Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính tại tòa án nhân dân, từ thực tiễn tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.13 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CAO VĂN CẦN

ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH
CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CAO VĂN CẦN

ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH
CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số

: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐỖ MINH KHÔI


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các tài
liệu, số liệu trong luận văn là trung thực và chính xác, những kết quả nghiên
cứu của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác
nếu có sự gian dối, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Cao Văn Cần


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÁP DỤNG CÁC BIỆN
PHÁP HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN ..................................... 9
1.1. Khái niệm, tính chất, đặc điểm áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
tại Tòa án nhân dân ........................................................................................... 9
1.2. Đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân ...... 18
1.3. Nội dung áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân 20
1.4. Hồ sơ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân...... 24
1.5. Trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân
dân ................................................................................................................... 29
1.6. Các yếu tố tác động đến áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa
án nhân dân...................................................................................................... 34
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ
HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN HAI CẤP TỈNH QUẢNG NAM . 39
2.1. Đặc điểm vị trí địa lý, kinh tế xã hội và tình hình vi phạm pháp luật trên
địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua .................................................. 39

2.2. Thực trạng áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân
hai cấp tỉnh Quảng Nam .................................................................................. 39
2.3. Những vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Nam .............................. 46
CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
VIỆC XEM XÉT, ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM ...... 56
3.1. Định hướng bảo đảm áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án
nhân dân .......................................................................................................... 56


3.2. Gải pháp nâng cao hiệu quả trong công tác xem xét, áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân .................................................... 64
3.3. Các giải pháp tại tỉnh Quảng Nam ........................................................... 72
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ADPL

: Áp dụng pháp luật

BPXLHC

: Biện pháp xử lý hành chính

CSCNBB


: Cơ sở cai nghiện bắt buộc

CSGDBB

: Cơ sở giáo dục bắt buộc

TAND

: Tòa án nhân dân

TGD

: Trường giáo dưỡng

UBND

: Ủy ban nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định “Tòa án là cơ quan
xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp”

[1]


; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định rõ “nhiệm vụ của cải
cách tư pháp là bảo đảm để Tòa án là trung tâm và xét xử là hoạt động trọng
tâm”[2]. Do đó, khi nói đến Tòa án, mọi người nghĩ ngay đến đây là cơ quan
nhân danh Nhà nước xét xử các loại án, cách hiểu này không sai nhưng chưa
đầy đủ về chức năng, nhiệm vụ hiện nay của Tòa án vì sau khi Luật xử lý vi
phạm hành chính được Quốc hội thông qua năm 2012, có hiệu lực từ
01/7/2013, thì bên cạnh chức năng giải quyết, xét xử các loại án, Tòa án (Tòa
án nhân dân) còn được giao thêm chức năng xem xét, áp dụng các biện pháp
xử lý hành chính như Đưa vào Trường giáo dưỡng, Đưa vào cơ sở Giáo dục
bắt buộc và Đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Theo đó kể từ ngày 01/01/2014, thì việc xem xét, áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính như Đưa vào Trường giáo dưỡng, Đưa vào Cơ sở giáo
dục bắt buộc và Đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc do Tòa án nhân dân xem
xét, quyết định thay vì do Chủ tịch UBND hay Trưởng Công an huyện như
trước đây.
Để thi hành quy định này, ngày 20/01/2014, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội đã ban hành Pháp lệnh số: 09/2014/UBTVQH13 quy định trình tự, thủ tục
xem xét, áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân.
Việc chuyển giao này là kết quả của quá trình cải cách tư pháp ở nước
ta vì xét về bản chất thì các biện pháp xử lý hành chính Đưa vào Trường giáo
1
2

Điều 102 Hiến pháp năm 2013
Nghị quyết số 49-NQ/TW.

1



dưỡng, Đưa vào Cơ sở giáo dục bắt buột hay Đưa vào Cơ sở cai nhiện bắt
buột do Tòa án nhân dân xem xét, quyết định áp dụng là những biện pháp
mang tính cưỡng chế Nhà nước, trực tiếp tác động, ảnh hưởng đến các quyền
cơ bản của công dân, trong đó có người chưa thành niên. Khi bị áp dụng biện
pháp xử lý hành chính, người bị áp dụng sẽ bị hạn chế một số quyền, trong đó
có quyền tự do. Do đó, quá trình xem xét, áp dụng các biện pháp này, để đảm
bảo quyền con người, quyền công dân đòi hỏi chúng phải được thực hiện theo
một trình tự, thủ tục chặt chẽ, dân chủ, công khai, đảm bảo khách quan, chính
xác. Điều này hoàn toàn phù hợp với thông lệ Quốc tế, phù hợp với xu hướng
hội nhập của nền tư pháp nước ta.
Qua bốn năm thực tiễn áp dụng các biện pháp xử lý hành chính trong
toàn bộ hệ thống Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh
Quảng Nam nói riêng đang đặt ra nhiều vấn đế cấp bách cả về lý luận và thực
tiễn liên quan đến nhiều vấn đề như điều kiện, trình tự, thủ tục, thẩm quyền
lập hồ sơ đề nghị, cơ quan đề nghị cùng vấn đề công khai minh bạch trong
quá trình xem xét, áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân....
Việc nghiên cứu các quy định pháp luật liên quan đến việc áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam từ đó
làm sáng tỏ cơ sở lý luận, vai trò của việc áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính này trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như đưa ra
những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, tháo gỡ những khó khăn, vướng
mắc trong thực tiễn áp dụng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong tình hình
hiện nay. Từ những lý do trên, tôi chọn Đề tài “Áp dụng các biện pháp xử lý
vi phạm hành chính tại Tòa án nhân dân, từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” làm
luận văn Thạc sĩ luật học là có tính thực tiễn, cấp thiết và khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ chủ thể thực hiện các biện pháp xử lý hành chính trước
đây là cơ quan hành chính nhà nước tiến hành, các biện pháp này mang tính


2


chất hành chính, chế tài mà các biện pháp này tác động đến các đối tượng bị
áp dụng không quá nghiêm khắc như chế tài hình sự; mặt khác đây là lĩnh vực
mới, là nhiệm vụ, chức năng mới của Tòa án nhân dân nên trong những năm
90 của thế kỷ 20 tuy có một số công trình khoa học nghiên cứu các đề tài về
xử lý vi phạm hành chính nói chung nhưng nhìn chung là không nhiều. Riêng
vấn đế về áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân thì có
rất ít nhà khoa học quan tâm nghiên cứu đến và phải đến khi Luật xử lý vi
phạm hành chính năm 2012 được thông qua và có hiệu lực thi hành thì lĩnh
vực này mới bắt đầu thu hút sự chú ý quan tâm của các nhà khoa học. Trong
đó có thể kể đến các đề tài như: Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Các biện pháp
xử lý hành chính khác và việc bảo đảm quyền con người” do Vụ Pháp luật
Hình sự - Hành chính, Bộ Tư pháp thực hiện năm 2008; Đề tài khoa học cấp
Bộ “Cơ chế bảo đảm thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính” do Vụ Pháp
luật Hình sự Hành chính, Bộ Tư pháp thực hiện năm 2012; “Báo cáo đánh
giá về các biện pháp xử lý hành chính khác và khuyến nghị hoàn thiện trong
Luật xử lý vi phạm hành chính” do Dự án tăng cường tiếp cận quyền và bảo
vệ công lý tại Việt Nam thực hiện năm 2010. “Báo cáo hoàn thiện các biện
pháp xử lý hành chính khác trong Luật xử lý vi phạm hành chính” do Dự án
tăng cường tiếp cận quyền và bảo vệ công lý tại Việt Nam thực hiện năm
2011; Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Các biện pháp xử lý hành chính khác và
việc bảo đảm quyền con người” của tác giả Đặng Thanh Sơn, Bộ Tư Pháp là
chủ biên năm 2009; Luận án phó tiến sĩ: “Chế tài hành chính – Lý luận và
thực tiễn”, của tác giả Vũ Thư, Viện Nhà nước và Pháp luật, năm 1996 (từ
năm 1998 đổi thành tiến sĩ); Luận văn thạc sĩ luật: “Hoàn thiện các quy định
pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính”, của tác giả Nguyễn
Trọng Bình, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2002; Luận văn thạc sĩ luật

học: “Hoàn thiện pháp luật về xử lý hành chính với người chưa thành niên”,
của tác giả Nguyễn Ngọc Bích, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2003;

3


Luận văn thạc sĩ luật học: “Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính: lý luận
và thực tiễn”, của tác giả Bùi Tiến Đạt, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội,
năm 2008; Luận văn thạc sĩ luật học: “Các biện pháp xử lý hành khác theo
quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay”, của tác giả Nguyễn Thị Hà, Đại
học luật Hà Nội, năm 2012; Luận văn thạc sĩ luật học: “Từ biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh đến biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc”, của tác giả Phạm Tiến Thành, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội,
năm 2014; Luận văn thạc sĩ luật học: “Bảo đảm quyền con người trong áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính”, của tác giả Dương Thị Bích Hạnh,
Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2014 hay các công trình, bài viết
khác như: Bài viết “Về các biện pháp xử lý hành chính khác: Thực tiễn và
giải pháp” của tác giả Hoàng Thị Kim Quế, đăng trên Tạp chí Khoa học, Đại
học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế - Luật 24 (2008); Bài viết “Quyền công dân,
quyền con người và chỗ đứng của các biện pháp xử lý hành chính khác trong
pháp luật về vi phạm hành chính”, của tác giả Trần Thanh Hương, đăng trên
Tạp chí Dân chủ và pháp luật 11/2005; Bài viết “Hoàn thiện các biện pháp xử
lý hành chính khác theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Lê Ngọc Thạch,
Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, Thông tin chuyên đề số 1 (2006); Bài
viết “Biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh trong Dự thảo Luật Xử lý vi phạm
hành chính”, của tác giả Đào Thị Thu An đăng trong Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số 20/2011….
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã được công bố nói trên, mỗi
công trình tập trung nghiên cứu về một vấn đề có liên quan đến xử lý vi phạm
hành chính nói chung cũng như việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính

tại Tòa án nói riêng, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn
diện, có hệ thống về áp các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Do vậy, việc nghiên cứu một cách đầy đủ về lý
luận và thực tiễn áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân

4


trên địa bàn tỉnh Quảng Nam là rất cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Qua quá trình nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân, làm rõ thực trạng áp dụng
các biện pháp này của các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc Tòa án nhân dân
hai cấp tỉnh Quảng Nam. Từ đó chỉ rõ những tồn tại hạn chế, bất cập trong
việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam và đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy
định pháp luật về áp dụng các biện pháp xử lý tại Tòa án nhân dân nói chung,
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp này tại các
Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Nam
nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
Để đạt mục đích đặt ra ở trên, luận văn tập trung thực hiện những
nhiệm vụ sau:
+ Tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật có liên quan cùng
một số vấn đề lý luận chung về áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại
Tòa án nhân dân, trên cơ sở các thành tựu của khoa học pháp lý hiện đại.
+ Đánh giá thực tiễn áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án
nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, làm rõ những hạn chế, bất cập và
nguyên nhân của chúng.

+ Đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
về áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân. Đề xuất các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công áp dụng các biện pháp này trên
địa bàn tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

5


Luận văn nghiên cứu về áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành
chính tại Tòa án nhân dân theo Luật xử lý vi phạm hành chính 2012; Pháp
lệnh số 09/2014/UBTVQH13 quy định trình tự, thủ tục xem xét, áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân và các văn bản có liên quan
từ thực tiển tỉnh Quảng Nam. Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các quy định
của pháp luật có liên quan đến việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
tại Tòa án nhân dân gồm biện pháp Đưa vào Trường giáo dưỡng, biện pháp
Đưa vào Cơ sở giáo dục bắt buột và biện pháp Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buột gắn liền với thực tiễn áp dụng các biện pháp này tại Tòa án nhân dân hai
cấp tỉnh Quảng Nam. Luận văn không nghiên cứu các quy định về xử lý vi
phạm hành chính của các cơ quan hành chính Nhà nước nói chung, biện pháp
xử lý hành chính Giáo dục tại xã, phường, thị trấn cũng như việc thi hành các
quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân của
các đối tượng bị áp dụng và cơ quan thi hành các quyết định này hay việc xử
lý người có hành vi vi phạm Nội quy phiên tòa của Thẩm phán chủ tọa các
phiên tòa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian
Luận văn thực hiện việc nghiên cứu giới hạn trong địa bàn tỉnh Quảng
Nam.

Về thời gian
Luận văn nghiên cứu việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại
Tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam trong khoảng thời gian từ năm
2014 đến hết năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu đứng trên cơ sở phương pháp luận, quan
điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đứng trên đường lối nhất quán về chính

6


sách xử lý các vi phạm hành chính của Đảng và Nhà nước ta. Từ đó, luận văn
rút ra những kết luận và kiến nhằm hoàn thiệc chế định áp dụng các biện pháp
xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một cách tổng thể các phương pháp nghiên cứu cụ
thể như: Phương pháp tổng hợp, phân tích, phương pháp thống kê, phương
pháp hệ thống lịch sử và phương pháp so sánh pháp luật.
Nghiên cứu toàn diện chính sách xử lý hành chính của Đảng và Nhà
nước ta được thể hiện qua các Nghị quyết, Chỉ thị. Nghiên cứu đầy đủ Luật
xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét, áp dụng các
biện pháp xử lý vi phạm hành chính tại Tòa án nhân dân cùng các văn bản
quy phạm pháp luật khác liên quan đến áp dụng các biện pháp này của Tòa án
nhân dân tối cao và các cơ quan có liên quan. Ngoài ra luận văn tiến hành
thống kê, phân tích các số liệu (số liệu thống kê áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Nam) để làm rõ thực tiễn
áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam.
6. Ý nghĩa và những đóng góp của luận văn

Luận văn là công trình nghiên cứu toàn diện, có hệ thống lý luận về áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân và thực trạng áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính này tại Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam trong thời gian từ năm 2014 đến hết năm 2018.
Những điểm mới của luận văn thể hiện qua các dung:
+ Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về áp dụng các biện pháp xử
lý hành chính tại Tòa án nhân dân.
+ Đánh giá được thực tiễn áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại
Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, làm rõ những hạn chế bất cập
và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó.

7


+ Đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp
luật và nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án
nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Với những quan điểm lý luận mới, các kết quả nghiên cứu của luận văn
có thể được sử dụng để các Thẩm phán nghiên cứu, vận dụng trong quá trình
xem xét áp dụng các biện pháp xử lý hành chính; các cơ quan có liên quan
quan trong việc lập hồ sơ đề áp dụng các biện pháp xử lý hành chính như
Công an, Phòng Lao động – Thương binh và xã hội, Phòng Tư pháp…. trong
cả nước nói chung và tại tỉnh Quảng Nam nói riêng, nghiên cứu vận dụng,
nhằm tạo được sự nhất quán trong việc áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính tại Tòa án nhân dân. Phát huy vai trò của các biện pháp xử lý hành
chính Tại Tòa án nhân dân trên thực tiễn, góp phần quan trọng vào việc nâng
cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và các hành vi vi
phạm pháp luật ở nước ta hay có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
những người quan tâm đến lĩnh vực này.
7. Cơ cấu của luận văn gồm:

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, luận
văn gồm có ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về áp dụng biện pháp xử lý hành chính
tại Tòa án nhân dân.
Chương 2: Thực trạng áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa
án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Những giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về xem
xét, áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân và nâng cao hiệu
quả áp dụng các biện pháp này từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.

8


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP HÀNH
CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm, tính chất, đặc điểm áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính tại Tòa án nhân dân
1.1.1. Khái niệm áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án
nhân dân
Trên cơ sở kế thừa các quy định của Nghị quyết số 49 năm 1961 ngày
20 tháng 6 năm 1961; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995, ngày 06
tháng 7 năm 1995 và Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội. Ngày 20 tháng 6 năm 2012 Luật xử lý vi phạm
hành chính được Quốc Hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 7 năm 2013. Đây là Luật xử lý vi pham hành chính đầu tiên của nước
ta, Điều 1 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định “Luật này quy
định về xử phạt hành chính và các biện pháp xử lý hành chính”. Như vậy,
có nghĩa là “ Xử lý vi phạm hành chính” được cấu thành bởi hai nội dung cơ
bản là biện pháp “xử phạt vi phạm hành chính” và biện pháp “xử lý hành

chính” và được thực thi bởi hai nhóm cơ quan nhà nước, nhóm thứ nhất đó là
các cơ quan quản lý hành chính nhà nước đối với “xử phạt vi phạm hành
chính” và áp dụng biện pháp xử lý hành chính “Giáo dục tại xã, phường thị
trấn”, nhóm thứ hai là Tòa án nhân dân đối với các biện pháp xử lý hành
chính “Đưa vào Trường giáo dưỡng”, “Đưa vào Cơ sở giáo dục bắt buộc”
và “Đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc”.Trong đó, đối với các biện pháp xử
phạt vi phạm hành chính có hiệu lực thi hành kể từ ngày Luật xử lý vi phạm
hành chính năm 2012 có hiệu lực thi hành ngày 01/7/2013, riêng các quy định
về áp dụng các biện pháp xử lý hành chính do Tòa án nhân dân xem xét, áp
dụng có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2014.

9


Áp dụng các biện pháp xử lý hành chính (BPXLHC) tại Tòa án nhân
dân (TAND) là một vấn đề hoàn toàn mới trong Luật xử lý vi phạm hành
chính năm 2012 (XLVPHC), mang tính đột phá trong pháp luật Việt Nam,
đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đối với công tác quản lý nhà nước, góp phần
quan trọng vào việc đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật, bảo đảm
quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền của người chưa thành
niên.
Trao thẩm quyền xem xét, quyết định áp dụng các BPXLHC cho
TAND là đảm bảo quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp 2013.
Theo Điều 102 Hiến pháp 2013 thì “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân…”[3]. Theo quy định
khoản 2 Điều 105 Luật XLVPHC thì TAND cấp huyện có thẩm quyền quyết
định áp dụng các biện pháp Đưa vào Trường giáo dưỡng (TGD); Đưa vào Cơ
sở giáo dục bắt buộc (CSGDBB) và Đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc
(CSCNBB).
Việc chuyển giao thẩm quyền quyết định áp dụng các BPXLHC từ Ủy

ban nhân dân sang cho TAND là một bước chuyển đổi về chất. Mục đích của
việc chuyển đổi này là hướng tới việc bảo đảm tính công khai, minh bạch,
bình đẳng trong quá trình xem xét, quyết định áp dụng các BPXLHC, bảo vệ
tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng biện pháp xử lý hành
chính, tạo cho họ có nhiều cơ hội để vệ quyền lợi của mình; phù hợp với quá
trình hội nhập quốc tế, đảm bảo các quyền con người, quyền công dân.
Xét về bản chất thì các biện pháp xử lý hành chính do Tòa án xem xét,
quyết định áp dụng là những biện pháp mang tính cưỡng chế nhà nước, trực
tiếp ảnh hưởng đến một số quyền cơ bản của con người. Người bị áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính ít nhiều bị hạn chế tự do và một số quyền lợi
khác, vì vậy, việc áp dụng các biện pháp này cần phải được thực hiện theo
3

Điều 102 Hiền pháp năm 2013

10


trình tự, thủ tục chặt chẽ, dân chủ, công khai, bảo đảm khách quan, chính xác.
Đây là vấn đề hoàn toàn mới, mang tính đột phá. Việc chuyển giao
thẩm quyền từ chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) sang Tòa án nhân dân
(TAND) huyện dẫn đến sự thay đổi lớn về quy trình áp dụng, đó là xem xét,
quyết định theo thủ tục tư pháp và được tiến hành bằng phiên họp do một
Thẩm phán Tòa án nhân dân chủ trì cùng với sự tham gia của đại diện Viện
kiểm sát cùng cấp, đại diện cơ quan đề nghị, người bị đề nghị, cha mẹ hoặc
người giám hộ của người bị đề nghị ... Do đó sẽ đảm bảo được tính công khai,
minh bạch; đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị...
Các biện pháp xử lý hành chính do Tòa án nhân dân tiến hành trong
Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, có nguồn gốc ban đầu là biện pháp
cưỡng chế hành chính đặc biệt, xuất phát từ Nghị quyết 49 năm 1961 của Ủy

ban Thường vụ Quốc hội Quy định việc đưa vào các Trung tâm giáo dục cải
tạo đối với các cá nhân có hành vi nguy hại cho xã hội, được giáo dục nhiều
lần, nhưng không hối cải hay những người chống đối chế độ biểu hiện qua
những hành vi như: gián điệp, mật thám, ngụy quân, ngụy quyền, cốt cán
đảng phái phản động… Biện pháp tập trung giáo dục cải tạo, ngoài những đối
tượng nói trên, cũng được áp dụng cho những người có những hành vi tội
phạm như lưu manh, trộm cắp, lừa đảo.. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh ra
quyết định và Bộ trưởng Bộ Công an duyệt với thời hạn 3 năm mà không cần
thông qua việc xem xét của cơ quan Tư pháp - Tòa án.
Phần thứ ba của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định các
biện pháp xử lý hành chính gồm có 04 biện pháp, đó là: “Biện pháp giáo dục
tại xã, phường, thị trấn; biện pháp Đưa vào Trường giáo dưỡng; biện pháp
Đưa vào Cơ sở giáo dục bắt buộc và biện pháp Đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt
buộc”[4]. Trong đó, Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền quyết định áp
dụng 04 trong số 04 biện pháp gồm: Đưa vào Trường giáo dưỡng, Đưa vào
4

Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

11


Cơ sở giáo dục bắt buộc và Đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc. Các biện
pháp xử lý hành chính do Tòa án nhân dân xem xét, quyết định áp dụng nêu
trên là những biện pháp mang tính cưỡng chế nhà nước, trực tiếp ảnh hưởng
đến các quyền cơ bản của con người. Người bị áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính này sẽ bị hạn chế tự do và một số quyền lợi khác. Vì vậy, để đãm
bảo tính khác quan, công khai, minh bạch, đòi hỏi việc áp dụng các biện pháp
này cần phải được thực hiện theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, dân chủ, công
khai, bảo đảm khách quan, chính xác theo đúng tinh thần “các cơ quan tư

pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền
con người”[5] đã được khẳng định tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02
tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị.
Như vậy, Áp dụng các biện pháp xử lý hành chính là một hình thức
thực hiện pháp luật của Tòa án nhân dân, được tiến hành trên cơ sở quy định
của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nhằm xem xét, quyết định áp dụng
biện pháp cưỡng chế hành chính bắt buộc đối với cá nhân có hành vi vi phạm
pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm.
1.1.2. Đặc điểm áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân.
1.1.2.1. Áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân là
quá trình cá biệt hóa các quy phạm pháp luật hành chính đối với hành vi vi
phạm hành chính.
Theo nguyên tắc của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và Pháp
lệnh số 09 năm 2014 quy định về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp
dụng các biện pháp xứ lý hành chính tại Tòa án nhân dân thì việc xác định sự
thật khách quan của hồ sơ đề nghị xử lý vi phạm hành chính thuộc trách
nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong đó có
Tòa án nhân dân.
Xác định sự thật khách quan của hồ sơ xử lý hành chính bao gồm các
5

Nghị quyết số 49-NQ/TW.

12


việc như xác định các giai đoạn của quá trình thực hiện hành vi vi phạm hành
chính từ khi bắt đầu cho tới khi kết thúc; xác định hành vi đó là hành động
hay không hành động?, hành vi vi phạm pháp luật đó có thuộc phạm vi xử lý
của Luật hình sự hay không… Nếu không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật

hình sự (không cấu thành tội phạm), thì sẽ áp dụng Luật xử lý vi phạm hành
chính để xử lý và người vi phạm hành chính, vi phạm điều luật nào, khoản
nào, áp dụng biện pháp xử lý hành chính chính nào với thời hạn bao lâu mới
tương xứng với hành vi vi phạm pháp luật? Đồng thời nghiên cứu hồ sơ xử lý
vi phạm hành chính, những người có thẩm quyền như Trưởng công an huyện,
Thẩm phán… cần xác định hành vi vi phạm hành chính trên thực tế và đối
chiếu với quy định của Luật xử lý hành chính để xem xét áp dụng một trong
ba biện pháp xử lý hành chính tại TAND, gồm: Đưa vào Trường giáo dưỡng;
Đưa vào Cơ sở giáo dục bắt buộc và Đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính phải dựa
trên cơ sở là quy định của pháp luật nội dung (Luật xử lý vi phạm hành chính
năm 2012) và quy phạm pháp luật hình thức (Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem
xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại TAND) và để đảm
bảo cho các quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính được ban hành
chính xác, đúng đối tượng, đúng pháp luật, đòi hỏi các chủ thể áp dụng biện
pháp xử lý hành chính mà trực tiếp ở đây là các Thẩm phán phải có kiến thức
pháp lý, có kinh nghiệm thực tiễn và có sự hiểu biết rộng về các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội. Vì chỉ khi nắm vững kiến thức pháp luật cùng sự
hiểu biết các lĩnh khác của đời sống xã hội, Thẩm phán mới có thể biết được
nguyên nhân, điều kiện, tính chất của hành vi vi phạm, từ đó có quyết định áp
dụng biện pháp xử lý đúng đắng, phù hợp với thực tế cũng như cá biệt hóa,
lượng hóa được hành vi vi phạm.
1.1.2.2. Áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân là
hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước do TAND tiến hành mà trực tiếp là

13


Thẩm phán và được tiến hành tại trụ sở của Tòa án
Thẩm phán TAND phải căn cứ vào các chứng cứ tài liệu mà cơ quan

lập hồ sơ đề nghị xử lý vi phạm hành chính (Công an hoặc UBND …) đã thu
thập được và kết quả thẩm tra tại phiên họp để ra quyết định áp dụng một
trong ba biện pháp xử lý hành chính tại TAND đối với người có hành vi vi
phạm hành chính được khách quan, chính xác, đúng pháp luật được thực hiện
chủ yếu tại phiên họp tại TAND nhằm xem xét, đánh giá chứng cứ thu thập
được trong quá trình lập hồ sơ đề nghị xem xét việc áp dụng các biện pháp xử
lý một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Hoạt động áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính của TAND được tiến hành thông qua phiên họp được
tổ chức tại trụ sở của TAND nơi thụ lý hồ sơ. Điều đó thể hiện uy quyền của
Nhà nước mà cơ quan đại diện là TAND. Việc phiên họp công khai tại trụ sở
Tòa án không chỉ thể hiện sự tôn nghiêm của pháp luật mà còn đảm bảo tính
công khai, đảm bảo sự tham gia, giám sát của Nhân dân. Qua đó, các quyền tự
do, dân chủ của công dân, quyền lợi ích hợp pháp của Nhà nước được đảm
bảo; các quyền và nghĩa vụ của Nhà nước, của công dân, các tổ chức được
pháp luật bảo vệ, công bằng xã hội được thực hiện triệt để, nghiêm túc.
Phiên họp xem xét việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại
TAND được diễn ra dưới sự chủ trì của Thẩm phán. Tại đây, người bị đề nghị
áp dụng biện pháp xử lý có quyền công khai trình bày ý kiến về việc mình bị
đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính là đúng hay sai và có quyền đưa
ra chứng cứ và tham gia tranh luận bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình…
Những người tham gia phiên họp còn phải chấp hành nghiêm chỉnh nội quy
phiên họp, nếu vi phạm thì tùy theo mức độ sẽ bị Thẩm phán xử lý theo quy
định của pháp luật. Thông qua phiên họp tại TAND, các cơ quan công luận đã
tham gia việc giám sát trực tiếp đối với cơ quan Tòa án trong việc áp dụng
các biện pháp xử lý hành chính tại TAND, đây cũng chính là cơ sở xem xét,
đánh giá chất lượng công tác áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại

14



TAND nói chung và khả năng, trình độ, năng lực người Thẩm phán nói riêng.
Vì vậy, để đảm bảo cho việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử
lý hành chính tại TAND đạt hiệu quả, đúng pháp luật, bênh cạnh phải tuân thủ
chặt chẽ các quy định của pháp luật, đòi hỏi Thẩm phán phải tâm trong sáng,
bản lĩnh vững vàng trước những tác động tiêu cực của nềnh kin tế thị trường.
1.1.2.3. Áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân là
hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành theo một trình tự, thủ tục xem xét
chặt chẽ.
Pháp lệnh số 09 năm 2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Nghị
quyết số 04/2015/NQ-HĐTP ngày 24 tháng 12 năm 2015 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao quy định, hướng dẫn về trình tự, thủ tục xem
xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân
đã quy định rất chặt chẽ trình tự, thủ tục và cách thức tiến hành các hoạt động
xem xét áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại TAND buộc cơ quan Tòa
án mà đại diện là Thẩm phán phải tuân thủ triệt để các quy định đó từ khi
nhận, thụ lý hồ sơ đề nghị cho đến khi tổ chức phiên họp xem xét áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính.
Các quan hệ phát sinh trong quá trình từ khi thụ lý hồ sơ đến khi tổ
chức phiên họp đều phải được dự tính trước những vấn đề có thể xảy ra như
việc khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong quá trình lập hồ sơ, việc thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia phiên họp như việc vắng mặt
của người bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính…
Bảo đảm bằng việc điều chỉnh của pháp luật về trình tự thủ tục xem xét
và quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Pháp lệnh trình tự, thủ tục
xem xét, quyết định áp dụng các BPXLHC tại TAND quy định một số nội
dung về:
Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các BPXLHC Đưa vào
Trường giáo dưỡng, Đưa vào Cơ sở giáo dục bắt buộc, Đưa vào Cơ sở cai

15



nghiện bắt buộc; Việc hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định áp dụng
BPXLHC; giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian
áp dụng BPXLHC còn lại; Trình tự, thủ tục khiếu nại, kiến nghị; giải quyết
khiếu nại, kiến nghị đối với các quyết định của Tòa án, hành vi của người có
thẩm quyền của Tòa án trong việc xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC.
Với quy định như vậy, pháp luật hiện hành đã có những tác động tích
cực trong việc bảo vệ quyền con người trong quá trình áp dụng các BPXLHC.
1.1.3. Tính chất áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân
dân
Về mặt lý luận, việc xem xét, áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
là hoạt động áp dụng và thực hiện pháp luật của Tòa án nhân dân, là quá trình
hoạt động của các Thẩm phán trên cơ sở thẩm quyền được giao và quy định
của pháp luật quy định về trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động để xem
xét, áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với các cá nhân có
hành vi vi phạm. Giống các hoạt động áp dụng pháp luật khác, hoạt động xem
xét, áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đòi hỏi các Thẩm phán phải tuân
thủ nguyên tắc mang tính bắt buộc đó là sự tuân thủ pháp luật, dựa trên quy
định của pháp luật hay nói cách khác các Thẩm phán chỉ được tiến hành các
họat động mà pháp luật cho phép, các hoạt động không phù hợp với quy định
của pháp luật đều không hợp pháp.
Hoạt động áp dụng và thực hiện pháp luật nói chung bao gồm tuân thủ
pháp luật, chấp hành pháp luật và áp dụng pháp luật.
Tuân thủ pháp luật là việc các chủ thể thực hiện pháp luật không thực
hiện các hành vi xử sự mà pháp luật cấm.
Thi hành pháp luật là việc các chủ thể thực hiện pháp luật chủ động
thực hiện các nghĩa vụ mà pháp luật quy định.
Sử dụng pháp luật là việc các chủ thể thực hiện pháp luật thực hiện các
quyền của mình do pháp luật quy định.


16


Áp dụng pháp luật là việc các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà
nước có thẩm quyền thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp
luật quy định.
Như vậy: “Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong
đó nhà nước thông qua cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức
cho các chủ thể pháp luật thực hiện những qui định pháp luật hoặc chính
hành vi của mình căn cứ vào những qui định của pháp luật để ra các quyết
định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hay chấm dứt một quan hệ pháp luật”
[6]

.
1.1.4. Các biện pháp xử lý hành chính do Tòa án nhân dân xem xét, áp

dụng

1.1.4.1. Biện pháp Đưa vào Cơ sở giáo dục bắt buộc
Theo quy định tại Điều 91 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì
Biện pháp Đưa vào Cơ sở giáo dục bắt buộc “ Là biện pháp xử lý hành chính
áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật quy định tại Điều 92 của
Luật này nhằm mục đích giúp họ học văn hóa, học nghề, lao động, sinh hoạt
dưới sự quản lý, giáo dục của nhà trường. Thời hạn áp dụng biện pháp đưa
vào trường giáo dưỡng từ 06 tháng đến 24 tháng”[7].
1.1.4.2. Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Theo quy định tại Điều 91 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012,
Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc“Là biện pháp xử lý hành chính
áp dụng đối với người có hành vi vi phạm quy định tại Điều 96 của Luật này

để chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của cơ sở cai
nghiện bắt buộc. Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc từ 12 tháng đến 24 tháng”[8].
1.1.4.3. Biện pháp đưa vào Trường giáo dưỡng
6

https//www.tailieuontap.com
Điều 91 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.
8
Điều 91 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012
7

17


Theo quy định tại Điều 91 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012,
biện pháp Đưa vào Trường giáo dưỡng “Là biện pháp xử lý hành chính áp
dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật quy định tại Điều 92 của
Luật này nhằm mục đích giúp họ học văn hóa, học nghề, lao động, sinh hoạt
dưới sự quản lý, giáo dục của nhà trường. Thời hạn áp dụng biện pháp đưa
vào trường giáo dưỡng từ 06 tháng đến 24 tháng”[9].
1.2. Đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân
dân
1.2.1. Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào Trường giáo dưỡng
Theo quy định tại Điều 92 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì
đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
gồm:
“1. Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu
của một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu

của một tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý quy định tại Bộ luật hình sự.
3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu
của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự mà trước
đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
4. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi 02 lần trở lên trong 06 tháng
thực hiện hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng mà
chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và trước đó đã bị áp dụng biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
5. Không áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với các
trường hợp sau đây:
a) Người không có năng lực trách nhiệm hành chính;
b) Người đang mang thai có chứng nhận của bệnh viện;
9

Điều 91 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

18


c) Phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi
được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận”[10] .
1.2.2. Đối tượng bị áp dụng biện pháp Đưa vào Cơ sở giáo dục bắt
buộc
Điều 94 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì đối tượng bị áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc gồm:
“1. Là người thực hiện hành vi xâm phạm tài sản của tổ chức trong
nước hoặc nước ngoài; tài sản, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân,
của người nước ngoài; vi phạm trật tự, an toàn xã hội 02 lần trở lên trong 06
tháng nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, đã bị áp dụng biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này

nhưng không có nơi cư trú ổn định;
2. Không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc đối với
các trường hợp sau đây:
a) Người không có năng lực trách nhiệm hành chính;
b) Người chưa đủ 18 tuổi;
c) Nữ trên 55 tuổi, nam trên 60 tuổi;
d) Người đang mang thai có chứng nhận của bệnh viện;
đ) Phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi
được Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận”[11].
1.2.3. Đối tượng áp dụng biện pháp Đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt
buộc
Theo Điều 96 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì đối tượng
áp dụng biện pháp Đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc gồm:
“1. Là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng các biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp
10
11

Điều 92 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012
Điều 94 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012

19


×