LỜI MỞ ĐẦU
Trong đời sống tinh thần của con người tôn giáo luôn đóng một vai trò nhất định.
Cùng với tiến trình phát triển của lịch sử loài người, tôn giáo ra đời và trở thành một
hiện tượng xã hội. Có nhiều tôn giáo khác nhau trên thế giới nhưng nhìn chung mọi tôn
giáo đều hướng tới con người với những giá trị tốt đẹp. Chủ nghĩa cộng sản không phủ
nhận tuyệt đối tôn giáo mà dung hòa tôn giáo trong đời sống, chính trị, xã hội để phát
triển. Ở nước ta cũng vậy, tôn giáo đóng vai trò nhất định trong đời sống tinh thần.
Nhìn chung mọi giáo lý của các tôn giáo đều chứa đựng tính nhân văn sâu sắc.
Những triết lý ấy giúp cho con người sống với nhau gần gũi hơn, có trách nhiệm hơn
với bản thân, cộng đồng, với sự phát triển chung của toàn xã hội. Tôn giáo là sự tự do
tin ngưỡng của mỗi công dân. Vì vậy trong định hướng trên con đường xây dựng xã hội
chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò của các tôn giáo. Mặt khác ở Việt
Nam trong lịch sử, tôn giáo đã bị lợi dụng để phục vụ cho mục đích chính trị và ngày
nay vẫn còn tồn tại những kẻ lợi dụng tôn giáo để chống phá nhà nước xã hội chủ nghĩa
của ta. Chính vì thế mà mỗi người dân cần xác định rõ tư tưởng tự do tín ngưỡng phải đi
đôi với chấp hành pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Đó cũng là lý do chúng em quyết định chon đề tài “Lý luận về vấn đề tôn giáo
trong tiến trình xây dựng xã hội chủ nghĩa và ý nghĩa của lý luận này trong giải quyết
vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu, để trước hết mỗi thành
viên trong nhóm sẽ có những hiểu biết nhất định về các tôn giáo ở Việt Nam, đồng thời
xác định rõ cách nhìn nhận, nắm rõ ý nghĩa cuả lý luận này để góp phần vào sự phát
triển chung của xã hội.
NỘI DUNG
I. Vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tôn
giáo vẫn còn tồn tại. Điều đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên nhân chủ
yếu sau:
- Nguyên nhân nhận thức:
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa vẫn
còn nhiều hiện tượng tự nhiên, xã hội và con người mà khoa học chưa lý giải được,
trong khi đó trình độ dân trí lại vẫn chưa thực sự được nâng cao. Do đó, trước những
sức mạnh tự phát của giới tự nhiên và xã hội mà con người vẫn chưa thể nhận thức và
chế ngự được đã khiến cho một bộ phận nhân dân đi tìm sự an ủi, che chở và lý giải
chúng từ sức mạnh của thần linh.
- Nguyên nhân kinh kế:
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều
thành phần kinh tế với những lợi ích khác nhau của các giai cấp, tầng lớp xã hội.
Trong đời sống hiện thực, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội vẫn
còn diễn ra, sự cách biệt khá lớn về đời sống vật chất, tinh thần giữa các nhóm dân cư
còn tồn tại phổ biến. Do đó những yếu tố may rủi, ngẫu nhiên vẫn tác động mạnh mẽ
đến con người, làm cho con người dễ trở nên thụ động với tư tưởng nhờ cậy, cầu mong
vào những lực lượng siêu nhiên.
- Nguyên nhân tâm lý:
Tín ngưỡng, tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử nhân loại, đã trở thành
niềm tin, lối sống, phong tục tập quán, tình cảm của một bộ phận đông đảo quần chúng
nhân dân qua nhiều thế hệ. Bởi vậy, trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và
trong xã hội xã hội chủ nghĩa đã có những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế, chính trị - xã
hội, song tôn giáo vẫn không thể biến đổi ngay cùng với tiến độ của những biến đổi
kinh tế - xã hội mà nó phản ánh. Điều đó cho thấy, trong mối quan hệ giữa tồn tại xã
hội và ý thức xã hội, ý thức xã hội thường có tính bảo thủ hơn so với sự biến đổi của
tồn tại xã hội, trong đó ý thức tôn giáo thường lại là yếu tố mang tính chất bền vững
nhất trong đời sống tinh thần của mỗi con người, của xã hội.
- Nguyên nhân chính trị - xã hội:
Xét về mặt giá trị, có những nguyên tắc của tôn giáo phù hợp với chủ nghĩa xã
hội, với chủ trương, đường lỗi, chính sách của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là
những giá trị đạo đức, văn hóa với tinh thần nhân đạo, hướng thiện… đáp ứng được
nhu cầu của một bộ phận quần chúng nhân dân. Mặt khác, những thế lực phản động lợi
dụng tôn giáo như một phương tiện để chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
- Nguyên nhân văn hóa:
Trong thực tế sinh hoạt văn hóa xã hội, sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo đã đáp
ứng được phần nào nhu cầu văn hóa tinh thần của cộng đồng xã hội và trong một mức
độ nhất định, có ý nghĩa giáo dục ý thức cộng đồng, phong cách, lỗi sống của mỗi cá
nhân trong cộng đồng, về phương diện sinh hoạt văn hóa, tôn giáo thường được thực
hiện dưới hình thức là những nghi lễ tín ngưỡng cùng với những lời răn theo chuẩn
mực đạo đức phù hợp với quan niệm của mỗi loại tôn giáo. Những sinh hoạt văn hóa
có tính chất tín ngưỡng, tôn giáo ấy đã thu hút một bộ phận quần chúng nhân dân xuất
phát từ nhu cầu văn hóa tinh thần, tình cảm của họ.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản khiên tôn giáo vẫn còn tồn tại trong tiến
trình xây dựng chủ ngĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cùng với
tiến trình đó, tôn giáo cũng có những biến đổi cùng với sự thay đổi của những điều
kiện kinh tế - xã hội, với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
II, Ý nghĩa của “Lý luận về vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng xã
hội chủ nghĩa” trong giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
1. Thực trạng giải quyết các vấn đề tôn giáo ở Việt Nam
* Ưu điểm:
- Phát huy giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của tôn giáo. Do tôn giáo có sự
đồng hành lâu dài với con người trong lịch sử, nên có thể xem nó như một phần tài sản
văn hóa của nhân loại. Trong quá trình phát triển, lan truyền trên bình diện thế giới,
tôn giáo không chỉ đơn thuần chuyển tải niềm tin của con người, mà còn có vai trò
chuyển tải, hòa nhập văn hóa và văn minh, góp phần duy trì đạo đức xã hội nơi trần
thế. Nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con người. Với tư cách một
bộ phận của ý thức hệ tôn giáo đã đem lại cho cộng đồng xã hội, cho mỗi khu vực, mỗi
quốc gia, mỗi dân tộc biểu hiện độc đáo thể hiện trong cách ứng xử, lỗi sống, phong
tục, tập quán, trong các yếu tố văn hóa vật chất cũng như tinh thần.
- Điều dễ nhận thấy là những hệ thống đạo đức của tôn giáo rất khác nhau về
niềm tin, rất xa nhau về địa lý vẫn có một mẫu số chung là nội dung khuyên thiện.
Điểm mạnh trong truyền thụ đạo đức tôn giáo là ngoài những điều phù hợp với tình
cảm đạo đức của nhân dân, nó được thực hiện thông qua tình cảm tín ngưỡng, niềm tin
vào giáo lý. Do đó, tình cảm đạo đức tôn giáo được tín đồ tiếp thu, tạo thành đức tin
thiêng liêng bên trong và chi phối hành vi ứng xử của họ trong các quan hệ cộng đồng.
Hoạt động hướng thiện của con người được tôn giáo hóa sẽ trở nên mạnh mẽ hơn,
nhiệt thành hơn.
- Là hình thức phản ánh đặc thù, phản ánh hư ảo thế giới hiện thực, tôn giáo đã
góp phần chế ngự các hành vi phi đạo đức. Do tuân thủ những điều răn dạy về đạo đức
của các tôn giáo, nhiều tín đồ đã sống và ứng xử đúng đạo lý, góp phần làm cho xã hội
ngày càng thuần khiết.
- Đặc biệt, đạo đức tôn giáo được hình thành trên cơ sở niềm tin vào cái siêu
nhiên (Thượng đế, Chúa, Thánh Ala) và sau này, Đức Phật cũng được thiêng hóa, nên
các tín đồ thực hành đạo đức một cách rất tự nguyện, tự giác. Song, suy cho cùng, việc
thực hiện những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức ấy cũng là để phục vụ cho niềm tin
siêu nhiên. Sự đan xen giữa hy vọng và sợ hãi, giữa cái thực và cái thiêng đã mang lại
cho tôn giáo khả năng thuyết phục tín đồ khá mạnh mẽ. Trên thực tế, chúng ta thấy
nhiều người cung tiến rất nhiều tiền vào việc xây dựng chùa chiền, làm từ thiện… vốn
là những tín đồ tôn giáo.
- Đạo đức tôn giáo hướng con người đến những giá trị nhân bản, góp phần tích
cực vào việc hoàn thiện đạo đức cá nhân. Bất kì tôn giáo nào cũng đề cập đến tình yêu.
Tinh thần “từ bi” trong Phật giáo không chỉ hướng đến con người, mà còn đến cả
muôn vật, cỏ cây. Phật giáo kêu gọi lòng nhân đạo, yêu thương và bảo vệ sự sống. Đặc
biệt, trong quan hệ con người với con người, Phật giáo muốn tình yêu thương ấy phải
biến thành hành động “bố thí”, cứu giúp những người đau khổ hoặc “nhẫn nhục” để
giữ gìn đoàn kết.
- Muốn giải thoát khỏi đau khổ, con người phải tự hoàn thiện đạo đức cá nhân,
diệt trừ tham, sân, si, xóa bỏ vô minh, chặt đứt cây “nghiệp” để vượt qua biển khổ luân
hồi. Đạo đức của Kitô giáo cũng đề cập đến tình yêu: yêu thương bản thân mình, yêu
tha nhân và yêu nhiên nhiên, trong đó, yêu tha nhân là trọng tâm của quan niệm đạo
đức về tình yêu. Những chuẩn mực của đạo dức Kitô giáo giúp con người hoàn thiện
đạo đức cá nhân trong quan hệ với cộng đồng. Tình yêu tha nhân ở đây không đơn
thuần là tình yêu trong tâm tưởng mà được cụ thể hóa: cho kẻ đói ăn, cho kẻ rách mặc,
chăm sóc người ốm đau, bệnh hoạn, khuyên can người lầm lỗi… Tóm lại, đây là
những hành vi đạo đức rất cụ thể, rất thiết thực khi trong xã hội còn nhiều cảnh khổ
cần được cứu vớt, giúp đỡ.
- Tuy nhiên, tình yêu, lòng từ bi mà đạo đức tôn giáo đề cập đến còn chung
chung, trừu tượng. Các tôn giáo đều muốn san bằng mọi bất công, mâu thuẫn trong xã
hội bằng đạo đức, ý tưởng đó dù rất đẹp nhưng khó có thể hiện thực hóa trong cuộc
sống trần thế. Song, có thể nói, việc hoàn thiện đạo đức cá nhân mà đạo đức tôn giáo
đề ra nhằm hướng đến mục đích siêu nhiên, hướng đến chốn Thiên đường của Chúa
hay cõi Niết bàn của Phật, dẫu sao vẫn có những tác động tích cực đến đạo đức cá
nhân và xã hội.
- Tất cả các tôn giáo như: Phật giáo, Kitô giáo, Tin Lành, Hòa Hảo, Cao Đài,…
đều hướng thiện, muốn con người hoàn hảo hơn, tôn giáo nào cũng dạy con người làm
việc tốt không gây oán thù, tu dưỡng rèn luyện đạo đức và giúp con người hiểu hơn về
nhận thức cũng như bản chất con người.
- Hầu hết các tôn giáo đều hướng tới con người đi đến cái thiện, cái tốt đẹp
khuyên răn con người làm điều hay lẽ phải và nhân từ với đồng loại.
* Hạn chế:
Bên cạnh về mặt ưu điểm tôn giáo ở Việt Nam hiện nay còn có những hạn chế
của đạo đức tôn giáo. Một khi đã thâm nhập vào ý thức vào ý thức con người (các tín
đồ, các giáo dân và quần chúng chịu ảnh hưởng của tôn giáo), nó sẽ làm cho con người
lãng quên hiện thực, đặt tất cả tinh thần, tâm tưởng vào thần thánh hư ảo mà họ tin đó
là giá trị đích thực. Chức năng thế giới quan của tôn giáo dẫn dắt các tín đồ theo một
triết lý sống không hành động, không đấu tranh trong thực tại, lấy tu dưỡng tâm tính
làm điều cốt yếu để mau chóng được giải thoát ở bên ngoài thực tại, nơi Thiên đường
của Chúa hay Niết bàn của Phật. Theo cách nhìn của tôn giáo, cuộc đời là nơi đầy
những cám dỗ, lành ít, dữ nhiều, đầy những cạm bẫy, những cái ác, những sự ô uế, vẩn
đục làm vấy bẩn linh hồn. Muốn sớm được đến gần Chúa và trở về nơi Chúa, các cin
chiên phải tránh xa quỷ dữ.
Muốn chứng được Niết bàn (đạt đến giải thoát), các tín đồ Phật tử phải từ bỏ
mọi ham muốn dục vọng, diệt trừ tham, sân, si. Tất cả những quan niệm, những triết lý
sống đó cho thấy mặt tiêu cực của thế giới quan tôn giáo.
Hạnh phúc trong đạo đức tôn giáo là hạnh phúc hư ảo. Tôn giáo không đề cao
cuộc sống trần gian. Mặt khác, nó khuyên con người nhẫn nhục trước tình cành nô lệ,
biết sợ hãi trước sức mạnh siêu nhiên. Chính vì vậy, tôn giáo trở thành công cụ phục
vụ đắc lực cho lợi ích của giai cấp thống trị (dù rằng, lúc đầu tôn giáo không phải là
của giai cấp thống trị). Tôn giáo làm cho nhân dân đắm chìm vào đam mê, làm tê liệt ý
chí đấu tranh giai cấp. K. Marx gọi “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” theo nghĩa
đó và cũng vì vậy đạo đức tôn giáo đối lập với đạo đức chân chính.
Về mặt nào đó, đạo đức tôn giáo đã tạo cho con người thế giới quan và nhân
sinh quan sai lệch, làm hạn chế tính tích cực, chủ động và sáng tạo của con người. Đạo
đức tôn giáo hướng con người tới khát vọng hạnh phúc, song đó là thứ hạnh phúc hư
ảo, hão huyền. Tinh thần nhẫn nhục mà các tôn giáo đề ra thể hiện thái độ cực đoan,
thủ tiêu đấu tranh. Nó tạo cho các tín đồ thái độ bàng quan trước thế giới hiện thực,
bằng lòng với số phận không tích cực đấu tranh chống lại những cái xấu, cái ác, an ủi
và tu ngủ con người trong niềm tin rằng kẻ gây tộ ác sẽ phải chịu “quả báo” hoặc bị
trừng trị ở kiếp sau. Chính tâm lý đó đã ngăn cản con người đi đến hạnh phúc thực sự
của mình nơi trần thế.
Một số phần tử xấu lợi dụng hoặc cuồng tín việc bảo vệ tôn giáo để gây nhiều
chiến tranh, bất ổn làm ảnh hưởng đến hòa bình thế giới gây nhiều tệ nạn xã hội như
mê tín dị đoan, bói toán, chữa bệnh bằng phù phép, nhập hồn lên đồng lên cốt và một
số lý thuyết của tôn giáo cản trở nhận thức của con người cũng như khiến họ có nhận
thức sai lệch về một số vấn đề của tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Thêm nữa, đạo đức tôn giáo quá chú trọng đến việc hoàn thiện đạo đức cá nhân
nhưng lại bỏ quên các mỗi quan hệ xã hội của con người. Với tính cách một hình thái
ý thức xã hội, đạo đức cũng phản ánh tồn tại xã hội, cũng có quá trình phát sinh, phát
triển và biến đổi cùng với điều kiện sinh sống của con người. Do vậy, muốn hoàn thiện
đạo đức cá nhân, không thể tách nó khỏi những điều kiện sinh hoạt vật chất cùng các
quan hệ xã hội khác của con người.
K. Marx đã khẳng định rằng “bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã
hội” và nhân cách con người cũng chỉ có thể được hoàn thiện trong các mối quan hệ xã
hội mà thôi.
Như trên đã phân tích, đạo đức tôn giáo có nhiều điểm tích cực, phù hợp với xã
hội ta hiện nay. Song, cũng sẽ là không khoa học nếu chúng ta tuyệt đối hóa đạo đức
tôn giáo, thổi phồng vai trò của nó. F. Engels từng khẳng định rằng, ngay cả một số
yếu tố tiến bộ của đạo đức tôn giáo cũng chỉ giống với đạo đức mới của chúng ta về
mặt hình thức mà thôi. Vì vậy, mặc dù tôn giáo “là sự phản kháng chống lại sự nghèo
nàn của hiện thực” nhưng rốt cuộc nó vẫn chỉ là một sự phản kháng mang tính tiêu
cực, thụ động của con người mà thôi.
Có thể nói, trong điều kiện hiện nay, việc phân tích vai trò của đạo đức tôn giáo
để khẳng định một cách khách quan, khoa học những đóng góp, đồng thời chỉ ra
những ảnh hưởng tiêu cực của nó trong đời sống xã hội là điều cần thiết. Chúng ta hy
vọng rằng, những giá trị nhân văn, hướng thiện, những chuẩn mực đạo đức tiến bộ
trong tôn giáo sẽ góp phần làm phong phú hệ giá trị đạo đức của dân tộc và hữu ích
trong công cuộc xây dựng xã hội mới.
Tôn giáo làm cho con người bằng lòng với thực tế họ trở nên thụ động làm mất
tính sáng tạo của con người, tôn giáo dễ làm cho con người mê tín tâm lý sợ hãi chờ
đợi nhờ cậy vào Thần Thánh, Phật mỗi khi gặp khó khăn, tôn giáo dễ bị lợi dụng bởi
các thế lực khác điều đó thường dẫn đến những hậu quả xấu, ảnh hưởng đến xã hội.
2. Những giải pháp để giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
* Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề tôn giáo
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường đúng pháp
luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
Hai là, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân
tộc. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo
và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền
thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân.
Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lí do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời,
nghiên cứu lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái
pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc,
gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
Ba là, nội dung cốt lõi của công tác của tôn giáo là công tác vận động quần
chúng. Công tác vận động quần chúng các tôn giáo phải động viên đồng bào nêu cao
tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc, thông qua việc thực
hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất
và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào tôn giáo.
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Công tác tôn
giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, các lớp, các cấp, các ngành,
các địa bàn. Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do
Đảng lãnh đạo, nhưng trước hết và trực tiếp là trách nhiệm của bộ máy và độ ngũ cán
bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo. Công tác quản lý nhà nước đới với các tôn giáo
và đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ.
Năm là, theo đạo, truyền đạo và hoạt động tôn giáo phải tuân thủ đúng Hiến
pháp và pháp luật của Nhà nước. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình
và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức của tôn giáo được
Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được
hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và
giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo đúng quy định của
pháp luật. Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo hoạt
động mê tín dị đoạn, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ
chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các
quy định của Hiến pháp và pháp luật.
* Một số giải pháp cụ thể để giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam:
- Tăng cường đoàn kết tôn giáo
+ Nâng cao nhận thức tư tưởng về vấn đề đoàn kết tôn giáo trong tình hình
mới.
+ Bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
+ Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo và vai trò lãnh đạo
của Đảng, quản lý của Nhà nước về tôn giáo trong bối cảnh hiện nay.
+ Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các tôn giáo.
+ Thực hiện bình đẳng giữa các tôn giáo, giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng
bào không theo tôn giáo.
+ Kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực trong tôn giáo và đập tan
âm mưu lợi dụng tôn giáo để chóng phá cách mạng của lực lượng thù địch.
- Nhằm tăng cường công tác tôn giáo
+ Cần tiếp tục quan tâm việc tổ chức cho cán bộ, nhân dân nói chung, đồng bào
tôn giáo nói riêng học tập các quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với
tôn giáo. Các ngành, các cấp cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật trong vùng giáo, nhất là trong các chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ
tôn giáo.
+ Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ
thống chính trị và toàn xã hội đối với công tác tôn giáo.
+ Các ngành các cấp đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu
nước, ý thức bảo vệ độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, làm cho các tôn giáo gắn bó
với dân tộc, với quê hương đất nước, tăng cường sự đồng thuận với người có tín
ngưỡng, tôn giáo và những người không có tín ngưỡng, tôn giáo cũng như giữa những
người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.
+ Cần nhận thức một cách sâu sắc rằng nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo
là công tác vận động quần chúng, thông qua công tác vận động nhằm giúp đồng bào
các tôn giáo phát huy những ưu điểm, khắc phục tồn tại, giữ gìn và phát huy những
truyền thống văn hóa của dân tộc, tôn vinh những người có công với Tổ quốc, với
nhân dân đồng thời chủ động đấu tranh chống lại các hoạt động lợi dụng tự do tín
ngưỡng tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách
của Nhà nước, lợi dụng, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm
phạm an ninh quốc gia.
+ Quan tâm xây dựng tổ chức, bộ máy cán bộ làm công tác tôn giáo đủ mạnh,
tạo điều kiện về mọi mặt nhằm góp phần tham mưu ngày càng tốt hơn cho cấp ủy,
chính quyền giải quyết các vấn đề có liên quan đến tôn giáo theo đúng chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước.
+ Trong tình hình hiện nay, bộ máy tham mưu, giúp việc về công tác tôn giáo ở
tỉnh ta, nhất là cấp cơ sở chưa được quan tâm đúng mức vì vậy chưa đáp ứng được yêu
cầu tham mưu cho cấp ủy, chính quyền giải quyết các vấn đề nảy sinh từ cơ sở. Vì vậy,
trong thời gian tới cần phải tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo
của cấp ủy, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể quần chúng tạo sự thống nhất và có
tính “liên hoàn” cao nhằm phát huy sức mạnh và hiệu quả công tác tôn giáo trong tình
hình mới.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền Luật tín ngưỡng, tôn giáo
+ Cấp ủy, chính quyền các cấp cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên
truyền phổ biến Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
+ Tăng cường bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền phổ biến Luật tín ngưỡng, tôn giáo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
+ Lựa chọn nội dung, đổi mới phương pháp, hình thức tuyên truyền, phổ biến
Luật tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với từng địa bàn, đối tượng.
+ Phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức, lực lượng trong tuyên truyền, phổ biến
Luật tín ngưỡng, tôn giáo, tạo sức mạnh tổng hợp trong thực hiện.
KẾT LUẬN
Vấn đề tôn giáo trên thế giớ hiện nay đang là một vấn đề nóng, không chỉ riêng
đối với Chủ nghĩa xã hội. Chính vì thế việc giải quyết các vấn đề tôn giáo cần phải
được đặt ra như là một vấn đề cấp thiết, đòi hỏi phải có những phương pháp giải quyết
đúng đắn. Cho nên bài tiểu luận đưa ra những lí luận đúng đắn của chủ nghĩa Mác –
Lênin về vấn đề tôn giáo để giúp ta thấy rõ được mặt tích cực và tiêu cực của tôn giáo
ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, thấy được ý nghĩa to lớn của lý luận này và đưa ra các
giải pháp thích hợp cho vấn đề tôn giáo mà không đụng chạm đến tín ngưỡng của mỗi
cá nhân. Góp phần phát triển tôn giáo một cách toàn diện mà không ảnh hưởng đến
vấn đề chính trị của quốc gia. Nhằm tạo ra một cộng đồng tôn giáo lành mạnh có
những đóng góp tích cực cho sự phát triển của đất nước. Vì vậy chúng ta cần phải
đoàn kết trong mọi tôn giáo cũng như tôn trọng lẫn nhau trong tôn giáo và mỗi tôn
giáo chúng ta cần phải phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực để tôn giáo ngày
càng đi lên phát triển tạo một bước ngoặt mới.
Với không gian nhỏ hẹp của một đề tài tiểu luận, em đã cố gắng chỉ ra những
nét chung nhất về vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng xã hội chủ nghĩa đồng thời
cho thấy được ý nghĩa của lý luận và đưa ra các phương hướng, biện pháp giải quyết
các vấn đề này. Tuy đã cố gắng tìm tòi nghiên cứu, song chắc chắn tiểu luận còn rất
nhiều thiếu sót, em rất mong được giáo viên hướng dẫn chỉ bảo thêm. Em xin cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin,
Nxb. Chính trị quốc gia, 2009, 2010.
[2]. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, 2007.
[3]. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, 2007.
[4]. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb. Chính trị quốc gia, 2007.
[5]. Mác – Angghen Toàn tập; V.I.Lênin Toàn tập.
[6]. Giáo trình tôn giáo học đại cương (Hoàng Ngọc Vĩnh).
[7]. Tạp chí Báo Mới (Bài viết của Trần Minh Thư về quan điểm của Đảng ta về tôn giáo).
[8]. Tài liệu tiểu luận của kênh 123.doc
[9]. Tạp chí cộng sản (Bài viết về công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay của Từ Thanh)
[10]. Tạp chí Mặt trận (Bài viết về Nhìn lại quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề tôn giáo của
Lê Tấn Minh