Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh an giang tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (810.79 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN TRUNG

TỘI BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG:
TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ PHÒNG NGỪA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN TRUNG

TỘI BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG:
TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ PHÒNG NGỪA

Ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN VĂN HIỂN

HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện độc lập và dưới sự hướng dẫn của TS Nguyễn Văn Hiển, Ủy viên
thường trực Ủy ban pháp luật Quốc hội.
Các kết quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết lời cam đoan này kính đề nghị Học viện cho tôi được bảo
vệ luận văn trước Hội đồng.
Đà Nẵng, ngày tháng năm 2019
Tác giả luận văn

Trần Trung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TÌNH HÌNH TỘI BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN
GIANG ............................................................................................................. 6
1.1. Nhận thức về buôn lậu và tội phạm buôn lậu ............................................ 6
1.2. Tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn 2013- 2017
......................................................................................................................... 12
CHƯƠNG 2. NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI
BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG ................................... 337
2.1. Những vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội buôn
lậu…………..................................................................................................43
2.2. Các nguyên nhân và điều kiện tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An
Giang………………………………………………………………………..55
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI
BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG…………………… .56
3.1. Dự báo tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang trong thời gian

tới ............................................................................................................61
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên
địa bàn tỉnh An Giang………………………………………………………75
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

1. ANTT

: An ninh trật tự

2. BLHS

: Bộ luật hình sự

3.CA

: Công an

4. TAND

: Tòa án nhân dân

5. TA

: Tòa án

6. VKSND


: Viện kiểm sát nhân dân

7. PBGDPL

: Phổ biến giáo dục pháp luật

8. UBND

: Ủy ban nhân dân

9. GS

: Giáo sư

10. TP

: Thành phố

11. TS

: Tiến sĩ

12. Tr

: Trang

13. Nxb

: Nhà xuất bản


14. HĐTP

: Hội đồng thẩm phán

15. TX

: Thị xã


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Thực trạng tình hình buôn lậu ở An Giang (2013 – 2017) ............. 17
Bảng 1.2. Tỉ trọng tội buôn lậu so với mức độ tổng quan của tình hình tội
phạm trên địa bàn tỉnh tỉnh An Giang giai đoạn 2013 – 2017 ........................ 17
Bảng 1.3. Cơ số tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn 2013- 2017
Bảng 1.4: Diễn biến của tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn
2013- 2017………………………………………………………………… 18
Bảng 1.5: Cơ cấu của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang giai
đoạn 2013- 2017……………………………………………………………..
Bảng 1.6: Mật độ tội buôn lậu từ năm 2013- 2017 ở 11 đơn vị cấp huyện của
tỉnh An Giang……………………………………………………………… 19
Bảng 1.7: Cấp độ nguy hiểm của tình hình tội buôn lậu giai đoạn 2013-2017
trên cơ sở kết hợp hai yếu tố dân cư và diện tích……………………………
Bảng 1.8. Cơ cấu số vụ buôn lậu trong tổng số vụ phạm tội xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế tỉnh An Giang giai đoạn 2013-2017....................................... 24
Bảng 1.9. Cơ cấu của tình hình tội buôn lậu tỉnh An Giang giai đoạn 2013 –
2017 theo giới tính .......................................................................................... 25
Bảng 1.10. Cơ cấu về độ tuổi của người phạm tội buôn lậu ở An Giang giai
đoạn (2013 – 2017) ......................................................................................... 26
Bảng 1.11. Cơ cấu của tình hình tội phạm buôn lậu tỉnh An Giang giai đoạn

2013- 2017 theo trình độ học vấn ................................................................... 27


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
An Giang là một tỉnh có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế
- xã hội, an ninh - quốc phòng của khu vực miền Tây Nam Bộ, phía Bắc giáp
hai tỉnh Kandal và Takéo của Campuchia, phía Nam giáp thành phố Cần Thơ,
phía Đông giáp tỉnh Đồng Tháp, phía Tây giáp tỉnh Kiên Giang. Tỉnh An
Giang có đường biên giới giáp với Campuchia dài 104 km; có nhiều cửa
khẩu, trong đó có cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên (thuộc huyện Tịnh Biên) và cửa
khẩu quốc tế đường sông Vĩnh Xương (thuộc Thị xã Tân Châu) với lưu lượng
hàng hóa vận chuyển hàng triệu tấn/năm. Chính vì đặc điểm đó nên An Giang
đã trở thành một trong những địa phương phát triển mạnh về thương mại và
du lịch. Bên cạnh những thuận lợi để phát triển về kinh tế - xã hội thì tình
hình tội phạm diễn ra khá phức tạp, trong đó nổi lên là tội phạm buôn lậu.
Theo báo cáo của Công an tỉnh An Giang, chỉ tính riêng từ năm 2013 đến
năm 2017 cơ quan chức năng đã phát hiện và xử lý 4.621 vụ buôn lậu, thu giữ
hàng hóa khoảng 136,5 tỷ đồng, trong đó khởi tố điều tra 285 vụ phạm tội
buôn lậu với 455 đối tượng.
Tội phạm buôn lậu ngoài việc ảnh hưởng xấu đến thị trường hàng hóa
nói chung, ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp, ảnh hưởng đến quy định của nhà nước về buôn bán hàng hóa qua biên
giới, ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại của nhà nước mà nó còn gây ảnh
hưởng tiêu cực nhiều mặt đến đời sống xã hội ở trong nước Việt Nam.
Những số liệu trên đã phần nào phản ánh thực trạng của tội phạm buôn
lậu trên địa bàn tỉnh An Giang đang diễn biến hết sức phức tạp. Số vụ buôn lậu
phát hiện và bị bắt giữ hàng năm rất nhiều tuy nhiên vì những lý do khác nhau
vẫn còn nhiều vụ án buôn lậu chưa được phát hiện và xử lý, răn đe, ngăn chặn


1


kịp thời do đó công tác đấu tranh phòng chống tội pham buôn lậu chưa đạt
được hiệu quả mong muốn. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng, tìm ra nguyên
nhân của tội phạm buôn lậu, dự báo xu hướng biến động để xây dựng giải pháp
phòng ngừa có hiệu quả nhóm tội phạm này trên địa bàn tỉnh An Giang là một
việc làm có tính cấp thiết trong tình hình hiện nay. Xuất phát từ lý do đó, tác
giả đã lựa chọn vấn đề: “Tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang: Tình hình,
nguyên nhân và phòng ngừa” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, ở nước ta đã có một số công trình, đề tài nghiên
cứu khoa học có liên quan được công bố như:
- Nguyễn Đức Bình (2000), “Đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu hoặc
vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới”, Luận án Tiến sĩ luật
học, Đại học luật Hà Nội, Hà Nội.
- Dương Thị Nhàn (2006), “Đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã
hội, Hà Nội.
- Nguyễn Hữu Hoan (2011), “Hoạt động nghiệp vụ trinh sát trong đấu
tranh phòng, chống tội phạm trên tuyến giao thông đường thủy nội địa của
lực lượng Cảnh sát đường thủy”, Luận án Tiến sĩ luật học, Học viện CSND.
- Lê Đặng Quốc Phong (2012), “Phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh
Kiên Giang”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.
- Nguyễn Thùy Trang (2016), “Tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn:
Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện
khoa học xã hội, Hà Nội. Và một số đề tài nghiên cứu khoa học các cấp của các
cơ quan có chức năng đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu. Các công trình
nghiên cứu trên đã làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn trong công tác đấu tranh
phòng chống tội buôn lậu, hoặc đề cập đến công tác đấu tranh chống buôn lậu


2


của một lực lượng, chưa nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về công tác
đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu trên một địa bàn tỉnh An Giang, cũng
như giải pháp để phòng ngừa, ngăn chặn loại tội phạm này và vì vậy đề tài
được kế thừa những giá trị khoa học của các công trình đã được nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở đánh giá về tình hình, nguyên
nhân làm phát sinh tội buôn lậu từ đó đưa ra giải pháp phòng ngừa tội phạm
này trên địa bàn tỉnh An Giang trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, tác giả
luận văn thấy cần phải thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Phân tích khái quát để làm rõ những vấn đề lý luận về tình hình tội
buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang
- Đánh giá thực trạng, diễn biến, cơ cấu, tính chất tình hình tội buôn lậu
trên địa bàn tỉnh An Giang trong thời gian từ năm 2013 – 2017
- Phân tích khái quát để làm rõ những vấn đề lý luận về nguyên nhân,
điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang
- Dự báo tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang để từ đó hoàn
thiện hệ thống phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội buôn
lậu trên địa bàn tỉnh An Giang
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là làm rõ hơn những lý luận cơ
bản về tội buôn lậu, tình hình tội buôn lậu, nguyên nhân và điều kiện của tội
buôn lậu và các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh
An Giang; thực trạng tình hình tội phạm buôn lậu ở An Giang trong thời gian 5

năm (từ năm 2013 đến 2017).

3


4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung, đề tài được thực hiện dưới góc độ tội phạm học thuộc
chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm;
- Về tội danh, đề tài đề cập đến tình hình tội buôn lậu được quy định tại
điều 188 của Bộ luật hình sự 2015.
- Về không gian, đề tài sử dụng số liệu thực tế trên địa bàn tỉnh An
Giang, bao gồm số liệu thống kê của cơ quan Công an, Tòa án tỉnh An Giang.
- Về thời gian, đề tài nghiên cứu được giới hạn trong thời gian từ 2013
đến 2017.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận
chủ nghĩa Mác-Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng làm
cơ sở, phương pháp luận cho việc nghiên cứu để giải quyết những vấn đề về
lý luận tình hình tội buôn lậu, thực trạng, nguyên nhân và điều kiện tội buôn
lậu từ đó đề ra các giải pháp phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An
Giang làm cơ sở thực tiễn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp
nghiên cứu: Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, và phương pháp
diễn giải.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ
nhiều vấn đề lý luận về tình hình tội buôn lậu, nguyên nhân và điều kiện của tội
buôn lậu, nhân thân người phạm tội và giải pháp phòng ngừa tội buôn lậu trên
địa bàn tỉnh An Giang.
6.2. Về mặt thực tiễn: Kết quả của luận văn có thể giúp các cơ quan tổ

chức tham khảo để vận dụng vào việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao trình độ
nhận thức và ý thức pháp luật cho nhân dân, vận dụng công tác điều tra, truy tố

4


xét xử, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng, chống tội buôn
lậu trên địa bàn tỉnh An Giang.
7. Kết cấu của luận văn
“Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của luận văn bao gồm ba chương”:
Chương 1: Tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang
Chương 2: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa
bàn tỉnh An Giang
Chương 3: Các giải pháp phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa
bàn tỉnh An Giang

5


CHƯƠNG 1
TÌNH HÌNH TỘI BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG
1.1. Nhận thức về buôn lậu và tội phạm buôn lậu
1.1.1. Khái niệm về buôn lậu
Buôn lậu là một hiện tượng xã hội, xuất hiện cùng với sự ra đời của bộ
máy nhà nước và hàng rào thuế quan, quản lý việc kinh doanh buôn bán, xuất,
nhập khẩu hàng hoá của mỗi quốc gia. Thực chất buôn lậu là hoạt động kinh tế
bất hợp pháp với mục đích cuối cùng là đạt lợi nhuận cao nhất. Buôn lậu xâm
phạm đến các chính sách quản lý kinh tế, quản lý xuất, nhập khẩu hàng hoá…
vì vậy, cho dù hoạt động buôn lậu có phát triển đến mức nào đi chăng nữa thì

sự nhìn nhận về nó ở mỗi quốc gia cũng chỉ là những hiện tượng kinh tế xã hội
tiêu cực cần được quan tâm. Trong đó, cần đặc biệt chú ý đến các trường hợp
buôn lậu gây những thiệt hại nghiêm trọng cho xã hội đều được điều chỉnh
bằng quan hệ pháp luật hình sự. Tuy nhiên, việc nhận diện về buôn lậu ở mỗi
quốc gia và ở các giai đoạn phát triển về lịch sử cũng có những quan niệm khác
nhau. Chẳng hạn, ở Việt Nam thì thuật ngữ buôn lậu đã xuất hiện từ rất lâu và
ngày xưa đã được các nhà ngôn ngữ học Việt Nam cho rằng đó là các hành vi:
“buôn bán hàng trốn thuế hoặc hàng quốc cấm” hoặc là hành vi “mua bán
những mặt hàng cấm và trốn đóng thuế theo quy định”. Như vậy, có nghĩa là
trong kinh doanh, buôn bán nếu có các hành vi trốn lậu, gian lận… thì đều
được xem là buôn lậu. Khác với nhận thức trên, thuật ngữ buôn lậu có nguồn
gốc tiếng Anh “Smuggle” và trong tiếng Việt có nghĩa là: “hành vi mang hàng
hoá một cách bí mật và không hợp pháp vào hoặc ra khỏi một nước” để buôn
bán kiếm lời và thực chất nó là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới; quan
điểm này đã được nhiều quốc gia trên thế giới thừa nhận; Đối với nước ta, theo
Từ điển Tiếng Việt thì buôn lậu có nghĩa là: “buôn bán hàng cấm hoặc hàng

6


trốn thuế”[27, tr.121]; theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam
thì buôn lậu là: “hành vi buôn bán trái phép qua biên giới thể hiện dưới các
dạng: buôn bán các loại hàng hoá mà Nhà nước cấm nhập khẩu, xuất khẩu,
nhưng đã tìm mọi cách để trốn thuế, sử dụng giấy tờ giả, giấy tờ không hợp lệ
hoặc trái với quy định về xuất khẩu, nhập khẩu”[9, tr.97] ; còn tại Điều 188 Bộ
luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, bị coi là tội phạm buôn lậu
nếu có hành vi buôn bán trái phép qua biên giới “hàng hoá, tiền tệ Việt Nam,
ngoại tệ, kim khí quý, đá quý có giá trị từ 100 trăm triệu đồng trở lên hoặc
dưới 100 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này” [7, tr.42].
Như vậy, từ những phân tích ở trên cho thấy Việt Nam cũng có cùng quan

điểm với các quốc gia trên thế giới khi nhìn nhận về vấn đề buôn lậu.
Xuất phát từ thực tiễn tình hình khách quan của hoạt động buôn lậu, cũng
như thực tiễn hình thành hoạt động buôn lậu và yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh
chống tội phạm buôn lậu ở Việt Nam, có thể đưa ra khái niệm về buôn lậu ở
nước ta như sau: “Buôn lậu là hành vi buôn bán hàng hoá, tiền tệ, kim khí
quý, đá quý, di vật, cổ vật qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa
Việt Nam hoặc ngược lại trái pháp luật”[42, tr.244]..
Như vậy, theo khái niệm trên, buôn lậu có phạm trù rộng hơn rất nhiều so
với tội buôn lậu. Tuy nhiên, giữa chúng có những thuộc tính, dấu hiệu chung
giống nhau, được thể hiện bằng hành vi đặc trưng: “buôn bán trái phép hàng
hoá, tiền tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật qua biên giới hoặc từ khu phi
thuế quan vào nội địa Việt Nam hoặc ngược lại”. Sự khác nhau giữa buôn lậu
và tội phạm buôn lậu không phải là sự khác nhau về hành vi, mà là ở chỗ hậu
quả gây ra cho xã hội của hành vi “buôn bán trái phép qua biên giới” như thế
nào, có “đáng kể” hay không đáng kể theo quy định của pháp luật Hình sự
Việt Nam.

7


1.1.2. Đặc điểm pháp lý của tội buôn lậu
Tội buôn lậu được quy định tại điều 188 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ
sung năm 2017 và thiết kế thành 06 khoản. Trong đó khoản từ 1 đến khoản 5
quy định về trách nhiệm hình sự đối với cá nhân, khoản 6 quy định về trách
nhiệm hình sự đối với pháp nhân phạm tội.
Từ quy định của Điều luật cho thấy phân tích theo các yêu tố cấu thành
tội phạm buôn lậu bao gồm:
- Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội buôn lậu là trật tự quản lý việc xuất, nhập khẩu hàng hoá,
tiền tệ, kim khí đá quý, di vật, cổ vật, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, [42, tr.244].

Chính sách xuất, nhập khẩu của Nhà nước ta luôn thay đổi theo chính
sách kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường, vì vậy việc xác định khách thể
trực tiếp của tội buôn lậu có thể thay đổi tùy thuộc vào chính sách xuất nhập
khẩu của Nhà nước.
Đối tượng tác động của tội buôn lậu là hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại
tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá và hàng cấm.
Khi xác định đối tượng tác động, nếu cần phải trưng cầu giám định của cơ
quan chuyên môn thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải trưng cầu giám định.
- Mặt khách quan của tội phạm
+ Hành vi khách quan:
Đặc trưng của hành vi khách quan tội buôn lậu đó là buôn bán trái pháp
luật nhằm mục đích thu lợi [42, tr.245].
Việc buôn bán trái phép được thể hiện ở chỗ mua hoặc bán không có
giấy phép hoặc không đúng với nội dung giấy phép xuất, nhập khẩu và các
quy định khác của Nhà nước về hải quan (ví dụ: Giấy phép nhập khẩu là máy
móc, thiết bị dùng cho sản xuất nông nghiệp nhưng thực tế lại mua bán máy
móc sử dụng cho tiêu dùng như tủ lạnh, xe gắn máy, ti vi…)

8


Trường hợp kinh doanh xuất nhập khẩu đúng giấy phép nhưng khai không
đúng số lượng (khai ít hơn số lượng thực nhập) hoặc nhập vượt quá mức mà giấy
phép xuất, nhập khẩu cho phép thì cũng bị coi là buôn lậu nhưng chỉ truy cứu
trách nhiệm đối với phần chưa khai hoặc xuất nhập khẩu vượt mức cho phép.
Thủ đoạn của tội buôn lậu rất đa dạng. Có nhiều trường hợp người phạm
tội móc nối với cơ quan Hải quan để nhập hàng không đúng với giấy phép.
Một thủ đoạn buôn lậu thường gặp và cũng khó phát hiện, đó là việc nhập
hàng hoá núp dưới hình thức tạm nhập, tái xuất. Nhưng khi hàng đã nhập về
rồi thì không xuất mà tiêu thụ ngay trong nước.

Có thể nói, những thủ đoạn buôn lậu mà người phạm tội thực hiện rất đa
dạng, tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội cũng như các chính sách của Nhà
nước đối với việc xuất nhập khẩu.
Ngoài hành vi khách quan, đối với tội buôn lậu, nhà làm luật quy định
một số dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu băt buộc của cấu thành tội phạm
như: Giá trị, số lượng hàng phạm pháp; địa điểm phạm tội. Nếu thiếu các dấu
hiệu này thì không đủ căn cứ để xác định một hành vi buôn bán trái phép là
phạm tội buôn lậu.
+ Hậu quả và mối quan hệ nhân quả:
Thiệt hại trực tiếp do hành vi buôn lậu gây ra là Nhà nước không kiểm
soát được hàng hoá xuất nhập khẩu, gây thất thoát thuế nhập khẩu và thuế
xuất khẩu hàng hoá. Tuy nhiên, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của
cấu thành tội phạm này. Vì vậy, trong thực tiễn, các cơ quan điều tra và cơ
quan tiến hành tố tụng không căn cứ vào hậu quả do hành vi buôn lậu gây ra
để định tội danh và quyết định hình phạt.
Khi xác định hậu quả do hành vi buôn lậu gây ra cần chú ý rằng, giá trị
hàng hoá và số lượng hàng hoá quy định tại khoản 1 của điều luật như: “Hàng
hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý trị giá từ 100.000.000 đồng

9


đến dưới 300.000.000 đồng không có nghĩa là đó là hậu quả của tội phạm, mà
đó chỉ là giá trị của vật phạm pháp”[13, tr.137]..
- Chủ thể thực hiện tội phạm
Đối với chủ thể của tội phạm là cá nhân: là người có năng lực trách
nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên [42, tr.247].
Đối với chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại thỏa mãn điều
kiện chịu TNHS của pháp nhân thương mại theo quy định tại điều 75 BLHS:
“hành vi phạm tội buôn lậu được thực hiện nhân danh pháp nhân, hành vi

phạm tội buôn lậu được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân, hành vi phạm tội
buôn lậu được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp
nhân”[42, tr.248].
- Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm thực hiện bằng hình thức lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhân
thức được hành vi buôn lậu qua biên giới, qua khu vực phi thuế quan là nguy
hiểm cho xã hội nhưng mong muốn thực hiện hành vi đó. Động cơ phạm tội là
động cơ tư lợi, nhưng động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu
thành tội phạm [42, tr.248].
- Hình phạt
Tội buôn lậu có 4 khung hình phạt tương ứng với 04 khoản (từ khoản 1
đến khoản 4)
+ Khoản 1: Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc
phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm; Khoản 2: Phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến
1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm; Khoản 3: Phạt tiền
từ 1.500.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 7 năm đến 15
năm; Khoản 4: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
Ngoài ra, điều 188 BLHS năm 2015 còn bổ sung thêm trường hợp phạm
tội buôn lậu đối với pháp nhân thương mại, theo đó: “Phạt tiền từ

10


300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng nếu thực hiện hành vi tại khoản 1;
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ
1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng; Phạm tội thuộc trường hợp quy
định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến
7.000.000.000 đồng; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều
này, thì bị phạt tiền từ 7.000.000.000 đồng đến 15.000.000.000 đồng hoặc bị
đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm; Phạm tội thuộc

trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động
vĩnh viễn” [7, tr.42].
1.1.3. Lý luận về tình hình tội phạm buôn lậu
- Tình hình tội phạm là một khái niệm cơ bản của tội phạm học. Tình
hình tội phạm buôn lậu là một trong những biểu hiện của tình hình tội phạm
nói chung, vì vậy tình hình tội phạm buôn lậu cũng có đầy đủ các đặc điểm
của tình hình tội phạm nói chung. Bên cạnh đó, tình hình tội phạm buôn lậu
cũng có những đặc điểm riêng của mình. Tình hình tội phạm buôn lậu là một
khái niệm của tội phạm học dùng để chỉ tổng thể hành vi phạm tội quy định
trong luật hình sự là tội buôn lậu xảy ra ở một không gian và thời gian nhất
định. Xét từ một cách logic, tình hình tội phạm buôn lậu không phải là sự kết
hợp ngẫu nhiên, là tổng số các tội phạm về mặt số học mà là một tập hợp
thống nhất biện chứng (hệ thống) các tội phạm cụ thể cấu thành hiện tượng
đó. Mỗi tội phạm buôn lậu xảy ra trên thực tế là một mặt biểu hiện của tình
hình tội phạm buôn lậu. Cho nên, tội phạm buôn lậu và tình hình tội phạm
buôn lậu không bao giờ tách rời nhau về thời gian, không gian. Trong xã hội,
khi tội phạm buôn lậu xảy ra thì đồng thời cũng xuất hiện tình hình tội phạm
buôn lậu. Vì thế, khi nghiên cứu về tình hình tội phạm buôn lậu phải tiến hành
từ những cái đơn nhất khác nhau tức là phải nghiên cứu hàng trăm, hàng

11


nghìn tội phạm khác nhau gây ra trong từng thời kỳ nhất định để từ đó làm
sáng tỏ bản chất, các qui luật tồn tại và vận động của chúng.
Như vậy, nhận thức về tình hình tội phạm buôn lậu với tư cách là một
hiện tượng xã hội được biểu hiện thông qua các thông số định lượng và các
thông số về chất của nó. Trong đó, các thông số về lượng bao gồm mức độ
và diễn biến của tình hình tội phạm. Còn các thông số về chất của tình hình
tội phạm chính là cơ cấu và tính chất của tình hình tội phạm. Thông số về

lượng và thông số về chất có mối liên hệ, tác động qua lại tạo thành một thể
thống nhất, biện chứng. Sự thay đổi của mỗi thông số cụ thể đều dẫn đến thay
đổi tình hình tội phạm. Trong quá trình nghiên cứu tìm ra các qui luật nội tại
của tình hình tội phạm buôn lậu để đấu tranh phòng, chống có kết quả không
thể không sử dụng các số liệu thống kê hình sự. Trên thực tế, những số liệu
thống kê này là một công cụ cần thiết, quan trọng để nhận thức và xem xét
tình hình tội phạm buôn lậu. Trên thực tế chỉ có một phần tội phạm buôn lậu
xảy ra được các cơ quan chức năng phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử và được
đưa vào thống kê hình sự hay còn gọi là phần tội phạm rõ. Còn một phần tội
phạm buôn lậu đáng kể khác xảy ra trên thực tế, nhưng do nhiều lý do khác
nhau mà các cơ quan chức năng chưa phát hiện được, do đó chưa đưa vào
thống kê hình sự - đó là phần tội phạm ẩn. Quan hệ giữa phần tội phạm ẩn và
tội phạm rõ là quan hệ bù trừ trong một chỉnh thể, tức là khi phần tội phạm rõ
lớn thì phần tội phạm ẩn nhỏ và ngược lại. Do vậy, cuộc đấu tranh phòng,
chống tội phạm buôn lậu cần phải hướng vào việc loại trừ, phát hiện các tội
phạm ẩn, coi đây là mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài của cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm
1.2. Tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn
2013- 2017
An Giang là một tỉnh thuộc khu vực khu vực miền Tây Nam Bộ với diện

12


tích tự nhiên 3.406,2 km2; phía Bắc giáp hai tỉnh Kandal và Takéo của
Campuchia, phía Nam giáp thành phố Cần Thơ, phía Đông giáp tỉnh Đồng
Tháp, phía Tây giáp tỉnh Kiên Giang. Tỉnh An Giang có 11 đơn vị hành chính
trực thuộc, gồm 02 thành phố trực thuộc tỉnh (thành phố Long Xuyên và
thành phố Châu Đốc), 01 thị xã (thị xã Tân Châu) và 08 huyện (An Phú, Phú
Tân, Tịnh Biên, Tri Tôn, Châu Phú, Châu Thành, Thoại Sơn, Chợ Mới); có

156 đơn vị hành chính cấp xã (16 thị trấn, 21 phường và 119 xã).
Dân số tỉnh An Giang có 2.297.600, đứng thứ 6 trong cả nước về quy mô
dân số. Toàn tỉnh có 24.011 hộ dân tộc thiểu số, với 114.632 người, chiếm
5,17% tổng dân số toàn tỉnh, Trong đó có 92.137 người dân tộc Khơme;
15.449 người dân tộc Hoa, 12.774 người dân tộc Chăm. Hơn 80% dân cư
sống ở vùng nông thôn, chủ yếu sống dựa vào sản xuất nông nghiệp, nuôi
thuỷ sản; bên cạnh đó, có một bộ phận dân cư hoạt động thương mại khá nhộn
nhịp, tập trung tại các khu vực chợ biên giới giáp Campuchia và các vùng đô
thị. Từ đặc điểm này có nhiều người không có công ăn việc làm, thu nhập
thấp nên dễ đi vào con đường buôn lậu hoặc vận chuyển hàng hoá thuê cho
các chủ hàng lậu.
Với đặc thù An Giang là tỉnh có đường biên giới cả đường bộ và đường
thủy dài, do đó địa bàn tỉnh không chỉ là nơi tiêu thụ mà còn là nơi tập trung
chuyển hàng lậu, hàng giả, hàng cấm từ các khu vực biên giới Campuchia vào
trong nội địa. Tình hình buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang có xu hướng
diễn biến phức tạp. Hành vi buôn lậu thường gắn liền với vận chuyển trái
phép hàng hóa qua biên giới với thủ đoạn ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn.
Hình thức hoạt động luôn được thay đổi với tính chất, thủ đoạn ngày càng
tinh vi, mức độ ngày càng nguy hiểm.
Do đặc điểm địa hình đồng bằng nên hàng nhập lậu được vận chuyển rất
thuận tiện từ Campuchia sang bằng nhiều đường và nhiều loại phương tiện

13


thủy, bộ kể cả đi bộ đai vác. Do nhu cầu tiêu thụ của thị trường nội địa cao
nên hàng hóa tiếp tục thẩm lậu qua biên giới bằng đường bộ và đường sông,
mùa khô cũng như mùa nước. Dọc tuyến biên giới phía Campuchia còn duy
trì các điểm tập kết hàng và kho hàng ở sát biên giới, luôn sẵn sàng tìm mọi
cách thẩm lậu qua biên giới đưa vào nội địa tiêu thụ, tập trung nhất là gò Tà

Mâu - Campuchia đối diện với xã Vĩnh Ngươn - thị xã Châu Đốc. Trong mùa
lũ kéo dài từ 3 - 4 tháng, hoạt động vận chuyển hàng nhập lậu bằng đường
thủy càng thuận tiện hơn, gây rất nhiều khó khăn cho lực lượng chức năng
trong việc tuần tra, kiểm soát phát hiện, ngăn chặn, bắt giữ các đối tượng
buôn lậu hàng hóa, phương tiện buôn lậu.
Thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi, đa dạng và thường xuyên thay đổi
để đối phó với các lực lượng chức năng. Phương thức chủ yếu là chia nhỏ
hàng hóa, các loại linh kiện để vận chuyển bằng nhiều loại phương tiện như
xe đạp, xe máy, ô tô khách, ô tô tải, ghe, tàu máy … kể cả đi bộ đai vác. Trên
địa bàn tỉnh An Giang đã hình thành một số đường dây vận chuyển thuê hàng
nhập lậu từ biên giới về nội địa, có tổ chức chặt chẽ, sử dụng điện thoại di
động trao đổi thông tin, báo động. Có các nhóm chuyên canh đường thường
xuyên theo dõi toàn bộ hoạt động của cán bộ ở trụ sở các đơn vị chức năng
chống buôn lậu để dễ dàng hoạt động. Ngoài ra còn có các thủ đoạn khác như
sử dụng hóa đơn hợp pháp xoay vòng để vận chuyển hàng nhập lậu; thay bao,
đổi nhãn thành hàng nội địa để vận chuyển, mua bán hàng nhập lậu; cất giấu
xen lẫn hàng hợp pháp, làm hầm bí mật trên các phương tiện như ô tô, ghe
tàu… Một vài nhóm đối tượng sử dụng xe mô tô tốc độ cao công khai vận
chuyển hàng nhập lậu trên các tuyến đường bộ, đặc biệt là quốc lộ 91 gây mất
trật tự an toàn giao thông, tạo hình ảnh không tốt về tình hình an ninh trật tự ở
địa phương.

14


Các đầu nậu thuê mướn đông đảo người đai vác, vận chuyển hàng nhập
lậu nhỏ lẻ, liên tục, ồ ạt trên tuyến biên giới, phân tán cất giấu hàng hóa nhiều
nơi; có sự thỏa thuận giao trách nhiệm quản lý hàng hóa để không để lộ mặt
chủ hàng, tránh bị xử lý. Do được giao khoán hàng hóa vận chuyển nên người
đai vác sẵn sàng chống đối lực lượng kiểm soát, giành giật hàng hóa khi bị bắt

giữ, có lúc chống trả rất quyết liệt gây không ít khó khăn cho các cơ quan
chức năng.
Mặt hàng nhập lậu rất đa dạng, phong phú về chủng loại, giá trị, đặc biệt
nhạy cảm vói tình hình giá cả và nhu cầu thị trường nội địa. Một số hàng hóa
thường xuyên bị phát hiện bắt giữ là thuốc lá ngoại, đồ điện tử, điện lạnh, quần
áo cũ, nước giải khát, phụ tùng xe ô tô, mô tô, điện thoại di động, đường cát Thái
Lan… Mặt hàng xuất lậu chủ yếu là xăng dầu và đô la Mỹ. Do giá xăng dầu biến
động, giá trong nước luôn thấp hơn giá ở Campuchia nên các đối tượng buôn lậu
tìm cách vận chuyển nhỏ lẻ qua biên giới, bằng nhiều phương tiện, hình thức
khác nhau rất khó quản lý, phát hiện, ngăn chặn.
Hoạt động nhập lậu các loại hàng hóa như điện tử, điện lạnh, bánh kẹo, quần
áo may sẵn, giầy dép…đã bắt đầu giảm do thuế đầu vào tại Campuchia tăng; Bên
cạnh đó hàng hóa sản xuất trong nước có phát triển, giá cả hàng nội địa đã dần
phù hợp nhu cầu thị trường nên việc tiêu thụ hàng lậu chậm so với trước.
Đối tượng tham gia buôn lậu, vận chuyển hàng cấm hầu hết là người
không có nghề nghiệp ở đủ các độ tuổi, có một số là nông dân trong các thời
điểm nhàn rỗi. Chủ hàng có số lượng không nhiều, quy mô vừa phải, chủ yếu
tổ chức các đường dây mà thành viên tham gia đa số là người thân trong gia
đình. Có thể nói bất cứ người dân bình thường nào ở khu vực biên giới đều có
thể tham gia vận chuyển, buôn bán hàng nhập lậu do hàng hóa dễ mua bán, trao
đổi mà không cần vốn lớn, hoặc được các chủ hàng cho mượn vốn, thuê vận
chuyển.

15


1.2.1. Phần hiện của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An
Giang giai đoạn (2013-2017)
Dưới góc độ tội phạm học “phần hiện của tình hình tội phạm là toàn bộ
những hành vi phạm tội và chủ thể của các hành vi đó đã bị xử lý theo quy

định của pháp luật hình sự ở từng đơn vị hành chính - lãnh thổ hay trên phạm
vi toàn quốc, trong những khoảng thời gian nhất định và được ghi nhận kịp
thời trong thống kê hình sự” [22, tr.138]. Như vậy, phần hiện của tình hình
tội buôn lậu bao gồm tổng thể những hành vi phạm tội buôn lậu và chủ thể
của các hành vi đó đã được phát hiện, xử lý về hình sự và có trong thống kê
tội phạm chính thức của cơ quan có thẩm quyền. Phần hiện của tình hình tội
buôn lậu được xác định thông qua những thông số phản ánh những đặc điểm
định lượng và định tính, được biểu hiện qua các thông số gồm mức độ, diễn
biến, cơ cấu và tính chất của tình hình tội phạm loại này.
1.2.1.1. Thực trạng (mức độ) của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh
An Giang trong giai đoạn (2013-2017)
Theo Giáo sư, Tiến sĩ Võ Khánh Vinh “thực trạng của tình hình tội
phạm là số lượng các tội phạm đã được thực hiện và những người thực hiện
các tội phạm đó ở một địa hình nhất định và trong một khoảng thời gian nhất
định” [21- tr.62]; Thực trạng của tình hình tội buôn lậu là tổng số vụ buôn lậu
và số bị cáo đã bị các TA trên địa bàn tỉnh An Giang xét xử, tuyên án bằng bản
án kết tội có hiệu lực pháp luật. Để mô tả và đánh giá một cách chính xác thực
trạng của tình hình tội phạm buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang, tác giả sử
dụng số liệu thống kê của TAND tỉnh từ năm 2013 đến 2017, số kết quả xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự, 200 bản án hình sự sơ thẩm, bản kết luận điều tra và
các báo cáo tổng kết hàng năm để làm chất liệu nghiên cứu. Dưới đây là bảng
số liệu chi tiết về số vụ cũng như số người phạm tội buôn lậu đã bị truy tố, xét
xử trên địa bàn tỉnh An Giang trong 5 năm.

16


Bảng 1.1. Thực trạng tình hình buôn lậu ở An Giang (2013 – 2017)
Tội phạm buôn lậu


Năm

Số vụ án

Số bị cáo

2013

76

147

2014

56

83

2015

62

94

2016

46

75


2017

45

56

Tổng

285

455

Nguồn: Thống kê hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang
Qua số liệu thống kê (Bảng 1.1) cho thấy, trong 5 năm từ 2013 đến 2017,
trên địa bản tỉnh An Giang đã xảy ra 285 vụ buôn lậu với 455 bị cáo. Trong
đó tập trung chủ yếu vào năm 2013 với 76 vụ và 147 bị cáo. Như vậy, trung
bình mỗi năm trên địa bàn tỉnh xảy ra 57 vụ với khoảng 91 đối tượng phạm
tội buôn lậu bị đưa ra xét xử.
Để thấy rõ hơn thực trạng tình hình tội phạm buôn lậu trên địa bàn tỉnh
An Giang từ năm 2013 – 2017, chúng ta cần so sánh tình hình tội phạm buôn
lậu với tình hình tội phạm nói chung xảy ra trên địa bàn tỉnh An Giang.
Bảng 1.2. Tỉ trọng tội buôn lậu so với mức độ tổng quan của tình hình tội
phạm trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn 2013 – 2017
Năm

Buôn lậu

Tội phạm chung

Tỉ lệ %


Số vụ(1)

Số bị cáo(2)

Số vụ(3)

2013

76

147

730

1.029

10,4

14,2

2014

56

83

698

816


8,1

10,2

2015

62

94

631

954

9,8

9,9

2016

46

75

583

726

7,9


10,3

17

Số bị cáo(4) (1)/(3) (2)/(4)


2017

45

56

521

618

8,7

9,1

Tổng

285

455

3.092


4.143

9,2

10,9

Nguồn: Thống kê hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang
Qua bảng (Bảng 1.2) chúng ta thấy rằng, trong thời gian từ năm 2013 –
2017 trên toàn tỉnh An Giang đã xảy ra 3.092 vụ phạm tội nói chung với tổng
số 4.143 bị cáo trong đó có 285 vụ buôn lậu với 455 bị cáo chiếm khoảng
9,21% tổng số vụ án và chiếm 10,9% tổng số bị cáo trên toàn tỉnh. Đó là một
tỉ lệ đáng kể trong cơ cấu tội phạm bởi lẽ tội buôn lậu là hành vi nguy hiểm
cho xã hội, gây ra những hậu quả, tác hại to lớn, làm suy yếu các ngành công
nghiệp, sản xuất; giảm nguồn thu ngân sách, ảnh hưởng tới chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước, sự tồn tại của loại tội phạm
này gây mất ổn định về ANTT tại địa phương, gây bức xúc trong đời sống của
nhân dân.
Đánh giá thực trạng của tình hình tội phạm không thể bỏ qua cơ số tội
phạm, nhất là khi đánh giá thực trạng của tình hình tội phạm qua các khoảng
thời gian khác nhau trên một địa bàn hoặc ở các địa bàn khác nhau trong cùng
khoảng thời gian nhất định. Cơ số tội phạm được xác định để tìm hiểu mức độ
phổ biến của tội phạm trong dân cư. Cơ số tội phạm được tính theo tỉ lệ số tội
phạm (hoặc vụ phạm tội) trên 100.000 người dân hoặc 10.000 người dân. Cơ
số tội phạm luôn được xác định gắn liền với một địa bàn nhất định và trong
một khoảng thời gian nhất định.
Bảng 1.3: Cơ số tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang
giai đoạn 2013- 2017
Năm

Số bị cáo


2013

147

Số dân
(1000 người)
1.993.500

18

Số dân/1 bị cáo
13.561


2014

83

2.050.700

24.707

2015

94

2.168.900

23.073


2016

75

2.245.000

29.933

2017

56

2.297.600

41.029

Trung bình

91

2.149.540

23.621

Nguồn: Cục thống kê tỉnh An Giang, Thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang
1.2.1.2. Diễn biến của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An
Giang giai đoạn 2013- 2017
Diễn biến của tình hình tội phạm là sự vận động và sự thay đổi của thực
trạng và cơ cấu của tình hình tội phạm trong một khoảng thời gian nhất định

(một năm, ba năm, năm năm, mười năm…).
Như vậy, diễn biến tình hình tội buôn lậu chính là sự phản ánh sự thay
đổi, xu hướng tăng, giảm hoặc ổn định tương đối của tình hình tội buôn lậu
xảy ra trong khoảng thời gian nhất định và trên một địa bàn nhất định.
Bảng 1.4: Diễn biến của tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang
giai đoạn 2013- 2017
Năm

Số vụ

Số bị cáo

2013

76

100%

147

100%

2014

56

74% (- 26%)

83


57% (- 43%)

2015

62

82% (- 18%)

94

64% (- 36%)

2016

46

60% (- 40%)

75

52% (- 48%)

2017

45

59% (- 41%)

56


39% (- 61%)

Nguồn: Số liệu thống kê Tòa án nhân dân tỉnh An Giang
Theo số liệu thống kê nêu trên có thể thấy giai đoạn 2013-2017, tội buôn
lậu trên địa bàn tỉnh An Giang có xu hướng giảm dần cả số vụ và số bị cáo,
tội buôn lậu bị xử lý nhiều nhất tập trung vào năm 2013 với 76 vụ và 147 bị
cáo, đến năm 2017 tội buôn lậu đã giảm 41% số vụ và 61% số bị cáo so với
19


×