Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Luận văn bảo hiểm y tế tự đóng theo pháp luật việt nam từ thực tiễn quận sơn trà, thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ TUYẾT VÂN

BẢO HIỂM Y TẾ TỰ ĐÓNG THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ TUYẾT VÂN

BẢO HIỂM Y TẾ TỰ ĐÓNG THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số

: 8.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:


TS. PHẠM THỊ THÚY NGA

HÀ NỘI – 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Bảo hiểm y tế tự đóng theo pháp luật
Việt Nam từ thực tiễn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng” là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong đề tài này được thu thập và sử
dụng một cách trung thực. Kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn
này không sao chép của bất cứ luận văn nào và cũng chưa được trình bày hay
công bố ở bất cứ công trình nghiên cứu nào khác trước đây.
Hà Nội, ngày tháng 03 năm 2019
Tác giả luận văn

Trần Thị Tuyết Vân


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô Học viện Khoa học Xã hội, đặc
biệt là Khoa Luật học đã dạy dỗ và truyền đạt cho tôi những kiến thức quý
báu làm nền tảng cho việc thực hiện luận văn này.
Tôi đặc biệt cám ơn cô giáo TS. Phạm Thị Thúy Nga đã tận tình hướng
dẫn, chỉ bảo để tôi có thể hoàn tất luận văn cao học này.
Tôi cũng xin chân thành cám ơn tất cả bạn bè, đồng nghiệp và những
người đã giúp tôi trả lời bảng câu hỏi khảo sát làm nguồn dữ liệu cho việc
phân tích và cho ra kết quả nghiên cứu của luận văn cao học này.
Cuối cùng, tôi hết lòng biết ơn đến những người thân trong gia đình đã
động viên và tạo động lực để tôi hoàn thành luận văn này một cách tốt đẹp.
Hà Nội, ngày tháng 03 năm 2019

Tác giả luận văn

Trần Thị Tuyết Vân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM Y TẾ TỰ ĐÓNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................. 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm bảo hiểm y tế tự đóng theo pháp luật Việt Nam ...... 7
1.2. Ý nghĩa của bảo hiểm y tế tự đóng .......................................................... 11
1.3. Khái quát pháp luật về bảo hiểm y tế tự đóng ở Việt Nam hiện hành ..... 12
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến bảo hiểm y tế tự đóng.................................. 24
1.5. Pháp luật bảo hiểm y tế tự đóng của một số nước trên thế giới............... 30
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 35
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM Y
TẾ TỰ ĐÓNG Ở QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .............. 37
2.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến
thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế tự đóng ở quận Sơn Trà, thành phố Đà
Nẵng ................................................................................................................ 37
2.2.Thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế tự đóng tại quận Sơn Trà, thành phố
Đà Nẵng giai đoạn 2014-2018 ........................................................................ 38
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 55
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ BẢO HIỂM Y TẾ TỰ ĐÓNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
TỔ CHỨC THỰC HIỆN TẠI QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ
NẴNG ............................................................................................................. 56
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm y tế tự đóng ở Việt
Nam hiện nay .................................................................................................. 56
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm y tế tự đóng ở Việt Nam hiện

nay ................................................................................................................... 57
3.3. Giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế tự đóng ............ 62
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................... 66
KẾT LUẬN .................................................................................................... 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASXH:

An sinh xã hội

BHYT:

Bảo hiểm y tế

BHXH:

Bảo hiểm xã hội


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta
đã đề ra những chủ trương, chính sách để phát triển kinh tế, ổn định đời sống
xã hội. Đặc biệt, các chủ trương, chính sách, pháp luật liên quan đến an sinh
xã hội luôn được Đảng, Nhà nước chú trọng. Sự phát triển kinh tế thị trường
trong những năm qua đã làm cho diện mạo của đất nước có những thay đổi
sâu sắc về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng... Kinh tế

tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, thu nhập
bình quân đầu người ngày càng tăng cao, đời sống kinh tế - xã hội của nhân
dân từng bước được cải thiện. Bên cạnh việc ban hành các chính sách nhằm
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và
coi trọng thực hiện các chính sách xã hội đối với người lao động.
Từ 01/01/2015 Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi, bổ sung có hiệu lực đây
được xem là đánh dấu một bước quan trọng của quá trình xây dựng, hoàn
thiện pháp luật về bảo hiểm y tế.
Từ lúc hình thức tham gia BHYT hộ gia đình được thực hiện việc tham
gia BHYT của người dân lao động khi không tham gia BHYT bắt buộc và các
đối tượng được Nhà nước hỗ trợ được tăng lên đáng kể, đây là chính sách
Đảng và Nhà nước ta đưa ra để hướng đến quá trình BHYT toàn dân, theo
như thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012 –
2020”. Bên cạnh việc thực hiện chính sách pháp luật đó có những thuận lợi,
khó khăn nhất định. Điều đáng nói ở đây là việc tham gia BHYT của hộ gia
đình, khi mua thì bắt buộc phải mua toàn bộ số người có trong hộ khẩu, mức
đóng có giảm dần theo số người mua trong hộ khẩu cũng thuận lợi nhưng nếu
rơi vào các trường hợp các hộ gia đình khó khăn không thuộc diện hộ dân
được Nhà nước hỗ trợ tham gia BHYT thì đó lại là điểm yếu của chế độ tham
1


gia bảo hiểm nhưng đến tháng 10/2018 theo nghị định 146/2018-NĐ/CP đại
diện hộ gia đình hoặc thành viên hộ gia đình tham gia BHYT [khoản 7, Điều
9, 15]. Hiện nay tổng số dân tạm trú và thường trú trên địa bàn quận Sơn Trà
có 234.783, số tham gia BHYT được quận quản lý là 114.984 người, ngoài
việc người lao động tham gia BHYT bắt buộc thì số phần trăm chưa tham gia
BHYT hộ gia đình đạt con số rất lớn. Từ đó cho thấy có thể việc người dân
không tham gia BHYT tự đóng (tức là hình thức tham gia BHYT hộ gia đình)

thì khách quan có thể do công tác tuyên truyền vận động, việc thực hiện chính
sách pháp luật của Luật Bảo hiểm y tế chưa đạt hiệu quả cao.
Triển khai thực hiện BHYT hộ gia đình có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc tăng tỷ lệ dân số tham gia BHYT để đến năm 2020 có trên 80% dân số
tham gia BHYT, tiến tới thực hiện BHYT toàn dân. Việc lập danh sách hộ gia
đình tham gia BHYT để quản lý đối tượng tham gia BHYT, năm bắt chính xác
tỷ lệ bao phủ người tham gia BHYT trên địa bàn, đồng thời vận động, thu hút,
phát triển đối tượng tham gia BHYT. Mặt khác đây cũng là cuộc thống kê, rà
soát việc cấp trùng thẻ BHYT, tránh gây lãng phí cho ngân sách nhà nước.
Qua hơn 5 năm triển khai thực hiện Bảo hiểm y tế tự đóng đã từng
bước mang lại hiệu quả thiết thực cho người lao động. Tuy nhiên, việc triển
khai BHYT chưa đáp ứng được nhu cầu của người lao động, cũng như định
hướng của Đảng, Nhà nước. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để người lao động
nhận thức được sự cần thiết tham gia BHYT; thể chế, chính sách, tổ chức bộ
máy, đội ngũ cán bộ quản lý như thế nào để tạo điều kiện thuận lợi triển khai
thực hiện Bảo hiểm y tế toàn dân, đặc biệt là nhóm đối tượng tham gia BHYT
cuối cùng là hộ gia đình. Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài
“Bảo hiểm y tế tự đóng theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Sơn Trà,
thành phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Luật Bảo hiểm y tế ra đời năm 2008 cho thấy được sự quan tâm của

2


Đảng và Nhà nước ta, đây là chính sách về an sinh xã hội, đặc biệt liên quan
đến sức khỏe của người dân đến Quốc hội khóa XIII đã ra đời ban hành Luật
số 46/2014/QH13 về “Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y
tế” có hiệu lực thi hành từ tháng 01/2009. Một lần nữa cho thấy chính sách
BHYT là chính sách mà Đảng và Nhà nước ta càng muốn hoàn thiện hơn về

chính sách BHYT hướng đến năm 2020 đạt chỉ tiêu trên 80% dân số tham gia
BHYT [trang 3,16].
Để mở rộng và hoàn thiện chế độ chính sách BHYT đã có nhiều công
trình nghiên cứu về vấn đề này. Trong đó phải kể đến đề tài nghiên cứu khoa
học như đề tài cấp bộ: "Thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế ở thành phố Hồ
Chí Minh-thực trạng và giải pháp”(2012) của tác giả Nguyễn Thị Minh
Khanh; “Chính sách bảo hiểm y tế toàn dân của nước ta hiện nay” (2015) của
tác giả Nguyễn Thanh Tùng; “Thực hiện Chính sách khám chữa bệnh từ thực
tiễn thành phố Đà Nẵng” (2016);…Có thể nói các đề tài này chủ yếu tập trung
nghiên cứu các giải pháp mở rộng đối tượng tham gia BHYT và kinh nghiệm
của nước ngoài trong việc thực hiện BHYT.
Về bài viết đăng trên tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành có các bài
viết sau: “cần xác định Bảo hiểm y tế là lưới quan trọng”, Tạp chí Lao động
và xã hội online ngày 19/6/2012; “số người tham gia Bảo hiểm y tế tự đóng
thấp”, Tạp chí Lao động xã hội 2008, Đăng Doanh (2009); “Định hướng hoàn
thiện chính sách Bảo hiểm y tế rang web Bộ Lao động - Thương binh và xã
hội, Tạp chí Lao động xã hội...
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Mục đích của nghiên cứu luận văn là đánh giá thực trạng quy định
pháp luật về BHYT và thực tiễn thực hiện tại quận Sơn Trà, thành phố Đà
Nẵng, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp
tổ chức thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế tự đóng tại quận Sơn Trà.

3


3.2. Mục tiêu cụ thế
- Đánh giá về BHYT tự đóng theo pháp luật Việt Nam hiện hành.
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật BHYT tự đóng trên địa bàn

quận Sơn Trà từ năm 2014 cho đến nay khi thực hiện chính sách đó. Chỉ ra
những điểm thuận lợi, khó khăn và nguyên nhân của những khó khăn, vướng
mắc đó.
- Xác định các phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
BHYT tự đóng và giải pháp tổ chức thực hiện BHYT tự đóng trên địa bàn
quận Sơn Trà hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về BHYT
tự đóng, thực chất chính là BHYT hộ gia đình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về BHYT tự đóng
trong phạm vi quận Sơn Trà trong khoảng thời gian giai đoạn 2014 đến nay.
Do thời gian nghiên cứu hạn chế, luận văn không nghiên cứu về khiếu
nại, tố cáo, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp liên quan BHYT
tự đóng
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước về Bảo hiểm y tế nói chung và Bảo hiểm y tế
tự đóng nói riêng.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa
học truyền thống như: phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, diễn giải, ...
những phương pháp trên không sử dụng độc lập mà đan xen và kết hợp với
nhau để làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu đề tài.
4


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về phương diện lý luận, luận văn đã nêu ra các cơ sở pháp lý về
BHYT:

Một, luận văn đã trình bày cơ sở pháp lý và có hệ thống những vấn đề
lý luận về BHYT, BHYT tự đóng và pháp luật BHYT tự đóng. Trong đó, luận
văn đã trình bày rõ ràng khái niệm, ý nghĩa, đặc điểm của BHYT từ nhiều góc
độ quan niệm của Luật BHYT.
Hai, luận văn là làm rõ thực trạng pháp luật về BHYT nói chung và
BHYT tự đóng nói riêng ở quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng thông qua việc
trình bày, đánh giá hệ thống quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện BHYT
tự đóng hiện nay của quận Sơn Trà.
Ba, xác định được phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật
BHYT tự đóng và giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức thực hiện pháp luật về
BHYT tự đóng trên địa bàn quận Sơn Trà trong thời gian tới.
Luận văn cung cấp những kiến thức, cơ sở pháp lý, thông tinvà đề
xuất có giá trị tham khảo về mặt lý luận, thực tiễn với việc hoàn thiện khuôn
khổ pháp luật và cơ chếđảm bảothực thi BHYT tự đóng của công dân không
chỉ ở quận Sơn Trà ở các quận trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Về phương diện thực tiễn:
Luận văn sẽ giúp cho việc thực hiện chế độ chính sách pháp luật về
BHYT tự đóng hoàn thiện hơn trong những năm sắp tới.
Giúp cho các hộ gia đình tham gia BHYT tự đóng hiểu rõ chính sách
cả Đảng và Nhà nước ta giúp cho việc bảo vệ, bảo đảm cho người dân về sức
khỏe, quyền lợi khi tham gia BHYT tự đóng.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung của Luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về BHYT tự đóng theo pháp luật Việt Nam
5


hiện nay.
Chương 2: Thực trạng thực hiện BHYT tự đóng tại quận Sơn Trà,

thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm
y tế tự đóng và giải pháp tổ chức thực hiện tại quận Sơn Trà, thành phố Đà
Nẵng.

6


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM Y TẾ TỰ ĐÓNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái niệm, đặc điểm bảo hiểm y tế tự đóng theo pháp luật Việt Nam
 Khái niệm BHYT tự đóng
Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm y tế bắt buộc được áp dụng với các
đối tượng theo quy định của Luật này để chăm sóc sức khỏe, không vì mục
đích lợi nhuận do Nhà nước tổ chức thực hiện.[khoản 1, Điều 2, 18]
Một trong những điểm mới mang tính đột phá của Luật Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế (BHYT) có hiệu lực từ ngày
1/1/2015 là quy định bắt buộc tham gia BHYT. Theo đó, BHYT được chuyển
đổi từ tự nguyện sang hình thức BHYT hộ gia đình. Không chỉ giúp bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe cho các thành viên trong gia đình; giảm gánh nặng tài
chính khi ốm đau, bệnh tật, BHYT hộ gia đình còn là một bước đệm quan
trọng để thực hiện lộ trình tiến tới BHYT toàn dân.
Hộ gia đình tham gia bảo hiểm y tế (sau đây gọi chung là hộ gia
đình) bao gồm toàn bộ người có tên trong hộ khẩu hoặc sổ tạm trú.[khoản 7,
Điều 2, 18]
BHYT tự đóng được hiểu là một hình thức BHYT áp dụng cho người
có thu nhập thấp không đủ điều kiện tham gia BHYT bắt buộc hoặc BHYT
tư nhân do người dân tự nguyện tham gia, ở đây được hiểu là ‘hộ gia đình”.
Hoạt động của BHYT tự đóng do chính cộng đồng người tham gia đảm

nhiệm với nguyên tắc tài chính là phi lợi nhuận, vì vậy mức đóng BHYT tự
đóng không hoàn toàn phụ thuộc vào thu nhập của người tham gia.
BHYT tự đóng là loại hình BHYT được thực hiện sau khi Quốc hội
ban hành Luật Bảo hiểm sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã được thực hiện ở
nước ta. So với BHYT bắt buộc, BHYT tự đóng có số lượng người tham gia
7


ít hơn, vì điều kiện kinh tế của mỗi người dân và nhu cầu chăm sóc sức khỏe
khác nhau. Không hoàn toàn giống như BHYT bắt buộc theo luật định,
BHYT tự đóng được tiến hành với sự vận động người dân tham gia hướng
tới việc đảm bảo quyền lợi cho người tham gia một cách thiết thựcvà đồng
thuận trong cộng đồng giống những người tham gia BHYT bắt buộc. Chính
từ tiêu chí này mà hình thức BHYT tự đóng người dân nhìn thấy được thuận
lợi cho việc khám chữa bệnh khi tham gia BHYT
Trong giai đoạn đầu triển khai BHYT tự đóng thì đối tượng tham gia
là hộ gia đình, phạm vi đối tượng tham gia được chỉ rõ, BHYT tự đóng sẽ
đáp ứng được nhu cầu tham gia của những người này trong việc khám chữa
bệnh khi ốm đau, chăm sóc sức khỏe cho bản than từ đó góp phần nâng cao
công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho mọi người dân trong xã hội. Do
không có tính chất bắt buộc như trong như trong BHYT bắt buộc nên BHYT
tự đóng thực hiện được gọi là thành công phụ thuộc rất lớn vào đường lối
chính sách và quan điểm của mỗi quốc gia trong phát triển sự nghiệp bảo vệ
sức khỏe cho nhân dân nước mình.Việc đưa quyền lợi BHYT tự đóng vào
trong nhận thức của mọi người dân, khi họ hiểu rằng tham gia BHYT tự
đóngthì bản thân và gia đình sẽ được an toàn, được chăm sóc sức khỏe, ốm
đau bệnh tật thì đối tượng hộ gia đình sẽ tự tham gia. Một khi có đông đảo
người trong xã hội tham gia thì khả năng đáp ứng cho số ít những người bị
ốm đau bệnh tật là rất lớn, kể cả khi mà cùng với sự tăng trưởng của nền
kinh tế chi phí khám chữa bệnh đang tăng lên một cách chóng mặt thì một cá

nhân khó mà có thể tự trang trải mọi chi phí cho mình lúc lâm bệnh và trong
giai đoạn phục hồi.
BHYT tự đóng dù mô hình có khác nhau nhưng đều thống nhất ở lợi
ích cho cộng đồng người tham gia, đó là làm tăng khả năng tiếp cận dịch vụ
y tế cho người có thu nhập “bình quân” không thuộc sự hỗ trợ của Nhà nước
như hộ nghèo, đặc biệt nghèo và người tham gia BHYT bắt buộc. Góp phần
8


cải thiện công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu tại cộng
đồng; góp phần nâng cao sức khỏe cộng đồng; thực hiện hiệu quả công bằng
trong khám chữa bệnh.
BHYT tự đóng là loại hình BHYT thứ hai đã được thực hiện ở nước
ta. So với BHYT bắt buộc, BHYT tự đóng có số lượng người tham gia đông
đảo, đa dạng về thành phần và nhận thức xã hội, có điều kiện kinh tế và nhu
cầu chăm sóc sức khỏe khác nhau. Khác với BHYT bắt buộc, BHYT tự
đóng được tiến hành với mục tiêu làbảo đảm quyền lợi cho người tham gia
một cách an toàn, hiệu quảvà thiết thực nhất. Chính từ tiêu chí này mà hình
thức BHYT tự đóng rất phong phú và đa dạng ở mỗi quốc gia, không thể áp
đặt hoặc sao chép nguyên bản mô hình ở nước này cho nước khác và ngay
trong một nước cũng thường không có sự giống nhau về mô hình triển khai
BHYT tự đóng khi thực hiện ở những vùng mà có sự khác nhau về điều kiện
kinh tế - xã hội hoặc phong tục tập quán… Trong giai đoạn đầu triển khai
BHYT thì đối tượng bắt buộc tham gia có phạm vi rất hẹp chỉ bao gồm
những người có thu nhập ổn định do đó mà phạm vi những đối tượng không
đủ điều kiện tham gia BHYT là rất đông, phần lớn trong xã hội, BHYT tự
đóng sẽ đáp ứng được nhu cầu tham gia của những người này từ đó góp
phần nâng cao công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho mọi người dân
trong xã hội. Do không có tính chất bắt buộc như trong như trong BHYT bắt
buộc nên BHYT tự đóng thực hiện được gọi là thành công phụ thuộc rất lớn

vào đường lối chính sách và quan điểm của mỗi quốc gia trong phát triển sự
nghiệp bảo vệ sức khỏe cho nhân dân nước mình. Một khi có đông đảo
người trong xã hội tham gia thì khả năng đáp ứng cho số ít những người bị
ốm đau bệnh tật là rất lớn, kể cả khi mà cùng với sự tăng trưởng của nền
kinh tế chi phí khám chữa bệnh đang tăng lên một cách chóng mặt thì một cá
nhân khó mà có thể tự trang trải mọi chi phí cho mình lúc lâm bệnh và trong
giai đoạn phục hồi. BHYT tự đóng dù mô hình có khác nhau nhưng đều
9


thống nhất ở lợi ích cho cộng đồng người tham gia, đó là làm tăng khả năng
tiếp cận dịch vụ y tế cho người có thu nhập thấp và người lao động tự do,
bảo vệ người nghèo trước nguy cơ “bẫy nghèo”, góp phần cải thiện công tác
khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu tại cộng đồng; góp phần nâng
cao sức khỏe cộng đồng; thực hiện hiệu quả công bằng trong khám chữa
bệnh, nâng cao vị thế của người nghèo trong xã hội, khắc phục được những
mặc cảm do tình trạng thu nhập thấp của người nghèo gây ra.Dựa trên những
ưu điểm về ý nghĩa và lợi ích mà BHYT tự đóng mang lại, BHYT tự đóng
luôn gặp phải một số hạn chế đó là khả năng huy động vốn thấp, mức đóng
thường ít và số lượng người tham gia không nhiều, thiếu ồn định.Từ những
hạn chế, khó khăn khi thực hiện các mô hình BHYT tự đóng, nhưng đây là
hình thức tiến tới BHYT toàn dân.
 Đặc điểm về bảo hiểm y tế tự đóng
BHYT tự đóng có những đặc trưng sau đây:
- Về đối tượng tham gia: Đối tượng tham gia của BHYT tự đóng hiện
nay là hộ gia đình (trừ các thành viên đã tham gia BHYT bắt buộc). BHYT tự
đóng là hình thức tương trợ cộng đồng với mục đích bảo vệ sức khỏe cho
nhân dân nên đối tượng tham gia BHYT tự đóng là những người không tham
gia BHYT bắt buộc và đối tượng được Nhà nước hỗ trợ.
- Về mục tiêu: BHYT tự đóng với mục tiêu là hướng tới người dân

được hưởng các chính về y tế. BHYT tự đóng có trách nhiệm chi trả các chi
phí khám chữa bệnh cho những người tham gia bảo hiểm như bị ốm đau,
bệnh tật, rủi ro, có nhu cầu khám bệnh và điều trị bệnh tại các bệnh viện.
- Về mức hưởng: Mức hưởng bảo hiểm y tế tự đóng không phụ thuộc
vào mức đóng, thời gian đóng góp, mà phụ thuộc chủ yếu vào rủi ro bệnh tật
và các dịch vụ y tế tại cơ sở. Hệ thống BHYT tự đóng từ khi hình thành đã
không định hướng theo mức độ rủi ro mà theo nguyên tắc đáp ứng đặc biệt và
không phải chi trả trực tiếp.
10


- Về thực hiện: Quan hệ BHYT tự đóng là quan hệ diễn ra giữa ba bên
gồm:Bên thực hiện BHYT tự đóng, bên tham gia BHYT tự đóng và cơ sở
khám chữa bệnh.
1.2. Ý nghĩa của bảo hiểm y tế tự đóng
BHYT tự đóng không vì mục đích lợi nhuận, mà vì mục đích bảo đảm
sự phát triển bền lâu của nền kinh tế, thúc đẩy sự ổn định của xã hội.Vì Đảng
và Nhà nước ta hướng đến chính sách BHYT toàn dân nên việc tham gia
BHYT tự đóng được hiểu giống như việc tham gia BHYT tự đóng theo pháp
luật trước đây không nhằm mục tiêu lợi nhuận và đảm bảo phát triển của xã
hội. Cùng với BHYT bắt buộc, Bảo hiểm y tế tự đóng có ý nghĩa nhân văn
sâu sắc, thể hiện qua các mặt sau đây:
Thứ nhất, BHYT tự đóng góp phần thực hiện công bằng xã hội, tạo sự
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trên thị trường lao động. BHYT tự
đóng là sự điều tiết lại những người có thu nhập thu nhập cao và thu nhập
thấp, sẽ có lợi cho những người có thu nhập thấp. Các nước dù là đang phát
triển hay phát triển đều đưa ra các chính sách pháp luật để giảm dần sự phân
biệt giàu và nghèo. BHYT tự đóng là một trong những chính sách pháp luật
mang đến sự bình đẳng trong xã hội dù là đối tượng tham gia bắt buộc hay đối
tượng tự đóng.

Thứ hai, BHYT tự đóng cũng là một phần đóng góp vào sự hình thành
nên Quỹ BHYT. Quỹ BHYT ổn định không để tình trạng bội chi sẽ góp phần
tạo ổn định vào các chi phí khám chữa bệnh và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội nước ta.
Thứ ba, BHYT tự đóng giúp đảm bảo thu nhập cho các thành viên hộ
gia đình không tham gia BHYT bắt buộc khi gặp những khó khăn như ốm
đau, tai nạn lao động, chết… Những người tham gia BHYT tự đóng hầu hết là
những người lao động tự do, thu nhập thường thấp, không ổn định, bấp bênh
như: những người nông dân, kinh doanh, buôn bán nhỏ… khi họ tham gia
11


BHYT tự đóng sẽ giúp họ và gia đình họ đảm bảo được phần nào những rủi
ro xảy ra trong cuộc sống.
Thứ tư, BHYT tự đóng góp phần nâng cao năng suất laođộng xãhội,
thúc đẩy sản xuất phát triển. Người tham gia BHYT tự đóng được đảm bảo về
thu nhập ổn định ở mức độ cần thiết, giúp họ tiết kiệm kinh phí đều đặn để dự
phòng khi già yếu, mất sức lao động…
Thứ năm, BHYT tự đóng góp phần phân phối lại thu nhập quốc
dân,giảm chi ngân sách nhà nước, bảo đảm an sinh xã hội. BHYT tự đóng góp
phần tạo cơ hội để thực hiện trách nhiệm tương trợ cho những khó khăn của
các thành viên khác trong xã hội. Người có thu nhập cao, có năng lực cao hơn
sẽ đóng góp nhiều hơn vào quỹ BHYT, họ trợ giúp cho những người yếu thế
trong xã hội. Những thành viên của hộ gia đình không thuộc diện tham gia
BHYT bắt buộc khi gặp phải rủi ro, họ sẽ nhận được trợ cấp từ BHYT để cải
thiện cuộc sống.
1.3. Khái quát pháp luật về bảo hiểm y tế tự đóng ở Việt Nam hiện hành
1.3.1. Nguyên tắc bảo hiểm y tế tự đóng
BHYT là một trong những chính sách an sinh xã hội của mỗi quốc
gia.Việc thực hiện chính sách BHYT đều tuân theo những nguyên tắc nhất

định. Nguyên tắc BHYT là những quy định nhằm đảm bảo cho các hoạt động
BHYT diễn ra bình thường, đạt được mục tiêu mong muốn của nó.
BHYT tự đóng là một trong những bộ phận cấu thành nên BHYT, vì
vậy BHYT tự đóng tuân thủ theo những nguyên tắc chung của BHYT và
tuân theo những nguyên tắc riêng.
Những nguyên tắc chung của BHYT được tổng hợp từ những văn bản
của tổ chức lao động quốc tế (ILO) về BHYT và từ những chính sáchan sinh
xã hội phát triển trên nhiều nước. Cho nên, BHYT có những nguyên tắc
chung cụ thể như sau:
- Đảm bảo chia sẻ những rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm y
12


tế với nhau trong cộng đồng xã hội.
- Mức đóng bảo hiểm y tế được xác định theo tỷ lệ % của tiền lương
làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội
(sau đây gọi chung là tiền lương tháng), tiền lương hưu, tiền trợ cấp hoặc
mức lương cơ sở.
- Mức hưởng BHYT theo mức độ bệnh tật, nhóm đối tượng trong
phạm vi quyền lợi và thời gian tham gia bảo hiểm y tế.
- Chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế do quỹ BHYT và người
tham gia BHYT cùng chi trả.
- Quỹ BHYT mang nguyên tắc quản lý thống nhất, tập trung, minh
bạch, được Nhà nước bảo hộ, đảm bảo nguồn cân đối thu chi.
Bên cạnh đó, BHYT tự đóng còn có các nguyên tắc riêng. Cụ thể như
sau:
Thứ nhất, BHYT tự đóng được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của
người tham gia và kinh phí đóng bảo hiểm do người tham gia tự đóng hoàn
toàn.
Nguyên tắc này thể hiện sự tự nguyện của đối tượng tham gia có quyền

tự do lựa chọn tham gia hoặc không tham gia BHYT tự đóng. Họ có quyền
được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng BHYT tự đóng phù hợp với
thu nhập của mình. Phí đóng BHYT tự đóng dựa hoàn toàn vào sự đóng góp
của người lao động.
Thứ hai, các quy định BHYT tự đóng phải linh hoạt trong giới hạn hợp
lý của toàn hệ thống, nhằm đảm bảo cân đối, hài hoà lợi ích của các chủ thể
trong quan hệ BHYT tự đóng.
Đa phần mọi cá nhân đều có nhu cầu thiết yếu về BHYT. Trong BHYT
tự đóng, tính linh hoạt được thể hiện rõ nét nhất ở quy định về mức đóng,
phương thức đóng và mức hưởng bảo hiểm. Đối tượng khi tham gia BHYT tự
đóng thường có quan hệ lao động không ổn định.Người lao động khi sử dụng
13


thu nhập của mình, họ sẽ dành phần lớn chi cho nhu cầu sinh sốngcủa bản
thân và gia đình hằng ngày, phần còn lại họ xem xét có thể tham gia BHYT
hay không. Phương thức đóng cũng cần phải linh hoạt để đối tượng tham gia
BHYT có thể đóng hằng tháng, quý, sáu tháng, hoặc một năm một lần. Mức
đóng bằng mức lương cơ sở. Đối với nhóm đóng BHYT theo hộ gia đình thì
chỉ có một mức đóng bằng 4,5% mức lương cơ sở, không được lựa chọn một
mức đóng nào khác.
Người lao động tham gia BHYT tự đóng thường có thu nhập không ổn
định, bấp bênh nên không thể có mức đóng ổn định, họ có thể tạm ngừng đóng
BHYT tự đóng không cần có lý do. Vì vậy, người lao động có quyền tự chọn
phương thức đóng phù hợp với khả năng của họ. Quy định mức hưởng và
phương thức đóng của BHYT tự đóngcó như vậy mới đảm bảo cân đối được
lợi ích của người tham gia bảo hiểm và đảm bảo cân đối nguồn quỹ BHYT .
Thứ ba, đảm bảo liên thông giữa BHYT bắt buộc và BHYT tự đóng.
Mục đích chung của loại hình BHYT bắt buộc và BHYT tự đóng là đảm bảo
an sinh xã hội cho người tham gia. Thông thường, người tham gia BHYT bắt

buộc được hưởng nhiều chế độ hơn người tham gia BHYT tự đóng. Trên thực
tế, tùy thuộc vào tính chất và đặc điểm của quan hệ lao động mà người lao
động có thể có thời gian tham gia BHYT bắt buộc vừa có thời gian tham gia
BHYT tự đóng. Pháp luật Việt Nam đã quy định khá chi tiết về việc chuyển
đổi giữa hai loại hình bảo hiểm này và trong một thời điểm chỉ có thể tham
gia đóng BHYT bắt buộc hoặc BHYT tự đóng. Tính liên thông giữa BHYT tự
đóng và BHYT bắt buộc nhằm bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng cho
người lao động khi tham gia BHYT tự đóng hay bắt buộc.
1.3.2. Nội dung pháp luật Việt Nam về bảo hiểm y tế tự đóng
1.3.2.1. Chủ thể quan hệ bảo hiểm y tế tự đóng
Theo quy định pháp luật hiện hành, chủ thể tham gia BHYT tự đóng là
người tự đóng 100% phí BHYT để bảo hiểm cho mình theo hình thức hộ gia
14


đình. Như vậy, chủ thể tham gia BHYT tự đóng chính là nhóm người trong hộ
gia đình, không thuộc các đối tượng tham gia BHYT đã được quy định tại các
khoản 1, 2, 3 4 điều 12 Luật BHYT sửa đổi năm 2014. Như vậy, tất cả các
thành viên của hộ gia đình có thể tham gia BHYT tự đóng nếu không thuộc
các trường hợp tham gia BHYT bắt buộc hoặc được nhà nước hỗ trợ mức
đóng, gồm:
Một là, nhóm do người lao động và người sử dụng lao động đóng.
[khoản 1, Điều 12, 18].
Hai là, nhóm do tổ chức bảo hiểm xã hội đóng [khoản 2, Điều 12, 18]
Ba là, nhóm do ngân sách nhà nước đóng [khoản 3, Điều 12, 18]
Bốn là, nhóm được ngân sách nhà nước hỗ trợ mức đóng [khoản 4,
Điều 12, 18]
Theo Điều 5 Nghị định 146/2018 ngày 17/10/2018 quy định chi tiết và
hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Luật bảo hiểm y tế, nhóm tham
gia BHYT theo hộ gia đình gồm:

1. Người có tên trong sổ hộ khẩu, trừ những người thuộc đối tượng quy
định tại các Điều 1, 2, 3, 4 và 6 Nghị định này.
2. Người có tên trong sổ tạm trú, trừ đối tượng quy định tại các Điều 1,
2, 3 , 4 và 6 Nghị định này và đối tượng đã tham gia bảo hiểm y tế theo quy
định tại khoản 1 Điều này.
3. Các đối tượng sau đây được tham gia bảo hiểm y tế theo hình thức hộ
gia đình:
a) Chức sắc, chức việc, nhà tu hành;
b) Người sinh sống trong cơ sở bảo trợ xã hội trừ đối tượng quy định tại
các Điều 1, 2, 3, 4 và 6 Nghị định này mà không được ngân sách nhà nước hỗ
trợ đóng bảo hiểm y tế.
* Chủ thể được hưởng BHYT tự đóng
Chủ thể được hưởng BHYT tự đóng là các thành viên gia đình khi tham
15


gia BHYT, khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện bảo hiểm y tế theo quy định
của pháp luật. Để được hưởng một chế độ BHYT tự đóng, người lao động
hoặc thân nhân của người lao động phải đảm bảo những điều kiện nhất định
theo quy định của pháp luật như căn cứ vào thời gian tham gia BHYT tự
đóng, các hồ sơ cần cung cấp cho đại lý bảo hiểm khi tham gia mua, chi phí
được hưởng khi khám chữa bệnh…
* Chủ thể thực hiện BHYT tự đóng
Chủ thể thực hiện BHYT tự đóng là các cơ quan có chức năng thực
hiện thu, quản lý và chi trả bảo hiểm cho người được BHYT tự đóng theo quy
định của pháp luật. Ở nước ta chủ thể thực hiện BHYT tự đóng là cơ quan
BHXH; hoạt động của cơ quan BHXH được nhà nước thống nhất quản lý, tổ
chức thực hiện và được kiểm tra, giám sát chặt chẽ, đảm bảo tính thống nhất
trong các văn bản quy phạm pháp luật mà nhà nước ta đề ra.
Ở Việt Nam, nhóm tham gia theo hình thức hộ gia đình đóng BHYT tự

đóng tại các đại lý thu BHYT. Theo quy định hiện hành, có các đại lý thu
BHYT tự đóng sau:
+ UBND các xã, phường, thị trấn
+ Tổ chức kinh tế: Bưu điện, doanh nghiệp
+ Hội đoàn thể: Hội Nông dân, Hội Phụ nữ
+ Cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh/huyện
1.3.2.2. Mức đóng và phương thức đóng bảo hiểm y tế tự đóng
(1) Mức đóng
Ở Việt Nam mức đóng được căn cứ trên mức lương cơ sở theo quy định
pháp luật của Nhà nước. Mức đóng hàng tháng của nhóm tham gia theo hình
thức hộ gia đình tối đa bằng 6% mức lương cơ sởvà do đối tượng đóng theo
hộ gia đình [điểm k, khoản 1, Điều 13, 18].
Trường hợp một người trong hộ gia đình đồng thời thuộc nhiều đối
tượng tham gia bảo hiểm y tế khác nhau thì đóng bảo hiểm y tế theo đối tượng
16


đầu tiên mà người đó được xác định theo thứ tự của các đối tượng quy định
tại Điều 12 của Luật BHYT sửa đổi năm 2014.
Nhìn chung, tất cả thành viên thuộc hộ gia đình theo quy định tại khoản
5 Điều 12 của Luật BHYT sửa đổi 2014 phải tham gia bảo hiểm y tế. Khoản 3
Điều 13 Luật BHYT sửa đổi 2014 quy định mức đóng các thành viên hộ gia
đình được giảm dần từ thành viên thứ hai trở đinhư sau:
a) Người thứ nhất đóng tối đa bằng 6% mức lương cơ sở;
b) Người thứ hai, thứ ba, thứ tư đóng lần lượt bằng 70%, 60%, 50%
mức đóng của người thứ nhất;
c) Từ người thứ năm trở đi đóng bằng 40% mức đóng của người thứ nhất.
Nghị định 146/2018/NĐ-CP quy định chỉ được giảm trừ mức đóng BHYT
khi các thành viên trong hộ gia đình cùng tham gia trong năm tài chính.
(2) Phương thức đóng

Pháp luật về BHYT tự đóng của từng quốc gia trên thế giới có những
quy định khác nhau về phương thức đóng. Có quốc gia quy định đóng BHYT
tự đóng theo tuần, theo tháng, theo quý, theo năm hoặc nhiều năm một lần; có
những quốc gia đóng BHYT tự đóng thông qua thuế, có quốc gia quy định
đóng BHYT bằng hình thức trích từ thu nhập của người lao động thông qua
tài khoản tại ngân hàng... Tùy thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
của mỗi quốc gia, mức thu nhập và nhu cầu của người lao động tham gia
BHYT tự đóng mà mỗi quốc gia đề ra những quy định, chính sách về BHYT
tự đóng. Đối với nhóm thành viên hộ gia đình, đại diện hộ gia đình định kỳ 3
tháng, 6 tháng hoặc 12 tháng, đóng đủ số tiền thuộc trách nhiệm phải đóng
vào quỹ bảo hiểm y tế (Khoản 6 Điều 15 Luật BHYT sửa đổi 2014).
Phương thức đóng BHYT tự đóng có thể được thực hiện thông qua dịch
vụ ngân hàng, thẻ điện tử, nộp tại các cơ quan BHYT cơ sở hay có thể được
nhân viên đến thu tại địa chỉ đăng kí.

17


1.3.2.3. Quỹ bảo hiểm y tế
Quỹ BHYT là một quỹ tập trung tiền tệ được hình thành từ sự đóng góp
của người lao động tham gia BHYT, sự hỗ trợ của Nhà nước và các nguồn
khác, được sử dụng chủ yếu để chi trả trợ cấp cho những trường hợp được
BHYT quy định. Quỹ BHYT có vai trò rất quan trọng trong hệ thống BHYT,
đảm bảo tài chính cho hoạt động BHYT tự đóng được triển khai thực hiện.
Nguồn quỹ BHYT được sử dụng vào các mục đích:
Chi trả các chế độ BHYT tự đóng cho người lao động theo quy định;
chi quản lý; chi đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ; chi dự phòng. Trong
đó, chi trả các chế độ BHYT tự đóng là khoản chi quan trọng nhất, chiếm tỷ
lệ lớn trong chi BHYT tự đóng, nhằm thực hiện các chế độ trợ cấp BHYT tự
đóng. Ở các nước trên thế giới, khoản chi lớn nhất trong số các khoản chi thực

hiện chế độ BHYT tự đóng là chi cho chế độ trợ cấp hưu trí.
Chi dự phòng: Theo quy định tại Điều 35 Luật BHYT, phải dành tối
thiểu 5% số tiền đóng BHYT cho quỹ dự phòng. Quỹ dự phòng khám chữa
bệnh BHYT là cần thiết để bảo đảm tính bền vững của chính sách BHYT, bảo
đảm khả năng chi trả trước những rủi ro về thiên tai, dịch bệnh có thể phát sinh.
Việc hình thành, xây dựng và phát triển quỹ BHYT cần phải dựa vào
những nguyên tắc chung của BHYT. Hoạt động của quỹ BHYT hướng tới
nguyên tắc là "lấy số đông bù số ít”, hạch toán theo nguyên tắc cân bằng thu chi.
- Quỹ bảo hiểm y tế được tổ chức Bảo hiểm xã hội quản lý tập trung,
thống nhất, minh bạch và tuân thủ các quy định của pháp luật về tài chính, kế
toán và thống kê. Quỹ BHYT được hạch toán độc lập với ngân sách nhà nước.
 Quản lý BHYT tự đóng
Quản lý BHYT tự đóng có thể được hiểu là sự tác động của các chủ thể
nhân danh quyền lực nhà nước, theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện
chức năng nhà nước trong lĩnh vực BHYT tự đóng. Quản lý BHYT tự đóng
cần thực hiện theo những nguyên tắc và phương pháp phù hợp với hệ thống
18


quản lý chung đối với nền kinh tế đất nước. Quản lý Nhà nước về BHYT tự
đóng được thể hiện thông qua các nội dung chủ yếu sau:
- Nhà nước thống nhất quản lý các hoạt động BHYT tự đóng trên phạm
vi toàn quốc, thông qua việc nhà nước ban hành các chính sách, pháp luật
nhằm định hướng các hoạt động của BHYT tự đóng. Nhà nước thông qua các
cơ quan chức năng, quyền lực của mình đề ra các văn bản pháp luật như Luật
Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế, các văn bản hướng dẫn triển khai thực
hiện (nghị định, thông tư…) và các văn bản dưới luật để thực thi chính sách,
pháp luật BHYT tự đóng trên phạm vi toàn quốc.
- Nhà nước quản lý BHYT tự đóng thông qua việc định hướng các hoạt
động BHYT tự đóng phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước trong từng thời kì. Thông qua các mô hình như định hướng tài chính
BHYT tự đóng và mô hình tổ chức hoạt động.
- Nhà nước thống nhất quản lý BHYT từ cấp trung ương đến cấp địa
phương. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp đối với BHYT tự đóng thông
qua những nội dung cơ bản sau:
+ Quản lý quỹ BHYT nhằm đảm bảo cho quỹ được đảm bảo an toàn;
thực hiện thu - chi đúng quy định và hạn chế tối đa những thất thoát quỹ
BHYT. Quản lý quỹ chủ yếu là quản lý công tác thu – chi và xây dựng chiến
lược, kế hoạch tăng trưởng quỹ BHYT thông qua các hoạt động đầu tư để
đảm bảo duy trì tốt quỹ BHYT .
+ Quản lý đối tượng tham gia và thụ hưởng BHYT tự đóng. Đối tượng
tham gia BHYT tự đóng là hộ gia đình. Đối tượng hưởng BHYT tự đóng là
hộ gia đình. Để quản lý đối tượng tham gia BHYT tự đóng đòi hỏi cơ quan
quản lý cần nắm đầy đủ thông tin của đối tượng tham gia để xác định nguồn
thu và dự kiến nguồn chi khi có những nhu cầu phát sinh. Cơ quan BHYT có
đầy đủ thông tin về người thụ hưởng BHYT tự đóng để thực hiện các khoản
chi đúng quy định và nhằm hạn chế những rủi ro và lạm dụng trong việc chi

19


×