó thì sẽ đạt mục tiêu.
- Dễ thực hiện, không phức tạp, nhiều người có thể áp dụng.
- Dễ tiếp cận, triển khai được ở nhiều nơi, với nhiều người.
- Được đa số chấp nhận.
- Giá chi trả hợp lý.
Việc xây dựng các loại mục tiêu đúng, có khả năng thực thi trong những hoàn cảnh cụ
thể, việc lựa chọn giải pháp phù hợp để đạt mục tiêu một cách có hiệu quả trong thực hiện kế
hoạch là một trong những hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của quá trình lập kế
hoạch/huyện, biểu hiện năng lực và kỹ năng của người làm quản lý. Việc làm tưởng như đơn
giản, nhưng hoàn toàn không dễ dàng, đòi hỏi phải có kiến thức, tư duy, có thực tế và phải

thực hành nhiều mới làm tốt được.
Căn cứ vào các mục tiêu để viết các chỉ tiêu kế hoạch. Về mặt lý thuyết, làm kế hoạch hài
hòa giữa các chỉ tiêu kế hoạch được giao và chỉ tiêu kế hoạch riêng hoặc mức phân đấu của
địa phương tuỳ theo vấn đề ưu tiên và khả năng nguồn lực sẽ có được.


2.4.

Chọn các giải pháp phù hợp

Giải pháp là con đường đi tới mục tiêu. Mỗi một mục tiêu có thể thực hiện bằng một hoặc
nhiều giải pháp. Mỗi giải pháp có thể coi như một kế hoạch nhỏ. Có những giải pháp cụ thể
và có những giải pháp hỗ trợ. Giải pháp cụ thể như phòng 6 bệnh hay gặp ở trẻ em, khám
chữa bệnh cho người nghèo… Giải pháp hỗ trợ như: nâng cao năng lực cán bộ chuyên ngành
VSDT, cán bộ lâm sàng và xét nghiệm; tìm nguồn ngân sách bổ sung…
2.5.

Nội dung hoạt động và phân bổ nguồn lực

Mỗi giải pháp lại được thực hiện bằng một hoặc nhiều nội dung hoạt động. Ví dụ, nâng
cấp la-bô vi sinh và kho dự trữ vac xin, đào tạo kỹ thuật viên xét nghiệm, đào tạo hệ sau đại
học cho các Trưởng khoa…
Từng hoạt động cần bố trí nguồn nhân lực, vật lực và tài lực phù hợp. Phải xác định thời
gian kết thúc cho từng hoạt động. Không nên quên đưa vào bản kế hoạch các kết quả dự kiến
hay kết quả đầu ra. Nếu không nêu rõ kết quả đầu ra thì không thể biết được liệu các chỉ tiêu
kế hoạch đặt ra có đạt được hay không. Cũng nhờ việc đưa ra các kết quả đầu ra rõ ràng
tương ứng với khả năng nguồn lực huy động mà người làm kế hoạch có thể lập một bản kế
hoạch khả thi, dễ theo dõi tiến độ, dễ đánh giá khi kết thúc.
Trong mục này cần đưa ra tổng hợp cho bản kế hoạch. Tuỳ loại kế hoạch với quy mô
khác nhau mà các mục tiêu được cụ thể ở mức khác nhau.

2.6.

Chuẩn bị bảo vệ kế hoạch và điều chỉnh kế hoạch

Một bản kế hoạch muốn thực thi được phải cấp có thẩm quyền phê duyệt. Hàng năm, kế
hoạch được xây dựng vào khoảng tháng 9. Trong quá trình xây dựng kế hoạch y tế có sự
tham gia của ngành kế hoạch đầu tư, ngành tài chính các cấp. Vai trò của các ngành này rất
quan trọng, đây là cơ quan tổng hợp các kế hoạch y tế nằm chung trong kế hoạch phát triển
kinh tế, xã hội. Thêm vào đó, ngân sách luôn bị hạn chế vì vậy phải biết chọn ưu tiên một
cách hợp lý.
Khi chuẩn bị bảo vệ kế hoạch không chỉ chuẩn bị các nội dung chuyên môn mà còn có sự
thống nhất của các cơ quan tổng hợp về lĩnh vực đầu tư và nguồn ngân sách.
Đối với kế hoạch chiến lược và kế hoạch 5 năm, việc điều chỉnh kế hoạch là rất phổ biến
và cũng rất cần thiết vì nhu cầu CSSK cũng như khả năng cung cấp nguồn lực có thể chưa
xác định chính xác lúc xây dựng kế hoạch. Đối với kế hoạch một năm, điều chỉnh kế hoạch
chỉ rất hạn chế và thường tiến hành vào quý cuối của năm kế hoạch. Điều chỉnh kế hoạch
năm chủ yếu do khả năng thực hiện kế hoạch không đồng đều giữa các lĩnh vực, nên phải
điều chỉnh một số hoạt động và nguồn ngân sách để thực hiện giải ngân ở mức cao nhất và có
hiệu quả nhất. Cấp nào phê duyệt kế hoạch thì cấp đó xem xét quyết định cho điều chỉnh kế
hoạch.
2.3.

XÂY DỰNG VÀ VIẾT MỘT KẾ HOẠCH Y TẾ ĐỊA PHƯƠNG

Trong phần này trình bày dàn ý của một bản kế hoạch y tế năm năm và một năm cho địa
phương. Các đơn vị chuyên ngành như các trung tâm, bệnh viện trực thuộc sở y tế cũng có
thể áp dụng dàn ý này với một số sửa đổi cho phù hợp.


PHẦN 1. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC Y TẾ

1. Đặc điểm của địa phương và tình hình sức khỏe của nhân dân địa phương
-

Một số đặc điểm cơ bản: địa lý, kinh tế-xã hội, dân số

-

Tình hình sức khỏe nhân dân: tập trung phân tích một số chỉ số cơ bản về sức khỏe bà
mẹ, trẻ em, dinh dưỡng…

-

Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe nhân dân địa phương
o Kinh tế - xã hội
o Các yếu tố liên quan đến dân số
o Công nghiệp hóa, đô thị hóa và di cư và thay đổi lối sống
o Sức khỏe môi trường
o Các yếu tố liên quan đến lối sống

2. Cung ứng dịch vụ y tế
-

Cung ứng dịch vụ Y tế dự phòng

-

Cung ứng dịch vụ khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng

-


Dân số, kế hoạch hóa gia đình và sức khỏe sinh sản

3. Nhân lực y tế
4. Tài chính y tế
5. Hệ thống thông tin y tế
6. Thuốc, vắc-xin, máu, trang thiết bị và công trình y tế
7. Quản lý y tế tại địa phương
8. Tóm tắt những tồn tại, khó khăn và những vấn đề cần ưu tiên giải quyết
PHẦN 2. NỘI DUNG KẾ HOẠCH Y TẾ
1. Dự báo tình hình và các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe
-

Dự báo tình hình
o Dự báo tình hình bệnh tật
o Dự báo mô hình bệnh tật

-

Cơ hội và thách thức

2. Mục tiêu
-

Mục tiêu chung

-

Mục tiêu cụ thể

-


Chỉ tiêu y tế cơ bản


3. Nhiệm vụ, hoạt động trọng tâm
-

Củng cố và hoàn thiện tổ chức mạng lưới ngành y tế địa phương

-

Tăng cường y tế dự phòng, chương trình mục tiêu quốc gia về y tế

-

Củng cố, phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh

-

Nâng cao công tác Dân số-KHHGĐ và chăm sóc sức khỏe sinh sản

-

Xây dựng hệ thống thông tin y tế

-

Đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính ngành y tế

-


Thuốc, vắc-xin và sinh phẩm y tế

-

Trang thiết bị y tế và cơ sở hạ tầng y tế

-

Tăng cường năng lực quản lý của ngành Y tế

5. Theo dõi, giám sát, đánh giá
-

Các chỉ số theo dõi giám sát thực hiện kế hoạch: nguồn số liệu

-

Cơ chế theo dõi giám sát hoạt động y tế tại địa phương

6. Phân tích nguy cơ, khó khăn trong thực hiện kế hoạch
-

Một số nguy cơ

-

Giải pháp hạn chế nguy cơ

7. Tổ chức thực hiện: càng cụ thể càng tốt vai trò của Sở, Ban Ngành, tổ chức xã hội tại địa

phương
-

Sở Y tế

-

Các Sở Ban ngành

-

Chính quyền các cấp

-

Đoàn thể, quần chúng

Dự kiến ngân sách
Các phụ lục chi tiết
2.4.

BỘ CÔNG CỤ ĐÁNH GIÁ KẾ HOẠCH Y TẾ TUYẾN TỈNH

Hiện ngành y tế đang nỗ lực xây dựng kế hoạch theo kết quả đầu ra, song các chỉ số còn
nặng về số lượng thay vì chất lượng. Có những hạn chế trong cụ thể hóa Quy hoạch tổng thể
ngành y tế và Kế hoạch 5 năm ngành y tế thành các kế hoạch hành động với các mục tiêu và
hoạt động cụ thể và kinh phí khả thi. Vấn đề giám sát thực hiện các kế hoạch còn chưa tốt,
phương pháp chưa đồng bộ. Mặt khác, còn có sự hạn chế về năng lực phân tích, đánh giá và
điều chỉnh kịp thời các chính sách, chiến lược và kế hoạch. Vấn đề đặt ra là phải có các giải
pháp để nâng cao năng lực lập kế hoạch, không chỉ đối với tuyến trung ương, mà cả ở tuyến

tỉnh và ở tất cả các cấp trong hệ thống thông qua việc chia sẻ thông tin, hệ thống lập kế hoạch
phối hợp và có phản hồi.


Bộ công cụ đánh giá kế hoạch y tế tuyến tỉnh đưa ra một số yêu cầu cơ bản đối với một
bản kế hoạch. Bộ công cụ giúp các cán bộ xây dựng kế hoạch có thể tự đánh giá và nâng cao
chất lượng kế hoạch, tập trung vào các nội dung qui trình lập kế hoạch, phân tích thực trạng,
xác định vấn đề ưu tiên, xây dựng hoạt động, huy động và phân bổ nguồn lực, kế hoạch tuyến
tỉnh gắn với các chính sách và chiến lược quốc gia. Bộ công cụ không đưa các tiêu chí đánh
giá một cách cứng nhắc, có tính bắt buộc mà mục đích chính là để hướng dẫn, khuyến khích
các cán bộ làm công tác kế hoạch tự hoàn chỉnh và hoàn thiện bản kế hoạch có chất lượng,
khả thi và được sự đồng thuận, ủng hộ rộng rãi của các ban ngành liên quan khi phê duyệt và
triển khai thực hiện.
Các tiêu chí được chia làm 2 phần: (1) Nội dung bản kế hoạch và (2) Quá trình xây dựng
kế hoạch.
1. NỘI DUNG BẢN KẾ HOẠCH
I - ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG, XÁC ĐỊNH ƯU TIÊN
Yêu cầu chung: Kế hoạch được xây dựng dựa trên việc phân tích thực trạng
một cách đầy đủ trong bối cảnh kinh tế - văn hóa - xã hội cụ thể của địa
phương, xác định rõ những khó khăn, tồn tại, nguyên nhân và những vấn đề
ưu tiên cần giải quyết
1. Đánh giá thực trạng được thực hiện một cách toàn diện các hoạt động của hệ
thống y tế địa phương theo 6 cấu phần chức năng của hệ thống y tế: Nhân lực,
tài chính, thông tin y tế, thuốc/trang thiết bị/cơ sở hạ tầng, quản lý/điều hành
và cung ứng dịch vụ y tế (YTDP, KCB, ATVSTP, DS-KHHGĐ…).
2. Phân tích thực trạng được xem xét trong bối cảnh dịch tễ, chính trị, kinh tế xã
hội và các đặc thù của địa phương; đồng thời có đề cập cả các yếu tố ảnh
hưởng đến sức khỏe (ví dụ: tăng dân số, biến đổi khí hậu, công nghiệp hóa, các
yếu tố lối sống…).
3. Có đánh giá việc thực hiện các chỉ tiêu y tế được giao (tỉnh ủy, thành ủy,

HĐND, UBND tỉnh, chỉ tiêu trong kế hoạch ngành y tế địa phương…).
4. Phân tích có sử dụng bằng chứng và các nguồn số liệu đáng tin cậy (ví dụ: số
liệu thống kê y tế, báo cáo điều tra, nghiên cứu…). Nếu cần, có thể tiến hành
những khảo sát, điều tra cụ thể để có thông tin thêm cho việc xây dựng kế
hoạch. Có so sánh theo thời gian, theo khu vực để mô tả nhu cầu CSSK; khả
năng tiếp cận dịch vụ y tế của người dân; khả năng cung ứng dịch vụ y tế của
địa phương.
5. Việc phân tích thực trạng có tiến hành rà soát quá trình triển khai và kết quả
thực hiện của một số chính sách như chính sách về KCB người nghèo, chính
sách về BHYT, chính sách về đầu tư CSVC, TTB của chính phủ… để xác định
các khoảng trống của chính sách đã ban hành cũng như của các chương trình y
tế.
6. Nội dung đánh giá thực trạng trong bản kế hoạch có xác định rõ những khó
khăn, tồn tại; xác định được nguyên nhân của những khó khăn, tồn tại.

Bảng kiểm


7. Phần đánh giá thực trạng nêu rõ các vấn đề ưu tiên cần giải quyết của ngành y
tế và cách lựa chọn các vấn đề ưu tiên.
8. Đánh giá thực trạng xác định rõ các cơ hội và thách thức đối với ngành y tế ở
địa phương.
II-XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU, CÁC CHỈ TIÊU CẦN ĐẠT
Yêu cầu chung: Kế hoạch xác định rõ mục tiêu chung cần đạt được, xác định
rõ các mục tiêu cụ thể của kế hoạch và các chỉ tiêu cần đạt được mà sẽ góp
phần cải thiện các chỉ số sức khỏe nhân dân ở địa phương và đáp ứng được
các mục tiêu đề ra của ngành y tế.
9. Kế hoạch xác định rõ được mục tiêu chung cần đạt được và các mục tiêu cụ
thể của kế hoạch.
10. Các mục tiêu đề ra trong bản kế hoạch có thể đo lường được, có tính thực tế và

xác định được mốc thời gian cụ thể.
11. Bản kế hoạch xác định được một cách rõ ràng các chỉ tiêu cần đạt được đối với
từng mục tiêu cụ thể.
12. Các mục tiêu, chỉ tiêu phù hợp với các ưu tiên chung của ngành Y tế, phù hợp
với kế hoạch phát triển KT-XH của địa phương.
III- CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Yêu cầu: Các giải pháp nêu trong kế hoạch có tính khả thi, phù hợp với địa
phương, đảm bảo được tính công bằng và được xác định dựa trên bằng
chứng hoặc dựa trên các bài học kinh nghiệm rút ra được từ quá trình triển
khai thực hiện, trong đó bao gồm cả việc xem xét đến khía cạnh hiệu quả và
bền vững.
13. Các giải pháp đề ra trong bản kế hoạch phải phù hợp với mục tiêu và đáp ứng
được các vấn đề ưu tiên cần giải quyết của ngành y tế.
14. Các giải pháp và can thiệp đề ra trong bản kế hoạch được xác định dựa trên
bằng chứng hoặc dựa trên các bài học kinh nghiệm rút ra được từ quá trình
triển khai thực hiện, trong đó bao gồm cả việc xem xét đến khía cạnh hiệu quả
và bền vững.
15. Các giải pháp và can thiệp phải cụ thể, có tính khả thi, phù hợp với địa phương
và đảm bảo được tính công bằng.
16. Kế hoạch có đề cập tới nhóm giải pháp làm nâng cao hiệu quả triển khai của
chính sách như chính sách về KCBNN, chính sách BHYT, chính sách đầu tư
CSVC và TTB…
17. Các giải pháp/can thiệp đề ra trong bản kế hoạch được mô tả một cách rõ ràng
là nó góp phần đạt được kết quả đầu ra mong muốn như thế nào.
18. Kế hoạch đưa ra các giải pháp ngắn hạn và dài hạn để đáp ứng được những
yêu cầu hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho việc triển khai kế hoạch.
19. Kế hoạch phòng bị cho các nhu cầu y tế khẩn cấp được đề cập đến trong quá


trình xây dựng kế hoạch ở tất cả cơ sở y tế các tuyến ở địa phương.

20. Trong bản kế hoạch có nội dung đánh giá các yếu tố nguy cơ gây ảnh hưởng
tới hiệu quả triển khai kế hoạch.
21. Các biện pháp hạn chế nguy cơ cho từng yếu tố nguy cơ đã xác định được mô
tả chi tiết trong bản kế hoạch.
IV- DỰ TOÁN KINH PHÍ
Yêu cầu: Bản kế hoạch phải xây dựng được khung chi tiêu với nội dung dự
toán kinh phí tổng thể trong đó bao trùm cả dự toán kinh phí của các chương
trình y tế đồng thời nêu rõ được các lĩnh vực thiếu hụt kinh phí.
22. Phần dự toán kinh phí được xây dựng theo đúng quy định
23. Việc tính toán ước tính nguồn thu trong bản kế hoạch phải dựa trên các giả
định rõ ràng, bao gồm toàn bộ tất cả các nguồn tài chính (cả nguồn địa phương
và nguồn từ bên ngoài) và có tính đến kinh phí dự phòng cho bất kể các các
vấn đề hoặc các nguy cơ có thể xảy ra.
24. Dự toán kinh phí có tính toán đến kinh phí đảm bảo cho việc triển khai BHYT
cho các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương như người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi,
người cao tuổi trên 85 tuổi, các đối tượng chính sách khác và người cận nghèo.
25. Dự toán kinh phí tổng thể phải bao gồm cả dự toán kinh phí của các chương
trình y tế.
26. Dự toán kinh phí trong bản kế hoạch cần bao gồm cả việc phân tích sự thiếu
hụt về kinh phí cho từng lĩnh vực cụ thể.
PHẦN V: TỔ CHỨC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN KẾ HOẠCH
Yêu cầu: Kế hoạch hoạt động phải mô tả rõ vai trò, trách nhiệm của các đơn
vị tham gia triển khai kế hoạch và mô tả rõ việc phân bổ các nguồn lực trong
triển khai kế hoạch để đạt được các chỉ tiêu đã đặt ra.
27. Vai trò và trách nhiệm của các đơn vị triển khai được mô tả một cách rõ ràng
trong bản kế hoạch.
28. Bản kế hoạch mô tả rõ việc phân bổ các nguồn lực trong triển khai kế hoạch để
đạt được các chỉ tiêu đã đặt ra.
29. Bản kế hoạch xác định rõ cơ chế quản lý, giám sát, điều phối và báo cáo việc
triển khai kế hoạch giữa các đơn vị tham gia triển khai kế hoạch.

V: THEO DÕI, KIỂM TRA, GIÁM SÁT THỰC HIỆN KẾ HOẠCH
Yêu cầu: Kế hoạch giám sát và đánh giá phải mô tả một cách rõ ràng các chỉ
số kết quả, chỉ số đầu ra hoặc chỉ số tác động để đo lường tiến độ và đưa ra
quyết định dựa vào năng lực hoạt động.
30. Có xây dựng khung giám sát và đánh giá dựa trên các hoạt động chi tiết, trong
đó xác định rõ các chỉ số kết quả, chỉ số đầu ra và chỉ số tác động phù hợp và
có thể thu thập được.


31. Trong hợp phần giám sát và đánh giá của bản kế hoạch cần phải mô tả rõ quy
trình thu thập thông tin và những thông tin thiếu hụt cần được thu thập, nguồn
thông tin cần thu thập, phương pháp thu thập thông tin và các bước thu thập
thông tin.
32. Kế hoạch phải chỉ ra được vai trò và trách nhiệm của tất cả các tuyến đối với
từng khâu trong cung cấp số liệu và quản lý số liệu.
33. Hợp phần giám sát và đánh giá của bản kế hoạch cần mô tả chi tiết kết quả từ
phân tích hoạt động sẽ được sử dụng như thế nào trong quá trình ra quyết định,
trong đó bao gồm cả việc phân bổ nguồn lực và chi tiêu tài chính cho các
chương trình cũng như đơn vị y tế tuyến dưới.

2.

QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG KẾ HOẠCH

Tiêu chí
Yêu cầu: Có sự tham gia của các bên liên quan trong xây dựng kế hoạch và
có sự ủng hộ tuyệt đối của các bên liên quan đối với bản kế hoạch.
34. Kế hoạch y tế được xây dựng với sự tham gia của các bên liên quan (các sở,
ngành liên quan, người dân và các đối tượng thụ hưởng dịch vụ).
35. Có cơ chế phối hợp giữa các bên liên quan dưới sự lãnh đạo của chính quyền

địa phương và sự tham gia của tất cả các bên liên quan trong việc cung cấp
thông tin một cách có hệ thống và thường quy cho tất cả các giai đoạn của quá
trình xây dựng kế hoạch.
36. Tất cả các văn bản chính sách của các ngành và liên ngành có liên quan đều
xem xét tới lĩnh vực y tế để đảm bảo cho việc thực hiện kế hoạch thành công.
37. Có sự cam kết cao về mặt chính trị từ các nhà lãnh đạo chính quyền đối với
bản kế hoạch (Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân) được thể hiện qua chỉ số
tỷ lệ phân bổ kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước tăng so với những năm
trước.
38. Kế hoạch tuyến tỉnh nhất quán với kế hoạch 5 năm của ngành y tế, với kế
hoạch của các lĩnh vực cụ thể, nhất quán với các chương trình y tế và bao quát
toàn bộ các mục tiêu phát triển của quốc gia.

Bảng kiểm



×