HC VIN CHNH TR - HNH CHNH QUC GIA H CH MINH
Lấ ANH TUN
TíN DụNG đối với KINH Tế Hộ
TạI CHI NHáNH NGÂN HàNG NÔNG NGHIệP Và
PHáT TRIểN NÔNG THÔN HUYệN THĂNG BìNH,
TỉNH QUảNG NAM
Chuyờn ngnh: Qun lý kinh t
Mó s
: 60 34 01
LUN VN THC S KINH DOANH V QUN Lí
Ngi hng dn khoa hc: PGS, TS PHM HO
H NI - 2011
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi, các số liệu, kết quả nêu trong luận văn
là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Lê Anh Tuấn
MỤC LỤC
Trang
1
MỞ ĐẦU
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI
VỚI KINH TẾ HỘ
1.1. Một số vấn đề cơ bản về tín dụng
1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với kinh tế hộ
1.3. Mục tiêu, nguyên tắc, cơ chế quản lý, xu hướng phát triển của tín
dụng đối với kinh tế hộ
6
6
22
29
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI KINH TẾ
HỘ TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN THĂNG BÌNH, TỈNH
QUẢNG NAM
2.1. Khái quát về kinh tế hộ trên địa bàn huyện Thăng Bình, tỉnh
Quảng Nam
2.2. Tình hình hoạt động tín dụng đối với kinh tế hộ tại Chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thăng
Bình, tỉnh Quảng Nam
2.3. Đánh giá chung về hoạt động tín dụng đối với kinh tế hộ tại Chi
nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện
Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
35
35
47
71
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH
HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI KINH TẾ HỘ TẠI CHI
NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔN HUYỆN THĂNG BÌNH, TỈNH QUẢNG NAM
TỪ NAY ĐẾN
84
84
3.1. Phương hướng
3.2. Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động tín dụng đối với kinh tế hộ
tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Ninh
3.3. Một số kiến nghị
87
111
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
114
117
CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNH,HĐH
CP
DNTN
DNVVN
HSX
NHNN
NHTM
NQH
SXKD
TCKT
TCTD
TNHH
UBND
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Cổ phần
Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hộ sản xuất
Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Thương mại
Nợ quá hạn
Sản xuất kinh doanh
Tổ chức kinh tế
Tổ chức tín dụng
Trách nhiệm hữu hạn
Uỷ ban nhân dân
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1
Bảng 2.2
Tài nguyên đất của huyện Thăng Bình năm 2009
Tình hình huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông
Trang
43
nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình từ năm
Bảng 2.3
2005-2009
Tình hình cho vay tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp
49
và Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng
Bảng 2.4
Nam từ năm 2005-2009
Dư nợ cho vay phân theo ngành kinh tế tại Chi nhánh Ngân
54
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thăng
Bảng 2.5
Bình, tỉnh Quảng Nam từ năm 2005-2009
Dư nợ cho vay phân theo thành phần kinh tế tại Chi nhánh
56
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện
Bảng 2.6
Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam từ năm 2005-2009
Dư nợ hộ sản xuất phân theo ngành nghề tại Chi nhánh
57
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện
Bảng 2.7
Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam từ năm 2005-2009
Dư nợ cho vay hộ sản xuất phân theo kỳ hạn tại Chi nhánh
59
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện
Bảng 2.8
Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam từ năm 2005-2009
Tình hình cho vay hộ sản xuất giai đoạn 2005-2009 tại Chi
61
nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
Bảng 2.9 Kết quả sản xuất của huyện Thăng Bình từ 2005-2009
Bảng 2.10 Nợ quá hạn của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn huyện Thăng Bình từ năm 2005-2009
DANH MỤC HÌNH VẼ
64
67
68
Trang
13
14
15
17
Hình 1.1
Hình 1.2
Hình 1.3
Hình 1.4
Hình 2.1
Hình thức cho vay trực tiếp có sự tham gia của bên cung ứng
Hình thức cho vay trực tiếp có sự tham gia của bên bao tiêu
Mô hình quan hệ tín dụng theo Tổ hợp tác vay vốn
Mô hình cho vay theo tổ vay vốn
Sơ đồ tổ chức của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và
Hình 2.2
Hình 2.3
Hình 2.4
Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình
Sơ đồ tăng trưởng huy động vốn từ năm 2005-2009
Sơ đồ tăng trưởng dư nợ từ năm 2005-2009
Sơ đồ tăng trưởng dư nợ ngắn hạn và dư nợ trung dài hạn từ
40
50
55
năm 2005-2009
62
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng ta (tháng 12 năm 1986)
khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước, chuyển nền kinh tế từ cơ chế quản lý
tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Theo đó, các thành phần kinh tế, trong đó
có kinh tế cá thể, hộ sản xuất… được khuyến khích phát triển, được tiếp cận
vốn vay ngân hàng và được bình đẳng trước pháp luật. Với chủ trương “Phát
triển rộng rãi các tổ chức tín dụng tập thể trong nhân dân, ngăn chặn nạn tư
nhân cho vay nặng lãi” tín dụng đối với kinh tế hộ trên các lĩnh vực sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp được khôi phục và phát triển, ngày càng có vai trò đặc
biệt quan trọng, là một trong những đòn bẩy để tích tụ và tập trung vốn nhằm
đầu tư phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển Nông nghiệp, Nông
thôn nói riêng.
Cũng như các địa phương khác trong cả nước, trong những năm qua
kinh tế hộ Nông nghiệp ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam đã nhận được
nguồn vốn tín dụng từ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trên
địa bàn. Nhờ đó, kinh tế hộ có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, đa dạng
hóa ngành nghề, nâng cao năng suất, sản lượng cây trồng, con vật nuôi, cung
cấp ngày càng nhiều sản phẩm hàng hóa cho xã hội, thu nhập của người lao
động ngày càng tăng, đời sống ngày càng được cải thiện, nâng cao. Thực tế
cho thấy, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam luôn
đồng hành cùng nông dân, với dư nợ cho vay đáp ứng trên 85% hộ vay vốn
sản xuất, kinh doanh, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế,
xóa đói, giảm nghèo của nhân dân.
Song, bên cạnh đóng góp tích cực của ngành ngân hàng cũng đặt ra
những yêu cầu mới về nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng. Việc cho vay
đối với hộ sản xuất không chỉ thông thoáng, thuận lợi, mà còn phải chặt chẽ,
2
đảm bảo hiệu quả và an toàn vốn. Nếu không, chính những khoản tín dụng
này sẽ tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao cho nền kinh tế của đất nước. Đặc biệt, đối
với những hộ sản xuất, kinh doanh có số tiền vay lớn lên đến hàng trăm triệu
đồng mà không cần thế chấp.
Là một mắt xích ở cơ sở trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Việt Nam, trong những năm qua Chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam đã thực hiện
tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, định hướng kinh doanh
của ngành trong việc đầu tư tín dụng có hiệu quả cho kinh tế hộ hoạt động sản
xuất, kinh doanh trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, tạo thêm việc làm, cải
thiện đời sống hộ nông dân, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế
- xã hội, tăng tích lũy, giữ vững ổn định chính trị của địa phương.
Tuy nhiên, sự tăng trưởng và kết quả đạt được trên lĩnh vực đầu tư vốn
tín dụng cho kinh tế hộ thời gian qua chưa được như mong muốn, chưa tương
xứng với khả năng và tiềm lực của ngành, sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước. Đối với hoạt động tín dụng kinh tế hộ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình mặc dù đã có nhiều cố
gắng, song cũng còn nhiều bất cập, như hoạt động tín dụng còn tiềm ẩn những
yếu tố không vững chắc, dư nợ tín dụng đối với các thành phần kinh tế, hiệu
quả đầu tư còn thấp và chưa bền vững, chưa tạo được động lực mạnh mẽ để
mở rộng hoạt động và nâng cao khả năng cạnh tranh… với lý do trên, tôi chọn
đề tài “Tín dụng đối với kinh tế hộ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp, nhằm góp phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao hiệu
quả hoạt động tín dụng kinh tế hộ tại địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài đã có một số công trình nghiên cứu:
- Những giải pháp quản lý cho vay vốn để phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam của Th.s Võ Văn Lâm, Tạp
chí Sinh hoạt lý luận, số 2 năm 2000.
3
- Một số giải pháp đầu tư tín dụng góp phần thực hiện chương trình
xóa đói, giảm nghèo ở nước ta hiện nay của Th.s Huỳnh Ngọc Thành, Tạp chí
Sinh hoạt lý luận, số 2 năm 2000.
- Tăng cường đầu tư vốn tín dụng trung và dài hạn - giải pháp quan trọng
thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của Phạm Thị Khanh, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 4 năm 2000.
- Một số giải pháp về tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc
dân ở nước ta giai đoạn 2001 - 2010 của Th.s Võ Văn Lâm, Tạp chí Sinh hoạt
lý luận, số 5 năm 2001.
- Sự cần thiết khách quan phải sử dụng có hiệu quả vốn vay tín dụng
ngân hàng đối với hộ nghèo của PGS, TS Phạm Hảo, Kỷ yếu đề tài khoa học
cấp Bộ năm 2010.
Các công trình nghiên cứu đã đề cập một số vấn đề cơ bản về tín dụng
ngân hàng và những giải pháp quản lý, cho vay vốn để phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn góp phần thực hiện các chương trình xóa đói, giảm nghèo ở
nước ta hiện nay. Nhưng chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu một
cách có hệ thống tín dụng đối với kinh tế hộ ở một địa phương. Do đó, việc
chọn đề tài “Tín dụng đối với kinh tế hộ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam” để
nghiên cứu sẽ góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn và một số giải
pháp của tín dụng đối với kinh tế hộ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn trong thời gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận văn góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận, phân tích thực trạng
hoạt động tín dụng đối với kinh tế hộ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam trong thời gian
qua, từ đó đề xuất các giải pháp đẩy mạnh hoạt động tín dụng đối với kinh tế
4
hộ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện
Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
3.2. Nhiệm vụ
+ Làm rõ cơ sở lý luận của tín dụng đối với kinh tế hộ, quan điểm của
Đảng, chính sách của Nhà nước về tín dụng đối với kinh tế hộ.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng tín dụng đối với kinh tế hộ, kết quả và
hiệu quả tín dụng đối với kinh tế hộ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
+ Đề xuất các giải pháp đẩy mạnh hoạt động tín dụng đối với kinh tế hộ
tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thăng
Bình, tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng tín dụng đối với kinh tế hộ tại Chi
nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình, tỉnh
Quảng Nam; cơ chế, chính sách của Nhà nước về tín dụng đối với kinh tế hộ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thực tiễn công tác tổ chức, hoạt động tín dụng đối với kinh tế hộ trên
địa bàn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Thời gian thu thập số liệu và
khảo sát tình hình thực tiễn từ năm 2005 đến năm 2009.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn chủ yếu dựa vào các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các qui
định, các văn bản hướng dẫn và các báo của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam; kế thừa các kết quả của các công trình nghiên cứu
có liên quan đến nội dung mà luận văn đề cập.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích và nội dung đề ra, luận văn thực hiện các
phương pháp sau: Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp; phương pháp toán…
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Về mặt lý luận
Luận văn làm rõ cơ sở lý luận của tín dụng ngân hàng cũng như vai trò
của nó đối với phát triển kinh tế hộ trong nông nghiệp và nông thôn hiện nay.
6.2. Về mặt thực tiễn
Trên cơ sở đánh giá thực trạng tình hình hoạt động tín dụng đối với
kinh tế hộ thời gian qua, chỉ ra những hạn chế, bất cập trong hoạt động tín
dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện
Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, từ đó đề xuất các giải pháp đẩy mạnh hoạt
động tín dụng đối với kinh tế hộ nhằm đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, nông
thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương, 9 tiết.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
ĐỐI VỚI KINH TẾ HỘ
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG
1.1.1. Khái niệm tín dụng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế của nền kinh tế hàng hóa, nó phản
ảnh quan hệ kinh tế giữa người sở hữu và người sử dụng các nguồn vốn tiền
tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để thực hiện các kế hoạch sản xuất, kinh
doanh theo nguyên tắc hoàn trả vốn và kèm theo lợi tức khi đến hạn. Có nhiều
hình thức tín dụng, nhưng trong điều kiện hiện nay ở nước ta, tín dụng ngân
hàng là hình thức phổ biến và được áp dụng rộng rãi.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín
dụng khác với các doanh nghiệp và cá nhân, nó là một nghiệp vụ kinh doanh
tiền tệ của ngân hàng được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả vốn và có lãi.
Đây cũng là hình thức tín dụng kinh tế hộ, là khoản cho vay của ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn đối với hộ nông dân trên từng địa bàn để
phát triển sản xuất, kinh doanh, xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, tăng
thu nhập, cải thiện đời sống của người lao động.
Khó có thể đưa ra một định nghĩa rõ ràng về tín dụng. Vì vậy, tuỳ theo
góc độ nghiên cứu mà chúng ta có thể xác định nội dung của thuật ngữ này.
Danh từ tín dụng xuất phát từ gốc Latinh Credit có nghĩa là một sự tín
nhiệm lẫn nhau, hay nói cách khác đó là lòng tin. Trong thực tế cuộc sống
thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau; ngay cả trong quan
hệ tài chính, tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội
dung riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiểu theo các nghĩa sau:
- Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm
sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển
dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
7
- Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một quan hệ giao dịch
về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Như một công ty công
nghiệp hoặc thương mại bán hàng trả chậm cho một công ty khác, trong
trường hợp này người bán chuyển giao hàng hoá cho bên mua và sau một thời
gian nhất định theo thoả thuận bên mua phải trả tiền cho bên bán. Phổ biến
hơn cả là giao dịch giữa ngân hàng và các định chế tài chính khác với các
doanh nghiệp và cá nhân thể hiện dưới hình thức cho vay, tức là ngân hàng
cấp tiền cho bên đi vay và sau một thời hạn nhất định người đi vay phải thanh
toán cả gốc lẫn lãi.
- Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài
chính cung cấp cho khách hàng [5, tr.18].
Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam thì tín dụng là quan hệ vay mượn
lẫn nhau trên cơ sở có hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
Như vậy, tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi
vay thông qua sự vận động của giá trị, vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình
thức tiền tệ hoặc hàng hoá. Quá trình đó được thể hiện qua 3 giai đoạn sau:
- Thứ nhất, phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay. Ở giai đoạn này,
giá trị vốn tín dụng được chuyển sang người đi vay, ở đây chỉ có một bên
nhận được giá trị, và cũng chỉ một bên nhượng đi giá trị.
- Thứ hai, sử dụng vốn tín dụng trong quá trình tái sản xuất. Người đi
vay sau khi nhận được giá trị vốn tín dụng, họ được quyền sử dụng giá trị đó
để thoả mãn nhu cầu đầu tư sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng của mình.
Tuy nhiên, người đi vay chỉ được sử dụng trong một khoảng thời gian nhất
định mà không được quyền sở hữu về giá trị đó.
- Thứ ba, đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng,
sau khi vốn tín dụng đã hoàn thành một chu kỳ sản xuất để trở về hình thái
tiền tệ thì vốn tín dụng được người đi vay hoàn trả lại người cho vay.
Nhà kinh tế Pháp, ông Louis Baudin đã định nghĩa tín dụng như là
“một sự trao đổi tài hoá hiện tại lấy một tài hoá tương lai”.
8
Từ những phân tích trên, luận văn rút ra định nghĩa: Thực chất tín dụng
là một quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có mối
quan hệ với nhau thông qua sự vận động của giá trị. Vốn tín dụng được biểu
hiện dưới hình thức tiền tệ và hàng hoá từ người cho vay chuyển sang người
đi vay và sau một thời gian nhất định quay về với người cho vay với lượng
giá trị lớn hơn ban đầu.
1.1.2. Tín dụng đối với kinh tế hộ
Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, gia đình có vai trò quan
trọng, vì nó không chỉ là tế bào của xã hội, mà còn là đơn vị sản xuất và một
đơn vị hay một chủ thể tiêu dùng rất cơ bản với những nhu cầu rất đa dạng,
phong phú để đảm bảo cuộc sống cho tất cả các thành viên trong gia đình.
Nhưng trước xu thế quốc tế hóa nền kinh tế đang diễn ra nhanh chóng
hiện nay, phải nhận rõ những khó khăn trong việc phát triển mô hình kinh tế
hộ gia đình, nhất là trong nông nghiệp, nông thôn.
- Tính đặc thù của kinh tế hộ
+ Kinh tế hộ sử dụng lao động, đất đai của từng hộ gia đình.
+ Quy mô sản xuất nhỏ lẻ.
+ Mối liên kết của kinh tế hộ thiếu chặt chẽ.
Kinh tế hộ là đơn vị kinh tế cơ bản của nền nông nghiệp và hơn thế nữa
nó còn là hình thức tổ chức sản xuất phù hợp với đặc điểm của nông nghiệp,
bởi nó có những đặc trưng sau đây:
* Kinh tế hộ có sự gắn bó chặt chẽ giữa quan hệ sở hữu, quan hệ quản
lý và quan hệ phân phối.
* Các thành viên của kinh tế hộ đều là người trong một gia đình, có
chung lợi ích, làm chung, ăn chung, cùng chia sẻ thuận lợi, khó khăn, thành
công hay rủi ro trong cuộc sống và trong lao động sản xuất. Chính vì vậy, ý
thức trách nhiệm của mỗi thành viên trong quá trình lao động sản xuất rất cao
và tự giác; họ có ý thức của người chủ đối với ruộng đất, với cây trồng, vật
nuôi, với kết quả của quá trình sản xuất. Xét về sự phù hợp với đặc thù sinh
9
học của sản xuất nông nghiệp thì kinh tế hộ là đơn vị kinh tế cơ bản phù hợp
nhất, khó có hình thức kinh tế nào có thể thay thế tốt hơn được.
* Kinh tế hộ có khả năng tự điều chỉnh rất cao, do có sự thống nhất về
lợi ích trong gia đình nên việc điều chỉnh giữa tích luỹ và tiêu dùng được thực
hiện một cách linh hoạt, có khi dành cả một phần sản phẩm tất yếu để đầu tư
và mở rộng sản xuất. Tính linh hoạt này làm cho kinh tế hộ có khả năng thích
ứng với sự thay đổi đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất. Trong cơ chế thị
trường, gặp điều kiện thuận lợi, hộ có khả năng mở rộng sản xuất để có nhiều
nông sản hàng hoá và khi các điều kiện không thuận lợi, sản xuất gặp khó
khăn, hộ có thể điều chỉnh cho phù hợp hoặc chuyển một phần sản phẩm tất
yếu thành sản phẩm thặng dư, có thể lấy công làm lãi để bảo toàn vốn sản
xuất, mặc dù có thể giảm tối đa nhu cầu tiêu dùng.
Mặt khác, kinh tế hộ có quy mô sản xuất tương đối nhỏ, phù hợp với khả
năng lao động và quản lý của gia đình, vì vậy nó là một đơn vị sản xuất gọn
nhẹ, linh hoạt, thích ứng với sản xuất nông nghiệp trong cơ chế thị trường.
Đối với kinh tế hộ, có thể dễ dàng điều chỉnh cơ cấu sản xuất, cải tiến kỹ
thuật, sản xuất theo nhu cầu của thị trường hơn là những đơn vị kinh tế có quy
mô lớn như các nông trường, các xí nghiệp nông nghiệp, lâm trường… kinh tế
hộ có khả năng tận dụng thời gian nông nhàn để tham gia vào các hoạt động
sản xuất phi nông nghiệp để tăng thêm thu nhập.Vì vậy, nhìn chung tính hiệu
quả của kinh tế hộ là tương đối cao, nó quy định sự tồn tại khách quan, lâu dài
của hình thức kinh tế nông hộ trong sản xuất nông nghiệp, nhất là nền nông
nghiệp sản xuất nhỏ, còn mang năng tính tự cung tự cấp, sản xuất hàng hoá
chậm phát triển.
Là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ nhưng nó không hoạt động một cách
riêng biệt, không phải chỉ là kinh tế cá thể, mà nó có khả năng tồn tại với
nhiều hình thức sở hữu khác nhau, có thể là thành viên của các tổ chức hợp
tác hay liên kết với các tổ chức kinh tế nhà nước để làm tăng năng lực sản
xuất kinh doanh của mình.
10
Sản xuất của nông hộ luôn gắn liền với quy mô và đặc điểm môi trường
sinh thái, đặc biệt là khí hậu, thổ nhưỡng, địa hình, thuỷ văn. Kinh tế hộ chưa
thể khắc phục được những bất lợi của thiên nhiên đem đến cho mình. Do vậy,
kết quả sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ thường hay gặp rủi ro. Sản phẩm
tạo ra có thời hạn sử dụng ngắn, chủ yếu mang tính chất tươi sống, cho nên
trong sản xuất nông nghiệp phải gắn liền với chế độ bảo quản, vận chuyển, chế
biến thích hợp và phải có thị trường tiêu thụ để giải quyết đầu ra cho sản phẩm,
nhất là đối với những sản phẩm hàng hoá có khối lượng lớn, có giá trị kinh tế
cao. Ngoài ra, còn có một số đặc thù khác như kinh tế hộ vừa là đơn vị sản
xuất, vừa là một đơn vị tiêu dùng, kinh tế hộ là đơn vị tự nhiên, tự tạo nguồn
lao động… Do những đặc trưng như vậy mà nông hộ từ xa xưa cho đến nay, ở
tất cả các nước luôn là đơn vị kinh tế cơ bản của nền sản xuất nông nghiệp.
Từ một số đặc trưng nêu trên, cho thấy kinh tế hộ là một đơn vị kinh tế
tự chủ, là một bộ phận hợp thành nền kinh tế nhiều thành phần, trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Vì vậy, hộ
được giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài để sản xuất kinh doanh, có cơ cấu
sản xuất đa dạng, quy mô sản xuất phù hợp với nhiều ngành nghề dựa trên cơ
sở lao động, vốn của gia đình. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các hộ
thường có nhu cầu quan hệ hợp tác với nhau và với các thành phần kinh tế
khác nhằm làm tăng thêm năng lực cho mình.
- Tín dụng đối với kinh tế hộ
Tín dụng đối với kinh tế hộ là số vốn của ngân hàng cho hộ nông dân
vay để phát triển sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống, xóa
đói, giảm nghèo. Tín dụng đối với kinh tế hộ chủ yếu trong lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để duy trì quá trình sản xuất được
liên tục, đòi hỏi vốn của người sản xuất phải đảm bảo cho các giai đoạn như
sản xuất, dự trữ và lưu thông. Do vậy, hiện tượng thừa, thiếu vốn tạm thời
luôn xảy ra đối với kinh tế hộ. Vì vậy, tín dụng ngân hàng đã góp phần điều
tiết các nguồn vốn, tạo đều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh của kinh tế
11
hộ không bị gián đoạn. Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng ngân hàng là
một trong những nguồn vốn hình thành vốn lưu động và vốn cố định của
doanh nghiệp. Từ nguồn vốn này, ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ cho vay
theo yêu cầu của kinh tế hộ nhằm bổ sung cho nguồn vốn tự có để thoả mãng
nhu cầu sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ trong từng thời gian nhất định,
nhất là vào thời vụ sản xuất nông nghiệp, người nông dân rất cần vốn để mua
sắm tư liệu sản xuất, mua vật tư, giống cây trồng, vật nuôi và chi trả các dịch
vụ có liên quan đến quá trình sản xuất, kinh doanh. Do đó, tín dụng đối với
kinh tế hộ đã góp phần quan trọng giúp cho kinh tế hộ giải quyết những khó
khăn về vốn mà bản thân họ không thể đáp ứng được.
1.1.3. Đặc điểm của tín dụng đối với kinh tế hộ
Khu vực nông nghiệp, nông thôn có nhiều đặc điểm về sản xuất, đời
sống rất đặc trưng, khác biệt với các khu vực sản xuất công nghiệp và thành
thị. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tín dụng và hình thành
nên các đặc trưng của tín dụng ngân hàng trong khu vực này. Đó là:
- Về thị trường
Thứ nhất, khu vực nông nghiệp, nông thôn ở nước ta có thị trường rất
rộng lớn, chiếm trên 80% dân số và gần 70% lao động của cả nước. Với số
lượng lao động đông nhưng thu nhập của lao động ở khu vực này lại thấp hơn
các khu vực khác, nên mức tích luỹ của người nông dân rất hạn chế, thậm chí
nhiều hộ gia đình sau mỗi vụ thu hoạch thu không đủ chi, rất khó khăn trong
sản xuất và đời sống. Từ thực tế đó cho thấy, trong xã hội nhu cầu tín dụng
của khu vực này có ý nghĩa quan trọng nhằm phục vụ cho 2 mục đích: tiêu
dùng và đầu tư phát triển sản xuất. Thực tế cho thấy, các khoản vay để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng khẩn cấp hầu hết là “vay nóng” trên thị trường phi
chính thức của những người cho vay năng lãi với lãi suất cao ở mức “cắt cổ”.
Các nhu cầu khác sẽ có thể được đáp ứng bởi tín dụng ngân hàng, chính vì
vậy có thể khẳng định thị trường tín dụng của khu vực này là rất rộng lớn. Do
đó, các ngân hàng có cơ sở để thâm nhập và phát triển thị trường này.
12
Thứ hai, khách hàng trong khu vực nông nghiệp, nông thôn phân bố
khá phân tán, mật độ khách hàng theo lãnh thổ không cao. Chính vì vậy, các
ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn về phân bố các chi nhánh nếu muốn tiếp cận
thị trường đầy tiềm năng này. Điều này đòi hỏi mức đầu tư ban đầu về cơ sở
vật chất, trụ sở, đội ngũ cán bộ nhân viên rất lớn mà không phải mọi ngân
hàng đều có khả năng và sẵn sàng đầu tư phát triển các chi nhánh ở mọi nơi,
mọi lúc..
Thứ ba, đa phần khách hàng thuộc khu vực nông nghiệp, nông thôn có
trình độ học vấn không cao và đang quen với nếp sinh hoạt khép kín của
người tiểu nông, làm ăn nhỏ lẻ. Nhiều người trong số họ có tâm lý không
muốn tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là tín dụng do e ngại rằng
ngân hàng không khác gì những người cho vay nặng lãi. Một số khác lại suy
nghĩ tín dụng ngân hàng như là một mức trợ cấp, cho không của Chính phủ.
Những yếu tố tâm lý này ảnh hưởng rất nhiều đến các phương thức triển khai
và các hình thức sản phẩm tín dụng của ngân hàng.
- Về mức độ rủi ro
Thứ nhất, sản xuất nông nghiệp chịu sự chi phối của nhiều yếu tố bất
khả kháng như mùa vụ, thiên tai. Mặc dù khoa học kỹ thuật ngày càng tiến
bộ đã giúp cho bà con nông dân rất nhiều trong sản xuất nhằm dự báo và
phòng tránh những biến cố bất lợi phát sinh như hạn hán, bão lụt, dịch
bệnh… nhưng rủi ro trong sản xuất nông nghiệp vẫn rất cao và diễn ra trên
diện rộng. Cùng với tâm lý và trình độ còn hạn chế của bà con nông dân,
tín dụng ngân hàng trong khu vực nông nghiệp, nông thôn được đánh giá là
có mức độ rủi ro rất cao.
Thứ hai, tuy mức độ cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng trong thị
trường nông nghiệp, nông thôn không cao nhưng các hình thức tín dụng phi
chính thức, cho vay nặng lãi lại khá phát triển ở khu vực này. Việc thâm nhập
của các ngân hàng khác vào thị trường này tuy rất khó nhưng để rút lui khỏi
thị trường cũng không phải là dễ.
13
- Về qui mô và chất lượng của các khoản tiền vay, tiền gửi
Các khoản tín dụng thuộc khu vực nông nghiệp, nông thôn khá phân tán
và nhỏ lẻ. Thực tế cho thấy, đối tượng khách hàng chủ yếu của ngân hàng ở khu
vực này là kinh tế hộ. Với kiểu sản xuất đa số là nhỏ lẻ như hiện nay, người nông
dân chỉ có khả năng tích luỹ những khoản tiết kiệm nhỏ để gửi ngân hàng.
Những người khác có nhu cầu vay vốn để sản xuất thì qui mô dự án cũng không
lớn, qui mô của vốn vay do đó cũng bé vì người vay chỉ cần và chỉ có khả năng
sử dụng từng ấy tiền. Chính vì vậy, mặc dù số lượng khách hàng rất lớn nhưng
các món vay và các món tiền gửi lại rất nhỏ. Trong khi đó ngân hàng phải triển
khai một mạng lưới chi nhánh kèm theo các chi phí hoạt động khác ở các đị bàn.
Điều này dẫn đến chi phí hoạt động của ngân hàng ở khu vực nông thôn thường
cao hơn so với thành thị. Chi phí tín dụng cao lại ảnh hưởng trực tiếp đến người
vay vốn, bởi tỷ suất lợi nhuận bình quân của khu vực nông nghiệp, nông thôn
luôn thấp hơn khu vực công nghiệp và dịch vụ. Một khi hiệu quả sử dụng vốn
không cao, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi nợ.
- Tín dụng trực tiếp
Tín dụng trực tiếp là quan hệ tín dụng trong đó khách hàng có nhu cầu
về vốn giao dịch trực tiếp với ngân hàng để vay vốn và trả nợ.
Hình 1.1: Hình thức cho vay trực tiếp có sự tham gia của bên cung ứng
(4)
Ngân hàng
Khách hàng
(1)
(3)
(2)
Tổ chức cung ứng
(1) Thoả thuận tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng
(2) Cung cấp vật tư, hàng hoá
(3) Ngân hàng thanh toán tiền cho tổ chức cung ứng
(4) Trả nợ
14
Với thể thức cấp song phương, ngân hàng giải ngân thu nợ trực tiếp với
khách hàng vay. Với thể thức đa phương, hợp đồng tín dụng có nhiều bên
tham gia, trong đó bên thứ ba (ngoài ngân hàng và khách hàng vay) là những
tổ chức có trách nhiệm cung ứng vật tư, hàng hoá thuộc đối tượng vay và tiền
vay sẽ được ngân hàng giải ngân để thanh toán trực tiếp cho các tổ chức này,
hoặc bên thứ ba là các đơn vị bao tiêu mà họ có trách nhiệm thanh toán nợ
cho các ngân hàng nhân danh khách hàng đi vay.
Hình 1.2: Hình thức cho vay trực tiếp có sự tham gia của bên bao tiêu
(2)
Khách hàng
Ngân hàng
(1)
(4)
(3)
Tổ chức bao tiêu
(1) Thoả thuận cho vay
(2) Ngân hàng cấp tiền vay
(3) Khách hàng giao sản phẩm cho tổ chức bao tiêu
(4) Tổ chức bao tiêu trả nợ cho ngân hàng
Phương thức cho vay này còn tạo điều kiện cho ngân hàng giám sát chặt
chẽ việc sử dụng vốn vay. Thông thường ngân hàng áp dụng phương thức này
đối với các hộ vay trung và dài hạn để trồng cây công nghiệp dài ngày, cây ăn
quả, nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản ..., đối với các trang trại, hay các
doanh nghiệp tham gia sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp.
- Tín dụng bán trực tiếp
Từ những đặc điểm của kinh tế hộ như đã nêu ở phần trên cho thấy,
trong điều kiện nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, phụ thuộc nhiều vào thiên
nhiên thì ngân hàng cần phải đa dạng hoá các phương thức cho vay nhằm đáp
ứng kịp thời các nhu cầu vốn theo tính chất thời vụ của hộ sản xuất. Vì thế
15
việc tìm kiếm một phương thức tổ chức cho vay phù hợp là rất cần thiết. Trên
thế giới phương thức cho vay bán trực tiếp được áp dụng lần đầu tiên tại
Bangladesh và đến nay đã được mở rộng ở nhiều nước châu Á. Ở Việt Nam,
phương thức này thường được thực hiện dưới những tên gọi như cho vay theo
tổ liên danh, liên đới, tổ hợp tác vay vốn.
+ Cho vay theo tổ hợp tác vay vốn
Theo phương thức này, khoản từ 10-40 hộ nông dân lập thành 1 Tổ
hợp tác vay vốn. Để trở thành thành viên của tổ, các thành viên phải gần
gũi nhau ở một số mặt như cùng thôn xóm, cùng canh tác, nuôi trồng một
loại cây, con hoặc giống nhau về mục đích vay vốn. Tổ phải được thành lập
trên cơ sở tự nguyện của các thành viên và bình bầu tổ trưởng để đại diện
pháp lý trong giao dịch với ngân hàng. Trên cơ sở các qui định của ngân
hàng, mỗi hộ làm giấy đề nghị vay vốn, tổ tiến hành họp xét theo các điều
kiện và nhất trí kiến nghị số tiền được vay của từng hộ. Sau đó, tổ trưởng
gửi giấy đề nghị vay cho cả tổ tới ngân hàng cùng các giấy tờ khác có liên
quan. Tiếp đó, nhân viên cho vay sẽ tiến hành thẩm định hồ sơ, và thông
báo quyết định số tiền vay của từng hộ, cũng như cho cả tổ. Tổ trưởng là
người trực tiếp nhận tiền, theo dõi nợ vay và thu nợ để chuyển trả cho ngân
hàng. Có thể xem sơ đồ sau:
Hình 1.3: Mô hình quan hệ tín dụng theo Tổ hợp tác vay vốn
Người vay 1
Người vay 2
Tổ hợp tác
vay vốn
Tổ
trưởng
Ngân hàng
.......................
Người vay 40
Tín
Tính trực tiếp trong phương thức này thể hiện ở chỗ khách hàng thực
chất vẫn là những hộ nông dân của Tổ hợp tác. Ngân hàng thẩm định vay theo
16
từng nhu cầu và điều kiện của mỗi hộ và từng hộ phải chịu trách nhiệm trực
tiếp về hoàn trả số tiền được vay. Tính gián tiếp thể hiện ở chỗ ngân hàng
không trực tiếp làm việc với từng khách hàng - hộ mà thông qua người đại
diện là tổ trưởng tổ hợp tác, các thành viên trong tổ gián tiếp chịu trách nhiệm
về tính hợp lý của khoản vay và khả năng hoàn trả nợ của những thành viên
khác. Vì thế đây cũng là hình thức biến tướng của những phương thức tổ chức
cho vay trực tiếp.
+ Cho vay theo tổ liên danh, liên đới vay vốn
Về cách thức thành lập tổ liên danh, liên đới cũng tương tự như cách
thành lập Tổ hợp tác vay vốn. Tuy nhiên, theo kiểu tổ chức này mỗi thành
viên trong tổ phải trực tiếp chịu trách nhiệm trước việc hoàn trả nợ đúng hạn
của các thành viên còn lại trong tổ. Trong trường hợp các thành viên trong tổ
không trả nợ đúng hạn thì các thành viên khác phải chịu liên đới trách nhiệm.
Trong trường hợp chưa trả dứt nợ cũ ngân hàng sẽ không cho tổ vay món
mới. Phương thức này thường được áp dụng cho những món vay tương đối
lớn, thường là nhu cầu trung, dài hạn; đòi hỏi phải tập trung vốn như chương
trình cho vay tôn tạo và xây dựng nhà tại một số ngân hàng ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long.
- Tín dụng gián tiếp
Trong phương thức cho vay gián tiếp, ngân hàng cấp tín dụng cho tổ
chức sản xuất (hộ gia đình, trang trại) thông qua một tổ chức trung gian.
Những tổ chức trung gian này thường là các doanh nghiệp chuyên chế biến,
kinh doanh những mặt hàng nông sản hoặc các đơn vị cấp vật tư. Cụ thể:
Cho vay tổ chức trung gian để ứng vốn cho các hộ sản xuất
Các tổ chức trung gian trong trường hợp này là các công ty chế biến
nông sản, phương thức cho vay được thực hiện như sau: ngân hàng cho các
công ty trung gian vay, các công ty này ứng vốn cho các hộ sản xuất (HSX),
đến vụ thu hoạch các công ty trung gian mua sản phẩm của HSX, đồng thời
thu các khoản nợ đã ứng từ đầu vụ sản xuất.
17
Hình 1.4: Mô hình cho vay theo tổ vay vốn
Ngân hàng
(4)
(1)
Công ty chế biến nông
sản hoặc
công ty thương mại
(2)
Hộ nông dân
(3)
(1) Ngân hàng cho các công ty chế biến nông sản hoặc công ty thương
mại vay
(2) Công ty ứng vốn cho HSX
(3) Sau khi thu hoạch HSX trả nợ cho công ty
(4) Công ty trả nợ cho ngân hàng
1.1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tín
dụng đối với kinh tế hộ
1.1.4.1. Nhân tố khách quan
- Môi trường pháp lý
Đây là nền tảng và khuôn khổ để ngân hàng có thể triển khai hoạt động
tín dụng. Nếu hệ thống pháp lý đầy đủ và đồng bộ, ngân hàng sẽ dễ dàng triển
khai và phát triển các hoạt động. Ngược laị, với một hệ thống các văn bản
pháp quy rườm rà, không sát với thực tế và thiếu đồng bộ sẽ khó cho người đi
vay lẫn người cho vay, người nhận gửi lẫn người gửi tiền. Hệ thống pháp lý
liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng (TDNH) trong khu vực nông
nghiệp, nông thôn rất đa dạng và do nhiều chủ thể ban hành và điều chỉnh. Từ
luật hoạt động tín dụng đến các qui định về năng lực hành vi của luật dân sự,
từ các qui định về cây, con, được nuôi trồng, sản xuất đến định hướng ngành
nghề, quy hoạch phát triển của khu vực nông nghiệp, nông thôn. Các quy định
này nếu không có sự nhất quán và đồng bộ thì sẽ rất khó cho ngân hàng khi
18
muốn triển khai hoạt động tín dụng. Do đó, môi trường pháp lý càng chặt chẽ
và cụ thể sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng phát huy được tính chủ động của
mình trong kinh doanh, nhất là trong việc xử lý mối quan hệ giữa ngân hàng
với các doanh nghiệp và hộ sản xuất, các tổ hợp tác vay vốn.
- Môi trường tự nhiên. Đây là nhân tố gián tiếp ảnh hưởng đến hoạt
động tín dụng ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Việt Nam là nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thiên tai, dịch bệnh
thường xuyên xảy ra. Điều kiện khí hậu có ảnh hưởng rất lớn đến một số ngành,
đặc biệt là những ngành có liên quan đến nông nghiệp, thuỷ sản, hàng hải. Vì
thế, việc đầu tư của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
vào những ngành này có thể dẫn đến những rủi ro do môi trường tự nhiên gây ra,
làm ảnh hưởng xấu đến hiệu quả và kết quả hoạt động kinh doanh của ngân
hàng. Đương nhiên, môi trường tự nhiên ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh
của kinh tế hộ và ngân hàng có cả mặt tích cực và tiêu cực. Đất đai màu mỡ, thời
tiết khí hậu thuận lợi, mưa thuận gió hoà là điều kiện lý tưởng cho sản xuất nông
nghiệp để có những vụ mùa bội thu, cho năng suất và sản lượng cao, làm tăng
thu nhập cho kinh tế hộ, người nông dân có điều kiện trả nợ ngân hàng đúng
hạn. Ngược lại, đất đai cằn cỗi, lũ lụt, hạn hán thường xuyên xảy ra sẽ gây nhiều
khó khăn cho sản xuất nông nghiệp, mùa màng thất bát, nhiều hộ nông dân đứng
trước nguy cơ thiếu đói không có khả năng trả nợ vay ngân hàng. Điều này cũng
đồng nghĩa với việc hoạt động tín dụng ngân hàng gặp khó khăn, rủi ro cao. Do
đó, để giảm thiểu rủi ro trong cho vay tín dụng ngân hàng đối với kinh tế hộ,
ngoài việc nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức tín dụng, đòi hỏi phải
có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ và có trách nhiệm giữa các ngành, các tổ chức
có liên quan trong việc thực hiện các hợp đồng tín dụng sử dụng vốn vay vào
mục đích sản xuất, kinh doanh đối với từng vùng, từng địa phương và từng hộ
gia đình.
- Nhận thức của người dân về tín dụng ngân hàng
19
Thực chất tín dụng ngân hàng là khoản cho kinh tế hộ vay để phát triển
sản xuất theo nguyên tắc người đi vay phải trả hoàn trả cả gốc và lãi cho ngân
hàng. Nhưng trong thực tế, một số người dân nhận thức về khoản vay này
không đầy đủ nên không giám tiếp cận với các khoản tín dụng vì sợ lãi suất
cao hoặc coi khoản tín dụng ngân hàng như một khoản hỗ trợ không hoàn lại
dẫn đến việc sử dụng vốn không đúng mục đích, hiệu quả sản xuất kinh doanh
kém, vừa ảnh hưởng đến đời sống của kinh tế hộ, vừa ảnh hưởng đến hoạt
động của ngân hàng.
- Cơ chế, chính sách của Nhà nước và của ngành ngân hàng: Cơ chế,
chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến khu vực nông nghiệp,
nông thôn. Nó là động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, động viên,
khuyến khích người nông dân an tâm, phấn khởi sản xuất, đầu tư các nguồn
lực để tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá cho xã hội. Trong điều kiện hiện nay,
cơ chế, chính sách của Nhà nước và của ngành ngân hàng về hoạt động tín
dụng đối với kinh tế hộ là phải thông thoáng, tạo thuận lợi cho người dân
được tiếp cận với các nguồn vốn ở mọi lúc, mọi nơi. Có như vậy mới đáp ứng
được nhu cầu sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ, nhất là đối với những hộ có
năng lực và kinh nghiệm sản xuất nhưng thiếu vốn. Chính vì vậy, cơ chế,
chính sách có vai trò quan trọng đối với sản xuất kinh doanh nói chung, đối
với hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng.
1.1.4.2. Nhân tố chủ quan
Là một chủ thể trong mối quan hệ giao dịch với khách hàng, các yếu tố
nội tại của ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng đối với việc mở rộng
hoạt động tín dụng trong khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ chuyển đổi nên cơ chế và chính
sách cũng đang trong quá trình thay đổi và hoàn thiện. Chính sách tín dụng trong
thời gian qua có những đổi mới cơ bản theo cơ chế thị trường nên đã góp phần
quan trọng trong việc thực thi chính sách tín dụng của Đảng và Nhà nước, góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát có hiệu quả. Nó có ý