Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

NGHIÊN cứu THÀNH PHẦN, PHÂN bố các LOÀI nưa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (756.47 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
-----------------------------

TRẦN VĂN TIẾN
Tên luận án:

NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN, PHÂN BỐ CÁC LOÀI NƯA
(AMORPHOPHALLUS SPP.) CỦ CÓ GLUCOMANNAN VÀ CHỌN
LOÀI CÓ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN TRỒNG Ở MỘT SỐ TỈNH
MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM

Chuyên ngành: Thực vật học
Mã số: 62 42 01 11

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC

Hà Nội - 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học và Công nghệ - Viện Hàn
lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Người hướng dẫn khoa học 1: TS. Nguyễn Văn Dư
Người hướng dẫn khoa học 2: PGS. TS. Hà Văn Huân

Phản biện 1: …............................................................................................


Phản biện 2: …............................................................................................
Phản biện 3: …............................................................................................

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án tiến sĩ cấp Học viện,
họp tại Học viện Khoa học và Công nghệ - Viện Hàn lâm Khoa học và Công
nghệ Việt Nam vào hồi … giờ ..’, ngày … tháng … năm 201….


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Một số loài trong chi Nưa Amorphophallus, thuộc họ Ráy (Araceae) củ có
chứa glucomannan, một loại đường phân tử lớn có cấu trúc mạch đã và đang được
trồng ở nhiều nước trên thế giới như Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, v.v. để lấy củ
làm nguyên liệu chế biến thực phẩm và thực phẩm chức năng. Theo Chua M.,
Baldwin TC., Hocking TJ., Chan K. (2010) thì củ một số loài Nưa chứa
glucomannan, một loại đường polysaccharide tan trong nước. Các sản phẩm chứa
glucomamnan trong củ Nưa, có tác dụng điều chỉnh nồng độ đường, làm giảm tỷ lệ
mỡ trong máu, làm giảm sự thèm ăn ở người béo phì.
Ở Việt Nam, củ cây Nưa đã được sử dụng làm thức ăn truyền thống từ lâu đời
của người dân tộc ở một số tỉnh miền núi phía Bắc. Tuy nhiên, củ Nưa chỉ được khai
thác sử dụng trong phạm vi hẹp ở một số địa phương với các món ăn được chế biến
giống như đậu phụ gọi là món Mò gỉ (tiếng Nùng) hay Cò ký thơ (tiếng Mông), mỳ,
bánh rán,.v.v. (Nguyễn Văn Dư, 2012). Các nghiên cứu về cây Nưa ở Việt Nam đã
chỉ ra được một số loài Nưa có hàm lượng glucomannan, đặc điểm phân bố và đã có
những nghiên cứu bước đầu về nhân giống và trồng các loài Nưa này.
Bên cạnh đó, theo số liệu của Tổng cục thống kê năm 2016, các tỉnh miền núi phía
Bắc Việt Nam với địa hình là đồi núi, người dân thu nhập bình quân đầu người thấp với
337,2 nghìn đồng/tháng. Do thu nhập của người dân thấp nên tỷ lệ hộ đói nghèo rất cao là
41,42%, nhiều hộ thiếu ăn 2 - 6 tháng/năm. Vì vậy, để đưa cây Nưa trở thành cây nông
nghiệp phát triển kinh tế miền núi phía Bắc Việt Nam, việc nghiên cứu sâu hơn về loài

Nưa có giá trị kinh tế và các biện pháp nghiên cứu nhân giống và trồng là hết sức cần thiết
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài nghiên cứu “Nghiên cứu
thành phần, phân bố các loài Nưa (Amorphophallus spp.) củ có glucomannan, lựa
chọn loài có triển vọng phát triển trồng ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam”
làm đề tài nghiên cứu luận án của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
- Đánh giá được thành phần và phân bố các loài Nưa (Amorphophallus spp.) củ
có glucomannan ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam;
- Lựa chọn được loài nưa có glucomannan cao và triển vọng phát triển trồng để
nhân giống, trồng ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam;
- Nhân giống và trồng thử nghiệm loài Nưa có triển vọng phát triển ở một số
tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
3. Nội dung nghiên cứu chính của luận án
- Điều tra đánh giá thành phần loài, phân bố và tri thức bản địa các loài Nưa củ
có glucomannan ở miền núi phía Bắc Việt Nam.
- Nghiên cứu về đặc điểm hình thái, sinh trưởng phát triển và lựa chọn loài Nưa
có hàm lượng glucomannan cao, triển vọng phát triển ở một số tỉnh miền núi phía Bắc
Việt Nam.
- Nghiên cứu một số kỹ thuật nhân giống loài Nưa có hàm lượng glucomannan
cao và triển vọng phát triển ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
- Nghiên cứu trồng, phát triển của Nưa konjac ở một số tỉnh miền núi phía Bắc
Việt Nam.

1


4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa khoa học: Kết quả của luận án góp phần bổ sung và hoàn chỉnh kiến
thức về các loài Nưa (Amorphophalluss spp.) thuộc chi (Amorphophalluss) ở Việt
Nam. Bên cạnh đó kết quả luận án còn nhằm phục vụ cho các nghiên cứu chuyên

ngành sâu hơn trên các lĩnh vực khác nhau của loài Nưa.
- Ý nghĩa thực tiễn: Là cơ sở khoa học cho việc phát triển một số giống Nưa
có hàm lượng glucomannan cao ở Việt Nam, phục vụ sản xuất thực phẩm chức năng
và một số ngành khác.
5. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục luận án
cấu trúc gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu - 25 trang, Chương
2: Đối tượng, nội dung, phương pháp nghiên cứu - 22 trang, Chương 3: Kết quả quả
nghiên cứu và thảo luận - 70 trang.
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu về chi Nƣa
1.1.1. Vị trí và phân loại của chi Nưa
Theo từ điển cây thuốc Việt Nam của Võ Văn Chi (2012), phân loại của chi Nưa
trong giới thực vật như sau: Chi Nưa (Amorphophallus) thuộc họ Ráy (Araceae), tên gọi
khác là Khoai Nưa, Khoai ngái, Tò ngủ (Tày), Mò gỉ (Nùng), Cò kí thơ (H'mông).
1.1.2. Đặc điểm hình thái của chi Nưa
Các loài trong chi Nưa là cây thảo, thân củ, chiều cao từ 10 cm (A. pulsilus) tới
hàng mét (A. titanum) (Mayo, 1997; Bown, 2000).
Củ của cây Nưa có nhiều hình dạng khác nhau, từ thuôn dài, hình củ cải, hình cầu
hay hình đầu, không hiếm loài có thân củ phần trên gần hình cầu nhưng phần dưới lại
phân nhánh.
Rễ cây Nưa là dạng rễ chùm, thường tập trung ở phần đỉnh của củ, xuất phát
ngay dưới chồi đỉnh. Rễ thường mập, dài tới 15 cm.
Lá cây Nưa thường đơn độc, ít khi có 2-3 lá cùng với nhau; cuống lá thường mập,
màu xanh, có đốm trắng, hoặc màu nâu có đốm trắng, hoặc có nhiều chấm đen, ngoài
nhẵn, ít khi có gai mềm, ngoài bao bọc bởi lá vảy ở phần gốc lúc non. Phiến lá đơn,
thường xẻ 3 thùy lớn, các thùy lớn lại xẻ thứ cấp 2 đến nhiều lần thành các phiến dạng
lá “chét” hình lông chim.
Hoa của Nưa là cụm hoa dạng bông mo, lưỡng tính, đơn độc; mo và bông nạc đa
dạng về hình dạng và kích thước.

1.1.3. Đặc điểm về thành phần và phân bố các loài Nưa
1.1.3.1. Đặc điểm thành phần loài Nưa
Trên thế giới chi Nưa có khoảng 200 loài phân bố chủ yếu ở các vùng nhiệt đới
thuộc Châu Phi và Châu Á (Hetterscheid và Ittenbach, 1996; Sedayu, 2010). Ở Việt
Nam số loài của chi này lên tới 25 loài, trong đó theo Nguyễn Văn Dư và cộng sự có
5 loài củ có chứa glucomannan.
1.1.3.2. Đặc điểm phân bố các loài Nưa
Các loài trong chi Nưa phân bố chủ yếu ở các vùng nhiệt đới thuộc Châu Phi và
Châu Á. Chúng là các loài thực vật đặc hữu của các vùng rừng mưa nhiệt đới của Đông
Nam Á. Nhiệt độ trung bình cả năm thích hợp nhất cho các loài Nưa vào khoảng 24oC

2


(Hetterscheid, 1994; Mayo, 1997; Liu, 2004). Ở Việt Nam với 25 loài Nưa phân bố
trong phạm vi cả Nước trong đó có 8 loài phân bố ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam, 17 loài còn lại phân bố đa dạng theo nhiều điều kiện sinh thái khác nhau từ Bắc
vào Nam của Việt Nam.
1.1.4. Đặc điểm sinh thái và sinh trưởng phát triển của loài Nưa củ có
glucomannan
 Đặc điểm sinh thái
Các loài Nưa sinh trưởng tốt trong môi trường bóng râm với đất thoát nước
nhanh và giàu mùn khoáng có độ pH từ 6,5 đến 7,5. Đặc biệt đối với các loài Nưa có
hàm lượng glucomannan cao cần điều kiện tránh ánh sáng trực tiếp thấp và nhiệt độ
thích hợp từ 20-250C.
 Đặc điểm sinh trưởng và phát triển
Liu & cs (1998) khi nghiên cứu về sinh trưởng và phát triển của một số loài
Nưa ở Trung Quốc đã chỉ ra các điều kiện sinh thái của Nưa. Theo nhóm nghiên cứu,
Nưa không phải là cây đòi hỏi nhiều nước, không chịu được ngập úng. Về nhiệt độ,
Nưa là cây ưa ấm, có khả năng chịu biến thiên nhiệt độ từ 5 - 430C, nhiệt độ tối thích

là 20 - 250C, khi nhiệt độ xuống dưới 00C và lên trên 480C cây sẽ chết sau 5 ngày.
Cây Nưa sinh trưởng và phát triển theo mùa, chúng thường rụng lá vào mùa đông hay
mùa khô.
1.1.5. Giá trị và tình hình sử dụng các loài Nưa
Các loài Nưa thuộc chi Amorphophallus từ lâu đã được sử dụng tại các vùng nhiệt
đới và cân nhiệt châu Á như một nguồn thức ăn và một loại thuốc y học cổ truyền (Liu,
1998). Một trong những loài được biết đến nhiều nhất là cây Amorphophalus konjac
được trồng tại Trung Quốc từ hơn 2000 năm về trước (Liu, 1998; Long, 1998). Phần củ
của loài này được dùng làm thuốc đông y để chữa hen suyễn, ho, chứng thoát vị, đau
ngực, bỏng và rối loạn về da (Niwa, 2000; Xu, 2001).
Gần đây, bột Nưa được chú ý bởi công dụng tiềm năng của nó như một chất xơ
thực phẩm. Các chất sơ thực phẩm này, sẽ kháng lại các enzim tiêu hóa, giúp chúng ta
no lâu hơn (McCleary, 2003). Phân tử có hoạt tính sinh học chủ yếu trong củ konjac là
sợi hòa tan, nó cơ bản bao gồm polysaccharide không chứa xenluloza và glucomannan
(Takigami, 2000; Edison, 2010; Parry, 2010).
Ở Việt Nam, củ Nưa được sử dụng làm thức ăn truyền thống từ lâu đời. Tuy
nhiên, thức ăn từ củ Nưa chỉ được sử dụng trong phạm vi hẹp ở từng địa phương
bởi các dân tộc miền núi hoặc chỉ sử dụng khi đói (nạn đói), chưa được sử dụng
như là thức ăn phổ biến. Theo các nghiên cứu điều tra thực vật dân tộc học của
Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật về cây Nưa ở Huế thì cây Nưa được trồng ở
Quảng Thọ, Quảng Điền từ hàng trăm năm trước và đã trở thành món ăn quen
thuộc. “Chột Nưa” trong bài thơ “Con cá chột Nưa” của nhà thơ Tố Hữu chính là
phần cuống lá vẫn được dân địa phương sử dụng như là một loại rau đặc sản (N.V.
Dư, 2012).
1.2. Khái quát nghiên cứu về glucomannan trong củ Nƣa
1.2.1. Giới thiệu về glucomannan trong củ Nưa
Glucomannan là một polysacarit mạch thẳng, khối lượng phân tử khoảng 200 ÷ 2000
Kda, tan trong nước gồm các mắt xích D-mannose và D-glucose liên kết với nhau bằng
liên kết β-(1→ 4) glucozit.


3


Hàm lượng của glucomannan trong củ Nưa phụ thuộc vào môi trường sống, điều
kiện canh tác, thời gian sinh trưởng, phát triển và qui trình tách chiết, chế biến từ
nguồn nguyên liệu ban đầu sau thu hoạch.
1.2.2. Nghiên cứu đánh giá hàm lượng glucomannan trong củ Nưa
Để đánh giá hàm lượng glucomannan hiện nay sử dụng chủ yếu phương pháp so
màu, đây là phương pháp định lượng hóa sinh các chất trong thực vật kinh điển hiện
nay được áp dụng. Một số phương pháp định lượng glucomannan được sử dụng như
phương pháp dùng thuốc thử 3,5-dinitrosalicylic axit (3,5-DNS), Phương pháp so màu
phenol-sunfuric axit.
1.3. Tình hình nghiên cứu về nhân giống cây Nƣa
1.3.1. Trên thế giới
Các loài Nưa có thể được nhân giống từ hạt hoặc từ cơ quan sinh dưỡng. Trong
Các loài Nưa có thể được nhân giống từ hạt hoặc từ cơ quan sinh dưỡng. Trong nuôi
trồng thương mại, cây Nưa được nhân giống từ cơ quan sinh dưỡng là củ và các
chồi cây (củ con) được sử dung phổ biến (Follett và Douglas, 2002; Edison, 2010).
Chồi cây gắn liền với thân củ gốc được cắt ra vào mỗi vụ thu hoạch và được vùi
trong cát hoặc đất mùn sạch độ ẩm 60% ở độ sâu 10 đến 15 cm nhằm ngăn rễ phát
triển ở vùng sống lưng của củ và củ khô cho đến vụ gieo trồng tiếp theo (Follett and
Douglas, 2002). Mặt khác, việc nhân giống từ hạt lại không phổ biến bởi hạt của
cây Nưa vô cùng khó nảy mầm trong điều kiện tự nhiên (O’Hair và Asokan, 1986).
Tuy nhiên ở phía Nam Trung Quốc, người dân bản địa làm cho việc nhân giống trở
nên dễ dàng hơn bằng cách loại bỏ vỏ quả đã chín, sau đó trộn với cát ẩm với tỉ lệ
1:4; rồi lấp lại bằng một lớp đất dầy (Long, 1998).
Các nghiên cứu nhân giống bằng mô lá, mô sẹo đã được các nhà sinh học nước
ngoài tiến hành nghiên cứu từ vài chục năm nay. Năm 1991, Kobayashi & M. Yonai,
S.đã giới thiệu phương pháp nhân giống cây Nưa konjac từ cuống lá, củ và củ con.
Theo các tác giả tỉ lệ củ nhiễm virus mosaic là tới 92%. Củ dùng để nuôi cấy sạch

bệnh được chọn ra từ các cây giống mẹ. Từ mô củ trong 3 tháng các tác giả đã nhân
được 1.000 cây con. Từ mô sẹo của cuống lá với trọng lượng 10 mg, trong 4 tháng đã
nhân được 1.000 cây con.
1.3.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, do cây Nưa chưa phải là cây kinh tế và có trong cơ cấu cây trồng
vì vậy cho tới nay các tài liệu nghiên cứu về nhân giống các loài Nưa ở Việt Nam
còn rất ít, đặc biệt đối với việc nghiên cứu với các loài Nưa có hàm lượng
gluconmannan cao.
Gần đây, nghiên cứu của Lê Xuân Đắc, Nguyễn Văn Dư năm 2014 cho kết
quả, môi trường thích hợp để tạo đa chồi cây Nưa là môi trường AMNA2 (MS + 30
g/l đường saccharose + 8g/l agar + 2 mg/l BAP + 0,2 mg/l NAA) với hệ số nhân chồi
là 5,7. Môi trường tốt nhất để tạo cây hoàn chỉnh là môi trường ARIB6 (MS + 30 g/l
đường saccharose + 8 g/l agar + 0,6 mg/l IBA) với tỉ lệ tạo rễ là 100%, số rễ trung
bình/chồi là 5,8 và cây sinh trưởng phát triển tốt nhất. Giá thể thích hợp để trồng cây
sau in vitro cho cây Nưa là trấu hun + đất với tỉ lệ cây con sống là 95,3%.
Các nghiên cứu này cho thấy, khả năng nhân giống cây Nưa bằng phương pháp
nuôi cây mô đảm bảo để tạo ra cây sạch bệnh và có thể nhân với số lượng lớn. Tuy
nhiên, giá thành nhân giống lại khá cao.

4


1.4. Tình hình nghiên cứu trồng, thu hoạch và chế biến Nưa trên thế giới và ở
Việt Nam
1.4.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
1.4.1.1. Nghiên cứu về trồng Nưa
Hầu hết các phương thức trồng Nưa là kết quả của kinh nghiệm tích lũy từ rất
nhiều các thế hệ nông dân các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ,.v.v. Các ứng
dụng dựa trên nghiên cứu khoa học là một điều mới được áp dụng trong những năm gần
đây (O’Hair và Asokan, 1986). Ở Nhật Bản, quy trình nuôi trồng cây Nưa truyền thống

(“quy trình Jinenjo”), được sử dụng từ trên 100 năm trước, cây Nưa được trồng liên tục
trong nhiều năm cho đến khi củ đạt trọng lượng để thu hoạch và chế biến.
Bên cạnh đó, ở Nhật Bản còn trồng Nưa theo quy trình trồng trọt hiện đại (“Hệ
thống Uedama”), củ được chia theo nhóm tuổi và được trồng tách biệt mà không trồng
xen kẽ dưới tán (Kurrihara, 1979; Douglas, 2006). Thông thường, các chồi cây được
nuôi cấy với mật độ dày đặc trong vòng một năm để tạo nguyên liệu nhân giống cho
những mùa vụ tiếp theo (Douglas, 2005). Sau khi thu hoạch, thân củ lớn sẽ được bán và
số còn lại được lưu giữ theo các nhóm tuổi tại các nhà kho thoáng mát qua các tháng
mùa đông, để trồng vào mùa xuân năm sau (Kurihara, 1979; Douglas, 2006). Mặc dù
sản lượng củ là cao hơn so với phương pháp nuôi cấy “Jinenjo” truyền thống, nhưng
phương pháp này ghi nhận nhiều vấn đề như sự gia tăng các bệnh về đất và sâu bệnh hại,
cây sinh trưởng và phát triển chậm, chất lượng củ suy giảm sau từ 3 năm trồng liên tục
(Kurihara, 1979).
1.4.1.2. Các nghiên cứ về thu hoạch và chế biến củ Nưa
Thời điểm thu hoạch là một yếu tố quan trọng tác động đến cả sản lượng và
chất lượng củ. Nghiên cứu cho thấy hàm lượng glucomannan trong củ thay đổi trong
suốt mùa vụ và đạt đỉnh ngay trước khi lá rụng, trước gian đoạn ngủ đông (Liu, 1998;
Bown, 2000). Thu hoạch sớm trước sự trưởng thành hoàn toàn của củ có thể cản trở
sự ngủ đông ban đầu của cây và ngăn sinh khối trong tán lá phân tách ra khỏi củ, do
đó có thể cản trở sự phát triển cuối cùng của củ (Bown, 2000).
Như đã nêu ở trên, tại Nhật Bản, những củ lớn hơn được thu hoạch để bán vào
cuối mùa thu; số còn lại hoặc là được giữ nguyên trên cánh đồng để tiếp tục sinh
trưởng vào mùa tiếp theo, hoặc là được lưu trữ thành các nhóm phân chia theo tuổi
thọ trong các nhà kho thoáng khí qua hết mùa đông (Kurihara, 1979; Follett, 2002;
Douglas, 2006).
1.4.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
1.4.2.1. Các nghiên cứu về trồng Nưa
Có một số nghiên cứu về trồng Nưa ở Việt Nam trong đó kể đến như Nguyễn
Thị Ngọc Huệ, Đinh Thế Lộc đã chỉ ra rằng đối với các loài Nưa (Amorphophallus
spp.) thời gian trồng hàng năm vào tháng 2 tháng 4 nếu trồng muộn hơn vào tháng 56 thời gian sinh trưởng ngắn cây sẽ không cho năng suất cao, vật liệu trồng là củ và

lượng phân bón cho 1 ha Nưa là phân chuồng 1,5 tấn và lượng N:K:P với tỷ lệ
13:13:21 với mật độ trồng 5 cây/1m2.
Các nghiên cứu về kỹ thuật trồng Nưa ở Việt Nam, mới đây trong đề tài
“Nghiên cứu sinh trưởng của cây Nưa chuông (Amorphophallus paeoniifolius) ở
Thừa Thiên Huế” của 3 tác giả Võ Thị Mai Hương, Trần Vũ Ngọc Thi, Nguyễn
Thị Thu Phương của trường Đại học Khoa học – Đai học Huế. Qua phân tích số

5


liệu thu được, đề tài đã kết luận rằng, thời gian hình thành chột 1, chột 2 và chột
3 lần lượt là khoảng 20 ngày, 55 ngày và 83 ngày sau khi giâm củ. Thời gian sinh
trưởng của chột 1 khoảng 65 ngày, của chột 2 khoảng 87ngày, chột 3 khoảng 78
ngày. Chiều cao, đường kính chột và chiều dài lá của các chột tăng nhanh vào
khoảng 5-6 tuần đầu của quá trình sinh trưởng. Chiều cao chột đạt 39,9796,94cm, cao nhất là chột 3. Đường kính chột đạt 2,48-3,92cm và chiều dài lá đạt
40,82-71,12cm. Năng suất lý thuyết của chột đạt 149,2, trong đó cao nhất là năng
suất chột 2 (đạt 58,8 tấn/ha).
1.4.2.2. Các nghiên cứu về thu hoạch và chế biến củ Nưa
Ở Việt Nam vẫn chưa có nhiều nghiên cứu ứng dụng của Nưa trong đời sống
hàng ngày. Theo Nguyễn Văn Dư và cs (2012), củ Nưa mới chỉ được dùng trong
cộng đồng dân tộc Mông, Nùng hay Hà Nhì để chế biến món “Mò gỉ” hay “Cò ký
Thơ”.
Thời gian thu hoạch Nưa vào tháng 11, khi lá cây Nưa đã hoàn toàn lụi và thời
tiết đã vào giữa mùa khô, củ Nưa có tỉ lệ phần trăm khối lượng khô cao hơn nhiều so
với thời điểm thu hoạch vào tháng 9, khi lá cây Nưa đang lụi.
CHƢƠNG 2. VẬT LIỆU, NỘI DUNG, PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu, địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mẫu vật nghiên cứu là các loài Nưa mọc tự nhiên ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Việt Nam. Tổng số mẫu vật nghiên cứu là 159 mẫu vật trong phạm vi ở một số tỉnh

miền núi phía Bắc Việt Nam. Mẫu tiêu bản được làm và bảo quản tại Viện Sinh thái
và Tài nguyên sinh vật, Viện hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
2.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.2.1. Địa điểm nghiên cứu
- Nghiên cứu điều tra thành phần, phân bố và tri thức bản địa về khai thác sử dụng
loài Nưa củ có glucomannan được thực hiện ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
- Nghiên cứu nhân giống hữu tính và nhân giống bằng nuôi cấy mô tế bào được
thực hiện tại khu thực nghiệm ở Hợp tác xã Linh Dược Sơn, tiểu khu 10, thành phố
Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.
- Nghiên cứu nhân giống vô tính bằng củ được thực hiện ở xã Vân Hồ, huyện Vân
Hồ, tỉnh Sơn La.
- Nghiên cứu trồng Nưa được thực hiện ở xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn
La.
- Cây Nưa được trồng thực nghiệm ở xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La;
xã Quyết Tiến, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang; xã Ngọc Sơn, huyện Lạc Sơn, tỉnh
Hòa Bình.
2.1.2.2. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 12/2013 - 3/2017
2.2. Nội dung nghiên cứu
- Điều tra đánh giá thành phần, phân bố và tri thức bản địa các loài Nưa củ có
glucomannan ở miền núi phía Bắc Việt Nam.
- Nghiên cứu về đặc điểm hình thái, sinh trưởng phát triển và lựa chọn loài Nưa
có hàm lượng glucomannan cao, triển vọng phát triển ở một số tỉnh miền núi phía Bắc
Việt Nam.

6


- Nghiên cứu một số kỹ thuật nhân giống loài Nưa có hàm lượng glucomannan
cao và triển vọng phát triển ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.

- Nghiên cứu trồng, phát triển của Nưa konjac ở một số tỉnh miền núi phía Bắc
Việt Nam.
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp kế thừa
Trong quá trình nghiên cứu tác giả kế thừa các kết quả nghiên cứu về hệ thống
đánh giá thành phần loài, tài liệu chuyên khảo về nhân giống, trồng và chế biến các
loài Nưa trên thế giới và ở Việt Nam.
2.3.2. Phương pháp điều tra và thu thập mẫu vật
Phương pháp điều tra thu thập mẫu vật theo Phương pháp nghiên cứu thực vật
năm 2007 và Cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh vật năm 1997 của Nguyễn Nghĩa
Thìn. Công tác điều tra thu thập mẫu vật được tiến hành ở 14 tỉnh miền núi phía Bắc
Việt Nam. Đã tiến hành 14 chuyến điều tra ở 14 tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam đó là:
Hòa Bình (Tân Lạc, Lạc Sơn, thành phố Hòa Bình), Sơn La (Vân Hồ, Thuận Châu, Mộc
Châu), Phú Thọ (Tân Sơn), Điện Biên (Điện Biên), Lai Châu (Mường Tè), Lào Cai (Bát
Xát), Yên Bái (Văn Chấn), Tuyên Quang (Sơn Dương), Thái Nguyên (Định Hóa), Hà
Giang (Quản Bạ, Phó Bảng), Cao Bằng (Nguyên Bình, Thạch An), Lạng Sơn (Tràng
Định), Bắc Giang (Lục Ngạn), Bắc Kạn (Ngân sơn).
2.3.3. Phương pháp đánh giá thành phần loài
Để nghiên cứu thành phần loài Nưa (Amorphophalluss spp.) ở miền núi phía
Bắc Việt Nam, đề tài luận án sử dụng phương pháp hình thái so sánh dựa vào các tài
liệu của nghiên cứu về loài Nưa của Võ Văn Chi (2012), Nguyễn Văn Dư (2005),
Phạm Hoàng Hộ (2003), v.v.
Công tác phân tích mẫu vật được tiến hành tại phòng Tiêu bản thực vật, Viện
Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, ngoài ra tác giả tham khảo một số mẫu vật của loài
Nưa trên internet của một số nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan,..v.v.. đặc
biệt các mẫu vật chuẩn (Typus).
2.3.4. Phương pháp lựa chọn loài Nưa có triển vọng phát triển trồng ở một số
tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam
Để có thể là cây trồng góp phần phát triển kinh tế ở miền núi phía Bắc Việt
Nam, loài Nưa được lựa chọn phải là loài có giá trị kinh tế và khả năng sinh trưởng

phát triển tốt, phù hợp với điều kiện sinh thái của vùng. Vì vậy, tác giả lựa chọn theo 2
tiêu chí sau:
Tiêu chí 1: Lựa chọn loài theo hàm lượng glucomannan cao
Mẫu củ của các loài Nưa thu thập sau khi xác định tên loài, được tiến hành
phân tích hàm lượng glucomannan theo phương pháp so màu của Melinda Chua và
cộng sự (2012), với thuốc thử là 3,5-dinitro salicylic acid ở bước sóng 550nm tại
Viện hóa học các hợp chất thiên nhiên.
Tiêu chí 2: Lựa chọn loài theo triển vọng phát triển trồng ở một số tỉnh miền núi
phía Bắc Việt Nam
Từ loài các loài Nưa tìm thấy và phân tích có glucomannan cao, tác giả tiến
hành đánh giá, lựa chọn loài có triển vọng phát triển trồng ở miền núi phía Bắc. Đối
với sản xuất nông nghiệp để lựa chọn loài có triển vọng phát triển trồng phải là loài
có giá trị kinh tế và khả năng sinh trưởng phát triển tốt. Vì vậy tác giả tiến hành

7


đánh giá các đặc điểm về sinh trưởng phát triển, khả năng dễ nhân giống và giá trị
kinh tế của loài để lựa chọn.Trong quá trình điều tra thực địa, dựa vào tài liệu
nghiên cứu về các loài Nưa của của Võ Văn Chi (2012), Nguyễn Văn Dư (2005),
Phạm Hoàng Hộ (2003), v.v. tác giả tiến hành đánh giá về khả năng sinh trưởng,
sinh sản, điều kiện sinh thái, từ đó lựa chọn ra loài phù hợp nhất cho việc phát triển
trồng ở miền núi Phía Bắc.
2.3.5. Phương pháp điều tra tri thức bản địa về khai thác và sử dụng loài Nưa ở
một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam
Luận án sử dụng phương pháp điều tra tri thức bản địa theo phương pháp điều
tra thực vật dân tộc học của Gary J. Martin (2002), Nhà xuất bản Nông nghiệp và
phương pháp PRA có sự tham gia của cộng đồng dân bản địa,phát phiếu điều tra,
phỏng vấn (Bảng hỏi được trình bày ở Phụ lục 2).
2.3.6. Phương pháp nghiên cứu nhân giống Nưa konjac

Phương pháp sử dụng trong nhân giống theo giáo trình Modun sản xuất cây giống
bằng hạt (Bộ Nông nghiệp phát triển nông thôn, 2010) và và bố trí thí nghiệm theo
phương pháp bố trí thí nghiệm trong nông nghiệp của Nguyễn Thị Lan và Phạm Tiến
Dũng - Học viện Nông nghiệp, Nhà xuất bản Hà Nội năm 2005.
2.3.6.1. Phương pháp nghiên cứu nhân giống bằng hạt
a. Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng thời điểm thu hái tới tỷ lệ nảy mầm của hạt Nưa
konjac
Thí nghiệm bao gồm 3 công thức, CTH1, CTH2, CTH3 trên cơ sở thời gian thu
hoạch khác nhau dựa vào màu sắc trạng thái vỏ quả (độ chính của quả). CTH1: Vỏ
quả còn xanh, CTH2: Vỏ quả chín, CTH3: Vỏ quả chín nứt.
b. Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của phương pháp bảo quản hạt tới tỷ lệ nảy mầm
hạt cây Nưa konjac
Thí nghiệm bố trí 2 công thức như sau: BQ1: Bảo quản lạnh ở 5oC, BQ2: Bảo
quản khô bằng chum, vại
c. Thí nghiệm 3: Ảnh hưởng của thời gian bảo quản hạt tới tỷ lệ nảy mầm của
cây Nưa konjac
Thí nghiệm bố trí 3 công thức như sau: TGQ1: Thời gian bảo quản 3 tháng,
TGQ2: Thời gian bảo quản 6 tháng, TGQ3: Thời gian bảo quản 9 tháng.
d. Thí nghiệm 4: Ảnh hưởng của phương pháp xử lý hạt giống tới tỷ lệ nảy
mầm của hạt và sinh trưởng phát triển của cây con trong vườn ươm
Thí nghiệm bố trí 5 công thức như sau: XLH1: Rửa hạt bằng nước sạch rồi
đem gieo, XLH2: Ngâm hạt trong nước ấm 40-50°C trong 3 giờ, XLH3: Ngâm hạt
trong nước ấm 40-50°C trong 6 giờ, XLH4: Ngâm hạt trong nước ấm 40-50°C trong
9 giờ, XLH5: Ủ và giữ ẩm trong túi vải, khi hạt nứt nanh đem gieo.
2.3.6.2. Phương pháp nghiên cứu nhân giống bằng củ
a. Thí nghiệm 5: Ảnh hưởng phương pháp xử lý vết cắt củ tới tỷ lệ nảy chồi, tỷ lệ
nhiễm bệnh, tỷ lệ sống của cây Nưa konjac
Thí nghiệm bố trí 4 công thức như sau: XVC1: Để vết cắt khô và đem bảo
quản, XVC2: Xử lý vết cắt bằng tro bếp, XVC3: Xử lý vết cắt bằng vôi bột, XVC4:
Xử lý vết cắt bằng xi măng.

b. Thí nghiệm 6: Ảnh hưởng phương pháp bảo quản tới tỷ lệ nảy chồi, tỷ lệ nhiễm
bệnh, tỷ lệ sống của cây Nưa konjac

8


Thí nghiệm bố trí 5 công thức như sau: PBQ1: Để ở nền đất nhà kho, PBQ2:
Bảo quản lạnh ở điều kiện 100C, PBQ3: Xếp trên giàn giữ củ ở điều kiện môi trường,
PBQ4: Vùi trong cát, PBQ5: Vùi trong đất.
2.3.6.3. Phương pháp nghiên cứu nhân giống cây Nưa konjac bằng kỹ thuật
nuôi cấy mô tế bào
Để thực hiện nghiên cứu đề tài tiến hành 7 thí nghiệm với các bố trí như sau:
1. Ảnh hưởng hóa chất và thời gian khử trùng đến khả năng tạo mẫu sạch in vitro
Tiến hành sử dụng hóa chất HgCl2 0,1% với khoảng thời gian khử trùng từ 4-8
phút và NaClO (javel) 60% thời gian khử trùng 6-18 phút, sau đó rửa lại 4-5 lần
bằng nước cất vô trùng, thí nghiệm được bố trí lần lượt với 6 công thức KT1, KT2,
KT3, KT4, KT5, KT6.
2. Ảnh hưởng môi trường dinh dưỡng đến khả năng tái sinh chồi Nưa konjac in vitro
Trong thí nghiệm này, sử dụng chồi của cây mầm in vitro để cấy vào các loại môi
trường dinh dưỡng cơ bản khác nhau, gồm: Môi trường ½ MS; MS (Murashige and
Skoog medium); WPM (Woody Plant Medium); B5 (Gamborg Medium); N6 (Chu
medium), các loại môi trường này đều được bổ sung 0,5 mg/l BAP + 8 g/l agar + 30 g/l
đường sucrose, nhằm xác định môi trường dinh dưỡng thích hợp cho tái sinh chồi Nưa
konjac in vitro. Thí nghiệm được bố trí lần lượt với 5 công thức MT1, MT2, MT3,
MT4, MT5.
3. Ảnh hưởng nồng độ BAP đến khả năng tái sinh chồi Nưa konjac in vitro
Đối với cây Nưa konjac, chúng tôi nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng
BAP đến sự tạo thành chồi mới ở dải nồng độ từ 0,5 - 3,5 mg/l. Thí nghiệm được
tiến hành với 7 công thức thí nghiệm, mỗi công thức được tiến hành trên môi trường
dinh dưỡng cơ bản đã xác định được ở thí nghiệm 2, bổ sung 8 g/l agar + 30 g/l

sucrose và chất điều hòa sinh trưởng ở các nồng độ khác nhau. Thí nghiệm được bố
trí lần lượt với 7 công thức CT0, CT1, CT2, CT3, CT4, CT5, CT6 .
4. Ảnh hưởng nồng độ BAP và Kinetin đến khả năng tái sinh chồi Nưa konjac in vitro
Nồng độ BAP tối ưu cho tái sinh chồi in vitro được sử dụng để tiếp tục nghiên
cứu ảnh hưởng tổ hợp giữa BAP và Kinetin đến khả năng nhân nhanh chồi. Công thức
môi trường MS + 8 g/l agar + 30 g/l sucrose + nồng độ BAP thích hợp nhất ở thí nghiệm 3
và kinetin được bổ sung ở các nồng độ khác nhau từ 0,2 - 1,0 mg/l. Thí nghiệm được bố
trí với 5 công thức CT7, CT8, CT9, CT10, CT11.
5. Ảnh hưởng môi trường dinh dưỡng đến khả năng ra rễ của chồi Nưa konjac in vitro
Chồi được tạo ra với số lượng lớn, đủ tiêu chuẩn (đạt kích thước 3-5cm) được
cắt và cấy chuyển sang môi trường tạo rễ là: Công thức môi trường MS (1962) và ½
MS (các chất khoáng đa lượng và vi lượng giảm ½) + 8 g/l agar + 0,5 mg/l IBA +
1g/l than hoạt tính và bổ sung sucrose với các hàm lượng khác nhau từ 12-20g/l. Thí
nghiệm được bố trí với 8 công thức CR1, CR2, CR3, CR4, CR5, CR6, CR7, CR8.
6. Ảnh hưởng nồng độ IBA đến khả năng ra rễ của chồi Nưa konjac in vitro
Sau khi xác định được môi trường dinh dưỡng thích hợp cho ra rễ của chồi
Nưa konjac in vitro, tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng
IBA đến khả năng ra rễ của chồi. Thí nghiệm được bố trí sử dụng môi trường dinh
dưỡng thích hợp đã xác định được ở thí nghiệm 5, bổ sung IBA với các nồng độ
khác nhau từ 0-1mg/l. Thí nghiệm được bố trí với 6 công thức CIR0, CIR1, CIR2,
CIR3, CIR4, CIR5.

9


7. Ảnh hưởng của giá thể đến tỷ lệ sống của cây Nưa konjac in vitro ở vườn ươm
Để xác định ảnh hưởng của thành phần giá thể trồng cây đến tỷ lệ sống và
sinh trưởng của cây Nưa konjac in vitro khi đưa ra trồng thử nghiệm ở vườn ươm,
chúng tôi tiến hành thử nghiệm với 4 công thức từ GT1, GT2, GT3, GT4 lần lượ là
là 100% đất tầng B; 100% cát; 50% đất : 50% cát; 50% đất tầng B : 30% cát : 20

% trấu hun.
2.3.7. Phương pháp nghiên cứu một số kỹ thuật trồng Nưa konjac
Phương pháp sử dụng trong nghiên cứu trồng Nưa konjac theo phương pháp bố trí
thí nghiệm trong nông nghiệp của Nguyễn Thị Lan và Phạm Tiến Dũng - Học viện
Nông nghiệp, Nhà xuất bản Hà Nội năm 2005.
Các thí nghiệm được bố trí theo khối ngẫu nhiên đầy đủ (RCBD) với 3 lần
nhắc lại, mỗi lần nhắc lại trên diện tích 15m2, các chỉ tiêu đo đếm trên 40 cây/CT.
Các nhân tố không phải chỉ tiêu nghiên cứu được bảo đảm tính đồng nhất giữa các
công thức thí nghiệm.
2.3.7.1. Nghiên cứu ảnh hưởng khối lượng củ giống tới sinh trưởng phát triển
của cây Nưa konjac
Thí nghiệm bố trí với 3 công thức như sau: KL1: Củ giống khối lượng 10-15g, KL2:
Củ giống khối lượng 70-100g, KL3: Củ giống khối lượng 300-350g.
2.3.7.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của độ tàn che tới sinh trưởng và phát triển của cây
Nưa
Thí nghiệm bố trí với 5 công thức như sau: TC1: Độ tàn che 0%, TC2: Độ tàn che
20%, TC3: Độ tàn che 40 %, TC4: Độ tàn che 60%, TC5: Độ tàn che 80%.
2.3.7.3. Nghiên cứu ảnh hưởng thời vụ trồng tới sinh trưởng và phát triển của cây
Nưa
Thí nghiệm bố trí với 4 công thức như sau: TV1: Trồng ngày 5/2, TV2: Trồng ngày
5/3, TV3: Trồng ngày 5/ 4, TV4: Trồng ngày 5/5.
2.3.7.4. Phương pháp nghiên cứu ảnh hưởng mật độ trồng tới sinh trưởng và phát triển
cây Nưa
Thí nghiệm bố trí với 3 công thức như sau: MĐ1: Mật độ trồng 50x70cm = 28571
cây/ha, MĐ2: Mật độ trồng 50x50cm = 40000 cây/ha, MĐ3: Mật độ trồng 50x30cm =
66670 cây/ha
2.3.7.5. Nghiên cứu ảnh hưởng của tổ hợp lượng phân NPK tới sinh trưởng và phát
triển cây Nưa
Thí nghiệm bố trí với 5 công thức như sau: PB1: Không bón phân, PB2: 80 kg N
+ 30 kg P2O5 + 100 kg K2O/ 1 ha, PB3: 100 kg N + 40 kg P2O5 + 120 kg K2O/ 1 ha,

PB4: 120 kg N + 50 kg P2O5 + 140 kg K2O/ 1 ha, PB5: 140 kg N + 60 kg P2O5 + 160
kg K2O/ 1 ha
2.3.7.6. Nghiên cứu tích lũy glucomannan trong củ Nưa konjac trong các giai đọan
sinh trưởng phát triển
Thí nghiệm bố trí với 5 thời điểm phân tích hàm lượng glucomannan như sau: TL1:
Hàm lượng glucomannan khi bảo quản, TL2: Hàm lượng glucomannan khi nảy chồi,
TL3: Hàm lượng glucomannan khi lá phát triển cực đại, TL4: Hàm lượng
glucomannan khi 2/3 lá chuyển sang màu vàng, TL5: Hàm lượng glucomannan khi lá
cây lụi sau 1 tháng.
2.3.7.7. Trồng thử nghiệm cây Nưa konjac ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam

10


Đánh giá năng suất, hàm lượng glucomannan và tính khả thi phát triển
trồng. Mô hình trồng được bố trí với 6 mô hình như sau: MH1: Trồng xen Ngô
tại xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La, MH2: Trồng dưới tán Mận xã Vân
Hồ, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La, MH3: Trồng xen Ngô tại xã Quyết Tiến, huyện
Quản Bạ, tỉnh Hà Giang, MH4: Trồng dưới tán rừng tại xã Quyết Tiến, huyện
Quản Bạ, tỉnh Hà Giang, MH5: Trồng trong bao tải dưới tán vải tại xã Tiểu khu
10, thành phố Hòa Bình, MH6: Trồng dưới tán rừng tại xã Ngọc Sơn, huyện Lạc
Sơn, tỉnh Hòa Bình
2.3.8. Chỉ tiêu theo dõi số liệu và phương pháp xác định
2.3.8.1. Theo dõi nhân giống hữu tính bằng hạt
- Tỷ lệ hạt nảy mầm (%) ( Số hạt nảy mầm/ số hạt gieo ươm), tỷ lệ cây sống (%)
(số cây sống sau 1 tháng nảy mầm/số cây nảy mầm).
- Chiều cao lá (cm) (từ gốc là đến điểm lá xẻ thùy lớn).
- Tỷ lệ sâu bệnh hại xác định bằng mắt thường, chụp ảnh và hỏi ý kiến chuyên
gia.
2.3.8.2. Theo dõi nhân giống bằng củ con

- Chiều cao (cm), đường kính (cm), khối lượng (g) củ Nưa.
- Tỷ lệ củ nảy chồi (%) ( Số hạt củ nảy chồi/ số củ trồng), tỷ lệ cây sống (%) (số
cây sống sau 1 tháng củ nảy chồi /số củ nảy chồi).
- Chiều cao lá (cm) (từ gốc là đến điểm lá xẻ thùy lớn).
- Tỷ lệ sâu bệnh hại xác định bằng mắt thường, chụp ảnh và hỏi ý kiến chuyên
gia.
2.3.8.3. Theo dõi nhân giống nuôi cấy mô tế bào thực vật
2.3.8.4. Theo dõi về nghiên cứu trồng
(1)- Chỉ tiêu sinh trƣởng và phát triển của cây Nƣa
+ Thời gian sinh trưởng (ngày): Tính từ khi trồng đến khi có 1/2 bộ lá trên cây
chuyển sang màu vàng.
+ Chiều cao cây (cm): Đo từ giao điểm rễ với thân đến điểm sinh trưởng của
lá cao nhất. Chọn ngẫu nhiên 40 cây, 15 ngày đo chiều cao cây một lần, tiến hành đo
từ mặt đất đến điểm mút của lá trên cùng, bắt đầu đo khi cây mọc được 15 ngày
- Kích thước lá: Sau khi lá thành thục tiến hành đo chiều dài lá và chiều rộng lá.
Tiến hành theo dõi trên 40 cây đánh dấu.
2.3.8.5. Theo dõi về sâu bệnh hại
Chuẩn đoán sâu bệnh hại theo hướng dẫn của Cẩm nang chuẩn đoán bệnh cây ở
Việt Nam, tác giả Lester W. Burgess, Timothy E. Knight, Len Tesoriero, Phan Thúy
Hiền, xuất bản bởi Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế Australia (ACIAR),
năm 2009. Đánh giá sâu bệnh hại xác định bằng mắt thường, chụp ảnh và hỏi ý kiến
chuyên gia [80].
2.3.9. Xử lý số liệu
Phương pháp bố trí thí nghiệm và xử lý số liệu (tính số trung bình, phân tích
Anova và phân tích tương quan,..v.v.) thu theo dõi được tổng hợp và xử lý bằng
phần mềm phân tích thống kê SPSS 20.0, phân tích trong nông nghiệp IRRISTAT 5.0
và phần mềm Excel 2010.

11



CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thành phần loài, phân bố và tri thức bản địa về các loài Nƣa củ có
glucomannan ở miền núi phía Bắc Việt Nam
3.1.1. Thành phần loài
3.1.1.1. Thành phần loài
Kết quả điều tra thực địa và thu thập mẫu giám định các loài Nưa ở 14 tỉnh
miền núi phía Bắc Việt Nam, tác giả tìm thấy 8 loài Nưa bao gồm các loài sau:
Amorphophallus konjac K. Koch,
Amorphophallus corrugatus N. E. Br.,
Amorphophallus krausei Engl. & Gehrm, Amorphophallus yunnanensis Engl. &
Gehrm, Amorphophallus yuloensis H. Li, Amorphophallus paeoniifolius (Dennst.)
Nicolson, Amorphophallus hayi Hett. __ N-a hay, Amorphophallus coaetaneus S. Y.
Liu & S. J. Wei. Trong số 8 loài Nưa này, qua kết quả phân tích hàm lượng
glucomannan theo phương pháp so màu của Melinda Chua và cộng sự (2012), với
thuốc thử là 3,5-dinitro salicylic acid ở bước sóng 550nm thì có 6 loài củ có chứa
glucomannan. Kết quả được thể hiện qua bảng 3.1 như sau:
Bảng 3.1. Thành phần các loài Nưa củ có glucomannan ở miền núi phía Bắc Việt
Nam
Hàm lƣợng
Tên phổ
glucomannan
STT
Tên khoa học
thông
trong bột
Nƣa khô (%)
1 Nưa konjac
Amorphophallus konjac K. Koch
44,97

2 Nưa đầu nhăn Amorphophallus corrugatus N. E. Br.
28,6
3 Nưa krausei
Amorphophallus krausei Engl. & Gehrm.
29,2
Amorphophallus yunnanensis Engl. &
4 Nưa vân nam
25,97
Gehrm.
5 Nưa yuloensis Amorphophallus yuloensis H. Li
30,07
Amorphophallus paeoniifolius (Dennst.)
6 Nưa chuông
6,53
Nicolson
3.1.1.2. Khóa định loại 6 loài Nưa củ có glucomannan tìm thấy ở miền núi phía Bắc
Việt Nam
Từ đặc điểm hình thái mô tả 6 loài Nưa củ có glucomannan bao gồm: A. konjac
K. Koch, A. corrugatus N. E. Br., A. krausei Engl. & Gehrm, A. yunnanensis Engl.
& Gehrm, A. yuloensis H. Li, A. paeoniifolius (Dennst.) Nicolson. Luận án xây dựng
khóa định loại như sau:
Khoá định loại 6 loài Amorphophallus củ có chứa glucomannan ở miền núi phía
Bắc Việt Nam
1A. Bông mo có cuống ngắn hơn mo hoặc bằng mo.
2A Bông mo lớn; phần phụ màu nâu đỏ. ....... 1.Amorphophallus paeoniifolius
2B Bông mo nhỏ; phần phụ màu vàng nhạt................2.Amorphophallus yuloensis
1B. Bông mo có cuống dài hơn mo.
3A. Mo ngắn hơn bông mo, phần ống và phiến phân biệt....3.Amorphophallus konjac
3B. Mo dài hơn bông mo, ống và phiến không phân biệt rõ.


12


4A. Bông nạc không có cuống...........................................4. Amorphophallus krausei
4B. Bông nạc có cuống.
5A. Phần phụ nhăn nheo...............................................5. Amorphophallus corrugatus
5B. Phần phụ nhẵn.....................................................6. Amorphophallus yunnanensis
3.1.2. Đặc điểm phân bố
3.1.2.1. Đặc điểm phân bố các loài Nưa củ có glucomannan theo độ cao
Kết quả điều tra phân bố của 6 loài Nưa củ có glucomannan theo độ cao ở
miền núi phía Bắc Việt Nam được thể hiện trong bảng 3.2 như sau:
Bảng 3.2. Phân bố của 6 loài Nưa củ có glucomannan theo độ cao ở miền núi phía
Bắc Việt Nam
STT
Tên loài
Độ cao so với mực nƣớc biển (m)
1 Nưa konjac
800-1600
2 Nưa đầu nhăn
400-1000
3 Nưa krausei
600-1000
4 Nưa vân nam
400-800
5 Nưa yuloensis
800-1000
6 Nưa chuông
0-300
Từ kết quả thu được trong quá trình điều tra thực địa cho thấy, các loài Nưa củ
có hàm lượng gluomannan cao đều phân bố ở các vùng có độ cao lớn hơn so với loài

củ có hàm lượng glucomannan thấp. 5 loài phân bố rộng theo đai cao từ 400-1600m.
Cụ thể, loài Nưa konjac phân bố ở độ cao 800-1600m, loài Nưa yuloensis ở độ cao
800-1000m, loài Nưa krausei ở độ cao 600-1000m, loài Nưa Vân Nam sống ở độ cao
400-800m, loài Nưa đầu nhăn sống ở độ cao 400-1000m, với loài Nưa chuông phân
bố ở độ cao thấp nhất từ 0-300m so với mực nước biển. Như vậy, có thể thấy ở các
độ cao khác nhau có sự khác biệt về khí hậu, địa hình, sinh thái, v.v. ảnh hưởng lớn
đến sự tồn tại của các loài Nưa củ có glucomannan.
3.1.2.2. Phân bố các loài Nưa củ có glucomannan theo sinh cảnh
Từ kết quả điều tra về phân bố của 6 loài Nưa củ có glucomannan theo sinh
cảnh, chúng ta có thể thấy các loài Nưa phân bố rộng ở sinh cảnh khác nhau, chúng
xuất hiện cả ở trong rừng, ven đường, nương rẫy và vườn nhà. Các loài Nưa này chủ
yếu sống ở nơi dưới tán che, điều kiện khí hậu mát và đất thoát nước không bị ngập
úng. Trong số 6 loài thì loài thì loài Nưa konjac sống ở dưới tán cây trong rừng, ven
đường, vườn nhà dân,..v.v. với các độ che phủ khác nhau thường từ 20-70% tùy nhiệt
độ từng vùng. 2 loài Nưa yuloensis, Nưa krausei chỉ tìm thấy ở nơi có tán cây có độ
che phủ lớn thường trên 40-70% trong khu vực rừng trung bình và rừng rậm. 3 loài
Nưa chuông, Nưa đầu nhăn, Nưa vân nam sống dưới tán rừng thưa và đặc biệt đối với
loài Nưa chuông phát triển tốt ở cả những nơi có tán rừng và không có tán rừng che.
3.1.2.3. Phân bố các loài Nưa củ có glucomannan theo hướng phơi
Kết quả nghiên cứu cho thấy, loài Nưa chuông có sự phân bố theo nhiều hướng
phơi, điều này chứng tỏ loài Nưa chuông có thể thích nghi tốt với sự thay đổi của
nhiệt độ và cường độ chiếu sáng mặt trời. 5 loài còn lại có hướng phơi theo hướng
đặc trưng hơn, chủ yếu là các hướng phơi nhận ít năng lượng ánh sáng mặt trời. Loài
Nưa đầu nhăn và Nưa vân nam có hướng phơi nhiều tiếp theo với 3 hướng Đ-N, Đ-B,

13


T-N, ba hướng phơi này là các hướng nhận ít ánh sáng mặt trời hơn hướng Đ-B, Đ-N,
T-N, T-B. 3 Loài Nưa konjac, Nưa yuloensis, Nưa krausei hướng phơi theo chỉ 2

hướng Đ-N, Đ-B, đây là 2 hướng phơi nhận ít ánh sáng mặt trời nhất, vì vậy nhiệt độ
trung bình ở các khu vực này cũng thấp nhất.
3.1.3. Sơ đồ phân bố các loài Nưa củ có glucomannan
3.1.3.1. Sơ đồ phân bố loài Nưa konjac
Ở miền núi phía Bắc Việt Nam loài phân bố ở Ý Tý, Bát Xát - Lào Cai và
Quản Bạ, Phó Bảng-Hà Giang. Sự bắt gặp loài với tần xuất lớn ở trong rừng, ven
đường, nương rẫy hay vườn nhà dân, ở những nơi có tán che. Sự phân bố này có
thể do đặc tính sinh thái của loài phù hợp với những vùng có khí hậu mát, ở độ cao
lớn từ 800- 1600m.
3.1.3.2. Sơ đồ phân bố loài Nưa chuông
Loài Nưa chuông là loài phân bố phổ biến ở miền núi phía Bắc Việt Nam. Các
tỉnh xuất hiện gồm Hòa Bình (Tân Lạc, Lạc Sơn, thành phố Hòa Bình), Sơn La (Vân
Hồ, Thuận Châu, Mộc Châu), Phú Thọ (Tân Sơn), Yên Bái (Văn Chấn), Tuyên
Quang (Sơn Dương), Thái Nguyên (Định Hóa), Cao Bằng (Nguyên Bình, Thạch An),
Lạng Sơn ( Tràng Định), Bắc Giang (Lục Ngạn), Bắc Kạn (Ngân Sơn). Chúng có
phân bố trải rộng trong khu vực với nhiều sinh cảnh và hướng phơi khác nhau, độ cao
0-600m so với mực nước biển. Điều này cho thấy đặc tính sinh thái của loài phù hợp
với nhiều sinh cảnh khác nhau. Trên tuyến điều tra tần xuất bắt gặp loài lớn.
3.1.3.3. Sơ đồ phân bố loài Nưa đầu nhăn
Loài Nưa đầu nhăn là loài phân bố ở các tỉnh xuất hiện gồm Hòa Bình (Tân Lạc,
Lạc Sơn, thành phố Hòa Bình), Sơn La (Vân Hồ, Thuận Châu, Mộc Châu), Phú Thọ
(Tân Sơn), Tuyên Quang (Sơn Dương), Lạng Sơn ( Tràng Định). Chúng có phân bố
trải rộng trong khu vực với nhiều sinh cảnh và hướng phơi khác nhau. Điều này cho
thấy đặc tính sinh thái của loài phù hợp với nhiều sinh cảnh khác nhau. Trên tuyến
điều tra tần xuất gặp loài không lớn, do khả năng sinh sản của loài hạn chế.
3.1.3.4. Sơ đồ phân bố loài Nưa krausei
Loài Nưa krausei chỉ phân bố ở các tỉnh Sơn La (Vân Hồ, Thuận Châu, Mộc
Châu), Cao Bằng (Nguyên Bình, Thạch An). Ở trên tuyến nghiên cứu tần xuất gặp loài
thấp. Chúng có vị trí co cụm ở một số vị trí trong khu vực điều tra. Điều này có thể do
đặc điểm sinh thái của loài chỉ phù hợp với những sinh cảnh có độ che bóng lớn.

3.1.3.5. Sơ đồ phân bố loài Nưa vân nam
Loài Nưa vân nam phân bố ở các tỉnh gồm Hòa Bình (Tân Lạc, Lạc Sơn, thành
phố Hòa Bình), Sơn La (Vân Hồ, Thuận Châu, Mộc Châu), Cao Bằng (Nguyên Bình,
Thạch An), Bắc Kạn (Ngân Sơn) . Chúng có phân bố trải rộng trong khu vực với
nhiều sinh cảnh và hướng phơi khác nhau. Trên tuyến điều tra tần xuất gặp loài
không lớn, có thể thấy loài ở trong rừng thưa, rừng bụi, ven đường, sườn đồi hay ở
trên nương.
3.1.3.6. Sơ đồ phân bố loài Nưa yuloensis
Loài Nưa yuloensis chỉ phân bố ở các tỉnh Sơn La (Vân Hồ, Thuận Châu,
Mộc Châu), Điện Biên (Tuần Giáo). Ở trên tuyến nghiên cứu tần xuất gặp loài
tương đối lới. Chúng co cụm ở một số vị trí trong khu vực điều tra. Điều này có
thể do đặc điểm sinh thái của loài chỉ phù hợp với những sinh cảnh có độ che
bóng lớn.

14


3.1.4. Tri thức bản địa về khai thác và sử dụng loài Nƣa ở một số tỉnh miền
núi phía Bắc Việt Nam
3.1.4.1. Khai thác củ Nưa ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam
- Thời gian thu hoạch (khai thác) củ Nƣa
Với cây Nưa được trồng, khi cây có lá chuyển màu vàng và gần hết mùa
sinh trưởng là có thể khai thác, khoảng thời gian từ tháng 9 đến tháng 11
hàng năm.
- Dụng cụ
Với quy mô nhỏ, địa hình đi lại khó khăn, người dân khai thác có thể dùng
trâu bò, cày, cuốc cùng với các dụng cụ để chứa như gùi, thúng để vận chuyển.
- K thuật thu hoạch
Với việc khai thác củ trong tự nhiên, củ Nưa thường mọc ở dưới tán rừng,
trên sườn dốc nên sử dụng thuổng, cuốc để đào từng cây một. Chỉ lấy củ to còn củ

nhỏ được người dân vùi lại để sang năm khai thác tiếp..
- Bảo quản củ Nƣa
Có hai phương pháp thường được nông dân sử dụng là vùi trong đất ẩm mát
ngay ở trên nương hoặc bảo quản trên giàn thoáng mát. Sau khi khai thác những
củ đủ tiêu chuẩn làm giống, được chọn lựa, rũ sạch đất mang củ giống về nhà, xếp
nơi thoáng, để vài ngày cho Nưa khô vỏ thì để lên giàn che có mái che trong điều
kiện ít ánh sáng. Trong thời gian bảo quản thường xuyên kiểm tra và loại bỏ
những củ bị thối.
- Sơ chế củ Nƣa
Sau khi khai thác được loại bỏ bớt đất và rễ, đem về bảo quản trong kho,
trước khi đem đi chế biến, khoai được rửa sơ bộ để loại sạch đất cát, chất bẩn và vi
sinh vật trên vỏ.
3.1.4.2. Chế biến củ Nưa ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam
Ở Quản Bạ, tỉnh Hà Giang; Y Tý, tỉnh Lào Cai; Nguyên Bình tỉnh Cao Bằng,
bột củ Nưa được người dân chế biến thành các món ăn như đậu phụ, mỳ xào, trộn
cơm. Quá trình chế biển rất đơn giản và thủ công. Từ các lát cắt củ Nưa khô,
người dân tiến hành nghiền thành bột bằng máy hoặc cối xay. Bột sau đó được
ngâm nước và lọc với tro bếp. Sau khi lọc với tro bếp tùy món ăn làm là đậu hay
mỳ để tiếp tục chế biến.
3.2. Loài Nƣa củ chứa glucomannan có triển vọng phát triển trồng ở một số
tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam
Từ quá trình điều tra thực địa, nghiên cứu tài liệu về đặc điểm sinh trưởng
phát triển và đánh giá hàm lượng glucomannan của các loài Nưa ở miền núi
phía Bắc Việt Nam, một số đặc điểm cơ bản được tổng hợp trong Bảng 3.11
như sau:

15


Bảng 3.11. Đặc điểm sinh trưởng, phát triển của 6 loài Nưa củ có glucomannan ở

miền núi phía Bắc Việt Nam
Thời gian
Khối
Số lƣợng
Hàm lƣợng
sinh
Sinh sản
lƣợng củ
củ con
glucomannan
STT Tên loài
trƣởng 1
hữu tính
cái 3 năm củ 3 năm
trong bột
năm
(hạt)
tuổi (g)
tuổi
Nƣa khô (%)
(ngày)
1 Nưa konjac
158-175
600-1000
5-7
0
44,97
Nưa
đầu
2

150-160
200-400
0
0
28,6
nhăn
3 Nưa krausei
153-162
600-800
0
0
29,2
Nưa
vân
4
145-162
200-300
0
0
25,97
nam
Nưa
5
147-158
200-300
0
0
30,07
yuloensis
6


Nưa chuông

154-169

400-600

5-6

0

6,53

Từ kết quả bảng 3.11 cho thấy, loài Nưa konjac có khả năng sinh trưởng và
phát triển tốt nhất, củ sau 3 năm trồng khối lượng củ cái thu được từ 600-1000g, củ
con sinh ra từ củ cái ở tuổi này là 5-7 củ.
Như vậy, loài Nưa konjac là loài có triển
vọng phát triển trồng, với củ sau 3 năm trồng khối lượng củ mẹ thu được từ 6001000g, củ con sinh ra từ củ cái ở tuổi này là 5-7 củ và hàm lượng glucomannan
44,97%.
3.3. Nghiên cứu nhân giống loài Nƣa konjac ở Việt Nam
3.3.1. Nhân giống hữu tính loài Nưa konjac
3.3.1.1. Ảnh hưởng thời điểm thu hái tới tỷ lệ nảy mầm của hạt
Kết quả nghiên cứu cho thấy, có sự khác nhau giữa rất rõ giữa tỷ lệ nảy mầm ở
các thời điểm thu hái khác nhau từ khi vỏ quả còn xanh, vỏ quả chín và vỏ quả chín
nứt.
Kết quả thí nghiệm cho thấy ở thời điểm thu hái vỏ quả chín công thức CTH2
cho tỷ lệ nảy mầm mầm của hạt cao nhất 64,67%, công thức CTH3 vỏ quả chín nứt,
cho tỷ lệ nảy mầm thứ 2 với tỷ lệ nảy mầm là 49,33%, ở công thức CTH1 vỏ quả còn
xanh cho tỷ lệ nảy mầm thấp nhất 17,33%.
3.3.1.2. Ảnh hưởng của phương pháp bảo quản hạt tới tỷ lệ nảy mầm hạt

Kết quả nghiên cứu cho thấy, có sự khác biệt rõ về tỷ lệ nảy mầm hạt Nưa
konjac của hai phương pháp bảo quản lạnh ở 50C (BQ1) và bảo quản khô bằng chum,
vại. Cụ thể, với số hạt nảy mầm ở phương pháp bảo quản lạnh cho số hạt nảy mầm là
33,33 hạt đạt tỷ lệ 66,67 %, bên cạnh đó với phương pháp bảo quản khô bằng chum,
vại tỷ lệ nảy mầm chỉ đạt 34 % với 17 hạt nảy mầm. Từ số liệu này có thể thấy với
phương pháp bảo quản lạnh ở 50C cho hiệu quả tốt hơn với phương pháp bảo quản hạt
Nưa konjac trong điều kiện chum vại. Nguyên nhân có thể là do nguồn gốc cây Nưa
konjac sống ở các vùng có khí hậu nhiệt đới, qua mùa đông lạnh nên hạt bảo quản
trong điều kiện chum vại sẽ dễ bị tổn thương do độ ẩm không khí thấp hoặc nhiệt độ
quá lạnh gây ảnh hưởng tới sự phát triển của phôi hạt.

16


3.3.1.3. Ảnh hưởng của thời gian bảo quản hạt tới tỷ lệ nảy mầm của hạt
Có sự khác biệt rõ về tỷ lệ nảy mầm với các khoảng thời gian bảo quản khác
nhau, điều này chứng tỏ thời gian bảo quản hạt Nưa konjac ảnh hưởng tới tỷ lệ nảy
mầm của hạt loài cây này. Trong bảng ta thấy, thời gian bảo quản 3 tháng cho tỷ lệ
nảy mầm cao nhất 72,77 %, thời gian bảo quản 6 tháng tỷ lệ nảy mầm của hạt giảm
xuống còn 68,33%, sau 9 tháng bảo quản tỷ lệ nảy mầm của hạt giảm rất nhanh chỉ
còn 45%. Như vậy thời gian bảo quản càng dài, chất lượng hạt Nưa sẽ càng kém và
đặc biệt là sau 6 tháng bảo quản.
3.3.1.4. Ảnh hưởng của phương pháp xử lý hạt giống tới tỷ lệ nảy mầm của hạt và sinh
trưởng phát triển của cây con trong vườn ươm
Phương pháp không xử lý cho kết quả kém nhất, các biện pháp tăng thời gian xử
lý hạt lên 9 giờ, giảm thời gian xử lý hạt xuống 3 giờ hoặc không xử lý hạt chỉ ủ rồi
gieo vào cát đều cho kết quả kém hơn so với việc ngâm hạt trong nước ấm 40-50°C
trong 6 giờ, ủ và rửa chua sau đó gieo hạt vào trong cát khi cây có chiều cao khoảng
5- 10 cm chuyển vào bầu đất cho tỷ lệ nảy mầm, số cây sống và sinh trưởng của cây
trong vườn ươm là tốt nhất.

3.3.2. Nhân giống loài Nưa konjac bằng củ
3.3.2.1. Ảnh hưởng phương pháp xử lý vết cắt củ tới tỷ lệ nảy chồi của củ con
Xử lý vết cắt củ bằng xi măng cho hiệu quả xử lý tốt nhất (XVC4), cây có tỷ lệ
nảy chổi cao, số cây bị nhiễm bệnh thấp và tỷ lệ cây sống cao hơn so với các phương
pháp xử lý bằng tro bếp, bằng vôi bột và không xử lý để vết cắt tự khô. Do cây Nưa
konjac củ có hàm lượng glucomannan cao nên nếu vết cắt củ không được xử lý củ rất
dễ bị nhiễm khuẩn gây thối củ và ảnh hưởng tới tỷ lệ nảy chồi và tỷ lệ sống của củ
con. Đối với phương pháp xử lý bằng tro bếp cho kết quả cao hơn với việc không xử
lý, nhưng thấp hơn so với việc sử dụng vôi bột và xin măng, vì tro bếp có tính diệt
khuẩn nhưng khả năng làm khô nhanh vết cắt, bao kín vết cắt thấp hơn so với vôi bột
và xi măng nên tỷ lệ nảy chồi cao nhưng số củ bị nhiễm lớn dẫn đến tỷ lệ cây sống
thấp. Đối với phương pháp xử lý vết cắt củ bằng vôi bột, số củ bị nhiễm bệnh thấp
như đối với xử lý củ bằng xi măng, nhưng phươn pháp này tỷ lệ nảy chồi và tỷ lệ củ
sống lại thấp hơn xử lý bằng xi măng, do xử lý bằng vôi củ dễ bị khô và gây chết củ.
3.3.2.2. Ảnh hưởng phương pháp bảo quản củ giống tới tỷ lệ nảy chồi, tỷ lệ nhiễm
bệnh, tỷ lệ sống
Kết quả cho thấy, trong các phương pháp bảo quản, phương pháp bảo quản
trong kho lạnh cho chất lượng củ giống tốt nhất, sau đó đến việc bảo quản bằng cách
vùi trong cát sạch, đất sạch và làm giàn để bảo quản củ.
3.3.3. Nghiên cứu nhân giống cây Nưa konjac bằng kỹ thuật nuôi cấy mô tế
bào
3.3.3.1. Ảnh hưởng hóa chất và thời gian khử trùng đến khả năng tạo mẫu sạch in
vitro
Công thức khử trùng tốt nhất cho phôi hạt là sử dụng Javen 60% trong thời gian 12
phút cho tỷ lệ mẫu sạch và tỷ lệ mẫu tái sinh đều đạt 100%, sau 15 ngày mẫu nuôi cấy
nảy chồi.
3.3.3.2. Ảnh hưởng môi trường dinh dưỡng đến khả năng tái sinh chồi in vitro

17



Kết quả cho thấy, ở công thức môi trường MS thì mẫu cấy có khả năng tái sinh tốt
nhất (đạt 91,85%), số chồi trung bình/mẫu đạt 2,45 và chất lượng chồi tốt (chồi mập,
khỏe mạnh, lá xanh đậm, phát triển nhanh).
3.3.3.3. Ảnh hưởng nồng độ BAP đến khả năng tái sinh chồi in vitro
Kết quả cho thấy, công thức môi trường CT4 cho tỷ lệ mẫu tái sinh chồi cao
nhất là 2 mg/l BAP (đạt 100%), tỷ lệ mẫu tái sinh chồi thấp nhất là công thức CT0
đối chứng (0 mg/l BAP), đạt 54,81%. Các công thức CT1, CT2, CT3, CT5 và CT6
đều cho tỷ lệ mẫu tái sinh đạt trên 74%. Từ kết quả thu được có thể khẳng định, BAP
ở các nồng độ khác nhau có ảnh hưởng mạnh mẽ tới khả năng phát sinh chồi của mẫu
cấy. Khi tăng hàm lượng BAP cao hơn 2 mg/l BAP ở các thí nghiệm sau thì số mẫu
tái sinh chồi và chiều cao của chồi đều giảm, đồng thời thấy xuất hiện khối mô sẹo rất
lớn.
3.3.3.4. Ảnh hưởng nồng độ BAP và Kinetin đến khả năng tái sinh chồi Nưa konjac in
vitro
Kết quả cho thấy, sự khác nhau giữa ảnh hưởng tổ hợp của Kinetin và BAP đến
khả năng tái sinh chồi so với ảnh hưởng riêng rẽ của BAP. Sau khi nuôi cấy 3 tuần, công
thức CT7, với môi trường MS + 2 mg/l BAP + 0,2 mg/l Kinetin cho tỷ lệ mẫu tái sinh
chồi cao nhất (đạt 100%), số chồi trung bình/mẫu cấy là 5,22, chiều cao trung bình của
chồi đạt 3,84 cm.
3.3.3.5. Ảnh hưởng môi trường dinh dưỡng đến khả năng ra rễ của chồi in vitro
Kết quả cho thấy, sau 4 tuần nuôi cấy trên môi trường ra rễ có bổ sung đầy đủ
các chất dinh dưỡng, chất điều hòa sinh trưởng và hàm lượng đường khác nhau cho
kết quả chồi ra rễ với tỷ lệ rất khác nhau. Mẫu được nuôi cấy ở công thức 1/2 MS + 8
g/l Agar + 0,5 mg/l IBA + 14 g/l sucrose cho hiệu quả cao nhất (đạt 100%), số lượng
rễ trung bình/chồi đạt 4,98, chiều dài trung bình của rễ đạt 2,67 cm và thời gian chồi
bắt đầu ra rễ là 7 ngày, chất lượng rễ tốt (rễ mập, khỏe mạnh), khả năng đâm xuyên
mạnh, ít hình thành mô sẹo.
3.3.3.6. Ảnh hưởng nồng độ IBA đến khả năng ra rễ của chồi in vitro
Kết quả cho thấy, công thức môi trường kích thích ra rễ tốt nhất là môi trường

1/2MS + 8g/l Agar + 14 g/l Sucrose + 0,4 mg/l IBA.
3.3.3.7. Ảnh hưởng của giá thể đến tỷ lệ sống của cây Nưa konjac in vitro ở vườn ươm
Kết quả cho thấy, công thức giá thể 50% đất + 30% cát + 20% trấu hun cho tỷ lệ
cây sống trung bình sau 4 tuần trồng cao nhất (đạt 94,07%), tiếp đó là công thức 50%
đất + 50% cát và 100% đất tầng B, tỷ lệ cây sống đạt lần lượt là 63,7 và 78,52%. Với
công thức 100% cát tỷ lệ cây sống đạt thấp nhất (51,85%).
3.4. Nghiên cứu trồng Nƣa konjac ở Việt Nam
3.4.1. Ảnh hưởng khối lượng củ giống tới sinh trưởng phát triển cây Nưa konjac
Qua kết quả nghiên cứu, kết quả phân tích số liệu cho thấy, có sự khác nhau về
sinh trưởng, phát triển của các khối lượng củ giống Nưa konjac khác nhau. Củ khối
lượng càng lớn khả năng sinh trưởng, phát triển càng cao. Củ khối lượng 300-350 g
(Củ được trồng năm thứ 3 sau khi tách ra từ cây mẹ) có khả năng sinh trưởng lớn
nhất, sau đó là củ 70-100g (củ được trồng năm thứ 2 sau khi tách ra từ cây mẹ) và
thấp nhất là củ con được tác ra từ cây mẹ trồng năm thứ nhất có khối lượng 10-15g.
Số liệu thu được với khối lượng củ giống 10-20g cho kết quả thấp nhất, sau 1 vụ
trồng thu hoạch được 1 củ cái có khối lượng 82g, số củ con trung bình 2 củ, khối

18


lượng củ con 9,33g, năng suất trồng là 40,27 tạ/ha. Củ giống khối lượng 70-100g cho
kết quả cao thứ hai, sau 1 vụ trồng thu hoạch được 1 củ cái có khối lượng 383,33g, số
củ con trung bình 4,67 củ, khối lượng củ con 15,67g, năng suất trồng là 159,60 tạ/ha.
Củ giống khối lượng lớn nhất 300-350g cho kết quả cao nhất, sau 1 vụ trồng thu
hoạch được 1 củ cái có khối lượng 849,67g, số củ con trung bình 5,67 củ, khối lượng
củ con 16g, năng suất trồng là 346 tạ/ha. Kết quả phân tích hàm lượng glucomannan
khi thu hoạch cho thấy các công thức khối lượng củ giống khác nhau cho hàm lượng
glucomannan khác nhau. Trong đó củ giống 70-100g cho kết quả thấp nhất, củ có
hàm lượng glucomannan 35,47. Hàm lượng glucomannan đánh giá trong củ cái thu
được trồng từ 2 giống củ của công thức KL2 và KL3 có hàm lượng glucomannan

trong củ gần bằng nhau đối với công thức KL2 hàm lượng glucomannan 45,20% và
công thức KL3 hàm lượng glucomannan trong củ là 45,46%.
Như vậy, có thể thấy để trồng Nưa konjac lấy củ chế biến bột glucomannan thì
cần trồng ít nhất 2 năm từ củ con và hiệu quả kinh tế cao nhất sẽ là trồng ở củ có khối
lượng khoảng 70-100g vì khối lượng củ giống này cho mức tăng trưởng cao nhất và
hàm lượng tương đương với các tuổi củ lớn hơn. Củ này trồng 1 năm sau được thu
hoạch củ cái đem chế biến có khối lượng tử 300-500g, năng suất 159,6 tạ/ha và hàm
lượng glucomannan trong củ là 45,20%.
3.4.2. Ảnh hưởng độ che sáng tới sinh trưởng và phát triển cây Nưa konjac
Qua kết quả nghiên cứu và kết quả phân tích số liệu cho thấy, có sự ảnh hưởng
rất lớn của độ tàn che tới sinh trưởng và phát triển của cây Nưa konjac..
Ở công thức TC1 (độ tàn che 0%) cây Nưa konjac có kích thước lá và chiều cao
cây nhỏ nhất (dài 42,33cm, rộng 39,03cm, cao 50,57cm), , thời gian sinh trưởng ngắn
126 ngày. Khi độ tàn che tăng lên từ 20%, 40%, 60% tương đương với công thức
TC2, TC3 và TC4 thì khả năng sinh trưởng và thời gian sinh trưởng của cây cũng
tăng lên. Công thức TC2 cây Nưa konjac có kích thước lá và chiều cao cây (dài
44,90cm, rộng 41,13cm, cao 56,63cm), thời gian sinh trưởng 147 ngày; Công thức
TC3 cây Nưa konjac có kích thước lá và chiều cao cây (dài 45,73cm, rộng 43,97cm,
cao 57,40cm), thời gian sinh 154 ngày; Công thức TC4 cây Nưa konjac có kích thước
lá và chiều cao cây (dài 49,97cm, rộng 44,33cm, cao 62,1 cm), thời gian sinh trưởng
174 ngày. Tuy nhiên, khi tăng độ tàn che lên 80% ở công thức TC5 thì khả năng sinh
trưởng của cây giảm xuống và thời gian sinh trưởng cũng ngắn hơn, điều này có thể
do cây thiếu ánh sáng để quang hợp và phát triển.
Từ kết quả tổng hợp được cho thấy, ở công thức TC4 với độ tàn che 60% cho
năng suất cao nhất (160,40tạ/ha) và hàm lượng glucomannan cao nhất 46,07%. Công
thức TC1 cho năng suất thấp nhất (87,20 tạ/ha) và hàm lượng glucomannan thấp nhất
(35,70 %). Các công thức còn lại TC2, TC3, TC5 so với công thức TC4 thì năng suất
thấp hơn nhưng hàm lượng glucomannan trong củ gần tương đương.
3.4.3. Ảnh hưởng thời vụ trồng tới sinh trưởng và phát triển của cây Nưa konjac
Kết quả nghiên cứu tổng hợp cho thấy, thời vụ trồng cho kết quả sinh trưởng cao

nhất là TV3 (trồng 5/4) với thời gian sinh trưởng là 172 ngày, kích thước lá (dài
47,97 cm; rộng 42,33 cm và chiều cao cây 61,77 cm). Các công thức có thời vụ trồng
sớm hơn như TV1 (trồng 5/2) và TV2 (trồng 5/3) cho thời gian sinh trưởng và kích
thước lá thấp hơn không nhiều, công thức TV1 thời gian sinh trưởng 168 ngày, kích
thước lá (dài 44,63 cm; rộng 38,50cm) và chiều cao cây 52,23 cm); TV2 thời gian

19


sinh trưởng 168 ngày, kích thước lá (dài 44,68 cm, rộng 41,33 cm) và chiều cao cây
55,63 cm). Các công thức này tuy trồng trước nhưng cũng đến khoảng 10/4 cây mới
nảy chồi nên trong quá trình vùi trong đất có thể bị nhiễm sâu bệnh và ảnh hưởng của
điều kiện thời tiết nên có ảnh hưởng tới sinh trưởng. Tuy nhiên ảnh hưởng này không
lớn. Công thức TV4 cây được trồng vào 5/4, do cây trồng muộn hơn nên thời gian
sinh trưởng ngắn hơn và cho kết quả sinh trưởng thấp nhất với thời gian sinh trưởng
149 ngày, kích thước lá (dài 42,68 cm, rộng 38,03 cm) và chiều cao cây 51,77 cm).
Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng thời vụ trồng tới năng suất và hàm lượng
glucomannan cây Nưa konjac cho thấy, thời vụ trồng công thức TV3 cho năng suất
củ cao nhất 160,27 tạ/ ha và hàm lượng glucomannan là 45,3%. Các công thức trồng
sớm hơn TV1 và TV2 đều cho năng suất thấp hơn lần lượt là 151,8 tạ/ha và 155,2
tạ/ha. Về hàm lượng glucomannan giữa 3 công thức TV1 và TV2 và TV3 khác nhau
không đáng kể. CT4 năng suất thấp nhất đạt 111,33 tạ/ha; hàm lượng glutamannan
chỉ đạt 41,63%.
Khác với công tức TV2 và TV1 khi trồng Nưa konjac muộn hơn 1 tháng so với công
thức TV3 thì năng suất giảm rất lớn chỉ đạt 111,33 tạ/ha và hàm lượng glucomannan
cũng giảm theo chỉ đạt 41,63%
3.4.4. Ảnh hưởng mật độ trồng tới sinh trưởng và phát triển cây Nưa konjac
Kết quả tổng hợp và phân tích cho thấy có sự ảnh hưởng mật độ trồng tới sinh
trưởng, phát triển của cây Nưa konjac.
Đối với sự sinh trưởng của cây Nưa konjac cho thấy, ở công thức MĐ1 mật độ

trồng 28571 cây/ha (50x70cm), cây sinh trưởng tốt nhất, kích thước lá lớn nhất (dài
48,30 cm, rộng 38,33 cm), chiều cao 62,10 cm) và thời gian sinh trưởng là 172 ngày.
Công thức MĐ2 mật độ trồng 40000 cây/ha (50x50cm), cây sinh trưởng gần như
tương đương với MĐ1 với chiều dài lá 47,17 cm, rộng lá 38,13 cm, chiều cao cây
58,86 cm) và thời gian sinh trưởng là 170 ngày. Tuy nhiên, khi tăng mật độ trồng lên
66670 cây/ha (50x30cm), cây sinh trưởng kém đi rất nhiều so với hai mật độ trước,
kích thước lá (dài 42,97cm, rộng 35,17 cm), chiều cao cây 49,43 cm) và thời gian
sinh trưởng là 171 ngày.
Sự ảnh hưởng mật độ trồng tới năng suất và hàm lượng glucomannan của cây
Nưa konjac có thể thấy rõ, ở công thức MĐ1 mật độ trồng 28571 cây/ha (50x70cm),
tuy khối lượng củ cái 418g và hàm lượng glucomannan 46,27% cao nhất, nhưng năng
suất lại chỉ đạt 124,09 tạ/ha do mật độ cây trồng thưa.
Công thức MĐ2 mật độ trồng 40000 cây/ha (50x50cm), cho khối lượng củ cái
398g, năng suất 165,60 tạ/ha, hàm lượng glucomannan 46,23%. Với MĐ3, khi tăng
mật độ trồng lên 66670 cây/ha (50x30cm), cho khối lượng củ cái giảm xuống thấp
nhất 284,33g, với mật độ trồng dày hơn nên năng suất ở mật độ này tính trên 1ha là
cao nhất 197,79 tạ/ha, hàm lượng glucomannan 43,40%.
Từ kết quả trên có thể thấy rằng mật độ trồng thích hợp nhất trong 3 công thức
trồng Nưa konjac với kích thước củ giống 80-100g là 40000 cây/ha (50x50cm). Với
mật độ này cây trồng sẽ đảm bảo chất lượng glucomannan và hiệu quả kinh tế cao
hơn so với mật độ trồng 28571 cây/ha (50x70cm) và mật độ trồng lên 66670 cây/ha
(50x30cm).
3.4.5. Nghiên cứu ảnh hưởng của tổ hợp lượng phân NPK tới sinh trưởng và phát
triển cây Nưa konjac

20


Kết quả phân tích và tổng hợp cho thấy,có sự ảnh hưởng của hàm lượng phân
bón NPK tới sinh trưởng và phát triển của cây Nưa konjac.

Kết quả thí nghiệm cho thấy, với lượng phân bón tăng dần thì kích thước lá cây
Nưa konjac tăng dần từ PB1 tới PB5. Công thức PB1 không sử dụng phân bón cho
kết quả sinh trưởng là cây thấp nhất (dài lá 33,97 cm, rộng lá 31,17 cm, cao cây
42,43 cm).
Các công thức với lượng phân tăng dần với hàm lượng N từ 80-140kg/ha, hàm
lượng P từ 30-60 kg/ha và hàm lượng K từ 100-160 kg/ha thì ta thấy kích thước lá cùng
tăng dần. Công thức PB2 lá có kích thước là: chiều dài lá 41,63 cm, rộng lá 35,33 cm,
cao cây 52,10 cm.Công thức PB3 lá có kích thước là chiều dài 46,30 cm, rộng lá 44,33
cm, cao cây 56,43 cm. Công thức PB4 lá có kích thước là chiều dài 47,83 cm, rộng lá
45,13 cm, cao cây 62,86 cm.
Công thức PB5 lá có kích thước lớn nhất với chiều dài 49,17 cm, rộng lá 47,80
cm và chiều cao cây 66,53 cm.
Kết quả theo dõi ảnh hưởng của tổ hợp lượng phân NPK tới năng suất và hàm
lượng glucomannan trong củ cây Nưa konjac tổng hợp trong bảng 3.5 cho thấy, khi
không sử dụng phân bón ở công thức PB1 cho năng suất thu được rất thấp chỉ đạt
111,87 tạ/ha với hàm lượng glucomannan 41,4%. Khi tăng hàm lượng phân bón lên ở
các công thức PB2 và PB3 năng suất và hàm lượng glucomannan cũng tăng lên theo
lần lượt là năng suất 135,33 tạ/ha, 167,33 tạ/ha và hàm lượng glucomannan là
43,57%, 45,9%.
Ở công thức PB4 lượng NPK là 120 kg N + 50 kg P2O5 + 140 kg K2O trên 1 ha
cho năng suất cao nhất với 179,87 tạ/1ha và hàm lượng glucomannan là 46,73%.
Khi tăng lượng phân bón lên ở công thức PB5 với 140 kg N + 60 kg P2O5 + 160
kg K2O trên 1 ha thì năng suất chỉ đạt 140,53tạ/ha và hàm lượng glucomannan là
44,57%, giảm so với công thức PB4. Sự giảm về năng suất này là do với lượng phân
đạm lớn, cây sinh trưởng lá tốt nên khả năng chống chịu sâu bệnh cũng như điều kiện
tự nhiên kém đi, dẫn đến cây hay bị bệnh và đổ do bão nên ảnh hưởng tới năng suất
và chất lượng glucomannan.
Như vậy, công thức PB4 lượng NPK là 120 kg N + 50 kg P2O5 + 140 kg K2O trên 1 ha
là công thức bón phân tốt nhất với năng suất củ 179 tạ/1ha và hàm lượng glucomannan
là 46,73%.

3.4.6. Sự tích lũy glucomannan trong củ Nưa konjac trong các giai đọan sinh
trưởng phát triển
Qua kết quả phân tích, tổng hợp cho thấy thời điểm cho hàm lượng
glucomannan cao nhất là khi 2/3 lá Nưa chuyển sang màu vàng với hàm lượng
glucomannan phân tích được là 45,73%.
Các thời điểm khác hàm lượng glucomannan thấp hơn. Ở giai đoạn bảo quản hàm
lượng glucomannan là 44,07%; khi của Nưa nảy chổi hàm lượng glucomannan là
37,57%; hàm lượng glucomannan thấp nhất đạt 23,73% trong giai đoạn lá Nưa phát triển
cực đại (xòe hoàn toàn). Ở giai đoạn sau khi lá Nưa lụi 1 tháng hàm lượng glucomannan
đạt 43,57%.
Như vậy, thời điểm thu hoạch Nưa cho hàm lượng glucomannan tốt nhất là khi
2/3 bộ lá chuyển thành màu vàng.
3.4.7. Trồng thử nghiệm cây Nưa konjac ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam

21


Từ phân tích và tổng hợp số liệu trên cho thấy, mô hình MH2 (Trồng dưới tán
Mận ở xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La ) và MH4 (Trồng dưới tán rừng tại xã
Quyết Tiến, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang) cho năng suất củ và hàm lượng
glucomannan lớn nhất lần lượt đạt 91,22 tạ/1ha, glucomannan 46,1% và 91,24 tạ/ha,
glucomannan 46,5%. Năng suất hai mô hình này cao nhất là do được trồng ở 2 vùng
có khí hậu mát với độ cao so với mặt nước biển là 918 và 874m. Hơn nữa hai khu
vực trồng này được che bóng dưới tán rừng và vườn Mận.
Tiếp theo là công thức MH3, trồng xen Ngô tại xã Quyết Tiến, huyện Quản Bạ,
tỉnh Hà Giang với năng suất 74,51 tạ/ha và hàm lượng glucomannan là 43,1%. Hai
công thức có năng suất và hàm lượng glucomannan thấp nhất là MH6 (Trồng dưới
tán rừng tại xã Ngọc Sơn, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình), MH5 (Trồng trong bao
tải dưới tán vải tại xã Tiểu khu 10, thành phố Hòa Bình), lần lượt là 19,11 tạ/1ha,
glucomannan 37,2% và 12,86 tạ/ha, glucomannan 33,6%.

Các mô hình MH5 và MH6 trồng ở thành phố Hòa Bình và xã Ngọc Sơn, huyện
Lạc Sơn, Hòa Bình, với độ cao so với mực nước biển thấp, mùa hè nóng lên tới 35400C và độ ẩm không khí cao, nên khi vào mùa hè nhiệt độ nóng liên tục trên 300C
dẫn đến cây yếu và mắc bệnh gây chết hàng loạt. Số lượng cây chết lên tới 50-80%.
Đối với các mô hình trồng xen Ngô MH1 và MH3 tại Sơn La và Hà Giang. Có năng
suất và hàm lượng glucomannan trong củ thấp hơn là do cây Nưa Konjac sinh trưởng
hàng năm khoảng 5-6 tháng trong khi đó thời vụ của cây Ngô ngắn hơn chỉ 3-4 tháng,
vì vậy khi thu hoạch Ngô vào tháng 8 thì cây Nưa sẽ không được che bóng làm ảnh
hưởng tới sinh trưởng và phát triển cây Nưa konjac.
3.4.8. Nghiên cứu sâu bệnh hại cây Nưa konjac ở Việt Nam
3.4.8.1. Bệnh hại
Trong quá trình nghiên cứu trồng trọt cây Nưa konjac ở Việt Nam,một trong
những nguyên nhân làm giảm năng suất cây là bệnh hại. Trong số các loại bệnh hại
chủ yếu ở nước ta, đáng chú ý nhất là những bệnh chủ yếu gây hại đến cây trồng bao
gồm vi khuẩn erwinia mềm thối (Erwinia carotovora) và các bệnh về nấm như bệnh
đốm lá (nấm Fusarium solani) và Pythium (các loài Pythium).
3.4.8.2. Sâu hại
Qua điều tra, theo dõi sâu hại đối với cây Nưa là rất ít, chỉ đôi khi gặp sâu xám đen
cắn lá.

KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ
Kết luận:
1/ Thành phần loài Nưa củ có chứa glucomannan ở miền núi phía Bắc Việt
Nam khá đa dạng với 6 loài bao gồm: Amorphophallus konjac K. Koch,
Amorphophallus corrugatus N. E. Br., Amorphophallus krausei Engl. & Gehrm,
Amorphophallus yunnanensis Engl. & Gehrm, Amorphophallus yuloensis H. Li,
Amorphophallus paeoniifolius (Dennst.) Nicolson. Nưa konjac có hàm lượng
glucomannan cao nhất trong bột Nưa khô là 44,97%. Tiếp theo là Nưa yuloensis, Nưa
đầu nhăn, Nưa krausei và Nưa vân nam lần lượt là 30,7%; 28,6%; 29,2%; 25,97% và
Nưa chuông thấp nhất (6,53%). Các loài này phân bố đa dạng theo các độ cao, hướng
phơi và đặc điểm sinh thái khác nhau. Những loài củ có hàm lượng glucomannan cao


22


thường phân bố ở những nơi có nhiệt độ trung bình hàng năm thấp hơn các loài củ có
hàm lượng glucomannan thấp. Trong số các loài Nưa củ có glucomannan ở miền núi
phía Bắc Việt Nam thì loài Nưa konjac có những đặc điểm triển vọng phát triển trồng
và đem lại giá trị kinh tế cao.
Một số dân tộc vùng núi phía Bắc Việt Nam như Mông, Nùng, Sán Dìu, v.v. khai
thác củ từ tháng 7 đến tháng 11 hàng năm, củ thu về được rửa sạch đất, gọt vỏ, cắt
thành các lát mỏng và sấy khô bằng phơi nắng hoặc treo trên gác bếp đun. Củ Nưa
được chế biến thành một số món ăn như Đậu Phụ, Mỳ, Mò Gỉ, v.v.
2/ Thời điểm thu hái quả Nưa konjac là khi vỏ quả chín có màu đỏ cam. Hạt
sau khi thu hái và xử lý bảo quản hạt lạnh ở 5 0C cho hiệu quả tốt nhất. Thời gian bảo
quản càng dài, chất lượng hạt Nưa sẽ càng kém và đặc biệt là sau 6 tháng bảo quản.
Do hạt Nưa konjac khó nảy mầm cần xử lý hạt bằng ngâm hạt trong nước ấm 4050°C trong 6 giờ, ủ và rửa chua sau đó gieo hạt vào trong cát khi cây có chiều cao
khoảng 5- 10 cm chuyển vào bầu đất.
Xử lý vết cắt củ khi thu hoạch bằng xi măng cho hiệu quả xử lý tốt nhất. Bảo
quản lạnh ở điều kiện 100C cho tỷ lệ củ nảy chồi cao nhất, số củ bị nhiễm bệnh thấp
nhất và tỷ lệ cây sống cao nhất.
Nhân giống Nưa konjac bằng kỹ thuật nuôi cấy mô tế bào, chồi đỉnh được khử
trùng tốt nhất khi sử dụng dung dịch Javen 60% (NaClO) trong 12 phút. Công thức
môi trường dinh dưỡng thích hợp nhất để tái sinh chồi Nưa konjac in vitro là MS + 2
mg/l BAP + 0,2 mg/l Kinetin + 8 g/l Agar + 30 g/l sucrose. Công thức môi trường ra
rễ tốt nhất là 1/2 MS + 8 g/l Agar + 14 g/l Sucrose + 0,4 mg/l IBA + 1 g/l than hoạt
tính. Giá thể thích hợp nhất cho trồng cây Nưa konjac in vitro là 50% đất + 30% cát +
20% trấu hun.
3/ Trồng Nưa konjac củ giống có khối lượng 70-100g độ che sáng phù hợp
nhất là 60%. Thời vụ trồng vào khoảng cuối tháng 3 đầu tháng 4 dương lịch. Mật độ
trồng 40.000 cây/ha (50x50cm) cho hiệu quả tốt nhất với năng suất 165,60 tạ/ha, hàm

lượng glucomannan 46,23%. Lượng phân NPK là 120 kg N + 50 kg P2O5 + 140 kg
K2O trên 1 ha là công thức bón phân tốt nhất. Thời điểm thu hoạch cho hàm lượng
glucomannan cao nhất là khi 2/3 lá Nưa chuyển sang màu vàng.
Kiến nghị:
Việc nghiên cứu cây Nưa củ có glucomannan đã đạt được kết quả nhất định,
tuy nhiên kết quả nghiên cứu của luận án mới chỉ là bước đầu. Vì vậy, tác giả đề
nghị tiếp tục các nghiên cứu bảo tồn, nhân giống, lai tạo và phát triển loài Nưa konjac
ở Việt Nam, nhằm đưa cây Nưa konjac trở thành một cây trồng góp phần phát triển
kinh tế các tỉnh miền núi phía Bắc và các địa phương khác trong cả nước.

23


×