Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.83 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÙY TRANG

TỘI BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN:
TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ PHÒNG NGỪA
Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số
: 60 38 01 05

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. HỒ TRỌNG NGŨ

Hà Nội – 2017


Công trình đƣợc hoàn thành tại
Học viện Khoa học Xã hội
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Hồ Trọng Ngũ

Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Ngọc Anh

Phản biện 2: PGS.TS. Phạm Văn Tỉnh

Luận văn đƣợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Học viện
Khoa học Xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.


Vào hồi: 17 giờ 00 ngày 30 tháng 10 năm 2017.

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lạng sơn là một tỉnh miền núi thuộc khu vực Đông Bắc, giáp
các tỉnh Cao Bằng, Bắc Giang, Quảng Ninh, Bắc Kạn, Thái Nguyên
của nước ta và tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc. Lạng Sơn có diện
tích 8.328 km2 và dân số 831.887 người gồm chủ yếu 7 dân tộc Tày,
Nùng, Hoa, Dao, Kinh, H’Mông, Sán Chay, sinh sống rải rác trên 11
huyện, thành phố. Lạng Sơn có khoảng 253 km đường biên giới với
Trung Quốc trải dài 21 xã, thị trấn thuộc 5 huyện giáp biên. Với ưu
thế có hai cửa khẩu quốc tế là cửa khẩu đường sắt Đồng Đăng, cửa
khẩu đường bộ Hữu Nghị, hai cửa khẩu quốc gia là: Chi Ma, Bình
Nghi và 7 cặp chợ biên giới, Lạng Sơn đã trở thành một trong những
địa phương phát triển mạnh về thương mại, du lịch. Kể từ năm 1991
khi quan hệ hai nước Việt Nam - Trung Quốc được bình thường hóa
thì hoạt động xuất, nhập cảnh của hai nước được mở rộng, nhu cầu đi
lại thăm thân, du lịch, buôn bán ngày càng gia tăng. Đây chính là một
trong những lợi thế để Lạng Sơn phát triển mạnh nền kinh tế địa
phương. Là địa phương có nhiều thuận lợi trong việc giao lưu buôn
bán, du lịch nhưng do có tuyến đường biên giới dài, nhiều đường
mòn, đường tắt nên Lạng Sơn cũng là nơi phát sinh nhiều tội phạm
hình sự như: mua bán phụ nữ và trẻ em, mua bán trái phép chất ma
túy, vận chuyển tiền giả … trong đó nổi lên là tội phạm buôn lậu.
Trong vòng 5 năm (2011 – 2015), ngành Tòa án nhân dân tỉnh
Lạng Sơn đã xét sử sơ thẩm 207 vụ với 355 bị cáo phạm tội buôn lậu.
Tội phạm buôn lậu chủ yếu ở độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi là phổ biến và

chủ yếu là ở các vùng dân tộc thiểu số.
1


Số vụ xét xử về tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai
đoạn 2011 – 2015 không nhiều nhưng có xu hướng ngày càng tăng
với thủ đoạn ngày càng tinh vi và gây ra những hậu quả nghiêm trọng
cho nền kinh tế đất nước và xã hội.
Những số liệu trên đã phần nào phản ảnh thực trạng của tội
phạm buôn lậu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Tuy nhiên trong thực tế vì
những lý do khác nhau vẫn còn nhiều vụ án buôn lậu chưa được phát
hiện và xử lý hình sự. Điều đó chứng tỏ công tác đấu tranh và phòng
ngừa tội phạm này trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn chưa đạt được hiệu quả
mong muốn. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng, tìm ra nguyên nhân
của tội phạm buôn lậu, dự báo xu hướng biến động để xây dựng giải
pháp phòng ngừa có hiệu quả nhóm tội phạm này trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn là một việc làm có tính cấp bách trong tình hình hiện nay.
Xuất phát từ lí do đó, tác giả đã lựa chọn vấn đề: “Tội buôn lậu trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa”
làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, vấn đề buôn lậu và đấu tranh phòng, chống tội
buôn lậu đã được nhiều bộ, ngành, địa phương chỉ đạo thực hiện, tác
giả đã nghiên cứu và thu thập trong nhiều báo cáo khoa học, các báo,
tạp chí như:
- Luận án Tiến sĩ Luật học của nghiên cứu sinh Nguyễn Đức
Bình với đề tài “Đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu hoặc vận
chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới”, năm 2000. Luận án
đi vào nghiên cứu một các có hệ thống thực trạng buôn lậu, thực tiễn
đấu tranh phòng chống tội buôn lậu hoặc vận chuyển trải phép hàng

hóa, tiền tệ qua biên giới và để đề ra các giải pháp hữu hiệu cho cuộc
2


đấu tranh, hạn chế và từng bước đẩy lùi tệ nạn buôn lậu hoặc vận
chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới.
- Các công trình khác dưới dạng luận văn thạc sĩ như: Luận
văn Thạc sĩ Luận học của tác giả Dương Thị Nhàn, Đấu tranh phòng,
chống tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, năm 2006; Luận
văn Thạc sĩ Luận học của Lê Đặng Quốc Phong, Phòng ngừa tội
buôn lậu trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, năm 2012; Thạc sĩ Lê Văn
Tới, Buôn lậu và chống buôn lậu, nhận diện và giải pháp, Nxb chính
trị quốc gia, Hà Nội, năm 2000; Luận văn Thạc sĩ Luật học của
Nguyễn Đăng Phú, Đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm 2004; và một số đề tài nghiên
cứu khoa học các cấp của các cơ quan có chức năng đấu tranh phòng,
chống tội buôn lậu. Các công trình nghiên cứu trên đã làm rõ về mặt
lý luận và thực tiễn trong công tác đấu tranh phòng chống tội buôn
lậu, hoặc đề cập đến công tác đấu tranh chống buôn lậu của một lực
lượng, chưa nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về công tác đấu
tranh phòng, chống tội buôn lậu trên một địa bàn tỉnh Lạng Sơn, cũng
như giải pháp để phòng ngừa, ngăn chặn loại tội phạm này và vì vậy
đề tài được kế thừa những giá trị khoa học của các công trình đã
được nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Đề tài mà tác giả đã chọn thuộc
chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, nên mục đích
của nó không thể khác là góp phần hoàn thiện hệ thống các biện pháp
phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên

cứu trên, tác giả luận văn thấy cần phải thực hiện những nhiệm vụ
cụ thể sau:
3


+ Phân tích khái quát để làm rõ những vấn đề lý luận về tình
hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
+ Đánh giá thực trạng, diễn biến , cơ cấu , tính chất tình hình tội
buôn lậu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn trong thời gian từ năm 2011 - 2015
+ Phân tích khái quát để làm rõ những vấn đề lý luận về nguyên
nhân , điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
+ Dự báo tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn để
từ đó hoàn thiện hệ thống phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn.
+ Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình
hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là làm rõ hơn những lý
luận cơ bản về tình hình tội buôn lậu, nguyên nhân và điều kiện của
tội buôn lậu và các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu
trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn; thực trạng tình hình tội phạm buôn lậu ở
nước ta trong thời gian 5 năm (từ năm 2011 đến 2015).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung , đề tài được thực hiện dưới góc độ tội phạm học
thuộc chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm;
- Về tội danh, đề tài phải đề cập đến tình hình tội buôn lậu
được quy định tại điều 188 của Bộ luật hình sự 2015
- Về không gian, đề tài sử dụng số liệu thực tế trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn, bao gồm số liệu thống kê của cơ quan Tòa án tỉnh Lạng Sơn.

- Về thời gian, đề tài nghiên cứu được giới hạn trong thời gian
từ 2011 đến 2015.
4


5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở
phương pháp luậnchủ nghĩa Mác-Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các
quan điểm của Đảng làm cơ sở, phương pháp luận cho việc nghiên cứu
để giải quyết những vấn đề về lý luận tình hình tội buôn lậu, thực trạng,
nguyên nhân và điều kiện tội buôn lậu từ đó đề ra các giải pháp phòng
ngừa tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn làm cơ sở thực tiễn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng kết hợp các
phương pháp nghiên cứu: Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so
sánh, phương pháp điều tra xã hội học và phương pháp diễn giải.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp
phần làm rõ nhiều vấn đề lý luận về tình hình tội buôn lậu, nguyên
nhân và điều kiện của tội buôn lậu, nhân thân người phạm tội và
phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
6.2. Về mặt thực tiễn: Kết quả của luận văn có thể giúp các cơ
quan tổ chức tham khảo để vận dụng vào việc tuyên truyền , giáo dục
nâng cao trình độ nhận thức và ý thức pháp luật cho nhân dân, đặc biệt là
các dân tộc miền núi phía Bắc, vận dụng công tác điều tra, truy tố xét xử
, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng, chống tội
buôn lậu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung chính của luận văn bao gồm ba chương:
Chương 1: Tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Chương 2: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội buôn
lậu trên địa bàn tỉnh Lạng sơn
Chương 3: Các giải pháp phòng ngừa tình hình tội buôn lậu
trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
5


CHƢƠNG 1
TÌNH HÌNH TỘI BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN
1.1. Những vấn đề lý luận về tình hình tội buôn lậu
1.1.1. Khái niệm tình hình tội phạm
Theo PGS. TS Phạm Văn Tỉnh thì “Tình hình tội phạm là một
khách thể nghiên cứu cơ bản của tội phạm học và là khái niệm dùng
để chỉ hiện tượng tâm – sinh lý – xã hội tiêu cực, có tính lịch sử và
lịch sử cụ thể, pháp lý hình sự và giai cấp, được biểu hiện bằng tổng
thể các hành vi phạm tội đã xảy ra và các chủ thể thực hiện các hành
vi đó trong một đơn vị hành chính – lãnh thổ nhất định và trong một
đơn vị thời gian nhất định”.
1.1.2. Khái niệm tình hình tội buôn lậu
a. Phần hiện của tình hình tội buôn lậu là toàn bộ những
hành vi phạm tội và chủ thể của hành vi đó đã bị xử lý theo quy định
của pháp luật hình sự ở từng đơn vị hành chính – lãnh thổ hay trên
phạm vi toàn quốc, trong những khoảng thời gian nhất định và được
ghi nhận trong thống kê hình sự
b. Phần ẩn của tình hình tội buôn lậu
Phần ẩn của tội buôn lậulà toàn bộ số tội buôn lậuvà số lượng
người thực hiện tội buôn lậuthực tế đã xảy ra nhưng chưa bị phát hiện
và xử lý về hình sự vì vậy cũng không có trong thống kê hình sự; về
phương diện khoa học, chỉ có thể đánh giá mức độ ẩn của tội buôn
lậumột cách tương đối gần sát với thực tế dựa trên những căn cứ, cơ

sở khoa học và thực tiễn nhất định, việc mong muốn đánh giá một
cách chính xác, tuyệt đối phần ẩn của tội buôn lậu là điều không thể
thực hiện được vì nhiều lí do khác nhau.
6


1.1.3 Tình hình buôn lậu ở Lạng Sơn
* Điều kiện tự nhiên
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi ở biên giới Đông Bắc của Tổ
quốc, có vị trí chiến lược rất quan trọng về kinh tế, xã hội và an ninh
quốc phòng. Với 253 km đường biên giới tiếp giáp với khu tự trị dân
tộc Choang, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, lại nằm trên giao điểm của
4 quốc lộ là 1A, 1B, 4A, 4B, ngoài ra còn có tuyến đường sắt liên vận
quốc tế, với 2 cửa khẩu quốc tế, 2 cửa khẩu quốc gia, 7 cặp chợ
đường biên nên Lạng Sơn đã trở thành cửa ngõ quan trọng để giao
thương buôn bán với Trung Quốc. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng bộ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành, sự đồng thuận của cả hệ
thống chính trị,cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, Lạng Sơn đã có
bước phát triển khá toàn diện trên lĩnh vực; đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, nhất là đồng bào vùng cao, vùng
biên giới không ngừng được cải thiện. Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng
- Lạng Sơn đang xây dựng trở thành khu kinh tế động lực, đa chức năng
với các cơ chế, chính sách, ưu đãi, phát triển năng động đóng vai trò là
đầu cầu liên kết của tuyến hành lang kinh tế Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà
Nội - Hải phòng - Quảng Ninh. Với chính sách mở cửa hội nhập của đất
nước, với việc bình thường hóa quan hệ 2 nước Việt Nam
Trung Quốc, hoạt động xuất nhập khẩu ở biên giới 2 nước Việt
- Trung trở nên nhộn nhịp hơn, sôi động hơn.Tuy nhiên, bên cạnh đó,
Lạng Sơn cũng được xác định là địa bàn phức tạp về buôn lậu tại tuyến
biên giới phía Bắc. Cùng với Quảng Ninh, Lạng Sơn là một trong hai địa

bàn trọng điểm về buôn lậu hàng hóa do Trung Quốc sản xuất.
7


* Điều kiện về kinh tế xã hội
Tình hình buôn lậu ở Lạng Sơn trên tuyến đường sắt Đồng
Đăng - Hà Nội lại sôi động. Điển hình là vào ngày 25-12, tại ga liên vận
quốc tế Đồng Đăng (Cao Lộc), các lực lượng chống buôn lậu của tỉnh đã
kiểm tra tàu chở khách hiệu DD6, chạy tuyến Đồng Đăng - Hà Nội, phát
hiện trên ba toa tàu có chứa nhiều mặt hàng do nước ngoài sản xuất, có
dấu hiệu vi phạm hóa đơn, chứng từ, có nhiều mặt hàng nghi là hàng giả,
hàng vi phạm sở hữu trí tuệ... Toàn bộ số hàng này đã được các lực
lượng chức năng thu giữ để điều tra làm rõ.
Từ nhiều năm nay, khu vực thị trấn Đồng Đăng, trong đó có
ga liên vận quốc tế Đồng Đăng, luôn là tâm điểm tập kết hàng lậu.
Thị trấn Đồng Đăng chỉ cách đường biên giới từ 2 đến 3 km, có hai
cửa khẩu quốc tế đường bộ và đường sắt, lại có nhiều đường mòn, lối
tắt qua biên giới. Đối diện với thị trấn Đồng Đăng là khu trung tâm
thương mại Bằng Tường, Quảng Tây (Trung Quốc) có nhiều kho
hàng lớn. Từ đây, hàng lậu, hàng cấm được xé lẻ, vận chuyển với
nhiều thủ đoạn, như: mang vác, xách tay, lợi dụng đêm tối vượt biên
qua đường mòn, lối tắt. Khi đã vào khu vực biên giới, hàng được cất
giấu trong khu vực dân cư nằm sát biên giới, chờ cơ hội lên xe ô-tô,
vận chuyển trên các chuyến tàu, các tuyến quốc lộ: 1A, 1B, 4B… đưa
hàng vào sâu nội địa tiêu thụ.

8


1.2. Thực trạng, diễn biến, cơ cấu, tính chất tình hình tội

buôn lậu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
1.2.1. Phần hiện của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn hiện nay
1.2.1.1 Thực trạng của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn trong thời gian gần đây
Theo Giáo sư, Tiến sĩ Võ Khánh Vinh “thực trạng của tình hình
tội phạm là số lượng các tội phạm đã được thực hiện và những người
thực hiện các tội phạm đó ở một địa hình nhất định và trong một khoảng
thời gian nhất định” [45- tr62];
1.2.1.2. Diễn biến của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn trong thời gian gần đây
Các thông số về lượng chỉ mới phản ánh bề ngoài hình thức, chưa
phản ánh hết bản chất của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Lạng
Sơn. Cho nên để đưa ra được những nhận định, đánh giá, kết luận chính
xác về tính chất, mức độ nghiêm trọng của tình hình tội buôn lậu đối với
xã hội thì cần phải nghiên cứu mặt bên trong của tình hình tội phạm, đó
là các thông số về chất của tình hình tội phạm bao gồm: cơ cấu và tính
chất của tình hình tội phạm buôn lậu.
Các thông số về chất của tình hình tội buôn lậu là một hệ thống
mở, nghĩa là càng khai thác được nhiều thông số (về cơ cấu, tương
quan) thì tính chất của tình hình tội phạm càng được làm rõ. Điều đó
cũng có nghĩa là càng có nhiều cơ sở để nhận biết về nguyên nhân và
điều kiện của tình hình tội phạm buôn lậu, cũng như để áp dụng các biện
pháp phòng ngừa một cách hiệu quả.

9


1.2.1.3 Cơ cấu của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn trong thời gian gần đây

Việc phân tích thực trạng, diễn biến, đối tượng, độ tuổi, có ý
nghĩa rất quan trọng trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm buôn lậu một cách có trọng tâm, trọng điểm và đạt hiệu quả
cao, đặc biệt là trong việc tổ chức lức lượng, xây dựng chiến lược, kế
hoạch, biện pháp phòng, chống cho phù hợp.
1.2.1.4. Tính chất của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh
Lạng sơn
Theo GS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng: “Tính chất của tình
hình tội phạm thể hiện ở số lượng của các tội phạm nguy hiểm nhất
cho xã hội trong cơ cấu của tình hình tội phạm cũng như ở các đặc
điểm nhân thân của những người thực hiện tội phạm: tính chất của
tình hình tội phạm được làm sáng tỏ thông qua cơ số của nó”.
1.2.2. Phần ẩn của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn hiện nay
a. Thực trạng ẩn của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn
Vì vậy tội phạm ẩn là toàn bộ số tội phạm và số lượng người
thực hiện các tội phạm thực tế đã xảy ra nhưng chưa bị phát hiện và
xử lý về hình sự vì vậy cũng không có trong thống kê hình sự. Về
phương diện khoa học, chỉ có thể đánh giá mức độ tội phạm ẩn một
cách tương đối, gần sát với thực tế dựa trên những căn cứ, cơ sở khoa
học và thực tiễn nhất định. Vì vậy chứng ta cần chia tội phạm ẩn ra là
3 loại: Tội phạm ẩn khách quan, tội phạm ẩn chủ quan, tội phạm ẩn
thống kê.

10


b. Nguyên nhân ẩn của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn
tỉnh Lạng Sơn

- Kĩ thuật thống kê còn hạn chế (ví dụ nếu trong vụ án, bị cáo
bị xét xử về nhiều tội thì thống kê ở nước ta hiện nay chỉ thống kê số
liệu về tội nặng nhất trong vụ án);
- Do bệnh thành tích nên có địa phương không đưa một số vụ
án vào số liệu thống kê.
- Do sai sót của cán bộ thống kê (trình độ chuyên môn hạn chế
hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm nên thống kê thiếu, không đầy đủ).
Theo đó mức độ ẩn của tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn có
tỉ lệ cao hơn so với những tội phạm hình sự khác. Một số lý do ẩn của tội
buôn lậu:
- Do phương thức, thủ đoạn thực hiện hành vi buôn lậu có thể
được thực hiện một cách lén lút, bí mật, trên tuyến biên giới Lạng Sơn
đa số các vụ buôn lậu được thực hiện một cách lén lút, ngụy trang trong
hàng hóa xuất , nhập khẩu , có tuyến đường sắt liên vận quốc tế chia nhỏ
hàng lậu trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng
nên nhiều vụ không bị phát hiện, xử lý theo pháp luật.
- Do địa hình biên giới tỉnh Lạng Sơn có tuyến biên giới với
nhiều đường mòn qua lại biên giới, thêm vào đó lực lượng chuyên
trách chống buôn lậu vừa thiếu, vừa yếu không đủ khả năng kiểm
soát được địa bàn.
- Do cũng có một số ít cán bộ thực thi nhiệm vụ trên tuyến
biên giới tiếp tay, bao che, bảo kê cho buôn lậu xảy ra, những vụ án
buôn lậu nhỏ cũng không được các cơ quan tiến hành tố tụng tập
trung, truy tố. Vì vậy, số tội phạm buôn lậu ít nghiêm trọng chiếm tỷ
lệ tương đối cao.
11


- Ngoài ra tội phạm đã bị phát hiện và bị xử lý theo quy định
của pháp luật, song vì những lý do khác nhau, không có trong thống

kê tội phạm. Tình trạng số án về tội buôn lậu mà công an, viện kiểm
sát, Tòa án hai cấp của tỉnh đình chỉ, tạm đình chỉ phần nào cũng thể
hiện sự ẩn đối với loại tội phạm này.
- Ngoài ra phải kể đến trình độ chuyện môn của một số cán bộ
tiến hành tố tụng còn hạn chế, nhận diện không đúng về hành vi buôn
lậu nên khi đem ra xét xử thì đáng nhẽ hành vi đó phải coi là tội buôn
lậu thì lại xử lý thành tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới.
Từ những phân tích trên có thể thấy tình hình tội phạm buôn lậu
trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn tiềm ẩn phức tạp, số vụ phạm tội xảy ra trên
thực tế chắc chắn cao hơn nhiều so với con số thống kê hình sự của các
ngành chức năng.
CHƢƠNG 2
NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI
BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN
2.1. Những vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội buôn lậu
2.1.1. Khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tội buôn lậu
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng đã xác định quan hệ nhân
quả là một dạng của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, trong đó
một sự vật, hiện tượng được gọi là nguyên nhân với những điều kiện
nhất định đã làm phát sinh một sự vật, hiện tượng khác được gọi là kết
quả; cũng như những tội phạm khác, tội buôn lậu tồn tại là hậu quả của
những nguyên nhân nhất định; những nguyên nhân đó gắn liền với
những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội nhất định; nguyên nhân và
12


điều kiện là hai khái niệm khác nhau, nhưng có quan hệ biện chứng,
chuyển hóa lẫn nhau. Một hiện tượng trong hoàn cảnh này là nguyên
nhân phát sinh, nhưng trong hoàn cảnh khác là điều kiện thúc đẩy hành

vi phạm tội; vì vậy, việc phân chia các hiện tượng làm phát sinh và
thúc đẩy tội buôn lậu thành nguyên nhân và điều kiện hoàn toàn mang
tính chất tương đối.
2.1.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện tội buôn lậu
a. Nguyên nhân và điều kiện mang tính xã hội
- Dân cư phân bố không đều, mật độ dân cư ở một số vùng còn
thưa thớt; đa số dân cư ở đây là dân từ nhiều nơi khác đến cư trú làm
ăn, sinh sống trong đó có gần 50.000 người không có hộ khẩu thường
trú, đời sống nhân dân còn đang gặp nhiều khó khăn.
b. Nguyên nhân và điều kiện mang tính pháp lý hình sự
Nhà nước ta để phòng chống buôn lậu có hiệu quả đã điều
chỉnh điều 153 của bộ luật hình sự 1999( sửa đổi bổ sung 2009) về
tội buôn lậu thành điều 188 bộ luật hình sự 2015 về tội buôn lậu là
nâng mức phạt tiền
2.2. Các nguyên nhân và điều kiện tình hình tội buôn lậu
trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
2.2.1. Nguyên nhân, điều kiện về kinh tế - xã hội:
- Nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây đã có sự
phát triển đáng kể, hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hóa diễn ra
đa dạng, đưa ra thị trường nhiều loại sản phẩm có chất lượng, từng
bước đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng Việt Nam. Tuy
nhiên, do điều kiện quy mô sản xuất còn nhỏ, phân tán, năng suất lao
động thấp, nên hàng hóa trong nước sản xuất ra chưa có khả năng cạnh
tranh trên thị trường quốc tế. Các tiêu chuẩn về chất lượng, mẫu mã
chưa đảm bảo, nhiều sản phẩm làm ra không được thị trường chấp
13


nhận. Bên cạnh đó có một số mặt hàng trong nước chưa sản xuất hoặc
sản xuất nhưng không đáp ứng đủ nhu cầu của người tiêu dùng

2.2.2. Nguyên nhân, điều kiện về việc làm và các chính sách
xã hội
- Lạng Sơn là một tỉnh miền núi biên giới, có nhiều đồng bào
dân tộc, đời sống kinh tế gặp nhiều khó khăn. Bởi vậy, một bộ phận
dân cư đã chuyển sang buôn lậu hoặc vận chuyển hàng lậu thuê cho
các cửa hàng. Bên cạnh đó, các chính sách xã hội đối với nhân dân
vùng biên giới nhìn chung chưa được quan tâm đúng mức. Chương
trình hỗ trợ cải thiện nhà ở, việc làm cho hộ nghèo giai đoạn 2011 –
2015, song kết quả chưa khả quan. Các chính sách về chăm sóc sức
khỏe, giáo dục không được triển khai một cách thường xuyên và cụ
thể. Đời sống nhân dân vùng biên giới nói chung vẫn còn rất khó
khăn và lạc hậu. Họ không có ý thức rõ ràng về vấn đề chủ quyền
quốc gia, vấn đề dân tộc … và dễ bị lôi kéo, dụ dỗ vào việc thực hiện
những hành vi vi phạm pháp luật trong đó là tham gia buôn lậu hoặc
chứa chấp, vận chuyển hàng lậu.
2.2.3. Nguyên nhân và điều kiện về văn hóa, giáo dục
Do nhận thức của người dân về hậu quả , tác hại của buôn lậu
và tội phạm buôn lậu chưa đúng đắn và đầy đủ . Không ít quần chúng
nhân dân còn nhận thức rằng việc mang vác hàng lậu không phải là
một điều xấu cần loại bỏ và việc làm đó được trả công như bất kỳ
một công việc bình thường khác , cho nên họ đã đồng tình với buôn
lậu , có thái độ chống đối hoạt động chống buôn lậu của Hải quan
cũng như các ngành chức năng khác. Sở dĩ có sự nhận thức đó là do
trình độ dân trí và điều kiện kinh tế của người dân ở các xã biên giới
còn rất thấp nên ý thức đấu tranh chống buôn lậu của họ không cao,
thậm chí có những hành động tiếp tay cho bọn buôn lậu .
14


2.2.4. Nguyên nhân và điều kiện về cơ chế quản lý Nhà nước

Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm
buôn lậu nói riêng không thể đạt được hiệu quả nếu không có sự đảm
bảo của pháp luật. Bởi vì pháp luật là công cụ, là phương tiện để nhà
nước tổ chức quản lý đời sống xã hội trong đó có quản lý kinh tế. Trừ
khi hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ban hành nhiều văn bản
chỉ đạo công tác chống buôn lậu như Nghị quyết số 85/CP ngày
11/07/1997 của Chính phủ đề ra một số giải pháp cấp bách về chống
buôn lậu; Chỉ thị số 853/CT-TTg ngày 11/10/1997 của Thủ tướng
Chính phủ về đấu tranh chống buôn lậu trong tình hình mới; Quyết
định số 127/2001/QĐ-TTg ngày 27/08/2001 của Thủ tướng Chính
phủ về việc thành lập Ban chỉ đạo chống buôn lậu, hàng giả và gian
lận thương mại; Quyết định số 389/QĐ-TTg ngày 19/03/2014 của
Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập Ban chỉ đạo quốc gia
phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả thay thế
Quyết định số 127/2001/QĐ-TTg ngày 27/08/2001. Theo tác giả, tỉnh
Lạng Sơn không chỉ là địa bàn tiêu thụ hàng lậu mà còn là địa bàn
trung chuyển hàng lậu về Thành phố Hà Nội và các tỉnh phía Bắc,
một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình buôn lậu là việc lợi
dụng cơ chế chính sách, các quy định của pháp luật có kẻ hở để đối
tượng buôn lậu lợi dụng

2.2.5. Nguyên nhân và điều kiện về nhân thân người phạm tội
Nhân thân người phạm tội được định nghĩa : “ Nhân thân
người phạm tội tức là người có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy định là tội phạm , được hiểu là
tổng thể tất cả các dấu hiệu , đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội ,
trong sự kết hợp với các điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài ảnh
15



hưởng đến hành vi phạm tội của người đó” [18, tr 131] ; từ định
nghĩa trên có thể hiểu nhân thân người phạm tội là hệ quả của cả quá
trình lệch chuẩn trong phát triển nhân cách ; nhân thân người phạm
tội là một trong những nội dung cơ bản của đối tượng nghiên cứu tội
phạm học
2.2.6. Các hiện tượng tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án
một số cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án tội buôn lậu thoái hóa, biến chất, tư lợi, cố ý làm trái các quy định
làm ngơ hoặc tiếp tay cho đối tượng buôn lậu hoạt động; trang thiết
bị, phương tiện hoạt động của Công an, Hải quan, Bộ đội Biên phòng
còn thiếu, lạc hậu, chưa đáp ứng yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh
chống tội phạm buôn lậu; trong khi đó các đối tượng buôn lậu sử
dụng, trang bị nhiều phương tiện kỹ thuật và thông tin hiện đại, hoạt
động ngày càng tinh vị, táo bạo; đời sống và mức lương của các cán
bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với tội
phạm nói chung và tội buôn lậu nói riêng còn thấp nên cũng đã ảnh
hướng đến tư tưởng, tinh thần và trách nhiệm công tác cũng như việc
giữ gìn đạo đức của người cán bộ thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa,
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án tội buôn lậu.

16


CHƢƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN
3.1. Dự báo tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Lạng
Sơn trong thời gian tới

Theo Giáo sư, Tiến sĩ Võ Khánh Vinh: “Dự báo tình hình tội
phạm là sự suy đoán về thực trạng, diễn biến, tính chất của tình hình
tội phạm có thể xẩy ra trong tương lai, về các nguyên nhân và điều
kiện, về các khả năng phòng chống nó trong từng giai đoạn nhất định
và việc đánh giá về chất và lượng của những thay đổi trong tình hình
tội phạm, các nguyên nhân và điều kiện của nó”.
3.1.1. Dự báo về tình hình kinh tế - xã hội ở Việt Nam có ảnh
hưởng đến tội phạm buôn lậu
Về mặt lý luận cũng như trên thực tế, tình hình tội phạm phụ
thuộc rất nhiều vào những biến động của tình hình chính trị, kinh tế xã hội, an ninh - quốc phòng của một quốc gia trong những giai đoạn
phát triển nhất định. Chính vì vậy, để có thể đánh giá, dự báo tình
hình tội phạm buôn lậu ở nước ta trong thời gian tới, cần có sự xem
xét, đánh giá và dự báo tình hình kinh tế - xã hội ở Việt Nam cũng
như trên Thế giới và sự tác động của các yếu tố kinh tế tới buôn lậu
và tội phạm tội buônlậu.
3.1.2. Dự báo tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Lạng
Sơn trong thời gian tới
Việc nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu sắc vào nền kinh tế
thế giới, với việc mở ra ngày càng nhiều các cơ hội giao lưu quốc tế
trong bối cảnh các thủ tục hành chính ngày càng đơn giản, gọn, nhẹ
17


đã đặt hoạt động phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại với
những thách thức mới:
- Các đối tác thương mại ngày càng mở rộng, hầu hết các khu
vực, các trung tâm kinh tế lớn đều có quan hệ thương mại và đầu tư
quan trọng với Việt Nam, trong đó có những khu vực có mức độ rủi
ro cao về buôn lậu, về ma tuý, về khủng bố quốc tế. Do kết quả của
thực hiện các cam kết quốc tế về tạo thuận lợi cho thương mại, các

thủ tục hành chính ngày càng đơn giản, gọn nhẹ, việc kiểm tra
thực tế hàng hoá tại các cửa khẩu ngày càng giảm. Việc giảm tỷ lệ
kiểm tra là một chủ trương đúng đắn theo chuẩn mực quốc tế, tuy
nhiên việc này đòi hỏi các hoạt động nghiệp vụ của cơ quan hải
quan như: kiểm tra sau thông quan hay kiểm soát hải quan phải
đảm bảo hiệu quả cao nhằm chống việc lợi dụng các quy định tạo
thuận lợi vào mục đích gian lận.
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình
tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
3.2.1. Giải pháp về kinh tế - xã hội
Nhà nước cần nghiên cứu, rà soát nhằm hoàn thiện đồng bộ cơ
chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các thành phần
kinh tế, cá nhân kinh doanh làm giàu chính đáng, động viên và phát
huy mọi nguồn lực sẵn có trong nhân dân vào phát triển kinh tế với
những hình thức, quy mô thích hợp. Ngoài việc tăng cường vai trò và
nâng cao hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế, các tổng công
ty nhà nước phát huy vai trò đầu tầu và định hướng đối với nền kinh
tế, cần tiếp tục khuyến khích, tạo điều kiện ra đời và phát triển của
những doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các địa phương, thời gian vừa qua
đã chứng minh sự năng động, vươn lên mạnh mẽ của loại hình doanh
nghiệp này cả về quy mô, ngành nghề và đóng góp cho ngân sách
18


nhà nước cũng như tạo công ăn việc làm cho người lao động, nhà
nước cần tiếp tục có những ưu đãi hơn nữa cho các doanh nghiệp
này như định hướng về các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh; hỗ
trợ các hoạt động tiếp thị, quảng bá thương hiệu ra thị trường quốc
tế cũng như cung cấp các thông tin về chính sách pháp luật, chính
sách và tập quán thương mại tại các thị trường; hỗ trợ các nguồn

vốn tín dụng ưu đãi,..
3.2.2. Giải pháp về văn hóa, giáo dục
Phát triển văn hóa, giáo dục để nâng cao dân trí trên tuyến biên
giới là cần thiết và cấp bách; chính quyền các cấp, các ban, ngành
tích cực tham gia có hiệu quả các chương trình phát triển văn hóa,
giáo dục về cơ sở, từng bước đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa tinh
thần cho đồng bào các dân tộc; phối hợp tổ chức tuyên truyền vận
động trẻ em trong độ tuổi đến các lớp học; vận động các cấp, các
ngành, các đoàn thể và nhân dân địa phương tích cực đóng góp tiền
của, công sức để xây dựng trường, lớp; trực tiếp đảm nhiệm giảng
dạy một số lớp xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học ở các xã biên
giới vùng sâu, vùng xa mà ngành giáo dục chưa có điều kiện tổ chức
trường lớp. Các cấp, các ngành chức năng và địa phương tuyên
truyền, vận động, hướng dẫn nhân dân các dân tộc ăn ở hợp vệ sinh,
phòng chống dịch bệnh, tham gia củng cố mạng lưới y tế xã, thôn
bản; quân y các Đồn biên phòng tham gia cấp cứu, khám chữa bệnh,
phòng chống dịch bệnh cho nhân dân trên địa bàn quản lý.

3.2.3. Giải pháp nâng cao nhận thức và tuyên truyền
pháp luật
Công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh trong những năm qua đã
thực hiện đúng tinh thần Chỉ thị số 35-CT/TU. Các sở, ban, ngành,
đoàn thể tỉnh, đơn vị trực thuộc trung ương đóng trên địa bàn tỉnh và
19


Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố đã tích cực đẩy mạnh công tác
PBGDPL, kịp thời phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật mới ban
hành và các cơ chế chính sách mới của tỉnh tới cán bộ, công chức và
nhân dân tại các cuộc họp sinh hoạt định kỳ, hội nghị tập huấn

chuyên đề hoặc “Ngày pháp luật” của cơ quan. Đặc biệt, trong quá
trình triển khai thực hiện công tác PBGDPL, các cấp, các ngành, các
tổ chức đoàn thể đã chú trọng tập trung tuyên truyền, phổ biến các
văn bản pháp luật liên quan đến các vấn đề bức thiết mà xã hội quan
tâm như: Pháp luật về an toàn giao thông, về khiếu nại, tố cáo, về đất
đai, xây dựng...
3.2.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả trong quản lý Nhà nước
- Tăng cường quản lý hành chính: Công tác quản lý hành chính
có vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định về an ninh, trật tự
trên địa bàn biên giới. Đồng thời là một biện pháp hỗ trợ đắc lực cho
việc triển khai các lực lượng, phương tiện, biện pháp nghiệp vụ trong
phòng, chống tội phạm nói chung và tội buôn lậu nói riêng trên tuyến
biên giới Lạng Sơn. Để khắc phục những hạn chế, những sơ hở thiếu
sót trong thời gian tới các cơ quan có thẩm quyền (Công an, Bộ đội
biên phòng) cần phải thực hiện một cách kiên quyết, đồng bộ

3.2.5. Giải pháp nâng cao hiệu quả của các cơ quan tiến
hành tố tụng
+ Cơ quan điều tra:
Thực hiện điều tra các vụ án buôn lậu thuộc thẩm quyền theo
qui định của pháp luật Tố tụng hình sự một cách kịp thời, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật. Vụ buôn lậu có thể do chính Cơ
quan điều tra trực tiếp phát hiện, thụ lý; cũng có thể do các cơ quan
khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra phát hiện, khởi tố
20


bàn giao. Để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình trong thời
gian tới
+ Viện kiểm sát nhân dân:

Quán triệt và thực hiện tốt hơn nữa chức năng thực hành quyền
công tố, cụ thể: Hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm
sát nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh đối với các vụ án buôn lậu trên
tuyến biên giới Lạng Sơn phải được thực hiện ngay trong giai đoạn
điều tra và cả trong giai đoạn xét xử. Hoạt động công tố phải được
thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án buôn lậu và trong suốt quá trình
tố tụng hình sự nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm
tội, không làm oan người không có tội.
+ Tòa án nhân dân:
Tòa án các cấp cần tổ chức hội nghị cán bộ và hội thẩm nhân dân
nghiên cứu các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, của
chính quyền địa phương nhằm quán triệt yêu cầu, nhiệm vụ phòng,
chống tội buôn lậu. Nắm vững đường lối, phương châm xét xử và những
thông tư liên ngành của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp;
Tòa án nhân dân các cấp phải cùng với Cơ quan điều tra và
Viện Kiểm sát phân loại lại những vụ buôn lậu thuộc thẩm quyền xét
xử của cấp mình (mới phát hiện hoặc đã điều tra xong) tập trung
nghiên cứu, tùy theo tính chất và mức độ mà xử phạt nghiêm khắc
theo đúng pháp luật, công bố tội trạng và kết quả xét xử trên các
phương tiện thông tin đại chúng để đồng loạt tấn công vào các đối
tượng phạm tội buôn lậu, hỗ trợ cho nhân dân tham gia đấu tranh
ngăn chặn, đẩy lùi và bài trừ loại tội này. Đối với những trường hợp
phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thái độ khai
21


báo ngoan cố, không chịu khắc phục những hậu quả do hành vi phạm
tội gây ra, tái phạm hoặc phạm tội nhiều lần thì phải áp dụng mức án
cao trong khung hình phạt. Đối với những trường hợp bị cáo mắc

bệnh hoặc hoàn cảnh gia đình khó khăn, thì không thể coi đây là lý
do để xử nhẹ, càng không phải lý do để cho hưởng án treo, mà phải
thấy đây là việc cần giải quyết ở khâu thi hành án . Cần lưu ý là
những vụ án về tội buôn lậu thường rất phức tạp, liên quan đến nhiều
ngành, nhiều người, do đó phải rất thận trọng, xem xét khách quan,
toàn diện các chứng cứ, không vì xét xử khẩn trương, nghiêm khắc
mà xét xử ẩu, làm oan người không có tội.
3.2.6. Giải pháp nâng cao hệ thống pháp luật về đấu tranh
chống buôn lậu
Vận dụng có hiệu quả các qui định của Bộ luật Hình sự Việt
Nam để phòng, chống tội buôn lậu: Bộ luật Hình sự Việt Nam qui
định tội buôn lậu tại Điều 188 BLHS 2015, việc qui định tội buôn lậu
và hình phạt đối với tội buôn lậu có ý nghĩa rất quan trọng trong phòng
ngừa và đấu tranh với loại tội này, cụ thể: Là cơ sở pháp lý để trừng trị
người phạm tội buôn lậu và giáo dục, ngăn ngừa họ phạm tội mới;
giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm.

22


KẾT LUẬN
Trong những năm qua tình hình buôn lậu ngày một gia tăng,
không những ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời
sống xã hội trong nước mà còn ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia.
Việc ngăn chặn có hiệu quả hiện tượng nhập lậu hàng hóa,
hàng hóa nhập lậu lưu thông trên thị trường, chống thất thu thuế,
nâng cao trách nhiệm của từng ngành, từng cấp trong việc đấu
tranh phòng, chống buôn lậu là nhiệm vụ quan trọng của Đảng và
Nhà nước ta.

Do có những điều kiện tự nhiên thuận lợi cũng như các chính
sách phát triển kinh tế đa dạng mà Lạng Sơn đang có một vị trí quan
trọng, là một trong ba trung tâm phát triển kinh tế lớn của vùng Đông
Bắc. Tuy nhiên, lợi dụng vào điều kiện đó, tội buôn lậu, vận chuyển
trái phép hàng hóa tiền tệ qua biên giới cũng diễn biến ngày càng
phức tạp , gây ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình an ninh kinh tế,
chính trị của địa phương và góp phần làm cho diễn biến tình hình
buôn lậu trên cả nước thêm nghiêm trọng hơn.
Chính quyền địa phương đã chủ động triển khai và thực hiện
các biện pháp đấu tranh phòng, chống tệ nạn này một cách kiên quyết
và đã đạt được những kết quả nhất định. Cùng với những diễn biến
mới có xu thế hội nhập quốc tế, các chính sách pháp luật, kinh tế,
thương mại sẽ có những điều chỉnh phù hợp, có thể tác động tích cực
đến hiệu quả của công tác chống buôn lậu.
Tuy nhiên , hiện nay do một số nguyên nhân chủ quan, khách
quan cho nên tệ nạn buôn lậu vẫn chưa được ngăn chặn , chưa bị xử
lý một cách toàn diện và triệt để. Xuất phát từ đặc điểm của công tác
đấu tranh chống tội buôn lậu của địa phương, cần tăng cường áp
23


×