VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ THỊ CÚC
ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG Ở SINH VIÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI DƢƠNG HIỆN NAY:
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI, 2018
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ THỊ CÚC
ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG Ở SINH VIÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI DƢƠNG HIỆN NAY:
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
Ngành: Triết học
Mã số: 82 29 001
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. HỒ SĨ QUÝ
HÀ NỘI, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Vũ Thị Cúc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG .......................... 8
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu .......................................... 8
1.2. Đạo đức môi trường ở sinh viên ..................................................................... 28
Chƣơng 2 . THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ ĐẠO ĐỨC MÔI
TRƢỜNG Ở SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI DƢƠNG ....................... 38
2.1. Đặc điểmTrường Đại học Hải Dương ............................................................ 38
2.2. Thực trạng và những vấn đề về đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại
học Hải Dương ........................................................................................................ 41
Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG Ở
SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI DƢƠNG ............................................... 63
3.1. Nâng cao hoạt động của Nhà trường trong giáo dục đạo đức môi trường cho
sinh viên đại học Hải Dương .................................................................................. 63
3.2. Tăng cường các hình thức ngoại khóa, các hoạt động ngoài giờlên lớpcho
sinh viên về đạo đức môi trường ............................................................................ 68
3.3. Đẩy mạnh hình thức khen thưởng và kỷ luật sinh viên về đạo đức môi
trường ....................................................................................................................... 71
3.4. Huy động các nguồn kinh phí chi cho hoạt động bảo vệ môi trường ........... 73
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 80
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một đất nước đang phát triển mạnh với thành tựu kinh tế - xã hội
được cộng đồng thế giới đánh giá cao. Những năm gần đây cùng với sự tăng trưởng
cao của nền kinh tế, sự phát triển nhanh chóng của đời sống xã hội cũng đã ít nhiều
để lại những hệ lụy về bảo vệ môi trường. Ô nhiễm môi trường chất thải, kể cả chất
thải khí, chất thải rắn, và chất thải hóa chất đều đã xảy ra. Tai nạn và sự cố môi
trường ở một số địa phương đã trở thành hiểm họa đe dọa sự phát triển. Rác thải công
nghiệp thế hệ cũ đã tràn vào Việt Nam. Môi trường thực phẩm cũng trở nên không an
toàn…Trên thực tế, ô nhiễm môi trường đã và đang là vấn đề báo động ở Việt Nam.
Vấn đề đặt ra là phải làm sao để ngăn chặn vấn nạn đó? Câu hỏi này đặt ra
không chỉ đối với sự quản lý vĩ mô của chính phủ, mà còn đặt ra đối với hoạt động
của các ngành các cấp, với thái độ và hành vi của toàn thể cộng đồng. Đặc biệt, câu
hỏi đặt ra không chỉ về phương diện kinh tế - xã hội hay pháp luật, mà còn đặt ra về
phương diện văn hóa và đạo đức. Đạo đức môi trường ngày nay là giá trị tinh thần
không thể thiếu để các xã hội phát triển bền vững.
Thế hệ trẻ nước ta chiếm tỉ lệ khoảng 27% dân số và đây cũng chính là những
chủ nhân tương lai của đất nước, là những người sẽ góp phần thúc đẩy đất nước phát
triển theo hướng hiện đại hóa, công nghiệp hóa. Để thúc đẩy được đất nước phát triển
thì một điều không thể thiếu là cần ngăn không cho môi trường tiếp tục bị ô nhiễm,
giải quyết được vấn nạn ô nhiễm môi trường. Điều này ở một mức độ lớn, phụ thuộc
vào ý thức, văn hóa và đạo đức của cộng đồng cũng như của mỗi người thông qua
hành động của họ với việc bảo vệ môi trường.
Nói đến thế hệ trẻ, cần thiết phải chú ý đến lớp người rất có ý nghĩa đối với sự
phát triển đất nước là những bạn trẻ còn đang ngồi trên ghế nhà trường, những sinh
viên đầy nhiệt huyết, đang mang trong mình những ước mơ, những hoài bão lớn. Đây
cũng là lực lượng có ý nghĩa lớn trong việc góp phần giải quyết ô nhiễm môi trường
hiện nay. Nghĩa là đạo đức môi trường ở lớp người trẻ tuổi đang là diều được xã hội
1
kỳ vọng. Trên thực tế, việc xây dựng đạo đức môi trường cho từng sinh viên, biến ý
thức thân thiện với tự nhiên thành hành động để bảo vệ môi trường, những năm qua
đã đến được với tầng lớp sinh viên và bước đầu đã có kết quả tương đối tích cực.
Hải Dương là một tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng Bắc Bộ,
được biết là vùng đất ít nhiều có tiếng về tinh thần hiếu học, tôn sư trọng đạo. Vùng
đất này đã sinh ra và nuôi dưỡng nhiều bậc hiền tài cho đất nước. Hải Dương hiện có
3 trường đại học là Đại học Sao Đỏ, Đại học Thành Đông và Đại học Hải Dương
cùng một số trường cao đẳng và trung cấp.
Trường Đại học Hải Dương là trường đại học công lập duy nhất của tỉnh Hải
Dương. Sinh viên của trường được chiêu sinh từ các tỉnh Thái Bình, Quảng Ninh,
Bắc Giang và một số tỉnh miền núi phía Bắc. Thực ra, ý thức và hành vi đạo đức môi
trường ở sinh viên Hải Dương có được là từ nhiều kênh khác nhau; ít nhiều cũng
không tự giác. Do vậy, bên cạnh những sinh viên có ý thức bảo vệ môi trường thì vẫn
còn không ít những em chưa có thực sự có ý thức, thái độ và hành vi bảo vệ môi
trường.
Để góp phần bảo vệ môi trường, giảm thiểu ô nhiễm môi trường nói chung, ở
môi trường tỉnh Hải Dương và Đại học Hải Dương nói riêng, thì việc nghiên cứu về
thực trạng đạo đức môi trườngcủa sinh viên Trường Đại học Hải Dương, đánh giá
thực trạng và tìm các giải pháp phát huy đạo đức môi trường ở mỗi sinh viên là việc
làm vô cùng có ý nghĩa.
Với những lý do nêu trên tôi chọn đề tài: “Đạo đức môi trường ở sinh viên
Trường Đại học Hải Dương hiện nay: Thực trạng và những vấn đề” là đề tài nghiên
cứu luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Môi trường là hệ vấn đề đã được khá nhiều tác giả nghiên cứu, tìm hiểu và đề
cập tới bởi tính cần thiết và cấp bách ngày càng nghiêm trọng của nó. Đã có nhiều
công trình nghiên cứu đi vào cả chiều sâu và chiều rộng của vấn đề, đi từ chuyên
ngành đến đa ngành và liên ngành với nhau. Trong đó, từ góc độ khoa học xã hội
2
nhân văn và từ chuyên ngành triết học, chúng tôi thấy có một số công trình nghiên
cứu đáng chú ý sau đây:
Trước tiên cần phải nhắc đến: “Báo cáo môi trường quốc gia”. Đây là những
báo cáo hàng năm về vấn đề môi trường do Bộ tài nguyên và Môi trường thực hiện.
Từ báo cáo môi trường quốc gia năm 2016 với chủ đề là môi trường đô thị cho biết
tình trạng ô nhiễm môi trường ở các khu đô thị của Việt Nam đang diễn ra rất phức
tạp với sự ô nhiễm tiêu biểu hàng đầu là hoạt động của ngành giao thông vận tải,
ngành xây dựng, ngành công nghiệp... gây ra.Ô nhiễm môi trường không khí, chủ
yếu là bụi gây ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đến sức khỏe của người dân sinh
sống tại chính khu đô thị đó. Đặc biệt là trẻ em với sức đề kháng còn yếu. Bên cạnh ô
nhiễm không khí là ô nhiễm môi trường nước do việc xử lý nước thải chưa đúng quy
định và do việc vứt rác thải xuống sông, hồ ven khu đô thị gây nên tình trạng bốc mùi
hôi thối, nước sông hồ chuyển màu đen làm ảnh hưởng tới đời sống sinh hoạt của
người dân và làm xấu đi hình ảnh đẹp của khu đô thị. Ngoài ra còn ô nhiễm do chất
thải rắn gây ra, đó là hiện tượng thu gom và vận chuyển rác thải chưa nhanh chóng và
kịp thời làm bốc mùi hôi thối và mất mỹ quan đô thị. Cuối cùng là ô nhiễm môi
trường đất do nước thải chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đúng theo quy định, các bãi
chôn lấp rác thải gây ra...
Báo cáo môi trường quốc gia năm 2017 với nội dung chính đề cập tới là quản
lý chất thải. Theo báo cáo vấn đề quản lý chất thải còn nhiều bất cập, chỉ tính về nước
thải mới giải quyết được trên 10% tổng lượng nước thải, còn lại vẫn thải ra môi
trường chưa qua xử lý hoặc chỉ mới xử lý ở mức độ đơn giản. Qua đây có thể thấy,
môi trường đang bị ô nhiễm rất nghiêm trọng. Những việc làm đó đã góp phần làm
cho nguồn nước, nguồn đất, không khí ngày càng ô nhiễm hơn. Chất thải rắn cũng là
vấn đề đau đầu với các cơ quan quản lý bởi khối lượng lớn. Từ đó, kéo theo hệ lụy là
hiện tượng biến đổi khí hậu đang diễn ra phức tạp, hiện tượng nước biển dâng và xâm
nhập mặn đang đe dọa những khu đô thị, những tỉnh và thành phố ven biển...
3
Bên cạnh các báo cáo của các tổ chức chính trị - xã hội về bảo vệ môi trường,
các tác giả khác với các bài viết đã công bố khá nhiều và đề cập rất chi tiết đến vấn đề
đạo đức môi trường, bảo vệ môi trường, giáo dục bảo vệ môi trường như: Nguyễn
Thị Lan Hương[19],“Đạo đức môi trường và truyền thống mục đích luận”, Tạp chí
Triết học số 12; Nguyễn Văn Phúc[30], “Bảo vệ môi trường nhìn từ góc độ đạo
đức”, Tạp chí triết học số 4; Phạm Thị Ngọc Trầm, “Vấn đề xây dựng đạo đức sinh
thái trong điều kiện kinh tế thị trường”, Triết học, số 3/2002; Phạm Thị Ngọc Trầm
(Chủ biên), Quản lý nhà nước đối với tài nguyên và môi trường vì sựphát triển bền
vững dưới góc nhìn xã hội – nhân văn[48], Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006; Hồ
Sỹ Quý[36], “Về đạo đức môi trường”, Triết học, số 9/2005; Hồ Sĩ Quý (Chủ biên)
(2000)[32], Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong sự phát triển xã hội, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội; Lê Văn Khoa[23] (chủ biên), Môi trường và giáo dục bảo
vệ môi trường, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2008; Hội thảo quốc gia“Giáo dục môi
trường trong các trường học”, Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường
cùng Đại học quốc gia Hà Nội phối hợp thực hiện...
Những công trình nêu trên đều khẳng định, môi trường có vai trò quan trọng
như thế nào với cuộc sống thường ngày của mỗi người dân, chính vì vậy mà nhiệm
vụ bảo vệ môi trường, phòng chống ô nhiễm môi trường đang vô cùng cấp bách. Để
bảo vệ môi trường đạt kết quả tốt thì không thể thiếu được việc giáo dục ý thức, trách
nhiệm và đạo đức môi trường đến từng thành viên trong xã hội từ trẻ đến già, không
phân biệt tuổi tác, trình độ. Vì đạo đức môi trường được thể hiện ở tất cả các phương
diện của xã hội từ sản xuất, du lịch, giải trí, học tập đến sinh hoạt hàng ngày của con
người. Hiện nay ô nhiễm môi trường không chỉ tập trung ở thành phố, các khu đô thị,
công nghiệp mà đã len lỏi về tận thôn quê và trường học. Điều đó đòi hỏi càng phải
đẩy nhanh giáo dục đạo đức môi trường cho từng người dân. Các công trình nghiên
cứu trên đã nhấn mạnh đến thực trạng môi trường hiện nay, các vấn đề cần giải quyết
và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao đạo đức môi trường để bảo vệ môi trường
4
đang bị suy thoái. Các giải pháp đó thể hiện ở tầm quốc gia và được thực hiện trên
phạm vi cả nước với tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong số những nghiên cứu có liên quan đến đạo đức môi trường, chúng tôi
thấy một số công trình ít nhiều có nghiên cứu sâu hơn, hệ thống hơn về đạo đức môi
trường như: Vũ Dũng, “Đạo đức môi trường ở nước ta: lí luận và thực tiễn”, Nxb.
Từ điển bách khoa, Hà Nội 2010; Dự án điều tra cơ bản “Đánh giá đạo đức môi
trườngở nước ta hiện nay”, do Viện Khoa học xã hội Việt Nam thực hiện (2009 –
2010); Nguyễn Văn Phúc, “Đạo đức môi trường”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội
2013; “Xây dựng đạo đức môi trường ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ Triết
học của Hoàng Thị Thanh chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, Hà Nội, 2017. Đây là những công trình đề cập đến cả mặt lý luận và
nhận thức về đạo đức môi trường với những khái niệm cụ thể và chi tiết bao gồm:
khái niệm môi trường, đạo đức, đạo đức môi trường và các tiêu chí để đánh giá đạo
đức môi trường... Ví dụ: Các tiêu chí để đánh giá đạo đức môi trường thể hiện như
sau: Đạo đức môi trường là những hành vi mang tính chuẩn mực (thông qua các văn
bản pháp luật, các quy định, nghị định hiện hành của Đảng và Nhà nước về môi
trường); Ý thức về nghĩa vụ của con người đối với việc bảo vệ môi trường; Ý thức tự
giác, tự nguyện của chủ thể đối với việc bảo vệ môi trường; Sự tác động của lương
tâm chủ thể đối với việc bảo vệ môi trường; Việc bảo vệ môi trường gắn với việc hài
hào về lợi ích giữa con người và tự nhiên; Chia sẻ trách nhiệm để duy trì sự toàn vẹn
của môi trường toàn cầu...
Nhiều tác giả cũng đã tập trung phân tích thực trạng đạo đức môi trường đang
diễn ra hiện nay và những vấn đề cần giải quyết để từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể
để khắc phục những hạn chế còn tồn tại. Tuy nhiên các giải pháp đó mang tầm quốc
gia, xã hội. Hiện tại chưa có công trình nào nghiên cứu về đạo đức môi trường ở sinh
viên Trường Đại học Hải Dương: thực trạng và những vẫn đề. Tuy vậy, các công
trình trên chính là những tiền đề, căn cứ và cơ sở để chúng tôi vận dụng trong nghiên
cứu nội dung đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại học Hải Dương: Thực
5
trạng và những vẫn đề. Chúng tôi sẽ tập trung đi làm rõ về đạo đức môi trường ở sinh
viên Trường Đại học Hải Dương đã và đang diễn ra như thế nào? Thực trạng và
những vấn đề đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại học Hải Dương cần được
giải quyết là gì? Trên cơ sở đó sẽ đưa ra các giải pháp khắc phục những tồn tại hạn
chế để phát huy những ưu điểm về đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại học
Hải Dương góp phần cho Trường Đại học Hải Dương và quê hương Hải Dương có
môi trường làm việc, học tập và sinh hoạt xanh – sạch và đẹp hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại học Hải
Dương hiện nay; đánh giá những nét tích cực và hạn chế của thực trạng đó; trên cơ sở
đó đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế và nâng cao nhận thức, thái
độ, hành vi đạo đức môi trường cho sinh viên Trường Đại học Hải Dương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận vềđạo đức, đạo đức môi trường, đạo đức
môi trường ở sinh viên làm cơ sở lý luận của đề tài.
- Nghiên cứu và phân tích thực trạng đạo đức môi trường ở sinh viên đại học
Hải Dương. Xác định những vấn đề đặt ra.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao đạo đức môi trường ở sinh viên đại
học trong học tập và trong cuộc sống.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đạo đức môi trường (trong luận văn chủ yếu nghiên cứu môi trường tự nhiên)
ở sinh viên Trường Đại học Hải Dương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu đạo đức môi trường (luận
văn chủ yếu nghiên cứu môi trường tự nhiên) ở sinh viên đại học đang học tập tại
Trường Đại học Hải Dương trong những năm gần đây.
6
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, chủ yếu là về quan hệ con người với tự
nhiên, về môi trường và về đạo đức môi trường.
Luận văn có sự kế thừa những quan điểm và thành tựu nghiên cứu của các nhà
khoa học đi trước về môi trường và đạo đức môi trường… trong đời sống xã hội và
trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hơn 30 năm qua.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài kết hợp sử dụng các phương pháp phân tích - tổng hợp; logic - lịch sử;
hệ thống - cấu trúc, phân tích tài liệu thứ cấp và liên ngành khoa học xã hội .
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm rõ lý luận và những vấn đề đạo đức môi trường ở sinh
viên đại học hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, trong giảng dạy về đạo đức môi
trường cho sinh viên đại học; luận văn cũng có ý nghĩa khuyến nghị đối với công tác
xây dựng đạo đức môi trường cho sinh viên Trường Đại học Hải Dương hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận và danh mục TLTK luận văn còn có 3 chương
8 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận về đạo đức môi trường ở sinh viên đại học
Chương 2: Thực trạng và những vấn đề về đạo đức môi trường ở sinh viên
Trường Đại học Hải Dương
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao đạo đức môi trường ở sinh viên
Trường Đại học Hải Dương
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu
1.1.1. Đạo đức
● Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một từ Hán Việt dùng để chỉ một thành tố trong tính cách và giá
trị của một con người, những tư tưởng về đạo đức học đã xuất hiện hơn 26 thế kỷ
trước đây trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại. Theo nghĩa Hán Việt
có thể hiểu: đạo là con đường, đức là tính tốt. Khi nói một người có đạo đức tức là
nói người đó đã có sự rèn luyện thực hành các lời răn dạy về đạo đức, sống có
chuẩn mực và có nét đẹp trong đời sống và tâm hồn. Hiện nay, đạo đức là một vấn
đề được nhiều tác giả nghiên cứu, chúng ta có thể thấy đạo đức là một hiện tượng
xã hội được hình thành trong quá trình lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất,
trong mối quan hệ giữa con người với con người nhằm điều chỉnh hành vi của mình
để đảm bảo sự hoạt động của cộng đồng nói chung. Đạo đức được hình thành dựa
trên cơ sở tự giác, tự nguyện không mang tính cưỡng ép, bắt buộc. Chỉ có những
hành vi được thực hiện trên cơ sở tự giác, tự nguyện và phù hợp với lợi ích xã hội
mới được coi là hành vi đạo đức.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “đạo đức” là “những tiêu chuẩn, nguyên tắc được
dư luận xà hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và
đối với xã hội phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn
nhất định mà có” [39, tr.464].
Theo Giáo trình đạo đức học của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh:
“Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc nhằm
điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau, với xã
hội, với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai. Chúng được thực
hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.” [17,
tr.116].
8
Như vậy có thể hiểu đạo đức theo các khía cạnh sau:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, trong đó tập hợp những qui tắc,
chuẩn mực xã hội và từ những quy tắc, chuẩn mực đó con người sẽ tự giác điều
chỉnh hành vi của bản thân mình để phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con
người, với tiến bộ xã hội.
Đạo đức là hệ thống những qui tắc, nguyên tắc, chuẩn mực thể hiện sự tự
giác của con người trong mối quan hệ giữa con người với con người, con người với
cộng đồng xã hội, con người với tự nhiên và con người với chính bản thân mình.
Cấu trúc của đạo đức
Với tư cách là một bộ phận của triết học, đạo đức là một hiện tượng xã hội
có cấu trúc phức tạp, gồm các thành phần sau: ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và
quan hệ đạo đức.
Ý thức đạo đức: Là hệ thống những quan niệm, nguyên tắc, tri thức và những
cảm xúc, tình cảm chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện, ác, lương
tâm, trách nhiệm, hạnh phúc và công bằng… Mặt khác nó còn bao gồm cả những
quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân
với cá nhân trong xã hội.
Hành vi đạo đức: Là một hành động được thực hiện một cách tự giác, tự
nguyện và được xuất phát bởi một động cơ có ý nghĩa về mặt đạo đức. Hay có thể
hiểu hành vi đạo đức là những cử chỉ, hành động và việc làm của con người trong
các mối quan hệ xã hội mà phù hợp với các chuẩn mực đạo đức.
Quan hệ đạo đức: Là tổng hợp những quan hệ xã hội, tác động qua lại với
nhau, đó là quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân và xã hội xét về mặt đạo
đức. Quan hệ đạo đức có tính tự giác và tự nguyện, nó vận động, biến đổi theo quá
trình phát triển của xã hội, trong phạm vi một hình thái kinh tế - xã hội hay hệ giá trị
đạo đức của một giai cấp cũng có sự vận động, phát triển.
Ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức và hành vi đạo đức là những yếu tố tạo nên
cấu trúc của đạo đức, chúng không tồn tại độc lập, mà có quan hệ biện chứng tác
9
động qua lại với nhau. Cấu trúc đạo đức không thể thiếu một tỏng ba yếu tố này. Ý
thức đạo đức được hình thành trong quan hệ đạo đức và là điều kiện để hình thành
hành vi đạo đức. Hành vi đạo đức là quá trình hiện thực hóa ý thức đạo đức và
không thể tách rời quan hệ đạo đức.
Chức năng của đạo đức
Tương tự như cấu trúc của đạo đức, chức năng của đạo đức cũng có ba chức
năng bao gồm: chức năng điều chỉnh hành vi, chức năng giáo dục và chức năng
nhận thức.
Chức năng điều chỉnh hành vi: Đây được coi là chức năng quan trọng nhất
của đạo đức, mặc dù là chức năng quan trọng nhất nhưng đó không phải là cái đặc
quyền của đạo đức, bởi vì trong xã hội, con người tạo ra rất nhiều phương thức điều
chỉnh hành vi của mình như: pháp luật, tôn giáo, chính trị, nghệ thuật, nhận thức
khoa học...Chức năng này nhằm bảo đảm hài hòa quan hệ lợi ích cộng đồng và cá
nhân. Nếu như sức mạnh của pháp luật là sự cưỡng chế, bắt buộc phải thực hiện thì
sức mạnh của đạo đức chính là niềm tin cá nhân, là truyền thống và dư luận xã hội.
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức được thực hiện bằng hai phương
thức chủ yếu như sau: Thứ nhất là xã hội tạo ra sức mạnh dư luận để khen ngợi,
động viên những người có đạo đức và có những hành vi tốt đẹp. Đồng thời cũng lên
án, phê phán những hành vi gây ảnh hưởng xấu đến mọi người xung quanh và đến
cộng đồng xã hội. Thứ hai là bản thân mỗi người phải tự giác, xuất phát từ chính ý
thức của mình để điều chỉnh hành vi thông qua những chuẩn mực đạo đức xã hội và
bản thân cũng phải tham gia các hoạt động thực tiễn để bổ sung nhận thức, rèn
luyện ý chí.
Chức năng giáo dục: Đây cũng là một trong những chức năng cơ bản của
đạo đức, chức năng này có tác dụng hình thành những nguyên tắc, quy tắc và
chuẩn mực đạo đức trong từng con người cụ thể và phát triển nhân cách của họ.
Đây cũng là con đường đặc trưng cơ bản để loài người tồn tại và phát triển. Có
thể hiểu, chức năng giáo dục của đạo đức chính là làm cho “tính người” ở mỗi
10
người được nhiều lên để ngày càng có nhiều hành động đẹp cho những người khác
học tập và noi theo.
Về thực chất chức năng này là đạo đức hóa con người và xã hội loài người.
Hiệu quả của chức năng này phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế, xã hội, vào
mức độ tự giác của mỗi người trong quá trình giáo dục đạo đức để hướng tới nhân
cách và phẩm chất cần có.
Chức năng nhận thức: Ngoài hai chức năng nêu trên, đạo đức còn có chức
năng nhận thức. Chức năng này bao gồm: nhận thức và tự nhận thức. Nhận thức của
đạo đức là một quá trình vừa có hướng nội, vừa có hướng ngoại. Nhận thức hướng
nội lấy bản thân chủ thể đạo đức làm đối tượng để nhận thức. Đây là quá trình chủ
thể đạo đức tự đánh giá bản thân, tự đối chiếu nhận thức cũng như những hành vi
của mình với chuẩn mực đạo đức xem đã phù hợp chưa? Nhận thức hướng ngoại là
lấy chuẩn mực đạo đức làm đối tượng để nhận thức. Trên cơ sở đó, chủ thể nhận
thức làm gia tăng thêm tính hướng nội của mình. Còn tự nhận thức là quá trình bản
thân tự thẩm định, tự đánh giá những nhận thức, hành vi đạo đức của mình với
chuẩn mực giá trị chung của cộng đồng, xã hội. Từ hai quá trình nhận thức trên con
người sẽ đi đến phân biệt những giá trị như: đúng - sai, tốt - xấu, thiện - ác... và
hướng tới giá trị bao quátmà con người muốn vươn tới là chân, thiện, mỹ.
Các chức năng của đạo đức đều có một vai trò nhất định, nhưng không phải
vì thế mà chúng tách rời nhau, không có ràng buộc với nhau mà ngược lại chúng
đều có quan hệ chặt chẽ với nhau, sự vận hành của chức năng này là tiền đề, điều
kiện của sự vận hành chức năng đạo đức khác. Hơn nữa chúng đều hướng tới một
mục đích chung của xã hội đó là nhân đạo hóa con người và xã hội loài người.
1.1.2. Môi trường
Khái niệm môi trường
Môi trường là khái niệm rộng, bao quát nhiều nội dung và được sử dụng
trong rất nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, giáo dục.... theo định nghĩa thông
thường thì môi trường được hiểu: “là toàn bộ nói chung những điều kiện tự nhiên
11
và xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển trong mối quan hệ
với con người hay sinh vật ấy. [39, tr.618].
Về mặt pháp lý, theo Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kì họp thứ 7 thông qua ngày
23/6/2014 thì môi trường được định nghĩa là: "hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên
và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật”.
Từ cách định nghĩa này của Luật Bảo vệ môi trường có thể hiểu môi trường là tập
hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và nhân tạo bao quanh con người và nó có ảnh hưởng
lớn tới các hoạt động sống của con người như: sinh hoạt, sản xuất, học tập... Nghĩa
là có thể thấy, con người chính là trung tâm của mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên. Thành phần của môi trường theo Điều 1 của Luật này bao gồm: "là yếu tố
vật chất tạo thành môi trường gồm đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh
vật và các hình thái vật chất khác".
Hiện nay có hai cách hiểu đơn giản về môi trường, đó là hiểu theo nghĩa
rộng và hiểu theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, môi trường bao gồm tất cả các nhân
tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho hoạt động sinh hoạt, lao động, sản xuất của con
người như: nước, không khí, đất, ánh sáng... Theo nghĩa hẹp, không xét tới tài
nguyên thiên nhiên môi trường chỉ bao gồm các nhân tố tự nhiên và xã hội tác động
trực tiếp tới chất lượng cuộc sống con người. Ví dụ: môi trường của giảng viên bao
gồm nhà trường với sinh viên, đồng nghiệp, nội quy của trường, lớp học, phòng làm
việc, tổ chức xã hội như Đảng, Đoàn với các điều lệ hay gia đình, họ tộc với những
quy định chỉ truyền miệng nhưng vẫn được công nhận, thi hành và các cơ quan
hành chính các cấp với luật pháp, nghị định, thông tư...
Nếu chia theo chức năng có thể chia môi trường sống của con người như sau:
Một là môi trường tự nhiên bao gồm ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả,
không khí, động, thực vật, đất, nước... chúng tồn tại bên ngoài ý muốn của con
người, nhưng không phải như vậy mà không chịu sự tác động của con người mà
ngược lại chúng vẫn chịu ít nhiều chịu tác động.
12
Hai là môi trường xã hội đó là tổng thể các quan hệ giữa người với người
bao gồm: luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định... ở các cấp khác nhau
như: quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ tộc, gia đình, tổ chức đoàn thể...
Môi trường xã hội giúp cho hoạt động của con người được đi theo một khuôn
khổ nhất định, từ đó dần dần hình thành sức mạnh tập thể to lớn tạo thuận lợi
cho sự phát triển, và đây cũng là điểm khác biệt giữa cuộc sống của con người và
các sinh vật khác.
Ngoài ra, người ta còn phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo, đó là tất cả
các nhân tố do con người tạo ra, làm thành những tiện nghi trong cuộc sống, như xe
máy, ôtô, máy bay, nhà ở, công sở, các khu đô thị, khu công nghiệp, các khu công
viên nhân tạo phục vụ cho vui chơi giải trí...
Từ những trình bày ở trên có thể hiểu môi trường sống là tất cả những gì có
xung quanh con người, đem lại cho con người điều kiện, cơ sở để tồn tại, để sống
và phát triển, như C.Mác đã từng trình bày trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết
học năm 1844: “Giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người, và chính nó là giới
tự nhiên trong chừng mực của bản thân nó không phải là thân thể con người. Con
người sống dựa vào tự nhiên. Như thế nghĩa là tự nhiên là thân thể của con người;
để khỏi chết, con người phải ở trong quá trình giao dịch thường xuyên với thân thể
đó. Sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người liên hệ khăng khít với tự nhiên,
điều đó chẳng qua chỉ có nghĩa là tự nhiên liên hệ khăng khít với bản thân tự nhiên,
vì con người là một bộ phận của tự nhiên”[7, tr.91-92].
Chức năng của môi trường
Môi trường chính là không gian sống của con người và sinh vật. Vậy môi
trường có chức năng gì? Môi trường cho chúng ta không khí để thở và duy trì sự
sống, cho đất đai để trồng trọt chăn nuôi và xây dựng nhà cửa, ngoài ra môi trường
còn có rất nhiều loại khoáng sản ở cả trên mặt đất và trong lòng đất, đó là nguồn tài
nguyên rất quý phục vụ cho nhu cầu sản xuất. Không chỉ phục vụ cho nhu cầu sinh
hoạt, sản xuất mà môi trường còn có rất nhiều danh lam thắng cảnh đẹp là nơi du
13
lịch, nghỉ mát cho con người sau những ngày làm việc vất vả, cho cuộc sống của
con người tưoi đẹp và sinh động hơn. Tuy nhiên khả năng cung cấp của môi trường
tự nhiên phục vụ các nhu cầu đó của con người là có giới hạn và nó phụ thuộc vào
trình độ phát triển của mỗi quốc gia và ở mỗi giai đoạn khác nhau.
Ngoài ra môi trường còn là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất thải của con
người trong quá trình sinh hoạt, lao động sản xuất và sử dụng các tài nguyên thiên
nhiên thải vào môi trường dưới dạng các chất thải. Chất thải có loại ở dạng rắn, có
loại ở dạng lỏng và một số loại qua thời gian được hân hủy thành các chất vô cơ, vi
sinh có thể phục vụ lại nhu cầu cầu của con người. Ví dụ chất thải của lợn có thể sử
dụng thành ga phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của con người hay chất thải của các
loại gia súc, gia cầm có thể ủ mục thành phân bón cho các loại cây trồng được xanh
tốt Các tài nguyên sau khi hết hạn sử dụng, chúng bị thải vào môi trường dưới dạng
các chất thải. Tuy nhiên với chức năng là nơi chứa đựng chất thải của môi trường
không phải là vô hạn mà là có giới hạn. Nếu con người vượt quá giới hạn này thì sẽ
gây ra tình trạng mất cân bằng sinh thái và dấn đến hiện tượng ô nhiễm môi trường.
Lúc này lại cần sự chung tay góp sức của con người để chống lại hiện tượng ô
nhiễm môi trường, để bảo vệ môi trường.
1.1.3. Đạo đức môi trường
Khái niệm đạo đức môi trường
Thuật ngữ đạo đức môi trường không phải xuất hiện ngay từ thời cổ đại, thời
cổ đại đạo đức môi trường mới chỉ thể hiện ở tình yêu thương của con người với
thiên nhiên, với cỏ cây hoa lá và vạn vật xung quanh nơi họ sinh sống. Cho đến khi
nền kinh tế thị trường hình thành và phát triển cùng với các cuộc cách mạng khoa
học công nghệ đem theo sự ra đời ngày càng nhiều các loại máy móc hiện đại từ đó
làm cho đời sống của con người ngày càng đòi hỏi cao hơn, họ không bằng lòng với
những gì sẵn có hiện tại của tự nhiên. Họ bắt đầu khai thác sâu hơn vào nguồn tài
nguyên thiên nhiên của môi trường để tìm ra những nguồn nguyên nhiên vật liệu
phục vụ cho công việc của mình, lâu dần làm cho nguồn tài nguyên thiên nhiên bị
14
cạn kiệt dẫn đến việc môi trường tự nhiên không thể tự điều chỉnh, tự cân bằng
được và gây ra hiện tượng ô nhiễm môi trường. Với tình trạng ô nhiễm môi trường
như hiện nay việc bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm của từng quốc gia
riêng lẻ mà nó mang tính toàn cầu, mang tính quốc tế với mọi quốc gia trên thế
giới.Từ sự ô nhiễm môi trường đang diễn ra nghiêm trọng như hiện nay chúng ta
nhận thấy rằng mỗi quốc gia nên có thay đổi về chiến lược, chính sách, cách thức và
mô hình phát triển về kinh tế để từ đó đảm bảo được sự cân bằng, hài hòa giữa con
người với xã hội và tự nhiên.
Ph.Ăngghen từng phân tích: “Khi đốt rừng trên các triền núi và lấy số phân
tro đủ để bón cho một đời cây cà phê đem lại một số thu hoạch rất lớn, thì những
người chủ đồn điền Tây Ban Nha ở Cu Ba có cần gì phải suy nghĩ rằng sau này,
những trận mưa rào ở vùng nhiệt đới sẽ cuốn sạch lớp đất bên trên không có sự che
chở và chỉ để lại những lớp đá trơ trụi”[8, tr. 658]. Có thể thấy, từ trong lịch sử con
người vì lợi ích kinh tế cũng đã bất chấp làm những hành động tàn phá tự nhiên.
Do vậy, để đảm bảo được sự cân bằng, hài hòa giữa con người với tự nhiên
thì bên cạnh việc khai thác tự nhiên con người cũng cần phải bảo vệ tự nhiên, bảo
vệ môi trường. Muốn bảo vệ môi trường thì phải có những hành động, việc làm về
bảo vệ môi trường ví dụ như: vứt rác đúng nơi quy định kể cả ở nhà hay ở trường
học, bệnh viện, nơi công cộng; không đưa nước thải chưa qua xử lý ra môi trường;
không bẻ cành cây, hái hoa hay dẫm lên cỏ ở những khuôn viên trường học, công
viên, khu đô thị làm xấu cảnh quan môi trường; hay rộng hơn là trồng cây phủ xanh
đất trống, trồng cây gây rừng, không chặt phá rừng bừa bãi, săn bắn trái phép những
loài vật quý đang trong danh sách cần được bảo tồn.... Những hành động và việc
làm đó phải xuất phát từ trong suy nghĩ, nhận thức, thái độ của mỗi người và phải
mang tính tự nguyện, tự giác không bắt buộc phải thực hiện. Đây chính là cơ sở để
hình thành và cho ra đời một cách ứng xử mới đối với môi trường thuộc về phạm
trù đạo đức được mang tên là đạo đức môi trường.
15
Khái niệm về đạo đức môi trường được rất nhiều tác giả trong và ngoài nước
nhắc tới. Đầu tiên không thể không nhắc tới một luận điểm nổi tiếng và đó cũng là
quan niệm đầu tiên về đạo đức môi trường đưa ra năm 1949 của triết gia người Mỹ
mang tên Aldo Leopold trong 5 tập tiểu luận The Land Ethic đã đăng trên A Sand
County Almanac (Niên giám một vùng đất): “Một hành động chỉ được coi là đúng
nếu nó nhằm bảo vệ sự toàn vẹn, ổn định và vẻ đẹp của cộng đồng sinh vật; ngược
lại thì là sai lầm” [Trích theo: 36].
Theo tác giả Ernest Partridge trong tác phẩm Giới thiệu về đạo đức môi
trường, Trường Đại học tổng hợp California, Mỹ (2008), có nhấn mạnh: “đạo đức
môi trường được hiểu là, sự thể hiện trách nhiệm của con người đối với việc tôn
trọng đất đai, thực vật, tài nguyên, sinh vật không phải là con người”.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu ở ngoài nước thì trong nước cũng có rất
nhiều công trình nghiên cứu về đạo đức môi trường, trong đó tiêu biểu có:
Trong công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Phúc với tác phẩm
“Đạo đức môi trường”, tác giả đã đưa ra định nghĩa về đạo đức môi trường như sau:
“Đạo đức môi trường là một hệ thống các chuẩn mực đạo đức điều chỉnh quan hệ
giữa con người (xã hội) và tự nhiên vì sự phát triển bền vững” [30, tr.73].
Tác giả Hồ Sĩ Quý trong bài viết về môi trường ở tạp trí Triết học số 9 với
nội dung “Về đạo đức môi trường” tác giả cũng khẳng định: “Đạo đức môi trường
là một khái niệm rộng, phong phú, nhưng không quá đa nghĩa. Trên những nét lớn,
có thể hiểu và sử dụng khái niệm này như sau:
- Đạo đức môi trường là những chuẩn mực tự nhiên, bình thường ngấm
sâu trong hành vi và trong phong cách sinh hoạt, ứng xử của mỗi người và mỗi
cộng đồng - Con người bảo vệ môi trường, tôn trọng giới tự nhiên và cẩn trọng
trước hệ sinh thái một cách tự nhiên, không cần ai ra lệnh, không vì mục đích vụ
lợi nào khác.
16
- Đạo đức môi trường biểu hiện thiết thực trong hành vi của mỗi người, mỗi
cộng đồng. Trình độ cao của đạo đức môi trường biểu hiện ở ý thức và kỹ năng xử
lý những vấn đề môi trường.
- Có thể trong tư tưởng, trong suy nghĩ của mình, những người dân bình
thường không hề biết các lý thuyết cao siêu nào đó về hệ sinh thái và bảo vệ môi
trường; song, không hẳn vì thế mà họ kém ý thức về mặt đạo đức môi trường. Đạo
đức môi trường, trước hết, được biểu hiện ở tình cảm tự nhiên của con người - con
người biết ửng xử thân thiện và biết tôn trọng môi trường sống quanh họ.
- Đạo đức môi trường độc lập nhất định với học vấn. Người có học vấn cao
chưa chắc đã có đạo đức môi trường ở trình độ cao. Người có học vấn thấp vẫn có
thể có đạo đức môi trường đáng tôn trọng” [36].
Từ những định nghĩa về đạo đức môi trường của các tác giả trong và ngoài
nước, khái niệm đạo đức môi trường được xác định như sau: Đạo đức môi trường
là một hệ thống bao gồm các quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức để trên cơ
sở đó con người sẽ tự điều chỉnh những hành vi của bản thân một cách tự giác, tự
nguyện, không cần ai chỉ đạo với môi trường nhằm hướng đến sự phát triển hài
hòa, ổn định và bền vững giữa con người với môi trường tự nhiên.
Như vậy, khái niệm đạo đức môi trường gồm một số nội dung cơ bản đáng
chú ý như sau:
1) Đạo đức môi trường là một hệ thống các quan điểm, quy tắc, chuẩn mực
đạo đức để hướng dẫn con người và điều chỉnh hành vi của con người đối với môi
trường nhằm thực hiện những mục đích của mình với môi trường nhưng cũng vẫn
bảo vệ môi trường để tạo ra sự phát triển hài hòa và bền vững giữa con người với
môi trường.
2) Trên cơ sở các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức con người đã tự giác và
chủ động điều chỉnh hành vi của mình với môi trường sa cho phù hợp với chuẩn
mực đạo đức môi trường.
17
3) Đạo đức môi trường thể hiện trách nhiệm của mỗi con người với môi
trường, đó là trách nhiệm vừa khai thác vừa kiến tạo và bảo vệ môi trường. Cũng là
thể hiện mối quan hệ đề cao môi trường của con người trong xã hội hiện đại.
Qua đây, có thể coi đạo đức môi trường là một sự đánh giá mang tính hệ
thống các mối quan hệ đạo đức giữa con người và môi trường tự nhiên xung quanh
con người. Từ đó xác lập lên các chuẩn mực nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên theo hướng hài hòa lợi ích giữa con người và tự nhiên. Nói cách
khác là đảm bảo lợi ích của con người mà không làm tổn hại giới tự nhiên. Và đạo
đức môi trường là sự thể hiện hành vi của con người thông qua ý thức của họ đối
với môi trường, nó vừa mang tính tất yếu lại vừa mang tính tự giác.
Tại sao đạo đức môi trường lại có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong đời
sống con người và xã hội? Vì nó là những chuẩn mực dành cho tất cả mọi người
không phân biệt tầng lớp trí thức hay nông dân, là người giàu hay người nghèo,
là người già hay người trẻ, là ngưoif theo tôn giáo hay không theo tôn giáo.
Những chuẩn mực đó mang tính cộng đồng và xã hội vì môi trường là của tất cả
mọi người không phải là của riêng ai. Như vậy thực hiện các hành vi với môi
trường theo những chuẩn mực đó được coi là trách nhiệm, là nghĩa vụ của mỗi
người đối với môi trường, xuất phát từ ý thức, suy nghĩ và lương tâm của mọi
người với môi trường.
Bên cạnh tính tất yếu đạo đức môi trường còn mang tính tự giác. Tính tự giác
ở đây là thể hiện sự tự bản thân mỗi người tự có những hành động đối với môi
trường chứ không do tổ chức xã hội hay người nào khác ép buộc họ thực hiện các
hành vi với môi trường. Hành động của mỗi người đối với môi trường ở đây xuất
phát từ trong suy nghĩ, trong lương tâm của họ. Nếu những người yêu môi trường,
muốn bảo vệ môi trường họ sẽ có những hành động để bảo vệ môi trường như:
không vứt rác bừa bãi, không bẻ cành, hái hoa hay dẫm lên cỏ ở những nơi công
cộng... và ngược lại là những người không muốn bảo vệ môi trường. Để nhận biết
18
được một người có đạo đức môi trường hay không chỉ cần thông qua hành động và
việc làm của họ đối với môi trường.
Như vậy để thực hiện được đạo đức môi trường đòi hỏi mỗi người cần trang
bị cho mình những tri thức khoa học không chỉ về lĩnh vực môi trường mà còn bao
gồm các lĩnh vực khác, từ đó phát huy sức sáng tạo của mình để khai thác và bảo vệ
tự nhiên sao cho hợp lý và mỗi con người cũng cần đạo đức và tinh thần trách
nhiệm với hành động của mình.
Những chuẩn mực cơ bản của đạo đức môi trường
Nói đến đạo đức không thể không nói đến chuẩn mực đạo đức. Chuẩn mực
đạo đức có tư cách là sự thể hiện những yêu cầu, những đòi hỏi của xã hội đối với
hành vi cá nhân và chuẩn mực đạo đức thể hiện một cách tập trung chức năng điều
chỉnh của đạo đức. Vai trò điều chỉnh của các chuẩn mực đạo đức biểu hiện như
sau: những đòi hỏi, những yêu cầu của xã hội (ngăn cấm hoặc khuyến khích) thể
hiện trong chúng tạo nên giới hạn cho hành vi, xác định điều gì cần làm và điều gì
không được làm trong những hoàn cảnh, những tình huống cụ thể nhất định. Chuẩn
mực đạo đức, do vậy, là yếu tố trung tâm của ý thức đạo đức. Đồng thời nó cũng
phản ánh những yêu cầu về mặt đạo đức của xã hội đối với con người. Bởi vậy, một
hệ chuẩn mực đạo đức nhất định sẽ xác định đặc trưng của một nền đạo đức nói
chung hay một lĩnh vực đạo đức cụ thể.
Ở đây, có thể thấy đạo đức môi trường là một lĩnh vực đạo đức đặc thù, vì
vậy đi kèm với nó là một hệ thống chuẩn mực đạo đức đặc thù phản ánh những đặc
thù của việc bảo vệ môi trường. Mặc dù mang tính đặc thù nhưng chuẩn mực đạo
đức môi trường không biệt lập với các chuẩn mực đạo đức khác mà vẫn có mối liên
hệ với các chuẩn mực đạo đức đó. Như đã biết mọi quan hệ trong xã hội đều là
quan hệ động, chính vì vậy quan hệ giữa con người và môi trường, xã hội và tự
nhiên cũng là quan hệ động. Vì vậy, các chuẩn mực đạo đức môi trường cũng biến
đổi theo chiều hướng mở rộng về nội dung và gia tăng về số lượng do tính phức tạp
của quan hệ này ngày càng gia tăng. Vị trí, vai trò, chức năng của mỗi chuẩn mực
19
đạo đức môi trường trong hệ thống các chuẩn mực đạo đức môi trường không phải
lúc nào cũng cố định mà có sự biến đổi theo từng thời kỳ, từng địa vực nhất định
khác nhau. Có những chuẩn mực sẽ tồn tại rất lâu nhưng có những chuẩn mực sẽ
nhanh bị thay đổi do tồn tại xã hội thay đổi, chính trị, văn hóa thay đổi. Ở mỗi thời
kỳ, mỗi địa vực nhất định vấn đề môi trường nào nổi lên cấp bách thì những chuẩn
mực đạo đức điều chỉnh việc giải quyết vấn đề môi trường đó trở thành chuẩn mực
chủ yếu và cấp bách nhất. Mặc dù vậy, cũng như những lĩnh vực đạo đức khác, đạo
đức môi trường có những chuẩn mực chung chi phối các phương diện cụ thể của
quan hệ giữa con người và môi trường. Nhưng quan hệ đạo đức trong đạo đức môi
trường có tính chất đặc biệt, đó là nó phải vượt lên trên mối quan hệ giữa người với
người để vươn tới quan hệ đối với giới tự nhiên. Trong điều kiện môi trường hiện
nay, những chuẩn mực sau đây có thể coi là những chuẩn mực chung căn bản nhất:
* Tôn trọng và bảo vệ sự hài hoà của hệ thống con người - xã hội
- tự nhiên
Chuẩn mực này có thể coi là chuẩn mực chung nhất, chi phối, định hướng
các chuẩn mực đạo đức môi trường khác, tạo cơ sở, nền tảng cho quan hệ đạo đức
của con người đối với tự nhiên. Những chuẩn mực khác trong hệ thống chuẩn mực
đạo đức môi trường đều là sự cụ thể hoá, chi tiết hóa chuẩn mực này với mới những
mức độ khác nhau. Chuẩn mực này có cơ sở khách quan là quá trình hình thành,
quá trình tiến hóa một cách tự nhiên của hệ thống con người – xã hội – tự nhiên.
Trước khi có con người, tự nhiên là một hệ thống thuần túy, có cơ chế tự
điều chỉnh. Nhưng từ khi con người xuất hiện hệ thống đó không còn là hệ thống tự
nhiên thuần túy nữa mà đã thay vào đó là hệ thống con người - xã hội - tự nhiên.
Con người khác với các thành tố khác của tự nhiên là họ có ý thức, có lí trí và có
năng lực để cải biến tự nhiên. Tuy nhiên với sự tác động của con người tới tự nhiên
trong suốt thời gian dài đã và đang gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Cùng với
nhận thức của mình, con người phải có những hành động thực tiễn nhằm bảo đảm
sự hài hoà, cân bằng của hệ thống con người- xã hội- tự nhiên. Bằng lí trí, ý thức và
20
bằng thực tiễn, con người sẽ nhận ra tôn trọng vàbảo vệ sự hài hoà của hệ thống
con người- xã hội- tự nhiên là một yêu cầu,một chuẩn mực đạo đức.
Thái độ, tình cảm tôn trọng, bảo vệ sự hài hoà của hệ thống con người - xã
hội- tự nhiên sẽ định hướng cho con người có sự tự giác và tự nguyện bảo vệ sự đa
dạng sinh học, bởi chính sự đa dạng sinh học là một trong những nhân tố, điều kiện
đảm bảo cho sự hài hòa của hệ thống con người – xã hội – tự nhiên luôn luôn được
bền vững. Và cũng chính thái độ, tình cảm đó sẽ định hướng cho chúng ta tự giác và
tự nguyện giải quyết một cách tối ưu những vấn đề đang tồn tại của con người, của
xã hội. Bởi vì, những vấn đề của môi trường không thể độc lập giải quyết mà không
giải quyết những vấn đề của con người, xã hội và những vấn đề của xã hội, con
người cũng chỉ có thể giải quyết được triệt để khi giải quyết được các vấn đề của
môi trường, của tự nhiên. Chính vì vậy, tôn trọng và bảo vệ sự hài hoà của hệ thống
con người - xã hội- tự nhiên là chuẩn mực đạo đức phổ quát, đồng thời cũng là sự
phản ánh về mặt đạo đức của bản thân quá trình phát triển bền vững lấy kinh tế, xã
hội và môi trường cùng làm mục tiêu để hướng tới.
Như vậy, đạo đức môi trường không những đòi hỏi bản thân mỗi người phải
biết tôn trọng môi trường tự nhiên mà còn phải biết đấu tranh chống lại các quan
niệm lạc hậu cho rằng con người là tất cả, “trời sinh voi, trời sinh cỏ” và môi trường
tự nhiên chỉ là vô tri vô giác, từ đó, con người phải biết đấu tranh với các biểu hiện
xâm hại đến môi trường, từ đó cùng chung tay bảo vệ môi trường.
* Sử dụng tài nguyên tiết kiệm và có hiệu quả
Đây là chuẩn mực chủ yếu liên quan chính đến lĩnh vực sản xuất. Vì lĩnh vực
này tập trung khai thác các nguồn nguyên nhiên liệu sẵn có của tự nhiên. Ngày nay
với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ cho ra đời nhiều máy móc hiện
đại làm cho quy mô sản xuất ngày càng được mở rộng và nhu cầu khai thác tài
nguyên ngày càng cao. Đến nay, nhân loại đã khai thác hết hơn 40% nguồn tài
nguyên không tái tạo được. Và với sự phát triển của xã hội, sự gia tăng về dân số
đòi hỏi vẫn phải đẩy mạnh việc khai thác hơn nữa. Trước thực trạng này thì việc sử
21