ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN
Thực trạng và giải pháp trong công tác dạy nghề
cho lao động nông thôn huyện Ngọc Lặc
giai đoạn 2018- 2023
Họ tên
Chức vụ
Đơn vị
Lớp
: Quách Văn Thọ
: Trưởng phòng Lao động TB&XH
: Ủy ban nhân dân huyện Ngọc Lặc
: CVC khóa 7
THANH HÓA, NĂM 2018
MỤC LỤC
A PHẦN MỞ ĐẦU
B PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Khái niệm về đào tạo nghề
1.2 Khái niệm về nông thôn
1.3 Khái niệm cơ bản về lao động
1.4 Vai trò của dạy nghề đối với vấn đề phát triển nguồn lao động
1.5 Đặc điểm của lao động nông thôn
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC DẠY NGHỀ CHO
LAO ĐỘNG NÔNG THÔN HUYỆN NGỌC LẶC
2.1 Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Ngọc Lặc
2.2 Khái quát và đánh giá chung về nguồn lao động huyện Ngọc Lặc
Thực trạng về công tác dạy nghề cho lao động nông thôn huyện Ngọc
2.3
Lặc
Kết quả về công tác dạy nghề cho lao động nông thôn huyện Ngọc
2.4
Lặc trong những năm qua
2.4.1 Công tác chỉ đạo điều hành
Hoạt động tuyên truyền; tư vấn học nghề và việc làm đối với lao động
2.4.2
nông thôn
Hoạt động điều tra khảo sát và dự báo nhu cầu dạy nghề cho lao động
2.4.3
nông thôn
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG
TÁC DẠY NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN HUYỆN NGỌC
LẶC
3.1 Nhóm giải pháp phát triển các hình thức dạy nghề
3.1.1 Hình thức dạy nghề dài hạn tập trung
3.1.2 Hình thức dạy nghề ngắn hạn tập trung tại các cơ sở dạy nghề
Phát triển hình thức tổ chức dạy nghề tại các doanh nghiệp trên địa
3.1.3
bàn huyện
3.1.4 Hình thức liên kết đào tạo
3.1.5 Đẩy mạnh hình thức tập huấn bồi dưỡng
Triển khai hình thức dạy nghề gắn với việc làm tại chỗ cho thanh niên
3.1.6
nông thôn
Triển khai hình thức dạy nghề gắn với giới thiệu việc làm và xuất
3.1.7
khẩu lao động
3.2 Những giải pháp phát triển cơ sở dạy nghề
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1
2
2
2
2
2
3
4
4
4
5
6
8
8
9
9
10
10
10
11
11
11
12
12
12
14
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Sau hơn 30 năm đổi mới, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã
đạt được những thành tựu toàn diện và to lớn. Tuy nhiên, những kết quả đạt
được đó vẫn chưa xứng với tiền năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng.
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở nước ta vẫn còn chứa đựng nhiều vấn đề
yếu kém. Một trong những vấn đề đó là nguồn nhân lực chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển. Số lao động không chỉ được qua đào tạo chiếm một tỷ lệ rất
thấp mà còn bất cập do chất lượng đào tạo kém.
Ngọc Lặc là một huyện có nguồn lao động dồi dào. Thực hiện các chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực nói
chung và lao động nông thôn nói riêng, Ngọc Lặc đã triển khai nhiều chương
trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn trong những năm qua và đã đạt
được một số thành quả nhất định. Tuy nhiên, trước yêu cầu của tình hình đổi
mới thì công tác đào tạo nghề của huyện Ngọc Lặc chưa đáp ứng kịp và nhiều
vấn đề còn tồn tại.
Cùng với chủ trương của tỉnh, Ngọc Lặc là một huyện đang trong quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển công nghiệp, dịch vụ,
hiện nay trên địa bàn huyện đang tập trung xúc tiến đầu tư để thu hút các
doanh nghiệp về đầu tư và sử dụng lao động tại chỗ nhằm tạo ra thị trường lao
động đa dạng, nhiều nghề mới được hình thành và phát triển, điều này đòi hỏi
cần một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn được đào tạo. Để chuyển
được một bộ phận lao động trong nông nghiệp, nông thôn sang các ngành nghề
khác, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho con người lao động ở nông
thôn là những đòi hỏi của thực tế đặt ra cho công tác dạy nghề. Có thể nói đào
tạo nguồn nhân lực nông thôn là một giải pháp tích cực và thật sự cần thiết vì
nó góp phần thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia.
Xuất phát từ tình hình thực tế đó, tôi chọn đề tài “ Thực trạng và giải
pháp trongcông tác dạy nghề cho lao động nông thôn huyện Ngọc Lặc giai
đoạn 2018- 2023” làm đề tài báo cáo Tiểu luận của mình. Để thấy rõ được
thực trạng trong công tác dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay trên địa
bàn huyện Ngọc Lặc và đề suất một số giải pháp chủ yếu trong công tác dạy
nghề cho lao động nông thôn huyện Ngọc Lặc.
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm về đào tạo nghề
Giáo dục đào tạo và dạy nghề là lĩnh vực quan trọng nhất trong sự
nghiệp phát triển tiềm năng con người theo nhiều nghĩa khác nhau. Kết quả
giáo dục và đào tạo làm tăng lực lượng lao động có trình độ, tạo khả năng thúc
đẩy nhanh quá trình đổi mới công nghệ.
Theo Luật giáo dục nghề nghiệp số 74/2014/QH13 ngày 27/13/2014 nêu
rõ: “Đào tạo nghề nghiệp là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ
năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học để có thể tìm được việc
làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học hoặc để nâng cao trình
độ nghề nghiệp.”
Như vậy đào tạo nghề cho người lao động là giáo dục kỹ thuật sản xuất
cho người lao động để họ có thể nắm vững nghề nghiệp, chuyên môn, bao gồm
đào tạo mới, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao tay nghề.
1.2. Khái niệm về nông thôn
Cho đến nay, chưa có một định nghĩa chuẩn xác được chấp nhận một
cách rộng rãi về nông thôn. Khi nói về nông thôn, thường thì người ta hay so
sánh nông thôn với thành thị. Có ý kiến cho rằng có thể dùng chỉ tiêu dân số,
mật độ dân cư để phân biệt nông thôn với thành thị. Có ý kiến đưa ra nên dùng
chỉ tiêu trình độ kết cấu hạ tầng, chỉ tiêu phát triển hàng hoá, lại có ý kiến cho
rằng nông thôn là vùng mà ở đấy chủ yếu làm nông nghiệp. Tất cả những ý
kiến trên đều đúng nhưng chưa đủ. Nếu dùng những chỉ tiêu riêng lẻ thì chỉ thể
hiện được từng mặt của nông thôn nhưng chưa thể bao chùm được khái niệm
vùng nông thôn một cách đầy đủ.
Nông thôn là vùng khác với đô thị là ở đó có một cộng đồng chủ yếu là
nông dân, làm nghề chính là nông nghiệp; có mật độ dân cư thấp hơn; có kết
cấu hạ tầng kém phát triển hơn; có mức độ phúc lợi xã hội thua kém hơn; có
trình độ dân trí, trình độ tiếp cận thị trường và sản xuất hàng hoá thấp hơn.
1.3. Khái niệm cơ bản về lao động
Theo thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Bộ lao động – Thương binh
xã hội, “Nguồn nhân lực là tiềm năng về lao động trong một thời kỳ nhất định
của một quốc gia, suy rộng ra có thể được xác định trên một địa phương một
ngành hay một vùng. Đây là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế –
xã hội”.
Nguồn nhân lực là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định
của pháp luật, có khả năng, có nguyện vọng tham gia lao động và những người
ngoài (trên) độ tuổi đang làm việc trong ngành kinh tế quốc dân.
Việc quy định độ tuổi lao động trong luật lao động là khác nhau giữa các
nước, các thời kỳ, do trình độ và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Ở Việt Nam,
theo luật lao động (2012), tuổi lao động của nam từ 15 đến 60; tuổi lao động
của nữ từ 15 đến 55. Nguồn nhân lực được xét cả về số lượng và chất lượng.
Lao động được qua đào tạo là lao động được đào tạo để thực hiện nhiệm
vụ của một nghề hoặc một chuyên môn nào đó. Cần thấy rằng lao động qua
đào tạo nghề là một khái niệm rộng, bao gồm tất cả lao động qua đào tạo tại
các cơ sở dạy nghề khác nhau, từ kèm cặp nơi sản xuất đến đào tạo tại các
trường đào tạo để nắm được kỹ năng thực hiện một công việc hoặc một số
công việc của nghề đó.
1.4.Vai trò của dạy nghề đối với vấn đề phát triển nguồn lao động
Vai trò của dạy nghề được thể hiện những mặt như sau:
Một là, dạy nghề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường
năng lực cạnh tranh nhằm chủ động hội nhập với thi trường lao động khu vực
và thế giới.
Hai là, dạy nghề đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao
động trong quá trình phát triển kinh tế theo hướng ứng dụng tiến bộ theo
hướng CNH, HĐH.
Ba là, dạy nghề góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm và
phát triển ngành nghề mới ở nông thôn. Trong bối cảnh đó công tác dạy nghề
phát triển sẽ đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động, giúp họ có thể tham gia
thị trường lao động. Đối với bộ phận lao động nông thôn sẽ có thể bằng những
nghề mình học mà hành nghề ngay trên quê hương mình. Đây không chỉ là vấn
đề giải quyết lao động dư thừa tại chỗ mà còn là điều kiện để phát triển ngành
nghề mới ở nông thôn.
Bốn là, dạy nghề đáp ứng nhu cầu xuất khẩu lao động. Khi lao động
được đào tạo và giáo dục định hướng một cách cơ bản và nghiêm túc, thì khi ra
nước
ngoài
lao
động
có
tính
tổ
ch
ức kỷ luật cao, thu nhập khá và ổn định hơn.
Năm là, dạy nghề góp phần thay đổi nhận thức, tư duy về vấn đề nghề
nghiệp, lao động và việc làm cho một bộ phận lớn thanh niên và xã hội. Khi
thực hiện tốt xã hội hoá đào tạo nghề sẽ tạo ra một phong trào đào tạo nghề sâu
rộng, lôi kéo toàn bộ xã hội vào quá trình học tập, nâng cao trình độ, đào tạo
gắn với việc làm.
1.5. Đặc điểm của lao động nông thôn
Cơ cấu lao động làm nông nghiệp chiếm trên 70% lao động nông thôn,
do đó đặc điểm lao đông nông thôn cũng tương đồng với đặc điểm của lao
động trong sản xuất nông nghiệp.
- Thứ nhất, lao động nông thôn mang tính thời vụ cao và không thể xoá
bỏ được. Sản xuất nông nghiệp luôn chịu tác động và bị chi phối mạnh mẽ bởi
các quy luật sinh học và điều kiện tự nhiên của từng vùng (đất, khí hậu, …).
Do đó, qúa trình sản xuất mang tính thời vụ rất cao, thu hút lao động không
đồng đều. Chính tính chất này đã làm cho việc sử dụng nguồn lao động nông
thôn trở nên phức tạp.
- Thứ hai, nguồn lao động nông thôn rất dồi dào và đa dạng về độ tuổi
và có tính thích ứng lớn. Do đó việc huy động và sử dụng đầy đủ nguồn lao
đông có ý nghĩa kinh tế lớn nhưng rất phức tạp, đòi hỏi phải có biện pháp tổ
chức quản lý lao động tốt để tăng cường lực lượng lao động cho sản xuất nông
nghiệp.
- Thứ ba, lao động nông thôn đa dạng, ít chuyên sâu, trình độ thấp. sản
xuất nông nghiệp có nhiều công việc gồm nhiều khâu với tính chất khác nhau,
hơn nữa mức độ áp dụng máy móc chưa cao nên sản xuất nông nghiệp chỉ đòi
hỏi sức khoẻ, sự lành nghề và kinh nghiệm. Mỗi lao động có thể đảm nhiệm
được nhiều công việc khác nhau nên lao động nông nghiệp và các ngành khác.
Bên cạnh đó, phần lớn lao động nông nghiệp mang tính phổ thông, ít được đào
tạo, sản xuất chủ yếu bằng kinh nghiệm, tổ chức lao động cũng rất giản đơn,
với công cụ thủ công lạc hậu.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC DẠY NGHỀ CHO LAO
ĐỘNG NÔNG THÔN HUYỆN NGỌC LẶC
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Ngọc Lặc
Huyện Ngọc Lặc có diện tích tự nhiên 49.092,4 ha với hơn ba phần tư là
đồi núi. Toàn huyện có 22 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 21 xã và 1 thị
trấn, Ngọc Lặc chiếm khoảng 4,4% diện tích và 3,9% dân số toàn tỉnh.
Nằm ở khu vực trung tâm Vùng Miền núi phía Tây Thanh Hóa, ngã ba kết nối
giao lưu của các tuyến Đường Hồ Chí Minh, Quốc lộ 15A và Đường tỉnh 516B
đi qua và tỏa ra các hướng, Ngọc Lặc có vị trí địa kinh tế thuận lợi cho giao
lưu kinh tế thương mại với nhiều vùng miền trong, ngoài tỉnh, đặc biệt lợi thế
làm đầu mối giao lưu trung chuyển hàng hóa, dịch vụ của Vùng Miền núi với
bên ngoài trước hết là với khu vực đồng bằng ven biển và khu vực các huyện
miền núi biên giới Việt - Lào thuộc Thanh Hóa.
2.2. Khái quát và đánh giá chung về nguồn lao động huyện Ngọc
Lặc.
Ngọc Lặc là vùng đất có lịch sử văn hóa lâu đời gắn liền với nhiều cuộc
kháng chiến vĩ đại giải phóng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc, tiêu biểu là cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn, cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ với các di tích
lịch sử, căn cứ địa kháng chiến như hang Cộng sản, hang Ngân hàng, ATK.
Cộng đồng dân cư gồm có 16 dân tộc anh em cùng chung sống trên địa bàn với
nhiều nét văn hóa, phong tục tập quán đa dạng. Trong đó, chủ yếu là dân tộc
Mường chiếm khoảng 70,53%, dân tộc Kinh chiếm 27,3%, dân tộc Dao chiếm
1,1%, dân tộc Thái chiếm 0,85%, còn lại là các dân tộc khác chiếm 0,22% dân
số. Phần lớn dân cư sinh sống quần tụ rải rác theo các bản làng, mật độ dân cư
thưa, trung bình toàn huyện (năm 2012) là 281 người/km2, dân cư tập trung cao
nhất ở khu vực thị trấn Ngọc Lặc và lân cận trung bình 494 người/km 2, thấp
nhất ở khu vực các xã núi cao phía Tây trung bình 222 người/km2.
* Ưu điểm:
Với tháp tuổi dân số trẻ, nguồn nhân lực trong độ tuổi lao động dồi dào,
năm 2016 có khoảng 89.341 người chiếm gần 64% dân số. Nhân lực trong tuổi
lao động phần lớn ở độ tuổi thanh niên có sức khỏe và đã qua giáo dục PTCS,
PTTH, một số đã qua đào tạo nghề, có điều kiện để tiếp tục tổ chức đào tạo,
dạy nghề mới và nâng cao để thu hút vào thị trường lao động, phát triển các
ngành nghề, lĩnh vực trên địa bàn.
Lực lượng lao động đang hoạt động kinh tế có 78.280 người, chủ yếu là
lao động nông nghiệp chiếm 77%. Lao động trong nền kinh tế phần lớn chưa
qua đào tạo nghề, tỷ lệ lao động qua đào tạo mới chiếm 27% .
Nguồn lao động dồi dào là điều kiện thuận lợi để tổ chức đào tạo nghề
và huy động tham gia sản xuất, phát triển kinh tế xã hội. Mặt khác, cũng đặt ra
vấn đề cần giải quyết việc làm cho thanh niên bước vào tuổi lao động hàng
năm. Để giảm dần tỷ lệ lao động trong độ tuổi thiếu việc làm, dự kiến trung
bình hàng năm cần giải quyết được việc làm mới cho khoảng 1.800- 2000 lao
động giai đoạn 2016- 2020. Theo đó, qui mô lao động trong nền kinh tế huyện
sẽ tăng lên khoảng 80.000- 82.500 lao động vào năm 2017 và 89.000- 89.500
lao động vào 2020.
* Hạn chế:
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, trình độ nguồn nhân lực ở huyện
Ngọc Lặc vẫn còn một số những tồn tại hạn chế đó là:
Thứ nhất, tuy lực lượng lao động trong độ tuổi đông nhưng trình độ còn
hạn chế, Do đa số lao động chưa qua đào tạo, một số đã qua đào tạo nghề
nhưng chuyên môn kỹ thuật còn thấp nên nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu
phát triển sản xuất và các ngành nghề mới trong huyện. Trình độ lao động chủ
yếu thông qua kinh nghiệm và tiếp thu từ các lớp tập huấn ngắn ngày và
chuyên giao khoa học kỹ thuật. Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật còn
khiêm tốn, do đó chất lượng và hiệu quả lao động thấp.
Thứ hai, công cụ sản xuất vẫn còn thiếu và lạc hậu về chủng loại, chưa
đáp ứng được nhu cầu sản xuất của nhân dân, còn thiếu nhiều các loại máy
hiện đại như các máy cấy, máy cày, máy chế biến, bảo quản sản phẩm nông
nghiệp.
Thứ ba, kết cấu hạ tầng ở Ngọc Lặc tuy đã được quan tâm, đầu tư xây
dựng nhưng một số công trình còn thiếu hoặc chưa được xây dựng kiên cố,
chưa đảm bảo yêu cầu về sản xuất và đời sống, thể hiện như: Giao thông liên
xã, liên thôn chưa được nhựa hóa hoặc bê tông hóa hoàn toàn, hệ thống kênh
mương nội đồng vẫn còn thiếu chưa đảm bảo tưới tiêu đúng yêu cầu.
Thứ tư, việc chủ động tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm còn hạn
chế, do đó lực lương lao động chưa tập trung với quy mô lớn. Từ đó hạn chế
người lao động chủ động nâng cao tay nghề, tiếp thu khoa học kỹ thuật mới.
Thứ năm, các khu kinh tế tập trung, cụm công nghiệp chưa hình thành.
Công tác đào tạo nghề còn nhỏ lẻ và không mang tính hiệu quả cao sau đào
tạo.
2.3. Thực trạng về công tác dạy nghề cho lao động nông thôn huyện
Ngọc Lặc
* Hệ thống tổ chức các cơ sở dạy nghề trên địa bàn huyện
Các cơ sở dạy nghề trên địa bàn huyện đóng vai trò quan trọng trong
việc dạy nghề nói chung và dạy nghề cho đội ngũ lao động nông thôn nói
riêng. Tính đến thời điểm hiện nay, huyện Ngọc Lặc có 2 cơ sở dạy nghề công
lập đó là Trường trung cấp nghề miền núi Thanh Hóa và Trung tâm giáo dục
nghề nghiệp – giáo dục thường xuyên. Ngoài ra còn có các doanh nghiệp có đủ
quy mô, cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên, công nhân kỹ thuật lành nghề có
thể đào tạo nghề thường xuyên cho lao động nông thôn.
* Thực trạng về cơ sở vật chất của các cơ sở đào tạo
Một trong những điều kiện quan trọng trong việc phát triển đào tạo nghề
nói chung và phát triển các hình thức dạy nghề cho lao động nông thôn nói
riêng đó là cơ sở vật chất. Cơ sở vật chất, trang thiết bị tốt sẽ cho phép mở
rộng được ngành nghề, hình thức đào tạo, nâng cao chất lượng và thu hút
người học.
Tuy nhiên, việc đầu tư về cơ sở hạ tầng mới chỉ đảm bảo cơ bản ở
Trường trung cấp, còn Trung tâm giáo dục nghề nghiệp – giáo dục thường
xuyên thì đang còn rất hạn chế, đặc biệt là các trang thiết bị dạy và học, máy
móc thực hành,....
Mặt khác, hiện nay các trường nghề tại miền núi như huyện ngọc Lặc rất
thiếu giáo viên có tay nghề cao, giáo viên không được cập nhật, tiếp cận những
máy móc mới, hiện đại, nên một số trang thiết bị mới mua về không được đưa
ra thực hành vì không có giảng viên hướng dẫn. Không những đối với các
ngành công nghiệp, các ngành về nông nghiệp, thuỷ sản mới chỉ hưỡng dẫn về
lý thuyết cây con, bảo vệ thực vật, kỹ thuật thú y. Các cơ sở hạ tầng phục vụ
cho thực hành đã có như các trại, vườn, ao, hồ … chưa được khai thác triệt để.
Công nghệ chế biến, bảo quản sản phẩm sau thu hoạch còn kém.
* Đội ngũ cán bộ giáo viên
Trong lĩnh vực đào tạo, thì đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên đóng vai
trò hết sức quan trọng. Đối với công tác dạy nghề cán bộ quản lý, giáo viên
ngoài các yêu cầu đủ trình độ về sư phạm và chuyên môn còn phải có kinh
nghiệm trong việc hướng dẫn thực hành để đảm bảo được chất lượng sau đào
tạo. Việc đảm bảo chất lượng sau đào tạo là điều kiện cho người lao động dễ
tìm việc làm, từ đó mới thu hút được người lao động vào học nghề.
Số giáo viên tại các cơ sở dạy nghề trên địa bàn huyện Ngọc Lặc tuy có
đáp ứng được nhu cầu người học về mặt số lượng nhưng về chất lượng chưa
đồng đều, còn hạn chế nhiều kỹ năng trong công tác dạy nghề. Do đó, việc đáp
ứng nhu cầu của các nhà tuyển dụng chưa cao.
2.4. Kết quả về công tác dạy nghề cho lao động nông thôn huyện
Ngọc Lặc trong những năm qua
2.4.1. Công tác chỉ đạo điều hành
Căn cứ Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến
năm 2020”. UBND huyện Ngọc Lặc ban hành Quyết định số 1053/QĐ-UBND
ngày 24/6/2010 về việc thành lập Ban chỉ đạo thực hiện đề án đào tạo nghề cho
lao động nông thôn huyện Ngọc Lặc đến năm 2020 và kiện toàn Ban chỉ đạo
tại Quyết định số 2469/QĐ-UBND ngày 01/7/2013.
Nhiệm vụ của Ban chỉ đạo Đề án nêu rõ:
- Tham mưu cho UBND huyện Ban hành cơ chế chính sách các văn bản,
các quy định cần thiết phù hợp với tình hình thực tiễn trong quá trình thực
hiện, đảm bảo đề án triển khai đúng kế hoạch và tiến độ theo quy định.
- Giúp UBND huyện chỉ đạo điều hành chung trong suốt quá trình thực
hiện Đề án, đảm bảo tính đồng bộ và lồng ghép nguồn lực phù hợp với chính
sách được triển khai trên địa bàn huyện.
- Phòng Lao động TB&XH là thường trực của Ban chỉ đạo thực hiện đề
án.
Dựa trên các căn cứ của Chính phủ, Bộ Lao động – TB&XH, Ban chỉ
đạo Đề án cấp tỉnh và qua khảo sát nhu cầu học nghề của người lao động nông
thôn, UBND huyện Ngọc Lặc đã xây dựng Đề án số 286/ĐA-UBND ngày
13/4/2011 về việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020.
Ngay sau khi thông qua Đề án, tất cả các xã, thị trấn trên địa bàn huyện
Ngọc Lặc đã thành lập tổ công tác thực hiện Quyết định 1956/QĐ-TTg để thực
hiện nhiệm vụ như quản lý nguồn lao động, hướng dẫn và giới thiệu để lao
động biết lựa chọn ngành nghề lao động phù hợp, động viên để họ tham gia
tích cực học nghề đồng thời chủ động xây dựng chương trình kế hoạch phát
triển nguồn lao động có tay nghề tại địa phương trong cơ cấu phát triển kinh tế
tại địa phương.
Căn cứ vào nhu cầu cụ thể hàng năm, UBND huyện đã có Kế hoạch đào
tạo nghề cho lao động nông thôn từng năm, từng lĩnh vực và nghành nghề cụ
thể.
Dựa vào các nguồn lực tại chỗ và được giao, Ban chỉ đạo cấp huyện đã
phối hợp với các đơn vị dạy nghề (đặc biệt là Trường Trung cấp nghề miền núi
Thanh Hóa và Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - GDTX) để mở các lớp dạy
nghề cho lao động nông thôn. Đồng thời tìm kiếm, liên doanh với các đơn vị
bao tiêu sản phẩm, sử dụng người lao động có tay nghề để tạo việc làm cho
người lao động sau đào tạo.
2.4.2. Hoạt động tuyên truyền; tư vấn học nghề và việc làm đối với lao
động nông thôn
Các chuyên mục, chuyên đề, tin, bài về dạy nghề cho lao động nông
thôn được phát hàng tuần hàng tháng trên các đài phát thanh – Truyền hình
huyện và các đài truyền thanh của xã, thị trấn.
Ngoài các bài phát thanh, truyền hình theo chuyên đề, người lao động
còn được tư vấn học nghề và việc làm thông qua các hội nghị tư vấn việc làm,
xuất khẩu lao động, truyền thông giảm nghèo. Riêng năm 2016, số lao động
trực tiếp nghe tư vấn học nghề và việc làm khoảng 8.000 lượt người tham gia,
trong 6 năm (2012-2017) khoảng 20.000 lượt người.
Tuy nhiên, hiệu quả của việc tuyên truyền các năm về trước vẫn chưa
cao vì dạy nghề chưa gắn liền với công tác giải quyết việc làm, người học nghề
chủ yếu tự tạo việc làm hoặc học xong không có cơ hội thực hành những kiến
thức được học.
2.4.3. Hoạt động điều tra khảo sát và dự báo nhu cầu dạy nghề cho
lao động nông thôn
- Danh mục nghề đào tạo cho lao động nông thôn: Theo Đề án 286/ĐAUBND ngày 13/4/2011 của UBND huyện Ngọc Lặc, danh mục dạy nghề cho
lao động nông thôn là 30 nghề. Trong đó có 3 nghề nông nghiệp và 27 nghề
phi nông nghiệp. Tuy nhiên, tùy theo nhu cầu học nghề và tình hình thực tế
hàng năm của lao động nông thôn, số ngành nghề đào tạo đã có sự thay đổi cho
phù hợp, đặc biệt là nghề nông nghiệp (các nghề tăng thêm ngoài danh mục
theo Đề án gồm nghề trồng mía, cạo mủ cao su, thảm bèo tây, trồng dâu, trồng
lúa thơm).
- Nhu cầu học nghề của lao động nông thôn theo từng nghề: Theo khảo
sát tại Đề án, số lao động có nhu cầu học nghề là 21.431 lao động. Trong đó,
nhu cầu học nghề nông nghiệp là 2263 lao động, nghề phi nông nghiệp là
19.168 lao động. Tuy nhiên với tình hình thực tế triển khai Đề án, số nhu cầu
học nghề phi nông nghiệp không cao do nhu cầu sử dụng lao động hiện tại trên
địa bàn huyện không đáp ứng được.
Nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp: Hiện tại, các doanh nghiệp
đang hoạt động trên Ngọc Lặc có quy mô nhỏ, sử dụng lao động ít và chủ yếu
theo mùa vụ, tính ổn định không cao, số lao động đang làm việc tại các doanh
nghiệp tại huyện chỉ chiếm khoảng 3.500 người.
Công tác điều tra, khảo sát và dự báo nhu cầu dạy nghề luôn có sự biến
động theo thực tế tình hình phát triển tại địa phương. Nghề đào tạo cũng sẽ
thay đổi cho phù hợp. Theo đó mà đào tạo nghề phi nông nghiệp đến năm 2020
chủ yếu tập trung vào nghề may công nghiệp vì quy mô nhà máy phát triển, số
lượng nhu cầu tăng nhanh, trong 5 năm (2016-2020) dự báo nhu cầu cần tuyển
lao động cho nghề may công nghiệp tại địa bàn huyện là 5.000 lao động.
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG TÁC
DẠY NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN HUYỆN NGỌC LẶC
3.1. Nhóm giải pháp phát triển các hình thức dạy nghề
3.1.1. Hình thức dạy nghề dài hạn tập trung:
Đây là hình thức phù hợp với đối tượng là thanh niên trẻ, học sinh tốt
nghiệp THCS, THPT trên địa bàn huyện. Triển khai nhân rộng hình thức này
nhằm thu hút số lao động trẻ tốt nghiệp THCS và PTTH để đào tạo đội ngũ
công nhân kỹ thuật bậc cao, nhân viên nghiệp vụ lành nghề đáp ứng yêu cầu
lực lượng lao động kỹ thuật cho các vùng kinh tế trọng điểm, các ngành kinh tế
của tỉnh, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh và xuất khẩu lao động.
3.1.2. Hình thức dạy nghề ngắn hạn tập trung tại các cơ sở dạy nghề
Đây là hình thức phù hợp với đa số đối tượng là lao động nông thôn, với
hình thức này cần tổ chức tuyển sinh với mọi đối tượng trên địa bàn toàn
huyện. Tuy nhiên, đối với bộ phận lao động nông thôn cần phân rõ đối tượng
để hình thức phù hợp với nguyện vọng học nghề và độ tuổi lao động. Trong đó,
chú trọng các đối tượng là thanh niên trẻ, các đối tượng là lao động sản xuất
nông nghiệp, đối tượng học nghề có cơ hội chuyển sang nghề khác. Quy mô
triển khai mở rộng tập trung theo hướng:
- Dạy nghề phục vụ nhu cầu lao động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
các nghề truyền thống.
- Dạy nghề phục vụ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động nông
nghiệp.
- Dạy nghề cho đối tương lao đông trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Điều
kiện thực hiện: Xác định Trường trung cấp nghề miền núi Thanh Hóa và Trung
tâm giáo dục nghề nghiệp - GDTX ở huyện là lực lượng nòng cốt trong dạy
nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn, chứ không phải chỉ dừng lại ở mức phổ
cập nghề như hiện nay. Các trung tâm này cần được đầu tư thích đáng về cơ sở
vật chất, trang thiết bị, đội ngũ giáo viên nhằm đáp ứng yêu cầu dạy nghề.
3.1.3. Phát triển hình thức tổ chức dạy nghề tại các doanh nghiệp trên
địa bàn huyện.
Đây là hình thức phù hợp với đối tượng lao đông trẻ có khả năng tiếp
thu nhanh, sau khi được đào tạo tại các doanh nghiệp sẽ có trình độ tay nghề
phục vụ cho nhu cầu tuyển dụng tại chỗ của doanh nghiệp. Hình thức này sẽ dễ
dàng cho công tác tuyển sinh vì đào tạo nghề gắn liền với việc làm.
Trong thời gian tới cần phát triển hình thức dạy nghề tại các doanh
nghiệp theo hướng:
- Khuyến khích, vận động các doanh nghiệp đầu tư mở các lớp dạy
nghề, các cơ sở dạy nghề trong doanh nghiệp để phục vụ nhu cầu lao động kỹ
thuật phù hợp với công nghệ sản xuất. Đặc biệt là các Công ty may công
nghiệp tại địa bàn huyện.
- UBND huyện, phòng Lao động TB&XH cần liên kết chặt chẽ với các
doanh nghiệp, khảo sát nhu cầu đào tạo nghề gắn với việc làm của doanh
nghiệp. Sau đó tiến hành tuyển lao động để dạy nghề gắn với việc làm tại các
doanh nghiệp trong huyện hoặc trong tỉnh.
3.1.4. Hình thức liên kết đào tạo
Cần triển khai các hình thức liên kết đào tạo trong dạy nghề theo hướng:
Kế hợp đào tạo tại trường và tại các cơ sở sản xuất. Để đào tạo theo hình
thức này, trường phải phối hợp với các doanh nghiệp trong và ngoài huyện từ
khâu tuyển sinh đến việc thực hiện kế hoạch đào tạo trong suốt khóa học. Lớp
học có thể đặt tại trường hoặc có thể đặt tại doanh nghiệp (nếu doanh nghiệp
có phòng học đạt yêu cầu), việc giảng dạy lí thuyết và hướng dẫn thực tập tay
nghề cơ bản, chủ yếu do giáo viên của trường giảng dạy, phần thực tập sản
xuất được tiến hành tại các doanh nghiệp và chủ yếu do cán bộ kỹ thuật của
doanh nghiệp phụ trách.
3.1.5. Đẩy mạnh hình thức tập huấn bồi dưỡng
- Đây là hình thức phù hợp với đại bộ phận lao động sản xuất nông
nghiệp và gắn bó với nông thôn. Vì vậy, cần triển khai nhân rộng hình thức này
trên địa bàn huyện, chú trọng đến đối tượng là lao đông sản xuất nông nghiệp ở
các xã khó khăn và đặc biệt khó khăn.
- Nội dung là phổ biến kiến thức mới về kỹ thật, kinh nghiệm sản xuất
cây, con giống, các kiến thức về kinh tế, sử dụng phân bón, kỹ thuật canh tác,
phòng trừ sâu bệnh, bảo quản và chế biến sản phẩm sau thu hoạch.
3.1.6. Triển khai hình thức dạy nghề gắn với việc làm tại chỗ cho
thanh niên nông thôn
Đây là hình thức phù hợp với đối thanh niên chưa hoặc đang thiếu việc
làm ở nông thôn, hình thức này triển khai cũng nhằm khai thác được thế mạnh
của vùng đất giầu nguyên liệu, góp phần phát triển những ngành nghề mới.
Đây cũng chính là để bố trí việc làm cho những lao động dôi dư trên địa bàn,
cho những lao động nông nhàn, kể cả thanh niên thuộc diện chính sách xã hội
và thanh niên ở vùng kinh tế khó khăn. Đây cũng là hình thức phù hợp với chủ
trương “ly nông bất ly hương” cho lao đông nông thôn. Triển khai hình thức
dạy nghề này theo hướng: Dạy nghề có các sản phẩm với thị trường như may
tre đan xuất khẩu, dệt, thủ công mỹ nghệ, gò hàn, kỹ thuật trồng rau sạch…..
3.1.7. Triển khai hình thức dạy nghề gắn với giới thiệu việc làm và
xuất khẩu lao động
- Các cơ sở dạy nghề cần chủ động khảo sát nhu cầu làm việc tại các
doanh nghiệp, các chương trình kinh tế, các vùng kinh tế. Từ đó tổ chức dạy
nghề gắn với giới thiệu việc làm cho người lao động.
- Trường Trung cấp nghề miền núi Thanh Hóa sẽ thực hiện hình thức
này vì các cơ sở này có điều kiện dễ dàng tiếp cận được với các doanh nghiệp
và các ban ngành để khảo sát nhu cầu việc làm. Sau đó sẽ về các địa phương
để tuyển lao động tham gia học nghề gắn với giới thiệu việc làm.
- Đối với dạy nghề cho xuất khẩu lao động: Hiện nay, hàng năm Ngọc
Lặc có trên 200 người đi lao động theo hợp đồng có thời hạn ở các nước khác
nhau. Dạy nghề phục vụ cho xuất khẩu lao động, tập trung dạy các kiến thức
về tiếng nước ngoài, tác phong công nghiệp, kỷ luật làm việc, hiểu biết về đất
nước sẽ đến và các nghề cần thiết theo hướng:
- Tổ chức dạy nghề cho các đối tượng để làm nguồn chuẩn bị cho xuất
khẩu lao động.
- Tổ chức tuyển chọn các đối tượng lao động đi xuất khẩu tại các địa
phương, sau đó tiến hành dạy nghề cho lao động.
3.2. Những giải pháp phát triển cơ sở dạy nghề
* Đối với trường dạy nghề cần phải tập trung vào những nội dung chính
như sau:
- Trường Trung cấp nghề miền núi Thanh Hóa cần triển khai xây dựng
cơ bản và tăng cường trang thiết bị dạy nghề, để phấn đấu nâng cấp thành
trường đào tạo nghề chất lượng cao.
- Đối với Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - GDTX: cần được củng cố
đầu tư để mở rộng dạy nghề ngắn hạn cho lao động xã hội. Hiện nay Trung tâm
bước đầu cũng đã được trang bị cơ sở vật chất. Tuy nhiên, hầu hết các trang
thiết bị mới ở mức đơn giản, không đa dạng nên khó thực hiện chuyên sâu về
đào tạo nghề. Trung tâm nên tăng cường liên doanh, liên kết với các trường
công lập, các doanh nghiệp để mở rộng quy mô tuyển sinh.
* Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, bổ sung đổi mới trang thiết bị,
phương tiện phục vụ cho giảng dạy, học tâp, đặc biệt là thiết bị để luyện tập kỹ
năng nghề. Đặc thù của đào tạo nghề là thời gian để thực tập và thực hành
nghề chiếm khoảng 70% quỹ thời gian đào tạo.
Hiện nay, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho dạy nghề của các cơ sở
dạy nghề đang thiếu hụt trầm trọng và chưa được đầu tư đúng mức. Học sinh ít
được tiếp xúc với máy móc thiết bị mới, công nghệ tiên tiến để thực hành, thực
tập. Để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho đào tạo nghề cần giải
quyết những vấn đề sau:
- Tăng cương phong trào tự làm thiết bị dạy nghề, khuyến khích các cơ
sở dạy nghề tạo nguồn vốn để bổ sung đầu tư, tự chế tạo, nâng câp cơ sở vật
chất kỹ thuật.
- Phối hợp với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất để sử dụng trang thiết
bị, công nghệ tự đông hóa vào trợ giúp giảng dạy.
* Nâng cao chất lượng, số lượng đội ngũ cán bộ giáo viên của các cơ sở
dạy nghề: Giáo viên là yêu tố quyết định chất lượng đào tạo. Đội ngũ giáo viên
hiện nay còn thiếu về số lượng và chưa đảm bảo về cơ cấu, các cơ sở dạy nghề
tại huyện vẫn còn thiếu giáo viên nhiều ngành nghề mà lao động đang có nhu
cầu. Muốn phát triển được các hình thức đào tạo đòi hỏi phải đẩy mạnh nâng
cao chất lượng, số lượng đội ngũ giáo viên.
* Về cơ chế chính sách:
- Thực hiện tốt các chính sách khuyến khích dạy và học nghề: Khuyến
khích việc mở thêm các cở sở kèm cặp, truyền nghề, kết hợp với giải quyết
việc làm. Các cơ sở dạy nghề có kết hợp dạy nghề với tổ chức xản suất giải
quyết việc làm được xem xét miễn giảm đất, được vay vốn với lãi suất ưu đãi
để đầu tư mua sắm thêm trang thiết bị dạy nghề.
- Người học nghề thuộc diện chính sách, là người dân tộc thiểu số, người
bị mất đất nông nghiệp, thuộc hộ nghèo được hưởng chế độ theo Quyết định
số: 1956/QĐ-TTg năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ hành, được ưu tiên giải
quyết việc làm.
- Người học nghề đi xuất khẩu lao động được tỉnh hỗ trợ kinh phí đào
tạo theo Nghị định số 61/2015/NĐ-CP của Chính Phủ.
- Tăng cường xã hội hóa công tác dạy nghề.
+ Khuyến khích các doanh nghiệp, tư nhân trong huyện và cả nước có
đủ điều kiện theo quy định của pháp luật mở cơ sở dạy nghề ngoài công lập tại
huyện.
- Tăng cường quản lý Nhà nước về dạy nghề
+ Tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn, thanh tra – kiểm tra việc
thực hiện các quy định của Nhà nước về dạy nghề trên địa bàn huyện.
+ Các phòng Lao động TB&XH, phòng Nông nghiệp bố trí cán bộ
chuyên trách làm công tác quản lý đào tạo nghề, thực hiện tốt chức năng tham
mưu giúp UBND huyện về công tác quản lý đào tạo nghề trên địa bàn.
+ Đẩy mạnh công tác nắm bắt thông tin về nguồn nhân lực, thị trường
lao động, tư vấn dạy nghề, tư vấn giới thiệu việc làm.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận: Dạy nghề nói chung và dạy nghề cho lao động nông thôn nói
riêng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dưng nguồn nhân lực có chất
lượng phục vụ yêu cầu CNH, HĐH đất nước. Đối với huyện Ngọc Lặc, phát
triển dạy nghề đáp ứng yêu cầu nhân lực phục vụ phát triển các ngành kinh tế
đa dạng của huyện. Là huyện nông nghiệp quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ, dạy nghề cho lao động nông
thôn còn đáp ứng yêu cầu chuyển dịch lao động nông nghiệp, nông thôn sang
các ngành nghề khác, góp phần giải quyết việc làm và phát triển ngành nghề
mới ở nông thôn. Trong những năm qua, công tác dạy nghề trên địa bàn huyện
đã đạt được những kết quả đáng kể. Hệ thống cơ sở dạy nghề với đủ các thành
phần được ổn định và phát triển. Dạy nghề cho lao động nông thôn được chú
trọng, trong tổng số lao động tốt nghiệp hàng năm từ các cơ sở dạy nghề chủ
yếu là bộ phận lao động nông thôn. Tuy nhiên, công tác dạy nghề cũng còn
nhiều tồn tại cần giải quyết. Hệ thống các cơ sở dạy nghề trên địa bàn huyện
chưa được quy hoạch phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương;
cơ sở vật chất của các cơ sở dạy nghề vừa thiếu thốn vừa kém chất lượng; Đội
ngũ giáo viên dạy nghề chưa đảm bảo về cơ cấu và trình độ chuyên môn; Ngân
sách cấp cho dạy nghề còn hạn hẹp. Những bất cập trên là nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến kết quả dạy nghề mới đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu đào tạo.
Trong điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn thì việc phát triển các hình thức
dạy nghề phù hợp với từng đối tượng lao động nông thôn có vai trò quyết định
đến kết quả đào tạo của các cơ sở dạy nghề.
Một số kiến nghị - Kiến nghị
- Chính phủ, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội tiếp tục cấp vốn
chương trình mục tiêu hàng năm để tăng cường thiết bị dạy nghề cho các cơ sở
dạy nghề, đặc biệt các cơ sở dạy nghề cấp huyện.
- Ủy ban nhân dân tỉnh tiếp tục quan tâm đầu tư cho chương trình đào
tạo nghề. Bổ sung thêm vốn ngân sách huyện để tăng cường thiết bị dạy nghề
tạo điều kiện để các cơ sở dạy nghề mở rộng quy mô và phát triển các hình
thức dạy nghề cho lao động nông thôn.
- Nhà nước sớm ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn thi hành chính
sách, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động về lĩnh vực dạy nghề theo quy đinh của
pháp luật để thuận lợi cho địa phương trong quá trình chỉ đạo và thực hiện
nhiệm vụ đào tạo nghề.
Sau khi trải qua thời gian học tập và nghiên cứu tại lớp Quản lý Nhà
nước ngạch chuyên viên khóa 4 năm 2017 tại Trường Chính trị tỉnh Thanh
Hóa, tôi đã lĩnh hội được nhiều kiến thức bổ ích và đã áp dụng vào bài Tiểu
luận cũng như trong quá trình tổ chức thực hiện công việc tại cơ quan.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường cùng toàn thể các thầy
giáo cô giáo.
Ngọc Lặc, ngày……. tháng 12 năm
2017
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ CÔNG TÁC
TRƯỞNG PHÒNG
Quách Văn Thọ
NGƯỜI VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC VIÊN
Lê Văn Dũng
Tài liệu tham khảo
1. Luật giáo dục nghề nghiệp số 74/2014/QH13 ngày 27/13/2014
2. Bộ luật lao động số 10/2012/QH13 ngày 18/6/2012
3. Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng chính
phủ về phê duyệt đề án “đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”
4. Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 09/7/2015 của Chính phủ quy
định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và quỹ quốc gia về việc làm.
5. Quyết định số 63/2015/QĐ-TTg ngày 10/12/2015 của Thủ tướng
Chính phủ về chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người
lao động bị thu hồi đất nông nghiệp.
6. Báo cáo Tổng hợp điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội huyện Ngọc Lặc đến năm 2020.
7. Báo cáo số 251/BC-UBND ngày 14/11/2014 của UBND huyện Ngọc
Lặc về kết quả thực hiện Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn năm 2014
và sơ kết 5 năm (2010 – 2014) thực hiện Đề án; dự kiến kế hoạch năm 2015 và
giai đoạn 2016 – 2020.