Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tiểu luận Cơ sở Lý luận Báo chí (Báo chí với giám sát và phản biện xã hội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 26 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA BÁO CHÍ

BÁO CHÍ VIỆT NAM VỚI VẤN ĐỀ
GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI
(Khảo sát báo điện tử VnExpress, Tuần Việt Nam
và Tiền phong Online với Dự án Đƣờng sắt cao tốc)

Tiểu luận môn học

CƠ SỞ LÝ LUẬN BÁO CHÍ

Hà Nội, tháng 3/2015


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................2
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN GIÁM SÁT VÀ PHẢN
BIỆN XÃ HỘI QUA BÁO CHÍ ........................................................................3
1.1 Những khái niệm chung ..............................................................................3
1.1.1 Giám sát xã hội ........................................................................................3
1.1.2 Phản biện xã hội .......................................................................................4
1.2 Mối quan hệ giữa báo chí, dư luận xã hội, giám sát và phản biện xã hội .....6
1.3 Cơ chế và nguyên tắc giám sát, phản biện xã hội của báo chí ......................8
2. BÁC DỰ ÁN ĐƯỜNG SẮT CAO TỐC - SỰ THÀNH CÔNG CỦA BÁO
CHÍ TRONG GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI .................................... 10
2.1 Tổng quan về Dự án Đường sắt cao tốc ..................................................... 10
2.2 Nội dung giám sát, phản biện xã hội về Dự án Đường sắt cao tốc (khảo sát
trên báo điện tử VnExpress, Tuần Việt Nam, và Tiền phong Online) .............. 11
2.3 Hiệu quả giám sát và phản biện xã hội về Dự án Đường sắt cao tốc qua loạt
bài trên các báo mạng điện tử VNE, TVN và TPO .......................................... 19


2.4 Bài học kinh nghiệm ................................................................................. 20
KẾT LUẬN .................................................................................................... 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 25

1


MỞ ĐẦU
Giám sát và phản biện xã hội là một trong các chức năng cơ bản của báo
chí. Báo chí không chỉ là cơ quan ngôn luận của Đảng và Nhà nước, mà còn là
tiếng nói, diễn đàn, là tai mắt của nhân dân. Thông qua báo chí, người dân có
thể phát biểu ý kiến, nguyện vọng của mình về các vấn đề trong đời sống xã hội,
qua đó, thể hiện sự giám sát và phản biện xã hội của mình. Với việc bám sát sự
kiện, thông tin nhanh nhạy, phân tích trúng vấn đề trọng điểm và định hướng tư
tưởng, hướng dẫn dư luận rõ ràng, các cơ quan thông tấn, báo chí đã thực hiện
tốt chức năng phản biện, mang lại hiệu quả xã hội rõ rệt. Bởi thế, thời gian vừa
qua, vai trò, chức năng phản biện của báo chí ngày càng được khẳng định và
niềm tin của công chúng đối với cơ quan truyền thông cũng được nâng lên.
Trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng trong những năm gần
đây, đa phần các vụ việc lớn đều do báo chí phát hiện, phanh phui và cơ quan
chức năng vào cuộc. Báo chí cũng đã góp phần tích cực vào việc phản biện và
làm thay đổi một số chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, tránh sự
quan liêu, vội vàng. Có nhiều kế hoạch sau khi báo chí và dư luận lên tiếng đã
được điều chỉnh hoặc tạm ngừng triển khai, tiêu biểu như Dự án Đường sắt cao
tốc trị giá 56 tỷ USD được đưa ra Quốc hội tháng 4/2010, nhưng sau đó đã bị
bác trong một quyết định mang tính lịch sử.
Thông qua phân tích các tuyến bài được đăng tải trên ba báo điện tử
VnExpress, Tuần Việt Nam và Tiền phong Online liên quan đến Dự án Đường
sắt cao tốc trong thời gian từ giữa tháng 4/2010 đến giữa tháng 6/2010, đề tài
nhằm làm rõ chức năng giám sát và phản biện xã hội của báo chí. Bởi Dự án

Đường sắt cao tốc cũng là một trong những vấn đề mà hiệu quả của hoạt động
giám sát, phản biện xã hội của báo chí được thể hiện rõ ràng nhất.

2


1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN GIÁM SÁT VÀ
PHẢN BIỆN XÃ HỘI QUA BÁO CHÍ
1.1 Những khái niệm chung
1.1.1 Giám sát xã hội
Giám sát xã hội được hiểu là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý
vào khách thể quản lý nhằm đảm bảo cho hoạt động có hiệu quả và đạt được
mục đích đề ra.
Mỗi hệ thống xã hội chịu sự tác động của nhiều mặt (tiêu cực lẫn tích
cực) của đời sống. Vì vậy, thông tin phục vụ cho công tác giám sát phải là thông
tin hai chiều: thuận và nghịch. Chiều thuận từ phía đối tượng chịu giám sát,
nguồn tin thể hiện rõ cách thức, quan điểm hoạt động để đối tượng giám sát hiểu
và kiểm soát. Chiều ngược lại từ phía đối tượng giám sát, phải là nguồn thông
tin có tính chất đánh giá, phê bình, xây dựng, làm tiền đề cho việc điều chỉnh,
sửa chữa, thay đổi tư duy và hành động mới. Giám sát xã hội bao gồm:
- Giám sát hành chính các cơ quan chức năng thuộc hệ thống nhà nước;
- Giám sát thành viên của các tổ chức chính trị;
- Giám sát các phương tiện thông tin đại chúng;
- Giám sát các thiết chế công dân;
- Giám sát mỗi người dân.
Có hai bộ phận tham gia giám sát xã hội: bộ máy nhà nước và công dân.
Trên thực tế thì các thiết chế nhà nước vốn đã được hình thành và hoạt động
theo cơ chế tự giám sát và giám sát công dân. Tuy nhiên, một xã hội dân chủ là
xã hội cần phải coi trọng sự giám sát của công dân đối với nhà nước. Đồng thời
điều này cũng thể hiện trình độ phát triển, ý thức tự giác và thái độ trách nhiệm

cao của người dân.
Theo Hiến pháp, Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Các cơ quan
Nhà nước, cán bộ công chức Nhà nước chịu sự giám sát của nhân dân. Đây là
cơ sở pháp lý cao nhất cho sự khẳng định quyền giám sát của nhân dân đối với
mọi hoạt động của xã hội.
3


Giám sát xã hội là giám sát lẫn nhau, giám sát từ nhiều góc độ một cách
công bằng và có ý nghĩa xã hội. Giám sát không chỉ để kiểm tra, đánh giá phân
tích hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân mà còn đề xuất giải pháp nhằm
điều chỉnh kế hoạch, khắc phục thiếu sót, những cái lỗi thời, không còn phù hợp
với định hướng và bản chất xã hội.
Trên tinh thần đó, giám sát không chỉ mang tính chất phê phán mà còn là
sự biểu dương những cái mới, cái tiến bộ, tích cực. Cái Đúng, cái Sai, cái Lạc
hậu, cái Tiến bộ… đều được phát hiện và soi chiếu rõ ràng. Như vậy cần phải
đặt ra một yêu cầu là cần tạo ra một cơ chế hợp lý để đảm bảo cho giám sát xã
hội trở thành hoạt động thực chất và hiệu quả.
1.1.2 Phản biện xã hội
Theo PGS. TS. Nguyễn Văn Dững, phản biện xã hội có thể hiểu là sự
tham gia rộng rãi của xã hội - các tầng lớp xã hội, nhân dân trong việc góp ý
kiến cho các chủ trương, quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước trong các lĩnh
vực kinh tế - văn hóa - xã hội.1
Phản biện là một hành vi xác định tính khoa học của hành động của con
người, xuất hiện khi con người chuẩn bị hành động. Phản biện làm cho mỗi
một hành vi được tiến hành trên cơ sở có một sự xác nhận có chất lượng
khoa học đối với nó. Phản biện xã hội là một khái niệm chính trị, là biểu hiện
đặc trưng chuyên nghiệp nhất của cái gọi là đời sống dân chủ. Phản biện
trong một xã hội dân chủ là một loại “phản hành động”2 (“phản hành động”

chứ không phải là “phản động”). Nó xuất hiện song song cùng với các hành
động, nó xuất hiện đối lập với tất cả các hành động. Trong mỗi một xã hội
bao giờ cũng có nhiều nhóm lợi ích khác nhau. Các nhóm lợi ích bao giờ
cũng có nhu cầu tiến hành hành động vì một mục tiêu nào đó. Nhưng trên
mỗi khía cạnh hay mỗi lĩnh vực của đời sống con người bao giờ cũng có
1

Xem Nguyễn Văn Dững, Cơ sở lý luận báo chí, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2013, tr.193

2

Chữ dùng của tác giả Nguyễn Trần Bạt: Đối thoại với tương lai, Tập 2, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 2011, tr.162

4


những cách lý giải khác nhau và do đó có những cách hành động khác
nhau để đạt được mục tiêu như vậy. Phản biện tạo ra một giai đoạn đệm cho
quá trình hành động tự nhiên của các nhóm lợi ích, đó là giai đoạn thảo luận và
thỏa thuận. Phản biện làm cho các hành vi chính trị, kinh tế và xã hội trở nên ít
chủ quan hơn, tức là sự xung đột của các nhóm lợi ích đã được điều chỉnh thông
qua thảo luận và thoả thuận. Nói cách khác, phản biện làm cho những cuộc
xung đột trên thực tế trở thành cuộc xung đột của thảo luận, tức là biến sự
xung đột lợi ích trong hành động thành các xung đột lợi ích trong thảo luận.
Nếu một xã hội không có phản biện và mỗi hành động đều được đương
nhiên tiến hành thì đấy là cách thể hiện rõ rệt nhất tính chất phi dân chủ của xã
hội. Bởi vì mỗi một hành động chính trị bao giờ cũng là kết quả thỏa thuận
của các khuynh hướng chính trị, một hành động chính trị chỉ có thể được tiến
hành khi nó là sự thúc bách của nhu cầu đời sống và để cân đối các nguyện
vọng khác nhau của đời sống. Phản biện là một đòi hỏi khách quan của đời

sống. Nói một cách khái quát, phản biện là một thể hiện của các phản hành
động xuất hiện một cách tự nhiên trong một xã hội mà ở đó mỗi con người
đều tự do bày tỏ các nguyện vọng của mình. Phản biện góp phần điều chỉnh
các khuynh hướng kinh tế, văn hoá, chính trị, làm cho các khuynh hướng đó
trở nên khoa học hơn, đúng đắn hơn và gần với đời sống con người hơn.
Giám sát và phản biện xã hội khác với việc hỏi ý kiến nhân dân. Hỏi ý
kiến nhân dân là việc trưng cầu dân ý một cách không chuyên nghiệp và hoàn
toàn không phải là phản biện. Phản biện là một hoạt động khoa học, phản biện
là tranh luận một cách khoa học chứ không phải là tìm câu trả lời có đồng ý
hay không. So với trưng cầu dân ý, phản biện hoàn toàn khác về chất. Trưng
cầu dân ý là hỏi dân. Phản biện không phải là hỏi dân. Phản biện không phải là
nhân dân trả lời mà là nhân dân nói tiếng nói của mình. Cơ sở để người dân nói
lên ý kiến của mình là lợi ích xã hội.
Phản biện xã hội có thể diễn ra dưới hình thức phát biểu ý kiến trực tiếp
trong cuộc tiếp xúc, trao đổi, nói chuyện, cuộc họp hoặc các bài viết mang tính
5


chuyên sâu. Đồng thời, phản biện xã hội có thể được phản ánh trên các phương
tiện truyền thông đại chúng như: đài, báo, truyền hình và nhất là báo điện tử.
Thực tế cho thấy phản biện xã hội qua báo điện tử đã tạo ra ưu thế và tính nhanh
nhạy, sự lan tỏa, thu hút nhiều chủ thể tham gia.
Dư luận xã hội được hình thành thông qua con đường thảo luận, bàn bạc
về những ý kiến mà người dân tiếp thu được. Báo chí chính là diễn đàn của
cuộc thảo luận, bàn bạc xã hội đó. Bằng hoạt động truyền thông của mình,
báo chí vừa là nơi nhân dân thể hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội, mà
bản thân báo chí cũng đang thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội
của mình.
1.2 Mối quan hệ giữa báo chí, dƣ luận xã hội, giám sát và phản biện
xã hội

Báo chí là trung tâm của phương tiện truyền thông đại chúng. Báo
chí thể hiện rõ nhất tính chất của quá trình truyền thông: tính đại chúng,
tính công khai, là phương tiện cung cấp thông tin phong phú, và về cơ bản là
có tính định kì. Báo chí hoạt động theo nguyên tắc mô hình truyền thông của
Laswell gồm các yếu tố: Nguồn (nhà báo, cơ quan báo chí), thông điệp (từ
bài báo, chương trình), kênh truyền (các phương tiện kĩ thuật chuyên biệt),
đích (công chúng báo chí), phản hồi (thông tin đi ngược từ công chúng trở lại
nguồn) và nhiễu (những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình truyền thông và thông
điệp).
Dư luận xã hội là sự phản ánh tâm trạng xã hội của nhân dân nói chung
về những vấn đề liên quan đến lợi ích xã hội, những lợi ích thường có tính
cấp bách, nó là sự quan tâm của nhân dân nói chung, được phản ánh trong sự
đánh giá của họ. Con đường hình thành dư luận xã hội bao gồm:
- Báo chí/các phương tiện truyền thông đại chúng cung cấp thông tin cho công chúng;

- Các nhóm xã hội thảo luận về thông tin, tạo nên sự tương tác ý kiến;
- Tạo nên sự đánh giá chung;
- Dẫn đến hành động chung.
6


Mối quan hệ giữa báo chí với việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội
có tính chất biện chứng. Một mặt báo chí thoả mãn những nhu cầu ngày
càng tăng của công chúng, mặt khác, bản thân công chúng lại đặt ra các yêu
cầu mới đối với hoạt động của hệ thống báo chí. Sự trưởng thành trong mối
quan hệ ấy thể hiện tính tích cực chính trị - xã hội của bản thân hệ thống báo
chí và của công chúng báo chí. Báo chí vừa thể hiện dư luận xã hội, định
hướng dư luận xã hội, vừa chịu sự tác động mạnh của dư luận xã hội.
Kết cấu lợi ích là hạt nhân của dư luận xã hội. Đó cũng là nguyên nhân
sâu xa của chức năng giám sát-phản biện xã hội. Không phải mọi sự kiện, vấn

đề xã hội đều được dư luận xã hội phản ánh. Chủ đề của dư luận xã hội chỉ
có thể là những vấn đề lợi ích có tính cấp bách. Khi lợi ích bị ảnh hưởng thì
dư luận xã hội sẽ lên tiếng phản biện.
Báo chí là một kênh, một diễn đàn giám sát, phản biện xã hội lớn. Vai
trò giám sát, phản biện xã hội của báo chí đã và đang đồng hành với sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Và khi giám sát, phản biện xã hội
được thể hiện công khai trên mặt báo, nó có xu hướng trở thành một loại
“quyền lực” thực sự, có khả năng gây áp lực lên có quan công quyền. Báo
chí là chủ thể khơi nguồn cho phản biện xã hội; phản biện xã hội là đối tượng
phản ánh của báo chí; báo chí định hướng tạo ra sức lan tỏa của phản biện xã
hội; và phản biện xã hội qua báo chí làm gia tăng sức mạnh của các loại hình
phản biện xã hội khác trong thực tế.
Như vậy, có thể kết luận rằng giữa báo chí - dư luận xã hội - chức năng
giám sát, phản biện có quan hệ biện chứng với nhau. Tuy nhiên, trên thực tế,
trong tập hợp các vấn đề báo chí theo dõi và phản ánh, có những vấn đề tạo
nên dư luận xã hội, có những vấn đề thì không. Trong số các vấn đề tạo dư
luận đó, không phải trường hợp nào cũng đưa ra tiếng nói phản biện. Như
vậy, không phải mọi vấn đề báo chí nêu cũng có tính chất phản biện. Điều
cần phải rút kinh nghiệm là báo chí cần làm sao để phần mang chức năng
giám sát - phản biện ấy ngày càng được mở rộng.
7


1.3 Cơ chế và nguyên tắc giám sát, phản biện xã hội của báo chí
Báo chí thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội trước hết ở việc
cung cấp thông tin chân thực, khách quan theo cả hai chiều, từ chủ thể quản lý
đến khách thể quản lý và ngược lại. Họat động quản lý có hiệu quả hay không,
phụ thuộc nhiều vào tính chất, số lượng và chất lượng thông tin hai chiều liên
tục này. Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, báo chí cần phải tuân
thủ một hệ thống các nguyên tắc là chuẩn mực nghề nghiệp và cũng là nền tảng

cho việc sáng tạo tác phẩm báo chí, trong đó nổi bật nhất là tính chân thật,
khách quan, tính công khai, tính đại chúng và tính chiến đấu.
Tính chân thật, khách quan là đặc trưng, đặc điểm, là yêu cầu tồn tại của
bản thân báo chí và là nguyên tắc đầu tiên để báo chí thực hiện vai trò quản lý
xã hội thông qua hoạt động phản biện và giám sát xã hội. Lê-nin đã nhấn mạnh:
Sự thật là sức mạnh của báo chí. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn
dặn các nhà báo phải luôn trung thực, coi đó là một trong những tiêu chuẩn đạo
đức số một của người làm báo cách mạng. Người cho rằng, báo chí muốn thuyết
phục được công chúng thì phải mang tính chân thực cao, cán bộ báo chí “viết
phải thiết thực, “nói có sách, mách có chứng”…
Sự thật có mặt tốt, mặt chưa tốt, thậm chí có mặt xấu. Nhìn thẳng vào sự
thật để giám sát và phản biện xã hội có nghĩa là báo chí phải đưa tin cả về
những thành công cũng như những hạn chế, khó khăn, thất bại. Đánh giá đúng
sự thật, nói rõ sự thật đòi hỏi người viết phải có phương hướng và năng lực tư
duy để có thể trình bày một cách chân thực và đi đến bản chất của thông tin sự
việc. Có thể nói, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật là sự cụ thể hóa
chức năng giám sát và phản biện xã hội của báo chí.
Tính công khai, công cộng là một xu thế tất yếu, là biểu hiện quan trọng
của nền dân chủ, với quyền làm chủ của quần chúng, trong đó có quyền được
thông tin. Nói rõ sự thật một cách công khai là phần đảm bảo để “dân biết”, rồi
mới làm và kiểm tra được. Tính công khai không chỉ áp dụng cho cấp dưới mà
cả đối với việc làm của cấp trên, cho nên lại cần có sự dân chủ trong việc
8


công khai hoá. Các cơ quan truyền thông đại chúng là cơ quan công khai rộng
rãi nhất. Một tin phát trên truyền hình, phát thanh, đăng trên báo, cập nhật
trên mạng internet… sau một thời gian rất ngắn đã có thể tới được hàng triệu
người. Cho nên, tính công khai cần được tính toán trên hai mặt: một là, nói rõ
sự thật sau khi đã đánh giá đúng bản chất; hai là, nói rõ sự thật để góp phần xây

dựng dư luận xã hội lành mạnh.
Tính đại chúng của báo chí được thể hiện ở việc, thông tin báo chí tác
động tới xã hội rộng rãi, bao gồm các tầng lớp, các nhóm xã hội khác nhau, nhu
cầu thông tin của công chúng được ưu tiên bảo đảm và là thước đo trình độ,
năng lực của hoạt động thông tin báo chí. Đồng thời, báo chí cũng là diễn đàn
của nhân dân và phải phù hợp với trình độ của công chúng tiếp nhận. Công
chúng không chỉ muốn tiếp nhận thông tin từ báo chí một cách thụ động, mà
còn tương tác, phản hồi thông tin mạnh mẽ. Chức năng giáo dục của báo chí
ngày càng được đề cao, giáo dục để góp phần nâng cao dân trí; nâng cao trình
độ tương tác và tính chính xác của thông tin phản hồi; từ đó, môi trường của sự
giám sát, phản biện xã hội trong báo chí và dư luận xã hội sẽ trở nên lành mạnh
và hiệu quả hơn.
Tính chiến đấu là một trong những nguyên tắc quan trọng của báo chí
Việt Nam. Tính chiến đấu của báo chí được thể hiện trên cả hai mặt: biểu dương
và phê bình. Báo chí ủng hộ chủ trương xóa bỏ quan liêu bao cấp, cải cách hành
chính, ủng hộ lối sống có lý tưởng lành mạnh, sáng tạo, năng động, có ý thức
xây dựng tập thể và đất nước đồng thời đấu tranh chống lại cách làm thụ động,
trì trệ, hình thức chủ nghĩa, hiệu quả thấp, đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng và các tệ nạn xã hội.
Nhiều vụ việc tiêu cực, tham nhũng lớn bị truy tố xét xử trong những năm
qua được bắt nguồn từ thông tin trên báo chí, điển hình như vụ tham nhũng xảy
ra tại Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam Vinashin, những sai phạm về
quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng tại Tổng công ty Hàng hải Việt Nam
Vinalines, những sai phạm nghiêm trọng trong giao đất, thu hồi đất, cưỡng chế
9


thu hồi đất của huyện Tiên Lãng (Hải Phòng), giải tỏa ở Văn Giang (Hưng
Yên), hay mới đây nhất là vụ cán bộ của Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam
nhận hối lộ của Công ty JTC Nhật Bản.

Tinh thần chống tiêu cực trên báo chí là “chống để xây”. Nhưng không
chỉ chống tiêu cực mới là phản biện xã hội, báo chí cần đề cao những nhân tố
mới, những gương “người tốt, việc tốt” điển hình trên tất cả các lĩnh vực để
động viên tinh thần và cân bằng xã hội. Xã hội có rất nhiều điều tốt đẹp, tích
cực cần nhân rộng và báo chí cần thông tin trung thực để kích thích phát triển
phần tốt đẹp trong xã hội.
2. BÁC DỰ ÁN ĐƢỜNG SẮT CAO TỐC - SỰ THÀNH CÔNG CỦA
BÁO CHÍ TRONG GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI
2.1 Tổng quan về Dự án Đƣờng sắt cao tốc
Giao thông là ngành sử dụng ngân sách và vốn vay ODA nhiều nhất hiện
nay, và cũng là ngành luôn có những đề xuất khiến dư luận giật mình về những
siêu dự án với kinh phí triệu đô, tỷ đô gây nhiều tranh cãi, điển hình như dự án
đường sắt cao tốc Bắc Nam, dự án cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện (Hải
Phòng), dự án sân bay quốc tế Long Thành (Đồng Nai), dự án tuyến đường du
lịch Hà Nội - Bái Đính (Ninh Bình)…
Siêu dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam được Bộ GTVT trình Quốc hội
lần đầu ngày 17/4/2010. Theo Bộ trưởng GTVT khi đó, ông Hồ Nghĩa Dũng,
đến năm 2030, nhu cầu hành khách trên hành lang vận tải Bắc - Nam sẽ là
534.000 người mỗi ngày. Nếu không xây dựng đường sắt cao tốc thì nhu cầu
vận tải hành khách sẽ vượt năng lực của các loại hình vận tải là 156.000 người
mỗi ngày. Trong khi đó, với năng lực chuyên chở cao, đường sắt cao tốc sẽ đáp
ứng được yêu cầu chuyên chở khách sau năm 2035 và trong tương lai trên trục
Bắc - Nam.
Tuyến đường sắt cao tốc sử dụng công nghệ Nhật Bản có chiều dài 1.570
km, từ ga Ngọc Hồi (Hà Nội) tới ga Bình Triệu (TP HCM), với nguồn vốn đầu
tư lên tới 55,85 tỷ USD (tương đương 1/2 GDP cả nước). Tổng diện tích đất thu
hồi khoảng 4.170 ha và 9.480 hộ cần tái định cư.

10



Theo phương án của nhà Tư vấn Hàn Quốc, nếu xây dựng đường sắt cao
tốc, đường đôi, điện khí hóa, khổ 1435mm, với tốc độ 200 km/h thì từ tàu khách
Hà Nội đến TP HCM mất 8 giờ 19 phút. Với vận tốc đạt 300 km/giờ, tàu sẽ
chạy trong 5 giờ 38 phút để đi từ Hà Nội đến TP HCM đối với tàu nhanh, chỉ đỗ
các ga Vinh, Đà Nẵng, Nha Trang và 6 giờ 51 phút với tàu thường, đỗ ở tất cả
các ga. Thời gian chạy tàu này đã rút ngắn xuống còn 1/4 - 1/5 so với hiện tại.
Giá vé dự kiến tương đương giá vé máy bay.
Dự án được phân tuyến xây dựng và khai thác, đến năm 2020 sẽ hoàn
thành từ Hà Nội - Vinh và đoạn Nha Trang - TP HCM. Đến năm 2030 sẽ hoàn
tất đoạn Vinh - Đà Nẵng và hoàn thành toàn tuyến vào 2035.
Ngay sau khi được đề xuất, siêu dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam đã gây
tranh cãi cả trên diễn đàn Quốc hội và ngoài xã hội. Đa số ý kiến phản đối cho
rằng hiệu quả kinh tế của dự án quá thấp, số vốn đầu tư quá lớn, chiếm phân
nửa GDP của Việt Nam, sẽ tạo gánh nặng nợ nần cho hậu thế.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng nên xây trước một đoạn đường sắt
cao tốc để rút kinh nghiệm. Quan điểm này đã thể hiện ở phương án hai trình
Quốc hội trước khi biểu quyết, tức là tán hành chủ trương đầu tư xây dựng
đường sắt cao tốc Hà Nội - TP HCM với những bước đi cụ thể.
Tuy nhiên, cuối cùng, trong cuộc bỏ phiếu ngày 19/6/2010, Quốc hội đã
bác cả 2 phương án này. Đây là một quyết định hy hữu bởi rất hiếm xảy ra trong
lịch sử Quốc hội Việt Nam, và cũng được coi là một thành công lớn của giám
sát và phản biện xã hội.
2.2 Nội dung giám sát, phản biện xã hội về Dự án Đƣờng sắt cao tốc
(khảo sát trên báo điện tử VnExpress, Tuần Việt Nam, và Tiền phong
Online)
Dự án Đường sắt cao tốc là một vấn đề lớn liên quan đến quốc kế, dân
sinh, đồng thời, là dự án đặc biệt lớn (với số vốn lên tới 56 tỷ USD, tương
đương 1/2 GDP của cả nước) nên ngay từ khi được công bố đã nhận được nhiều
ý kiến phản biện từ xã hội, trong đó báo chí là một trong những kênh chính và

11


hiệu quả hơn cả. Tại thời điểm tháng 5, 6/2010, Dự án Đường sắt cao tốc đã trở
thành một “sự kiện nóng” trên nghị trường Quốc hội và trong dư luận. Các báo,
bằng nhiều hình thức khác nhau đã tập hợp ý kiến của hàng nghìn công dân về
dự án tiêu tốn đến một nửa GDP quốc gia, trong đó, sôi nổi hơn cả vẫn là trên
các báo mạng điện tử.
Trong thời gian gần 2 tháng, trên báo chí, đặc biệt là báo mạng điện tử
đăng tải hàng trăm bài báo sâu sắc của các chuyên gia Việt Nam trong và ngoài
nước trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học, công nghệ, môi trường,... đối
với Dự án Đường sắt cao tốc.
“Đường sắt cao tốc - ý tưởng của những người thích đùa”, “Đường sắt
cao tốc sẽ làm tăng gánh nặng nợ quốc gia”, “Đường sắt cao tốc, dự án xa xỉ”,
“Đường sắt cao tốc: Trong ủng hộ, ngoài nghi ngờ”, “Dự án 56 tỷ USD đường
sắt cao tốc, lo không đủ vốn”… đó là những tít báo với nội dung mang đầy tính
phản biện, phản đối dự án tốn kém, xa xỉ mà ngành giao thông đề xuất. Các bài
đã phản biện từng vấn đề, từng luận điểm trong báo cáo ban đầu cũng như trong
báo cáo chỉnh sửa mà Chính phủ trình lại Quốc hội sau đó.
Nhiều bài đã cung cấp thông tin, số liệu và những dự báo cần thiết; đã
phân tích về tài chính, đánh giá về hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, về hiệu lực
chiến lược. Có bài đã cảnh báo các tác động về môi trường, về diện tích rừng sẽ
mất, về hậu quả của việc đào cắt tạo ta-luy cho đường sắt dài 149,5km trên đất
dốc, của việc đào đắp 214,4 km trên nền đất thấp, của việc xây dựng 72 đường
hầm, dài tổng cộng 116,6 km,... Có bài đã cảnh báo về lãng phí và tác động xấu
đến hệ thống điện. Có bài nhắc lại lời dặn tiết kiệm của Bác, đặc biệt khi đất
nước còn nghèo, không nên đua đòi với thiên hạ mà cần có con đường phát triển
của chính mình, phù hợp với điều kiện và thực lực của mình.
Tất cả các tác giả các bài báo trên ai cũng mong muốn Việt Nam có một
hệ thống giao thông hiện đại, có một đường sắt cao tốc Bắc - Nam thay thế cho

các chuyến tàu đã già nua hiện nay. Nhưng, quan điểm của phần lớn tác giả là
lúc này chưa phải là thời điểm phù hợp, bởi lẽ không thể thoát ly thực tế của đất
nước, và phải tính đến cả hai mặt của vay vốn ODA, chưa nói đến một bối cảnh
thế giới đầy biến động.
12


Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát quá trình
thông tin và phản biện xã hội của 3 báo điện tử gồm: VnExpress:
www.vnexpress.net (VNE), Tuần Việt Nam: www.tuanvietnam.net (TVN) và
Tiền phong Online: www.tienphong.vn (TPO).
VnExpress là báo điện tử tiếng Việt có lượng độc giả truy cập lớn nhất
toàn cầu. Không chỉ đưa tin nhanh, kịp thời với tiêu chí khách quan, chân thực,
VnExpress còn có nhiều bài chuyên sâu, có tính chất phân tích, bình luận đi sâu
vào chuyên đề. Còn Tuần Việt Nam là một chuyên trang bình luận chuyên sâu
của báo điện tử VietnamNet. Từ đầu năm 2011 trở về trước, luôn là một trong
những báo điện tử chuyên về chính trị hàng đầu Việt Nam. Trong khi đó, với bề
dày lịch sử hơn 60 năm, Tiền phong được đánh giá là “tờ báo hấp dẫn, có tính
định hướng, tính thẩm mỹ và ý nghĩa giáo dục cao.”3 Đây cũng là 3 báo điện tử
có lượng lớn tin bài liên quan đến Dự án Đường sắt cao tốc.
Theo thống kê, không tính những bài viết mang tính đưa tin thuần túy,
trong thời gian từ ngày 17/4/2010 (ngày Bộ GTVT trình dự án ra Quốc hội) đến
ngày 19/6/2010 (ngày Quốc hội bác dự án), trên 3 báo điện tử VnExpress, Tuần
Việt Nam và Tiền Phong Online đăng tải tổng cộng 66 bài viết có nội dung
phản biện về Dự án Đường sắt cao tốc. Cụ thể:
Báo

VnExpress

Tuần Việt Nam


Tiền phong

Số bài phản biện

29

12

25

Đồng thuận

11 (38%)

1 (9%)

5 (20%)

Phản đối

18 (62%)

11 (91%)

20 (80%)

Các báo đều có đặc điểm chung là đăng tải cả 2 luồng ý kiến: đồng thuận
và không đồng thuận, cho thấy tính khách quan của tờ báo đối với thông tin
đang gây nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, ý kiến không đồng thuận vẫn chiếm đa số

(VNE: 62% phản đối; TVN: 91% phản đối; TPO: 80% phản đối). Đây thực chất
cũng là một dụng ý thể hiện quan điểm của 3 báo, đó là nghiên về sự không
đồng thuận.
3

Phát biểu của Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn Nguyễn Đắc Vinh tại lễ kỷ niệm 60 ngày Tiền phong ra số báo
đầu tiên và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhì (15/11/2013)

13


Giống như các báo mạng nói chung, cơ hội để các chủ thể tham gia phản
biện xã hội trên các báo điện tử VNE, TVN hay TPO là khá dễ dàng và linh
hoạt. Khảo sát 66 bài báo có tính phản biện xã hội liên quan đến Dự án Đường
sắt cao tốc có thể thấy đa dạng về các thành phần tham gia: từ Đại biểu Quốc
hội, nhà khoa học, chuyên gia kinh tế, doanh nhân, cán bộ quản lý đến người
dân thường, lưu học sinh... Trong số đó, tần số xuất hiện nhiều nhất là các
chuyên gia kinh tế tiêu biểu như: TS. Trần Đình Bá, TS. Nguyễn Minh Phong,
TS. Phạm Chi Lan, TS. Lê Đăng Doanh… và các nhà khoa học có uy tín như:
GS. Vũ Minh Khương (Đại học Quốc gia Singapore), TS. Tô Văn Trường…
Trong các bài viết của mình, các chuyên gia, nhà khoa học có xu hướng
chung là đưa ra các bằng chứng khoa học cùng với các lập luận chứng minh tính
đúng đắn của quan điểm cá nhân, thường là khác với các lập luận mà cơ quan
công quyền đưa ra. Dưới đây là một số ý kiến được cho là có sức nặng lớn nhất:
- TS. Trần Đình Bá (Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam): Đường sắt cao tốc
là ý tưởng của những người thích đùa… Đây là một loại phương giao thông xa
xỉ nhất thế giới với mỗi km đường tốn trên 34 triệu USD. Thế nhưng nó chỉ chở
được duy nhất hành khách với hành lý xách tay, hoàn toàn không thể chở được
hàng hóa do sức kéo đoàn tàu có hạn… Lịch sử đường sắt thế giới chưa hề có
một quốc gia đang phát triển nào dám đi vay tiền để làm đường sắt cao tốc và

chưa hề có một quốc gia nào giàu có dám cho vay một lúc trên 5 tỷ USD cho
một dự án… Sự lựa chọn khôn ngoan lúc này là nhanh chóng chấm dứt giấc mơ
viển vông đường sắt cao tốc để tập trung cho việc mở rộng để hiện đại hóa
đường sắt Việt Nam. (VNE, ngày 20/5/2010).
- TS. Trần Đình Bá (Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam): Cần khôn ngoan
tránh vết xe đổ của Nhật... Nhật Bản có đường sắt cao tốc từ rất sớm trong khi
93% chiều dài đường sắt còn lại chỉ rộng 1,067m. Nhật Bản đang phải ôm hận
với một hệ thống đường sắt lạc hậu nhất thế giới mà chưa tìm ra lối thoát thì
làm sao có thể giúp ta 1.530 km đường sắt cao tốc để vượt họ được. (TPO; ngày
23/5/2010);
14


- GS. Đặng Vũ Minh (Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Công nghệ Môi
trường Quốc hội): Trong bối cảnh hiện nay nợ nước ngoài của Việt Nam vào
khoảng 38,9% GDP, nợ hính phủ đ ở mức tr n 42

D , tích l y nội địa và

dự trữ ngoại tệ thấp thì việc vay th m để đủ vốn đầu tư cho dự án này sẽ làm
gánh nặng nợ quốc gia tăng l n đáng kể. (VNE, ngày 20/5/2010);
- Nguyễn Văn Thuận (Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội): Đường sắt
cao tốc là dự án xa xỉ. Nợ Chính phủ đ l n đến 42% rồi, giờ gánh thêm dự án
đường sắt cao tốc nữa thì tiền đâu? húng ta đ tính đến bài học của Hy Lạp
đang khủng hoảng vì nợ công, cả châu Âu phải cứu giúp chưa? húng ta không
thể quyết dự án này được để rồi con cháu nai lưng ra trả nợ. (VNE, ngày
21/5/2010);
- Bà Phạm Chi Lan (Chuyên gia kinh tế): Đây là một dự án quá phiêu
lưu… Việt Nam làm tàu cao tốc như gia đình ở nhà tranh vách đất muốn mua
biệt thự thay vì tích tiền xây nhà ngói. Nên lùi bài toán này ít nhất 10 năm nữa

đến khi thu nhập bình quân đầu người đạt 3.000 USD thì h ng bàn đến. (VNE,
ngày 04/6/2010);
- TS. Lê Đăng Doanh (Chuyên gia kinh tế): Làm những dự án lớn nâng
nợ quốc gia tăng l n trong khi bối cảnh kinh tế thế giới hết sức bấp bênh là quá
mạo hiểm, thậm chí coi đó bước đi phi u lưu của một quốc gia còn nhiều nỗi lo
như Việt Nam… Thiết tha mong Quốc hội chưa thông qua dự án tàu cao tốc.
(VNE, ngày 08/6/2010);
- TS. Nguyễn Minh Phong (Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội):
Nhiều cơ sở lý thuyết và thực tế khái quát cho thấy, khả năng dự án Đường sắt
cao tốc Bắc - Nam sẽ tạo ra chi phí đầu tư và vận hành cao hơn là lợi ích vận
chuyển hành khách có thể đem lại ngay cả khi dự án đạt được những điều kiện
tốt nhất… Hiệu quả đầu tư không cao, khó thu hút được nhiều khách đi tàu.
(VNE, ngày 17/6/2010);
- TS. Nguyễn Minh Phong (Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội):
Đường sắt cao tốc - cần “đúng lúc” và “đúng cách”. Không thể lấy lợi ích
15


quốc gia và bắt ngân sách nhà nước làm con tin, thế chấp cho một dự án kinh
doanh của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, dù dự án này được tô vẽ hoành
tráng và đẹp đẽ đến đâu. (TVN, ngày 28/5/2010);
- TS. Tô Văn Trường (Thành viên Ban chủ nhiệm chương trình nghiên
cứu khoa học trọng điểm cấp nhà nước KC08/11-15): Nếu không bàn kỹ, và
chuẩn bị kỹ thì rất có thể dự án đường sắt cao tốc của Việt Nam sẽ biến thành
“kim tự tháp” mà chưa chắc đ được coi là di sản văn hóa thế giới như các kim
tự tháp thật! Thậm chí sẽ bị các thế hệ mai sau oán trách, vì sự chơi ngông theo
kiểu “con nhà lính, tính nhà quan” mà cái giá phải trả cho sự chơi ngông này
nhiều khi không đơn thuần chỉ còn là về kinh tế. (TVN, ngày 24/5/2010);
- GS. Vũ Minh Khương (Đại học Quốc gia Singapore): Đường sắt cao
tốc: Khát khao lớn nhưng phải biết điểm dừng… Nếu triển khai dự án đường sắt

cao tốc Bắc - Nam, chúng ta nên tiên liệu rằng, tổng mức đầu tư có thể lên trên
mức 60-70 tỷ USD chứ không chỉ dừng ở 56,8 tỷ USD, trong khi lượng khách
vận chuyển thực tế sẽ thấp hơn nhiều so với dự báo. (TVN, ngày 02/6/2010);
- TS. Vũ Thành Tự Anh (Chuyên gia kinh tế): Dự án đường sắt cao tốc
có quy mô rất lớn, tương đương 60

D và 250

ngân sách quốc gia của

Việt Nam trong năm 2009. Hơn nữa, dự án này sẽ được thực hiện trong khoảng
1/4 thế kỷ với rất nhiều biến số bất định, nằm ngoài tầm kiểm soát và dự đoán.
Vì những lý do này, Việt Nam cần đánh giá một cách thận trọng tính khả thi và
hiệu quả của dự án, và đặc biệt là cần lường trước những rủi ro kinh tế và tác
động của phương án tài trợ dự án đối với nền tài khóa quốc gia. (TVN, ngày
26/5/2010);
- TS. Bùi Kiến Thành (Chuyên gia tài chính cao cấp): Ngân sách của ta
hiện nay bội chi ở mức trên 6%. Nếu dùng ngân sách để xây dựng hay đi vay
vốn ODA và trả nợ trong vài chục năm thì không n n làm. (TPO, ngày
26/5/2010);
- PGS. TS Phạm Công Hà (Chủ tịch Hội Kinh tế & Vận tải Đường sắt
Việt Nam): Tính ra mỗi tháng phải hoàn thành 6,5 km tính đổi. Nội dung 6,5km
16


này gần tương đương với một cầu Thanh Trì bắc qua sông Hồng, phía nam Thủ
đô Hà Nội. Mỗi tháng phải hoàn thành một khối lượng công việc tương đương
cầu Thanh Trì là điều vượt ra ngoài sức tưởng tượng của tôi. (TPO, ngày
16/6/2010);
- GS.TSKH Bạch Vọng Hà (Chuyên gia về điện khí hóa trong ngành giao

thông vận tải): hưa cần có biểu đồ chạy tàu c ng có thể tính được tổng thời
gian tối đa mỗi pha cấp điện cho các đoàn tàu là rất ít; khoảng thời gian còn
lại trong 24 giờ, các trạm và mạng làm việc không tải. Do đó, tỷ lệ tổn hao
không tải tr n điện năng ti u thụ có ích là rất lớn. Nói một cách hình tượng,
chúng ta thắp đèn đường 24 giờ mỗi ngày để chiếu sáng tối đa một vài giờ cho
người đi qua.

ác nước giàu, thừa điện c ng không dám l ng phí như vậy.

(TPO, ngày 15/6/2010).
Phải thấy rằng dự án xây dựng đường cao tốc Bắc Nam đã vẽ ra một viễn
cảnh rất hấp hẫn với hình ảnh những con tàu hiện đại, sang trọng lao vun vút
trên đường ray, hành khách thì buổi sáng mới uống café ở Hà Nội, buổi trưa vừa
ăn trưa vừa ngắm cảnh bãi biển Đà Nẵng và buổi tối ngồi nhậu ở Sài Gòn.
Nhưng, đó là một giấc mơ phải trả tiền, phải mang nợ số tiền khổng lồ bằng một
nửa thu nhập quốc dân hàng năm.
Hầu hết các ý kiến phản biện đều đề cập trước hết là ngân sách quá lớn
dành cho dự án này. Theo tính toán sơ bộ ban đầu, cần phải có khoảng 56 tỷ
USD để thực hiện dự án. Nhưng trong quá trình xây dựng, nhiều chi phí phát
sinh sẽ làm số tiền đội lên rất nhiều.
Một nguyên nhân khác khiến nhiều ý kiến không mặn mà lắm với dự án
xây đường sắt cao tốc trong thời điểm hiện tại còn vì hiệu quả kinh tế, kinh
doanh của dự án. Vay nợ lớn như vậy nhưng khả năng hoàn vốn là bao nhiêu
năm? Trên thực tế, đường sắt cao tốc là một phương tiện giao thông không phải
là rẻ của các nước giàu có, những nước thường có tổng sản phẩm quốc dân và
thu nhập bình quân đầu người trên 10.000 USD/năm. Trong khi đó thì Việt
Nam, trong khoảng 10-20 năm tới, thu nhập bình quân đầu người khó có thể
17



vươn tới mức 3.000 USD/năm. Như vậy, các chuyên gia có lý khi hoài nghi chỉ
tiêu sau 45 năm thu hồi vốn do những người đề ra dự án đưa ra.
Trong khi đó, những ý kiến không nhiều đồng thuận với dự án phần lớn
lại là quan chức của ngành giao thông (Bộ trưởng GTVT Hồ Nghĩa Dũng),
ngành đường sắt (Tổng Công ty ĐSVN) hoặc là cán bộ của một số đơn vị trực
thuộc Bộ GTVT. Điều này khiến cho tính khách quan của các ý kiến bị suy
giảm. Một số ý kiến đồng thuận khác của lãnh đạo doanh nghiệp hoặc người
dân có một đặc điểm chung là: thể hiện mong muốn về một tuyến đường sắt cao
tốc hiện đại, cải thiện bộ mặt giao thông quốc gia, thậm chí từ góc nhìn của một
số doanh nhân đây được coi là một dự án đầu tư nên theo đuổi cho dù mạo
hiểm. Nhưng điểm yếu chung của phe những người đồng thuận là không đủ
chứng cứ, số liệu khoa học, vì thế, so với ý kiến phản đối từ các chuyên gia, nhà
khoa học, rõ ràng, những ý kiến đồng thuận này trở nên thiếu thuyết phục, nếu
không muốn nói là bị “lép vế”.
- Ông Hồ Nghĩa Dũng (Bộ trưởng GTVT): Đi ngay vào hiện đại có thể
ban đầu sẽ khó khăn, tốn kém nhưng chúng ta giải quyết được tầm nhìn cho 3040 năm (TPO, ngày 26/5/2010);
- Ông Nguyễn Hữu Bằng (Tổng Giám đốc Tổng Cty Đường sắt Việt
Nam): Hiệu quả kinh tế xã hội dự án này rất lớn nhưng không thể diễn giải hết
được. (TPO, ngày 14/6/2010);
- Ông Khuất Việt Hùng (Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch và Quản lý
giao thông - Đại học GTVT): Nước Mỹ đang phải cay đắng nhận ra kỷ nguyên
đường bộ cao tốc đ kết thúc. Quốc hội nên quyết ngay chủ trương làm đường
sắt cao tốc Bắc - Nam… Đường sắt cao tốc có rủi ro nhưng vẫn nên làm. (VNE,
ngày 31/5/2010)
- Nguyễn Bình Giang (Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Phát triển Kinh
tế Tri thức): Cần có dự án siêu lớn để tạo ra hàng trăm tỷ cho nền kinh tế… Một
dự án lớn, tầm cỡ quốc gia được Chính phủ trình ra Quốc hội bao giờ c ng ẩn

18



chứa những động thái xã hội lớn lao để dự án cần phải thực hiện… Các nguồn
lực để dự án thành công là nằm trong tầm tay của Chính phủ, của xã hội (VNE,
ngày 24/5/2010).
Kỳ họp Quốc hội lần này có nhiều vấn đề trọng đại. Tuy nhiên, Dự án
Đường sắt cao tốc được các cử tri chú ý nhiều hơn cả vì tính sống còn của một
nền kinh tế. Người dân cảm thấy vui mừng khi nhận thông tin chính thức về
việc Quốc hội không thông qua dự án này. Mặc dù, các tỉ lệ “có” hoặc “không”
giằng co ngang ngữa nhau trong lúc đại biểu “bấm nút”, nhưng kết quả cuối
cùng đã làm thoả mãn tất cả những người dân. Giám sát và phản biện xã hội nói
chung và qua báo chí nói riêng đã thành công và được chấp nhận một cách
chính thức ở Quốc hội. Phản biện đã giúp cho những nhà hoạch định chính sách
đưa ra chủ trương đúng, trí tuệ và hợp với lòng dân. Đó là quy luật, lẽ tự nhiên
mà bất cứ một xã hội nào cũng đều phải tuân thủ.
2.3 Hiệu quả giám sát và phản biện xã hội về Dự án Đƣờng sắt cao
tốc qua loạt bài trên các báo mạng điện tử VNE, TVN và TPO
Những bài viết trên báo chí về đường tàu cao tốc trong thời gian diễn ra
kỳ họp Quốc hội đã góp một phần không nhỏ cho tiến trình dân chủ tại Nghị
trường liên quan đến một vấn đề trọng đại có liên quan đến vận mệnh kinh tế
của quốc gia. Đó là công nợ quốc gia, đó là tính không hiệu quả của một dự án
khổng lồ (trên 50% GDP). Các báo đã tạo ra sự cộng hưởng hành vi tỏng hai
nhóm đối tượng quan trọng, là nhóm trực tiếp chịu ảnh hưởng của dự án cũng
như nhóm có khả năng đánh giá, nhận xét về dự án một cách khoa học và chính
xác nhất. Hai nhóm đối tượng này đã củng cố cơ sở khoa học cũng như thực
tiễn cho việc ủng hộ hay phản đối dự án tiêu tốn tới 56 tỷ USD này.
Dự án Đường sắt cao tốc cũng là một trong những vấn đề mà hiệu quả
của hoạt động giám sát, phản biện xã hội của báo chí được thể hiện rõ ràng nhất,
khi chỉ trong một thời gian ngắn (chưa đầy 2 tháng) đã góp phần thúc đẩy tính
tích cực và trách nhiệm của không ít đại biểu Quốc hội. Từ những tranh luận
quanh vấn đề này, trong đó không thể không nhắc tới tranh luận trên các mặt

19


báo, chiều 19/6/2010, với 41% đại biểu không tán thành và chỉ 37% đại biểu tán
thành, chủ trương xây dựng đường sắt cao tốc trị giá 56 tỷ USD do Chính phủ
trình đã không được Quốc hội thông qua.
Kết quả bỏ phiếu của Quốc hội là một quyết định hợp lòng dân, cho thấy
tiếng nói của nhân dân đã được cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước tiếp
thu. Đó cũng là biểu hiện của quá trình phản biện xã hội trên báo chí đã góp
phần tích cực vào việc thay đổi các quyết sách của đất nước và bảo vệ quyền lợi
của người dân.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi
đồng của Quốc hội Nguyễn Minh Thuyết đánh giá: đây là lần đầu tiên Quốc hội
bác một dự án lớn do Chính phủ trình do chưa được chuẩn bị kỹ lưỡng. Và đây
là một quyết định mang tính lịch sử. Có thể nói Quốc hội đ thể hiện sự nghiên
cứu hết sức nghiêm túc báo cáo của Chính phủ c ng như lắng nghe ý kiến của
nhân dân, đặc biệt là ý kiến của các nhà khoa học và các tầng lớp nhân dân
tr n phương tiện truyền thông.
2.4 Bài học kinh nghiệm
Thành công của hoạt động giám sát, phản biện xã hội của báo chí đối với
Dự án Đường sắt cao tốc đã để lại nhiều bài học hữu ích cho những người làm
báo khi muốn tổ chức những tuyến bài có nội dung phản biện các vấn đề đang
được dư luận quan tâm.
Thứ nhất, có thể thấy hai tuyến bài rõ ràng trong quá trình phản biện xã
hội của ba trang báo trực tuyến về Dự án Đường sắt cao tốc là tuyến bài phản
ánh ý kiến phân tích của chuyên gia và tuyến bài về ý kiến người dân. Một dự
án phục vụ cho lợi ích dân sinh, không có ý kiến nào có thể tốt hơn là trực tiếp
đi hỏi người sử dụng. Ý kiến của người dân thể hiện nhu cầu về dự án. Bên cạnh
đó, các phân tích dưới góc độ chuyên môn của các nhà khoa học cũng sẽ góp
phần làm cho vấn đề được sáng tỏ. Cả hai tuyến bài này cùng phục vụ cho quá

trình phản biện xã hội mang tính toàn diện của các báo.
20


Tuy nhiên, xác định được rằng đây là một dự án quan trọng và có tầm ảnh
hưởng không chỉ tới tình hình kinh tế xã hội của đất nước hiện tại mà còn ảnh
hưởng tới tương lai của hàng chục, thậm chí hàng trăm năm sau, nên các báo
cũng tỏ ra khá thận trọng trong việc thực hiện chiến lược giám sát, phản biện xã
hội về dự án.
Để có sức thuyết phục về mặt lý tính, ý kiến phân tích của các chuyên gia
luôn được ưu tiên trên hết. Cả ba báo VNE, TVN, TPO đều huy động một lực
lượng chuyên gia khá hùng hậu và có uy tín về chuyên môn để phân tích từ các
góc nhìn khác nhau về siêu dự án này. Riêng VNE còn tường thuật từng phiên
họp của Quốc hội và ghi lại ý kiến của các đại biểu phân tích về dự án. Trong
đó, rất nhiều các quan chức Quốc hội như: Hà Văn Hiền (Chủ nhiệm Ủy ban
Kinh tế), Nguyễn Văn Thuận (Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật), Kso Phước (Chủ
tịch Hội đồng dân tộc), Nguyễn Minh Thuyết (Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa,
Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng)… đều bày tỏ lo ngại với một dự
án quá lớn như Đường sắt cao tốc.
- Ông Hà Văn Hiền: Giá vé tàu cao tốc gần bằng vé máy bay thì không
thể nhiều người dân có khả năng đi tàu, cần phân tích cơ cấu 57 triệu hành
khách trong tương lai, bao nhi u phần trăm có thể đi tàu cao tốc. (VNE, ngày
17/4/2010);
- Ông Nguyễn Văn Thuận: Ngân sách như một ông bố nghèo, muốn xây
nhà cho con trai, mua ôtô cho con gái, mơ ước thì nhiều song không thực hiện
được. (VNE, ngày 17/4/2010);
- Ông Ksor Phước: Tình trạng ném đá l n tàu, đặt chướng ngại vật trên
đường ray còn diễn ra thì tai nạn tàu cao tốc sẽ là thảm họa bởi lượng khách
lớn. Cần phải đặt an ninh đường sắt như an ninh hàng không. (VNE, ngày
17/4/2010).

Ngoài ra, để tăng tính khách quan, các báo cũng đăng tải một vài phân
tích thể hiện sự đồng tình, tạo nên một cái nhìn đa chiều về dự án. Phần lớn ý
kiến này là của đại diện ngành giao thông, ngành đường sắt hoặc người dân.
21


Thứ hai, với thế mạnh của báo điện tử trong tương tác với công chúng, cả
ba báo VNE, TVN và TPO đều đã mở rộng phần thảo luận để độc giả có thể
đóng góp ý kiến của mình về dự án. Những phản hồi của độc giả trên trang báo
là minh chứng quan trọng và có sức thuyết phục về dư luận và hiệu ứng xã hội
mà báo chí tạo ra cũng như là định hướng khi thực hiện chức năng giám sát,
phản biện xã hội của mình.
Trên cả ba trang báo trực tuyến, dưới mỗi bài phân tích của các chuyên
gia đều có ý kiến phản hồi của độc giả. Phần này, VNE tỏ ra mạnh hơn với hầu
hết các bài viết đều có ý kiến phản hồi. Với loạt bài về Dự án Đường sắt cao
tốc, các báo đã thực sự tạo ra được một diễn đàn của nhân dân rộng rãi và đa
chiều về ý kiến. Theo khảo sát chung, số lượng ý kiến độc giả đồng ý với dự án
xây dựng đường sắt cao tốc Bắc - Nam ít hơn hẳn so với lượng độc giả phản
đối. Các ý kiến phản đối dự án cũng tập trung vào các lý do như đất nước còn
nghèo, chưa nên xây dựng một dự án xa xỉ trong khi các dự báo và tính toán
chưa thực sự đầy đủ và chính xác. Nhiều ý kiến còn phản đối một cách gay gắt.
- Mấy ngày hôm nay theo dõi chương trình nghị sự về đường sắt cao tốc
tôi thấy có một vấn đề là hình như chúng ta đang đi vào chi tiết mà quên không
nhìn lại một cách tổng thể hơn, đó là quy hoạch hệ thống giao thông vận tải
chung của một quốc gia. Có nhất thiết phải tồn tại cùng một lúc 2 hệ thống
đường sắt cao tốc và đường hàng không nối liền Nam Bắc trong hoàn cảnh đất
nước còn nghèo như hiện nay không, cứ cho là 20 năm nữa chúng ta sẽ đuổi kịp
các nước Đông Nam Á đi thì hiện nay đ có nước Đông Nam Á nào dám xây
một hệ thống đường sắt cao tốc dài 1.500km như ta chưa (Độc giả Huỳnh V
Bình, TPO, ngày 25/5/2010);

- Việt Nam đừng trèo quá cao kẻo ng đau vì đường sắt cao tốc. Thêm
một cái siêu dự án thực hiện bằng tiền… đi vay trong khi dân còn ăn đói mặc
rách đi tr n những con đường đầy khói, bụi và lô cốt! (Độc giả HND, VNE,
ngày 06/6/2010);

22


- Chúng ta cần định vị xem chúng ta đang ở đâu, nguồn lực thế nào.
Không nên cứ thấy người ta làm gì thì mình phải làm theo. Liệu đường sắt cao
tốc hoàn thiện thì đa số người dân của chúng ta có tiếp cận được không? Liệu
vé có cạnh tranh được với việc đi máy bay không? (Độc giả Hung, TVN, ngày
06/6/2010).
Cuối cùng, với ưu thế của báo mạng điện tử, đó là thông tin đăng tải
không theo định kỳ, bất kể lúc nào có thông tin đều có thể cập nhật, đồng thời,
các thông tin được liên kết với nhau theo chủ đề giúp độc giả có thể dễ dàng tìm
thấy các bài viết liên quan, ba báo điện tử, đặc biệt là VNE và TPO trong thời
gian này đã cập nhật liên tục, dày đặc các bài viết về Dự án Đường sắt cao tốc.
VNE có nhiều ngày cập nhật đến 3 bài viết có tính phản biện, còn TPO thì
thường xuyên có 2 bài viết/ngày liên quan đến siêu dự án. Điều này giúp cho
các báo dễ dàng vượt trội hơn so với các loại hình báo chí khác về tốc độ thông
tin, lượng thông tin, đảm bảo tính thời sự và tạo ra sự thuận tiện cho độc giả.
Có thể thấy, mật độ tin bài dày đặc, vượt xa so với báo in, đã giúp tăng
hiệu quả của “chiến dịch” phản biện xã hội trên các báo. Trên thực tế, trong
cùng một khoảng thời gian ấy, mỗi báo đều phải có một chiến lược tin bài riêng
và các phóng viên đều phải chạy đua với thời gian để các bài vở ấy được thực
hiện đúng kế hoạch, nếu không, hiệu ứng sẽ bị giảm đi rất nhiều.

23



KẾT LUẬN
Từ thực tế khảo sát trên các báo điện tử VnExpress, Tuần Việt Nam và
Tiền phong Online cho thấy, khi cơ quan công quyền đưa ra quyết sách, dự án
liên quan đến vấn đề quốc kế dân sinh thì đều tác động đến nhu cầu thể hiện vai
trò giám sát và phản biện xã hội qua báo chí của công chúng. Phần lớn các cơ
quan công quyền có liên quan thường ứng xử theo kiểu có lắng nghe hoặc
không lắng nghe đối với những phát hiện về bất hợp lý do hoạt động giám sát,
phản biện xã hội của báo chí nêu ra, nhưng lẳng lặng điều chỉnh mà không có sự
thừa nhận một cách chính thức, công khai, thẳng thắn và kịp thời.
Trường hợp của Dự án Đường sắt cao tốc có thể được xem là hy hữu.
Phản ứng của cơ quan công quyền đối với phản biện xã hội trong trường hợp
này là tạm dừng thực hiện dự án trong một số năm để chuẩn bị các điều kiện tốt
hơn. Có thể nói, Dự án Đường sắt cao tốc đã trở thành một sự kiện làm hài lòng
phần lớn các chủ thể tham gia giám sát, phản biện xã hội cũng như công chúng
quan tâm. Điều có ý nghĩa nhất là sự cộng hưởng của phản biện xã hội qua báo
chí và đại biểu Quốc hội tại nghị trường đã tạo nên tính thuyết phục cao dẫn đến
quyết định của cơ quan công quyền phải thay đổi - Quốc hội bác dự án.
Xin được kết thúc bài viết bằng nhận định của GS. Phạm Phụ phát biểu
trên báo Tuổi trẻ ngày 21/6/2010: “Sinh hoạt tranh luận về dự án đường sắt cao
tốc như vừa qua, kể cả ở nghị trường c ng như tr n các phương tiện truyền
thông, là một hiện tượng rất lành mạnh trong một xã hội dân chủ. Sự phản biện
xã hội, kể cả báo chí, có một vai trò hết sức quan trọng trong xã hội ngày nay.
Với sự kiện Quốc hội không thông qua chủ trương đầu tư dự án đường sắt cao
tốc, chúng ta đ bắt đầu thấy được bóng dáng của phản biện xã hội c ng như
giá trị của nó.”

24



×