Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo tại ban tiếp công dân thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (757.26 KB, 72 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ ĐÌNH CUNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI,
TỐ CÁO TẠI BAN TIẾP CÔNG DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Chính sách công
Mã số: 8 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. LÊ NGỌC HÙNG

HÀ NỘI, 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan về các số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận
văn Thạc sỹ chính sách công với đề tài “Thực hiện chính sách giải quyết
khiếu nại, tố cáo tại Ban Tiếp Công dân thành phố Hà Nội“ là hoàn toàn trung
thực và không trùng với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận văn

LÊ ĐÌNH CUNG




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VÀ CHÍNH SÁCH
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO ................................................................ 6
1.1. Các khái niệm: Khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo .................... 6
1.2. Chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo ........................................................... 15
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TẠI BAN TIẾP CÔNG DÂN THÀNH PHỐ HÀ
NỘI TỪ NĂM 2016 ĐẾN NAY VÀ VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH .......................... 33
2.1. Thực trạng thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Ban Tiếp
Công dân thành phố Hà Nội từ năm 2016 đến nay ................................................ 33
2.2. Đánh giá thực trạng và vấn đề đặt ra trong thực hiện chính sách giải quyết
khiếu nại, tố cáo tại Ban Tiếp Công dân Thành phố Hà Nội .................................. 41
2.3. Nguyên nhân của những vấn đề ....................................................................... 42
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TẠI BAN TIẾP CÔNG DÂN THÀNH PHỐ HÀ
NỘI ...................................................................................................................50
3.1. Đổi mới, hoàn thiện chính sách khiếu nại, tố cáo, đất đai, tiếp công dân........ 50
3.2. Đổi mới cơ chế thực hiện công tác xử lý đơn khiếu nại, tố cáo ...................... 56
3.3. Đổi mới cơ chế, chính sách để nâng cao chất lượng, trình độ cán bộ, công
chức thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo ........................................... 60
3.4. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về chính
sách giải quyết khiếu nại, tố cáo ............................................................................. 61
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 66


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


KNTC

khiếu nại, tố cáo

BTCDTP HN

Ban Tiếp Công dân thành phố Hà Nội

NCĐ

Người có đơn (công dân, tổ chức)

UBND

Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật
về giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm tiếp nhận
và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Do vậy, giải quyết khiếu nại, tố cáo là một nhiệm
vụ quan trọng thường xuyên của các cơ quan hành chính nhà nước. Giải quyết
khiếu nại, tố cáo đúng, kịp thời làm giảm các bức xúc của người khiếu kiện,
giảm bớt tình trạng khiếu nại, tố cáo vượt cấp, tràn lan đến nhiều cơ quan hành
chính nhà nước và các cơ quan Đảng, chính trị - xã hội, giảm bớt công sức, thời
gian cho cán bộ, công chức, giảm chi phí vật chất cho xã hội; góp phần đảm bảo
an toàn trật tự xã hội.
Ban Tiếp công dân thành phố Hà Nội là cơ quan có nhiệm vụ tiếp công

dân và phân loại, xử lý bước đầu nội dung khiếu nại, tố cáo được tiếp nhận trực
tiếp tại Trụ sở tiếp công dân thành phố hoặc qua đường bưu điện hoặc do các cơ
quan, tổ chức, người có thẩm quyền chuyển đến, Ban Tiếp công dân thành phố.
Trên cơ sở đó, tham mưu cho Chủ tịch UBND thành phố quyết định thụ lý hoặc
không thụ lý giải quyết khiếu nại, tố cáo, hoặc chỉ đạo Chủ tịch UBND cấp
huyện, giám đốc cấp sở xem xét giải quyết theo thẩm quyền. Từ năm 2016 đến
nay, trung bình hằng năm, Ban Tiếp công dân thành phố Hà Nội xử lý khoảng
17.000 đơn thư các loại liên quan các vấn đề kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố
cáo của cá nhân, tổ chức, góp phần làm tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Tuy nhiên, hiện nay, còn nhiều bất cập, hạn chế trong các quy định của
pháp luật ảnh hưởng đến công tác giải quyết quyết khiếu nại, tố cáo, trong đó có
việc tiếp công dân, xử lý bước đầu nội dung khiếu nại, tố cáo. Chất lượng xử lý
nội dung khiếu nại, tố cáo tại Ban Tiếp công dân thành phố Hà Nội có nhiều
trường hợp còn chưa tốt, phân loại không chính xác, nhầm lẫn giữa đơn tố cáo
với đơn phản ánh, giữa khiếu nại với kiến nghị, chưa phân tích được đủ các loại

1


nội dung khiếu nại, tố cáo trong một đơn, chưa xác định được nội dung khiếu
nại, tố cáo đủ điều kiện xử lý, không đủ điều kiện xử lý; khiếu nại, tố cáo thuộc
thầm quyền và không thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch UBND thành
phố. Từ đó, gây khó khăn cho việc xem xét, giải quyết, trả lời người khiếu nại,
tố cáo hoặc đẩy người khiếu nại, tố cáo vào tình thế không được trả lời, giải
quyết hoặc không trả lời, giải quyết đầy đủ. Góp phần gây ra tình trạng lòng
vòng, luẩn quẩn trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo giữa các cơ quan trong hệ
thống chính trị với nhau, làm mất thời gian, tốn kém vật chất, khó khăn trong
quản lý nhà nước, đặc biệt là gây bức xúc cho người khiếu nại, tố cáo, giảm lòng
tin vào cơ quan nhà nước. Ngoài ra, nhận thức pháp luật và thái độ của người
khiếu nại, tố cáo cũng là một vấn đề gây khó khăn cho công tác giải quyết khiếu

nại, tố cáo.
Xuất phát từ lý do trên, học viên đã chọn đề tài “Thực hiện chính sách
giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Ban Tiếp công dân thành phố Hà Nội” làm luận
văn thạc sĩ Chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học chuyên ngành chính sách công
về việc thực hiện chính sách trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, như chính
sách công đối với giáo dục, y tế, chính sách an sinh xã hội, chính sách xóa đói,
giảm nghèo... Tuy nhiên, rất ít các nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn.
Xem xét kỹ có thể thấy 4 đề tài nghiên cứu đã được thực hiện về giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Cụ thể: Luận văn thạc sĩ “Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố
cáo trên địa bàn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội – Thực trạng và giải pháp”
của Lê Thị Sáu, khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Luận văn thạc sĩ “Nâng
cao hiệu quả giải quyết khiếu nại ở thành phố Hà Nội” của Lê Hồng Oanh Ngọc,
Học viện Hành chính thuộc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, Luận văn tiến sỹ “Giải quyết khiếu nại hành chính trong công cuộc cải
cách hành chính ở Việt Nam” của Hoàng Ngọc Dũng, Học viện Hành chính
quốc gia và đề tài khoa học cấp tỉnh “Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả

2


giải quyết khiếu nại, tố cáo ở tỉnh Quảng Bình” của Văn phòng UBND tỉnh
Quảng Bình.
Nhưng các luận văn, đề tài này đều xem xét hoạt động giải quyết khiếu
nại tố cáo nói chung ở địa bàn, lĩnh vực nghiên cứu mà không đi sâu tìm hiểu từ
góc độ chức năng, nhiệm vụ của một tổ chức chuyên trách như Ban Tiếp công
dân của thành phố Hà Nội.
Trong khi đó, tình hình khiếu nại tố cáo của công dân có nhiều diễn biến
phức tạp đòi hỏi phải được nghiên cứu, lý giải và giải quyết một cách hợp lý,

đúng pháp luật, chủ trương chính sách đem lại sự đồng thuận của toàn xã hội.
Do vậy, rất cần thực hiện công trình nghiên cứu chuyên sâu từ góc độ chính sách
công về đề tài này. Luận văn thạc sĩ Chính sách công về đề tài này mang ý nghĩa
lý luận và thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giải quyết
khiếu nại, tố cáo tại Ban Tiếp công dân thành phố Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của chính sách giải quyết
khiếu nại, tố cáo; đánh giá thực trạng thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại,
tố cáo tại Ban Tiếp công dân thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp
góp phần hoàn thiện hơn nữa chính sách khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân và giải
pháp nâng cao chất lượng thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo tại
Ban Tiếp công dân thành phố Hà Nội, góp phần đảm bảo quyền công dân, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đảm bảo an toàn trật tự xã hội trên địa
bàn thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những khái niệm giải quyết khiếu nại, tố cáo và chính sách giải
quyết khiếu nại, tố cáo, những vấn đề đặt ra của chính sách giải quyết khiếu nại,
tố cáo.

3


- Đánh giá thực trạng chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo và công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Ban Tiếp công dân thành phố Hà Nội.
- Đưa ra các kiến nghị cụ thể để hoàn thiện chính sách quyết khiếu nại, tố
cáo và các giải pháp để nâng cao chất lượng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
tại Ban Tiếp công dân thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: những vấn đề lý luận và thực trạng về chính

sách giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực trạng thực hiện chính sách giải quyết
khiếu nại, tố cáo tại Ban Tiếp công dân thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: những vấn đề lý luận và thực trạng về chính
sách giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực trạng thực hiện chính sách giải quyết
khiếu nại, tố cáo tại Ban Tiếp công dân thành phố Hà Nội từ năm 2016 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, về khiếu
nại, tố cáo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: phân tích dựa trên tài liệu có sẵn, các văn
bản quy định chính sách về xử lý đơn, tiếp công dân, khiếu nại, tố cáo.
Các tài liệu được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau bao gồm: báo cáo
hằng năm của UBND thành phố Hà Nội, Ban Tiếp công dân thành phố Hà Nội;
sách, tạp chí, các báo cáo khoa học, các thông tin trên các website có nội dung
liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận: luận văn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
về chính sách công giải quyết khiếu nại tố cáo và hệ thống hóa các chủ trương,
chính sách của Đảng, quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo,
phân tích, tìm ra những hạn chế, bất cập của quy định pháp luật.

4


6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn góp phần tổng kết kinh nghiệm về công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo từ thực tiễn Ban Tiếp công dân thành phố Hà
Nội. Từ đó đưa ra các giải pháp thực tiễn góp phần hoàn thiện, nâng cao chất
lượng thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Ban Tiếp công dân
thành phố Hà Nội.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
Luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Khái quát về khiếu nại, tố cáo và chính sách giải quyết khiếu
nại, tố cáo.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo tại
Ban Tiếp công dân thành phố Hà Nội và vấn đề chính sách từ năm 2016 đến nay.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện chính
sách giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Ban Tiếp công dân thành phố Hà Nội.

5


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VÀ CHÍNH SÁCH
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
1.1. Các khái niệm: Khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo
1.1.1. Khái niệm khiếu nại, tố cáo
- Khái niệm Khiếu nại
Theo Luật Khiếu nại năm 2011 do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ban hành ngày 11/11/2011 thì khiếu nại là việc công dân, cơ
quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành
chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước
hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định
hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình
(Khoản 1, Điều 2).
- Khái niệm Tố cáo:
Theo Luật Tố cáo năm 2011 do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ban hành ngày 11/11/2011 thì tố cáo là việc công dân báo cho cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất

cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức (khoản 1,
Điều 2).
1.1.2. Khái niệm về quyền khiếu nại, tố cáo
Từ khi thành lập đến nay, nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy định về
quyền khiếu nại, tố cáo. Cụ thể:
- Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ban hành ngày 09/11/1946
quy định nguyên tắc “đảm bảo các quyền tự do dân chủ và thực hiện chính

6


quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân“ và “công dân có quyền tự do ngôn
luận“ (Điều 10).
- Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ban hành ngày 31/12/1959
quy định “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền khiếu nại và tố
cáo với bất cứ cơ quan Nhà nước nào về những hành vi phạm pháp của nhân
viên cơ quan Nhà nước” (Điều 29).
- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày
18/12/1980 quy định: “Công dân có quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ
quan nào của Nhà nước về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của bất cứ cá nhân nào
thuộc các cơ quan, tổ chức và đơn vị đó. Các điều khiếu nại và tố cáo phải được
xem xét và giải quyết nhanh chóng. Mọi hành động xâm phạm quyền lợi chính
đáng của công dân phải được kịp thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh. Người bị
thiệt hại có quyền được bồi thường. Nghiêm cấm việc trả thù người khiến nại, tố
cáo.” (Điều 73).
- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày
15/4/1992 quy định: “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà

nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá
nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước xem xét và giải
quyết trong thời hạn pháp luật quy định. Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời
xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và
phục hồi danh dự. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi
dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác”.(Điều 74)
- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày
25/11/2013 quy định: “1. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ

7


chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ
chức, cá nhân.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh
thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật.
3. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền
khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.” (Điều 30)
Như trên có thể thấy, mặc dù Hiến pháp năm 1946 chưa đề cập trực tiếp
đến quyền khiếu nại, tố cáo nhưng Nhà nước ta đã xác định rất rõ nguyên
tắc các quyền tự do dân chủ và thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của
nhân dân, tạo tiền đề cho việc cụ thể hóa quyền khiếu nại, tố cáo ở các bản hiến
pháp sửa đổi sau này. Ở các giai đoạn tiếp theo, quyền khiếu nại, tố cáo liên tục
được đề cập chi tiết, cụ thể hơn, trong đó có trách nhiệm của cơ quan nhà nước
trong việc giải quyết.
Khái quát toàn bộ 5 bản Hiến pháp nêu trên, có thể khẳng định: quyền
khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền hiến định cơ bản của công dân Việt
Nam, có tính chất chính trị và pháp lý của công dân,thể hiện sâu sắc bản chất

dân chủ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là nền tảng cho việc thực
hiện các quyền và nghĩa vụ khác của công dân.
1.1.3. Khái niệm giải quyết khiếu nại, tố cáo
- Giải quyết khiếu nại: theo Luật Khiếu nại năm 2011 do Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 11/11/2011 thì giải quyết
khiếu nại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại.
Trong đó, việc thụ lý được quy định “Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận
được khiếu nại thuộc thẩm quyền mà không thuộc một trong các trường hợp
được quy định tại Điều 11 của Luật này, người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại lần đầu phải thụ lý giải quyết; thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại,
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền chuyển khiếu nại đến và cơ quan thanh

8


tra nhà nước cùng cấp biết, trường hợp không thụ lý giải quyết thì phải nêu rõ
lý do.” (Điều 27)
- Giải quyết tố cáo: theo Luật Tố cáo năm 2011 do Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 11/11/2011 thì giải quyết tố cáo
là việc tiếp nhận, xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và việc xử lý tố cáo của
người giải quyết tố cáo. Trong đó, việc tiếp nhận được quy định: “Nếu tố cáo
thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày
nhận được đơn tố cáo, phải kiểm tra, xác minh họ, tên, địa chỉ của người tố cáo
và quyết định việc thụ lý hoặc không thụ lý giải quyết tố cáo, đồng thời thông
báo cho người tố cáo biết lý do việc không thụ lý, nếu có yêu cầu; trường hợp
phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn kiểm tra, xác minh có thể
dài hơn nhưng không quá 15 ngày” (Khoản 1, Điều 20).
Luật Tiếp Công dân năm 2013, tại Điều 8 khoản 5 quy định Trách nhiệm
của người tiếp công dân:“Trực tiếp xử lý hoặc phân loại, chuyển đơn, trình
người có thẩm quyền xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; thông báo kết

quả xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh cho công dân”. Tại Điều 26,
khoản 1, điểm a quy định: “Trường hợp khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải
quyết của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình và đủ điều kiện thụ lý thì người tiếp
công dân tiếp nhận thông tin, tài liệu, chứng cứ kèm theo, đồng thời báo cáo với
người có thẩm quyền thụ lý”.
1.1.4. Vai trò và ý nghĩa của giải quyết khiếu nại, tố cáo
Giải quyết khiếu nại, tố cáo có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt
động quản lý nhà nước, xã hội. Cụ thể như sau:
- Thể hiện trách nhiệm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mọi
khiếu nại, tố cáo phải được giải quyết đầy đủ. Căn cứ kết quả giải quyết, người
có thẩm quyền trả lời đầy đủ, khẳng định nội dung khiếu nại, tố cáo là đúng, sai
hay có đúng có sai. Từ đó, thực hiện các biện pháp đảm bảo quyền lợi của công

9


dân hoặc làm căn cứ để công dân tiếp tục thực hiện các quyền khiếu nại, tố cáo
tiếp của mình hoặc quyền tố tụng hành chính.
- Kiểm tra lại chính sách, luật pháp, quy trình quản lý nhà nước. Nhà nước
thực hiện các biện pháp quản lý bằng các công cụ chính sách. Khi các công cụ
chính sách tác động vào đời sống xã hội, ngoài ý nghĩa tích cực còn có tiêu cực,
phát sinh khiếu nại, tố cáo. Do đó, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo là một trong
những cách nhà nước thấy được những bất hợp lý, kể cả về luật pháp, từ đó giải
quyết quyền lợi cho công dân và chỉnh sửa các chính sách, luật pháp cho phù
hợp với thực tiễn cuộc sống.
- Thước đo trách nhiệm, năng lực, phẩm chất của lãnh đạo quản lý đơn vị,
địa phương. Một địa phương, đơn vị để phát sinh và tồn đọng nhiều vụ việc khiếu
nại, tố cáo phần nào đó thể hiện phẩm chất năng lực, trình độ và trách nhiệm của
người lãnh đạo đứng đầu còn hạn chế. Khả năng giải quyết dứt điểm, triệt để,
không để tồn đọng kéo dài thể hiện một phẩm chất tốt của người lãnh đạo.

- Đảm bảo ổn định trật tự xã hội. Việc giải quyết dứt điểm khiếu nại, tố
cáo sẽ làm giảm bức xúc trong xã hội, không để những công dân có khiếu nại, tố
cáo chậm được giải quyết liên kết với nhau thành những đám đông, tập trung
khiếu kiện, gây bất ổn, tạo thành những mảng xấu trong bức tranh đời sống xã
hội, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế. Không để vấn đề khiếu nại, tố cáo trở
thành vấn đề an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
- Phát huy dân chủ trong mọi mặt đời sống xã hội, bảo đảm mọi người
dân đều có quyền tham gia xây dựng đất nước. Không chỉ bảo vệ quyền lợi của
mình, mọi người dân đều có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi chung của cộng đồng
xã hội, của đất nước. Khi thấy quyền lợi, sự an toàn của cộng đồng bị hoặc có
nguy cơ bị xâm hại, mọi công dân đều có quyền phát ngôn, bày tỏ chính kiến
thông qua khiếu nại, tố cáo. Do vậy, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo là thể hiện
sự bảo đảm quyền dân chủ cho mỗi công dân.

10


- Nắm được tâm tư, nguyện vọng của công dân. Muốn quản lý, điều hành
ổn định xã hội đòi hỏi nhà nước phải thường xuyên nắm được tâm tư, nguyện
vọng của mọi người dân. Thông qua việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, người lãnh
đạo có thể nắm được tâm tư, nguyện vọng của một bộ phận nhân dân ở khu vực
có khiếu nại, tố cáo. Từ đó, nghiên cứu, tìm hiểu rõ nguyên nhân và có những
biện pháp xử lý phù hợp.
Vì là khâu đầu tiên của quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo nên công tác
tiếp công dân, xử lý đơn cũng có ý nghĩa quan trọng. Việc tiếp xúc ban đầu với
công dân, là khâu đầu tiên của sự tiếp cận, tiếp nhận, phân tích, trao đổi thông
tin, là lần đầu tiên đại diện của cơ quan nhà nước tiếp xúc với công dân để chuẩn
bị thực hiện quy trình giải quyết. Do vậy, ấn tượng, cảm xúc về cơ quan nhà
nước đã bắt đầu hình thành trong suy nghĩ của công dân. Việc tạo điều kiện
thuận lợi cho công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo trong quá trình tiếp

công dân, nghiên cứu kỹ nội dung đơn trong quá trình xử lý đơn cũng chính là
thể hiện trách nhiệm của đại diện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, rà soát,
kiểm tra lại các chính sách, pháp luật, quy trình quản lý nhà nước, phát huy cao
dân chủ, thể hiện năng lực, phẩm chất của người cán bộ.
1.1.5. Vai trò của Ban Tiếp công dân thành phố Hà Nội trong giải quyết
khiếu nại, tố cáo
Căn cứ Luật Tiếp Công dân năm 2013 và Quyết định số 1466/QĐUBNDngày 28 tháng 02 năm 2017 của UBND thành phố Hà Nội, Ban Tiếp
công dân thành phố Hà Nội trực tiếp quản lý Trụ sở tiếp công dân thành phố Hà
Nội; phối hợp cùng đại diện cơ quan, tổ chức hữu quan tổ chức, thực hiện việc
tiếp công dân thường xuyên tại Trụ sở tiếp công dân để tiếp nhận các kiến nghị,
phản ánh, khiếu nại, tố cáo của công dân theo quy định của pháp luật; Là cơ
quan đầu mối xử lý bước đầu tất cả các đơn thư kiến nghị, phản ánh, khiếu nại,
tố cáo theo quy định của pháp luật; Phân loại, xử lý đơn kiến nghị, phản ánh,
khiếu nại, tố cáo được tiếp nhận trực tiếp tại Trụ sở tiếp công dân thành phố

11


hoặc qua đường bưu điện hoặc do các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền
chuyển đến Ủy ban nhân dân thành phố, Ban Tiếp công dân thành phố, cơ quan,
tổ chức tham gia tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân thành phố. Trên cơ sở
đó, tham mưu cho Chủ tịch UBND thành phố: 1) Quyết định thụ lý hoặc không
thụ lý giải quyết khiếu nại, tố cáo; 2) Chỉ đạo, giao nhiệm vụ cho Chủ tịch
UBND cấp huyện, thủ trưởng cấp sở xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo; 3)
Đôn đốc theo dõi kết quả thực hiện.
Như vậy, có thể nói, Ban Tiếp công dân thành phố Hà Nội là cơ quan tham
mưu, giúp việc đầu tiên cho Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội về công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo bên cạnh các cơ quan khác giúp việc ở các giai đoạn tiếp
theo như: Thanh tra thành phố, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng, Sở
Lao động – Thương binh và Xã hội... Với một thành phố Thủ đô có quy mô dân

số khoảng hơn 7 triệu người và khoảng 3 triệu người vãng lai (tính đến năm
2017, theo nguồn của Cục Thống kế thành phố Hà Nội năm 2017), thì trách
nhiệm, vai trò của Ban Tiếp công dân thành phố Hà Nội là rất lớn bên cạnh vai
trò, trách nhiệm của Chủ tịch UBND thành phố đối với công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo, mà cụ thể là công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư của Ban Tiếp
công dân thành phố Hà Nội.
Ban Tiếp công dân thành phố Hà Nội có vai trò, trách nhiệm giúp Chủ tịch
UBND thành phố giải quyết tốt khiếu nại, tố cáo ngay từ khâu ban đầu là tiếp
xúc với nhân dân, xử lý đơn, thể hiện bản chất tốt đẹp của nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, chủ động kiểm tra lại những chính sách, quy trình quản lý nhà
nước do mình ban hành hoặc áp dụng thực hiện, để tự khắc phục, phát huy cao
tinh thần dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân, góp phần đảm bảo ổn định xã
hội. Đồng thời, nắm chắc được tâm tư, nguyện vọng của công dân. Từ đó,
nghiên cứu, tìm hiểu rõ nguyên nhân và có những biện pháp xử lý phù hợp. Việc
tiếp công dân và xử lý đơn chính xác, đầy đủ, kịp thời sẽ giúp đẩy nhanh tiến độ
và nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo và cung cấp thông tin, trả lời

12


công dân. Cơ cấu, tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Ban Tiếp công dân thành
phố Hà Nội được thể hiện qua 2 mô hình dưới đây (Quyết định số 1466/QĐUBND ngày 28 tháng 02 năm 2017 của UBND thành phố Hà Nội):
Hình 1.1: MÔ HÌNH TỔ CHỨC
BAN TIẾP CÔNG DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

- Nhiệm vụ chủ yếu: Tiếp công dân và xử lý đơn thường xuyên, định kỳ,
đột xuất tại 02 trụ sở tiếp công dân Thành phố: Số 34 Lý Thái Tổ, quận Hoàn
Kiếm và số 20 Hoàng Diệu, quận Hà Đông, Hà Nội.
- Chức năng, nhiệm vụ của phòng Tiếp công dân và xử lý đơn: Thực hiện
tiếp công dân, xử lý tình trạng đoàn đông người tập trung khiếu kiện không đúng

quy định, phục vụ Lãnh đạo UBND thành phố tiếp công dân, phối hợp với các
cơ quan tiếp công dân tại Trụ sở; xử lý đơn từ các nguồn chuyển đến UBND
thành phố.
- Chức năng, nhiệm vụ của phòng Tổng hợp: Tham mưu tổng hợp, giúp
UBND thành phố, Chủ tịch UBND thành phố trong chỉ đạo, điều hành liên quan
đến công tác giải quyết quyết khiếu nại, tố cáo, làm đầu mối thực hiện nhiệm vụ:

13


phối hợp thẩm định, dự thảo các văn bản chỉ đạo, quyết định giải quyết khiếu
nại, kết luận giải quyết tố cáo thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND thành phố.
- Chức năng, nhiệm vụ của phòng Kiểm tra: Thực hiện theo dõi, kiểm tra,
đôn đốc việc tổ chức thực hiên các Quyết định giải quyết khiếu nại, Kết luận
giải quyết tố cáo, văn bản chỉ đạo của Chủ tịch UBND thành phố đối với các
đơn vị.
Hình 1.2: QUY TRÌNH THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
CỦA BAN TIẾP CÔNG DÂN THÀNH PHỐ

Giai
đoạn
1

Giai
đoạn
2

14



1.2. Chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo
- Như trên đã nêu, khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán
bộ, công chức đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại
quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước,
của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định
kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là
trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Giải quyết khiếu
nại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại.
Tố cáo là việc công dân báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân, cơ quan, tổ chức. Giải quyết tố cáo là việc tiếp nhận, xác minh,
kết luận về nội dung tố cáo và việc xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo.
Chính sách công là định hướng hành động do nhà nước lựa chọn để giải
quyết những vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng phù hợp với thái độ
chính trị trong mỗi thời kỳ nhằm giữ cho xã hội phát triển theo định hướng.
Chính sách công có vai trò rất quan trọng trong quản lý nhà nước thể hiện qua
các mặt: định hướng cho các hoạt động kinh tế - xã hội; khuyến khích và hỗ trợ
các hoạt động kinh tế - xã hội theo định hướng; phát huy những mặt tốt, khắc
phục những hạn chế của thị trường; tạo lập cân đối trong phát triển; kiểm soát và
phân bổ nguồn lực xã hội; tăng cường phối hợp hoạt động giữa các cấp chính
quyền (Giáo trình Tổng quan chính sách công của PGS.TS. Hồ Việt Hạnh).
Chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo là một loại chính sách công và tập
trung vào giải quyết vấn đề khiếu nại, tố cáo, giải quyết mối quan hệ khiếu nại,
tố cáo giữa công dân với nhà nước, giữa người khiếu nại, tố cáo, người bị khiếu
nại, tố cáo, người giải quyết khiếu nại, tố cáo và người có liên quan.

15



Đặc điểm của chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo là chỉ có người có
thẩm quyền của các cơ quan nhà nước giải quyết khiếu nại, tố cáo. Chính sách
giải quyết khiếu nại, tố cáo có nhiều nội dung và được thực hiện theo một quy
trình cụ thể, trong đó, việc tiếp công dân, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo là những
khâu ban đầu của quy trình (thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải
quyết khiếu nại hoặc tiếp nhận, xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và việc xử
lý tố cáo của người giải quyết tố cáo). Tiếp công dân, xử lý đơn là khâu ban đầu
giúp định hướng chính xác việc giải quyết khiếu nại, tố cáo vì khi giải quyết
khiếu nại, tố cáo, người có thẩm quyền phải trả lời câu hỏi: ai khiếu nại, tố cáo
và khiếu nại, tố cáo về vấn đề gì? Câu trả lời này phải được làm rõ ngay từ ban
đầu, tại khâu tiếp công dân và xử lý đơn.
1.2.2. Những nội dung cơ bản của chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo
- Chỉ đạo của Đảng về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
Từ năm 2002 trở lại đây, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung
ương có nhiều chỉ đạo về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, như: Chỉ thị
09/CT-TW, ngày 06/3/2002 của Ban Bí thư, Thông báo số 130/TB-TW ngày
10/01/2008 của Bộ Chính trị về công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại,
tố cáo, Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Cụ thể như sau:
Tình hình khiếu nại, tố cáo nói chung và khiếu nại, tố cáo liên quan đến
tham nhũng, hoạt động tư pháp, tôn giáo còn diễn biến phức tạp. Số vụ việc
khiếu nại, tố cáo đông người, kéo dài, vượt cấp có xu hướng gia tăng, một số vụ
việc manh động, quá khích, có sự kích động, hỗ trợ của các phần tử xấu; cá biệt
có trường hợp cực đoan, quyết liệt chống lại người thi hành công vụ. Nhiều vụ
việc khiếu nại, tố cáo về đất đai, tranh chấp tài sản chưa được giải quyết dứt
điểm, để kéo dài, gây bức xúc, tiềm ẩn nguy cơ phát sinh “điểm nóng” về an
ninh trật tự. Một số vụ việc đã được cơ quan có thẩm quyền giải quyết đúng


16


chính sách, pháp luật, nhưng không được chấp hành nghiêm túc. Tình hình trên
đã tác động tiêu cực đến việc phát triển kinh tế - xã hội, tạo cớ để các thế lực thù
địch, phần tử xấu lợi dụng chống phá, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước.
Nguyên nhân chủ yếu của hạn chế, thiếu sót là: chính sách pháp luật còn
bất cập, chưa phù hợp với thực tế. Công tác tuyên truyền, phổ biến để nâng cao
nhận thức và trách nhiệm thực hiện pháp luật cho cán bộ, đảng viên, công chức
và công dân còn hạn chế. Công tác lãnh đạo và tổ chức thực hiện của nhiều cấp
ủy, tổ chức đảng, chính quyền chưa sâu sát, thiếu quyết liệt; người đứng đầu một
số cơ quan, tổ chức chưa quan tâm đúng mức đối với công tác tiếp công dân và
giải quyết khiếu nại, tố cáo. Việc xử lý, khắc phục sai phạm chưa nghiêm. Quan
hệ phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức chưa chặt chẽ; đội ngũ cán bộ làm công
tác tiếp công dân và tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa được quan tâm,
củng cố đúng mức.
Để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của công tác tiếp dân và giải
quyết khiếu nại, tố cáo, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, Bộ Chính
trị yêu cầu các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể tập trung lãnh đạo, chỉ đạo,
thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu:
(1) Quán triệt đầy đủ, thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chính sách
pháp luật của Đảng và nhà nước về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại,
tố cáo. Cần nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của công tác tiếp công dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo. Làm tốt công tác này là bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân; tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã
hội; củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; góp phần nâng cao
chất lượng công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng và hiệu quả đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi

trường thuận lợi để phát triển đất nước.

17


(2) Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến quyền và lợi ích của
người dân, nhất là trong lĩnh vực đất đai, tài nguyên, đầu tư, tài chính..., bảo
đảm tính đồng bộ phù hợp thực tiễn. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tiếp công
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo hướng nâng cao thẩm quyền, trách nhiệm
của cơ quan thanh tra; của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, của Hội đồng nhân dân,
đại biểu Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện chức năng giám sát; của người
đứng đầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo.
(3) Phát huy trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ
quan nhà nước; lấy hiệu quả của công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo
làm tiêu chí đánh giá năng lực, kết quả công tác. Người đứng đầu tổ chức đảng,
chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị phải trực tiếp
lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về tình hình khiếu nại, tố cáo và công tác
tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi địa bàn, lĩnh vực phụ
trách. Thực hiện nghiêm chế độ tiếp công dân theo quy định của Luật Tiếp công
dân, gắn việc tiếp công dân với xử lý, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh. Chú trọng tiếp công dân tại cơ sở, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của
người dân. Chủ động đối thoại, vận động, thuyết phục công dân để giải quyết,
tháo gỡ triệt để khiếu kiện, bức xúc của nhân dân.
(4) Kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tiếp dân và tham
mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo có phẩm chất đạo đức tốt, tinh thông nghiệp vụ,
có khả năng hướng dẫn, giải thích, thuyết phục để công dân hiểu và chấp hành
đúng pháp luật. Bố trí trụ sở, trang bị phương tiện và đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin phục vụ công tác tiếp công dân, bảo đảm thuận lợi cho công dân
và cán bộ, công chức tiếp công dân.
Như vậy có thể nói, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo được Đảng ta

quan tâm chỉ đạo sâu sắc, toàn diện, trong đó đã nhấn mạnh sâu về công tác tiếp
công dân, khâu đầu tiên và là nội dung không thể tách rời trong quá trình giải
quyết khiếu nại, tố cáo.

18


- Các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo: Từ khi thành lập nước
(2/9/1945) đến nay, các quy định pháp luật về khiếu nại, tố cáo liên tục được xây
dựng và không ngừng hoàn thiện qua từng thời kỳ. Đến nay, chính sách khiếu
nại, tố cáo được thể hiện đầy đủ ở các văn bản: Luật Khiếu nại năm 2011, Luật
Tố cáo năm 2011 và Luật Tiếp Công dân năm 2013, Luật Đất đai năm 2013 và
nhiều văn bản nghị định, thông tư hướng dẫn thực hiện khác. Nội dung này được
trình bày kỹ ở phần sau.
1.2.3. Quá trình hình thành chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo ở Việt Nam
- Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 64/SL thành lập
Ban Thanh tra đặc biệt với trách nhiệm “Nhận đơn khiếu nại của nhân dân; điều
tra hỏi chứng, xem xét các giấy tờ của Ủy ban nhân dân hoặc các cơ quan của
Chính phủ cần thiết cho công việc giám sát”. Ngày 18/12/1949, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 138b-SL thành lập Ban Thanh tra Chính phủ
(thay cho Ban Thanh tra đặc biệt), trong đó có chức năng “thanh tra sự khiếu nại
của nhân dân”.
- Năm 1954, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Thông tư số 436/TTg
ngày 13/9/1958 quy định về trách nhiệm, quyền hạn và tổ chức của cơ quan
chính quyền trong việc giải quyết các loại đơn thư khiếu nại, tố cáocủa nhân dân
xác định: “Nghiên cứu và giải quyết các việc khiếu nại và tố giác của nhân dân
là một trách nhiệm quan trọng của tất cả các cơ quan nhà nước trước nhân
dân”. Ủy ban Thanh tra của Chính phủ ban hành Thông tư số 60/UBTT ngày
22/5/1971 hướng dẫn trách nhiệm của các ngành, các cấp về giải quyết đơn thư
khiếu nại, tố cáo của nhân dân.

- Năm 1981, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Hội đồng Nhà nước đã ban
hành Pháp lệnh quy định việc xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, tập
trung vào một số vấn đề, tập trung vào một số vấn đề:
+ Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với bất cứ cơ quan nào của Nhà
nước về những việc làm trái chính sách pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức

19


kinh tế, văn hoá, xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của bất cứ cá nhân nào
thuộc cơ quan, đơn vị, tổ chức đó làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, của tập
thể và quyền lợi chính đáng của công dân. Như vậy, có thể thấy rằng, đối tượng
của khiếu nại là rất rộng và không có sự phân biệt với tố cáo.
+ Về thẩm quyền giải quyết khiếu nại, ngoài việc xác định trách nhiệm
giải quyết khiếu nại là thủ trưởng các cơ quan nhà nước, Pháp lệnh còn quy định
cả Chủ nhiệm hợp tác xã và Trưởng tập đoàn sản xuất, điều này là xuất phát từ
tình hình kinh tế xã hội thời kỳ chỉ có 2 thành phần kinh tế chủ đạo là kinh tế
nhà nước và kinh tế tập thể.
+ Pháp lệnh quy định cơ chế giải quyết khiếu nại: Các khiếu nại đối với
nhân viên thuộc cơ quan, tổ chức nào thì thủ trưởng hoặc ban lãnh đạo cơ quan,
tổ chức đó có trách nhiệm xét, giải quyết. Các khiếu nại đối với thủ trưởng hoặc
ban lãnh đạo cơ quan, tổ chức nào thì thủ trưởng hoặc ban lãnh đạo cấp trên trực
tiếp của cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm xét, giải quyết.
- Năm 1991, Nhà nước ta ban hành Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo của công
dân thay thế cho Pháp lệnh năm 1981, có nhiều nội dung phát triển hơn trước.
+ Về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân: Công dân cần khiếu nại, tố
cáo đến đúng cơ quan nhà nước có thẩm quyền, khắc phục tình trạng đơn thư
khiếu tố gửi tràn lan, vượt cấp, gây lãng phí về thời gian và công sức cho quá
trình tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
+ Đưa ra hai khái niệm khiếu nại và tố cáo với những đặc trưng của nó.

Xác định thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết đối với từng loại vụ việc. Quy
định trình tự và thủ tục tiếp nhận và giải quyết khiếu nại tương đối chặt chẽ, tạo
điều kiện để công dân có thể thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình, đồng
thời cũng giúp các cơ quan nhà nước có trách nhiệm có thể thực hiện việc tiếp
nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo một cách nền nếp.
+ Quy định cụ thể về thẩm quyền giải quyết đối với vụ việc khiếu nại và
tố cáo, nhất là đối với khiếu nại, theo đó một vụ việc khiếu nại sẽ được giải

20


quyết qua ba lần: (1) Cơ quan có thẩm quyền đầu tiên là cơ quan có quyết định
hoặc hành vi hành chính bị khiếu nại; (2) Cơ quan có thẩm quyền giải quyết tiếp
theo là tổ chức thanh tra nhà nước cấp trên trực tiếp; (3) Cơ quan có thẩm quyền
giải quyết cuối cùng là thủ trưởng của cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp
với tổ chức thanh tra đó.
- Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998:
Những nội dung đáng chú ý:
+ Mở rộng đối tượng, phạm vi điều chỉnh quyền khiếu nại, (thêm cơ quan,
tổ chức), mở rộng chủ thể và đối tượng khiếu nại là cán bộ, công chức có quyền
khiếu nại các quyết định kỷ luật của Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước.
Ngoài ra, Luật Khiếu nại, tố cáo còn quy định cá nhân, tổ chức nước ngoài làm
ăn tại Việt Nam có quyền khiếu nại thì thực hiện theo quy định của Luật này, trừ
trường hợp có các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết với quốc gia đó có quy
định khác thì ưu tiên thực hiện theo điều quốc quốc tế đó.
+ Về thẩm quyền giải quyết khiếu nại: quy định thẩm quyền giải quyết
khiếu nại hành chính là Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước. Theo nguyên
tắc này thì cấp giải quyết khiếu nại lần đầu là Thủ trưởng cơ quan hành chính có
quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại, bao gồm cả hành vi các
cán bộ trong cơ quan đó; cấp thứ hai là Thủ trưởng cơ quan cấp trên của cơ quan

bị khiếu nại. Cá biệt có thể qua ba cấp giải quyết: lần đầu là Thủ trưởng cơ quan
của cơ quan thuộc Chính phủ, lần hai là Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ,
lần ba là Tổng Thanh tra Nhà nước.
Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã quy định Thủ tướng Chính phủ có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Cụ thể: Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại mà Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đã giải quyết
nhưng còn khiếu nại, trừ khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại cuối
cùng; khiếu nại đặc biệt phức tạp liên quan đến nhiều địa phương, nhiều lĩnh
vực quản lý nhà nước.

21


×