Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

quan điểm toàn diện, đặc biệt là quan điểm toàn diện trong đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.58 KB, 19 trang )

Lời mở đầu
Trải qua 20 năm (1986 - 2006), công cuộc đổi mới toàn diện đất nớc do
Đảng ta khởi xớng, lãnh đạo, đợc nhân dân đồng tình hởng ứng, đã đạt đợc
những thành tựu to lớn, và có ý nghĩa lịch sử trọng đại. Điều đó chứng tỏ đờng
lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội
của nớc ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Nhờ đổi mới mà nớc ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh
tế tăng trởng nhanh, cơ sở vật chất đợc tăng cờng, đời sống của các tầng lớp
nhân dân không ngừng đợc cải thiện. Đổi mới làm thay đổi gần nh tất cả mọi
mặt đời sống kinh tế đất nớc. Từ sau Đại hội Đảng VI (12/1986) đến nay đã có
rất nhiều thay đổi quan trọng trong sản xuất và tiêu dùng, tiết kiệm đầu t, chính
sách tiền tệ và ngoại thơng. Chính sách đổi mới đã tạo ra nguồn động lực sáng
tạo cho hàng tiêu dùng Việt Nam thi đua sản xuất đa kinh tế đất nớc tăng trởng
trung bình trên 7%/ năm từ 1987.
Xét riêng về kinh tế, thứ nhất đổi mới đã chuyển nền kinh tế Việt Nam từ
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa với nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu trong đó kinh tế Nhà n-
ớc giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể, kinh tế t nhân đều đợc khuyến khích phát
triển không hạn chế; thứ hai, đã chuyển 1 nền kinh tế khép kín, thay thế nhập
khẩu là chủ yếu sang nền kinh tế mở, chủ động hội nhập, hớng mạnh về xuất
khẩu, thứ ba, tăng trởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội trong
từng giai đoạn đổi mới và phát triển ở Việt Nam, trong đó xoá đói giảm nghèo
và giải quyết công ăn việc làm là 2 u tiên trọng tâm; thứ t, cùng với đổi mới
kinh tế đã từng bớc đổi mới hệ thống chính trị với trọng tâm nâng cao năng lực
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới đó, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn, hợp lý
quan điểm toàn diện, đặc biệt là quan điểm toàn diện trong đổi mới kinh tế
ở nớc ta hiện nay.
1
I. Một số vấn đề về quan điểm toàn diện
1. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến - cơ sở lí luận của quan điểm


toàn diện
a. Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thì mối liên hệ là phạm trù triết học
dùng để chỉ sự qui định, sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự
vật, của một hiện tợng trong thế giới.
b. Các tính chất của mối liên hệ
Tính khách quan: Mọi mối liên hệ của các sự vật hiện tợng là khách
quan, là vốn có của mọi sự vật hiện tợng. Ngay cả những vật vô tri vô giác cũng
đang ngày hàng ngày, hàng giờ chịu sự tác động của các sự vật hiện tợng khác
nhau (nh ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm ) tự nhiên, dù muốn hay không, cũng luôn
luôn bị tác động bởi các sự vật hiện tợng khác. Đó là tính khách quan của mối
liên hệ.
Ngoài ra, mối liên hệ vốn có tính phổ biến. Tính phổ biến của mối liên
hệ thể hiện:
Thứ nhất, bất cứ sự vật, hiện tợng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tợng
khác, không có sự vật hiện tợng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại ngày
nàykhông có một quốc gia nào không có quan hệ, liên hệ với các quốc gia khác
về mọi mặt của đời sống xã hội và ngay cả Việt Nam ta khi tham gia tích cực
vào các tổ chức nh ASEAN, hay sắp tói đây là WTO cũng không ngoài mục
đích là quan hệ, liên hệ, giao lu với nhiều nớc trên thế giới.
Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dới những hình thức riêng biệt cụ thể tuỳ
theo điều kiện nhất định. Song, dù dới hình thức nào chúng cũng chỉ là biểu
hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.
c. Cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện
Từ nghiên cứu quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến và
về sự phát triển rút ra phơng pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo hiện
thực. Đó chính là quan điểm toàn diện.
2
Vì bất cứ sự vật nào, hiện tợng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối
liên hệ rất đa dạng, phong phú, do đó khi nhận thức về sự vật hiện tợng ta phải

xem xét nó thông qua các mối liên hệ của nó với sự vật khác hay nói cách khác
chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật
hiện tợng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính qui
luật của chúng.
2. Nội dung của quan điểm toàn diện
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức sự vật trong mối liên hệ
qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật đó với
các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ
sở đó chúng ta mới có thể nhận thức đúng về sự vật.
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng
mối liên hệ, phải chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên
hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên để hiểu rõ bản chất của sự vật.
Quan điểm toàn diện không chỉ đòi hỏi chúng ta nắm bắt những cái hiện
đạng tồn tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hớng phát triển tơng lai của
chúng, phải thấy đợc những biến đổi đi lên cũng nh những biến đổi có tính chất
thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát những biến đổi để vạch ra khuynh h-
ớng biến đổi chính của sự vật.
3. Vai trò của quan điểm toàn diện trong hoạt động của con ngời
Nắm chắc quan điểm toàn diện xem xét sự vật hiện tợng từ nhiều khía
cạnh, từ mối liên hệ của nó với sự vật hiện tợng từ nhiều khía cạnh từ mối liên
hệ với sự vật hiện tợng khác sẽ giúp con ngời có nhận thức sâu sắc, toàn diện về
sự vật và hiện tợng đó tránh đợc quan điểm phiến diện về sự vật và hiện tợng
chúng ta nghiên cứu. Từ đó có thể kết luận về bản chất qui luật chung của
chúng để đề ra những biện pháp kế hoạch có phơng pháp tác động phù hợp
nhằm đem lại hiệu quả coa nhất cho hoạt động của bản thân. Tuy nhiên, trong
nhận thức và hành động chúng ta cần lu ý tới sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các
mối liên hệ trong điều kiện xác định.
3
II. Quan điểm toàn diện trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt
Nam hiện nay

1. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam những năm trớc đổi mới
Sau khi đất nớc đợc giải phóng (năm 1976) và đất nớc thống nhất năm
(1976). Mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở miền Bắc đợc áp dụng trên
phạm vi cả nớc. Mặc dù có nỗ lực rất lớn trong xây dựng và phát triển kinh tế,
Nhà nớc đã đầu t khá lớn nhng vì trong chính sách có nhiều điểm duy ý chí nên
trong 5 năm đầu (1976 - 1980) tốc độ tăng trởng kinh tế chậm chạp chỉ đạt
0,4%/năm (kế hoạch là 13 - 14%/năm) thậm chí có xu hớng giảm sút và rơi vào
khủng hoảng. Biểu hiện ở các mặt.
Kinh tế tăng trởng chậm, nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm
lần thứ hai và ba không đạt đợc. Tất cả 15 chỉ tiêu kế hoạch đặt ra cho năm
1976 - 1980 đều không đạt đợc, thậm chí tỉ lệ hoàn thành còn ở mức rất thấp.
Chỉ có 7 chỉ tiêu đạt 50 - 80% so với kế hoạch (điện, cơ khí, khai hoang, lơng
thực, chăn nuôi lợn, than, nhà ở) còn 8 chỉ tiêu khác chỉ đạt 25 - 48% (trồng
rừng, gỗ tròn, vải lụa, cá biẻn, giấy, xi măng, phân hoá học, thép).
Cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có của nền kinh tế Quốc dân còn yếu kém,
thiếu đồng bộ, cũ nát, trình độ nói chung còn lạc hậu (phổ biến là trình độ kỹ
thuật của những năm 1960 trở về trớc) lại chỉ phát huy đợc công suất ở mức
50% là phổ biến công nghiệp nặng còn xa mới đáp ứng đợc nhu cầu tối thiểu;
công nghiệp nhẹ bị phụ thuộc 70 - 80% nguyên liệu nhập khẩu. Do đó đa bộ
phận lao động vẫn là lao động thủ công, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ.
Phân công lao động xã hội kém phát triển, năng suất lao động xã hội rất thấp.
Cơ cấu kinh tế chậm thay đổi, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm
trọng. Sản xuất phát triển chậm, không tơng xứng vói sức lao động và vốn đầu t
bỏ ra. Sản xuất không đủ tiêu dùng, làm không đủ ăn, phải dựa vào nguồn bên
nogài ngày càng lớn. Toàn bộ qũy tích luỹ (rất nhỏ bé) và một phần quỹ tiêu
dùng phải dựa vào nguồn nớc ngoài (riêng lơng thực phải nhập 5,6 triệu tấn
trong thời gian 1976 - 1980. Năm 1985 nợ nớc ngoài lên tới 8,5 tỉ Rup - USD
cái hố ngăn cách giữa nhu cầuvà năng lực sản xuất ngày càng sâu.
4
Phân phối lu thông bị rối ren. Thị trờng tài chính, tiền tệ không ổn định.

Ngân sách Nhà nớc liên tục bị bội chi và ngày càng lớn năm 1980 là 18,1%,
1985 là 36,6% dẫn đến bội chi tiền mặt. Năm 1976, trên phạm vi cả nớc, lạm
phát đã xuất hiện và ngày càng nghiêm trọng giá cả tăng nhanh. Đời sống nhân
dân ngày càng khó khăn, do đó tiêu cực và bất công xã hội tăng lên. Trật tự xã
hội bị giảm sút. Những điều đó chứng tỏ trong giai đoạn này nớc ta bị khủng
hoảng kinh tế chính trị, xã hội.
Trớc tình hình đó, Đảng cộng sản Việt Nam đã khởi xớng lãnh đạo thực
hiện công cuộc đổi mới.
2. Nội dung của đổi mới
Tại Đại hội Đảng VI (tháng 12 / 1986) đã xem lại một cách căn bản về
vấn đề cải tạo XHCN và đa ra quan điểm về xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần và coi nó là nhiệm vụ cơ bản cho quá trình đổi mới toàn diện nền kinh tế.
Vậy nền kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN thực chất là nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc
theo định hớng XHCN.
2.1.Xây dựng nền kinh tế thị trờng là một tất yếu khách quan
Cơ sở khách quan cho sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trờng ở Việt
Nam, gồm 3 cơ sở chính:
Trong nền kinh tế nớc ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu đó là sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu t nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở
hữu t bản t nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập,
lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế hàng hoá giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng
quan hệ hàng hoá tiền tệ.
Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất
hàng hoá chẳng những không mất đi, mà trái lại còn đợc phát triển cả về chiều
rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phơng cũng
ngày càng phát triển sự phát triển của phân công lao động đợc thể hiện ở tính
phong phú, đa dạng và chất lợng ngày càng cao của sản phẩm đa ra trao đổi trên
thị trờng.
5

Quan hệ hàng hoá, tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại
đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc, vĩ mô n-
ớc là một quốc gia riêng biệt, là ngời chủ sở hữu đối với các hàng hoá đa ra tra
đổi trên thị trờng thế giới. Sự trao đổi ở đây phải theo nguyên tắc ngang giá.
Mặt khác xây dựng kinh tế thị trờng còn nhiều tác dụng to lớn đối với
nền kinh tế Việt Nam.
+ Nền kinh tế nớc ta khi bớc vào thời kì quá độ lên CNXH mang nặng
tính tự cung tự cấp, vì vậy sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế tự
nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hoá, thúc đẩy sự xã hội hoá sản xuất.
Kinh tế hàng hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển. Do cạnh
tranh giữa những ngời sản xuất hàng hoá, buộc mỗi chủ thể sản xuất phải cải
tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới để giảm chi phí nhờ đó có thể cạnh tranh
về giá cả. Quá trình đó thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất
lao động xã hội.
+ Kinh tế hàng hoá kích thích tính năng động sáng tạo của chủ thể kinh
tế kích thích việc nâng cao chất lợng, cải tiến mẫu mã cũng nh tăng khối lợng
hàng hoá và dịch vụ. Sự phát triển của kinh tế chuyên môn hoá sản xuất. Vì thế
phát huy đợc tiềm năng và lợi thế của từng vùng, cũng nh lợi thế của đất nớc có
tác dụng mở rộng quan hệ kinh tế với nớc ngoài.
+ Sự phát triển của kinh tế thị trờng sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập
trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xã hội hoá cao;
đồng thời chọn lọc đợc những ngời sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội
ngũ cán bộ quản lý có trình độ lao động lành nghề đáp ứng vào nhu cầu phát
triển của đất nớc.
Nói tóm lại, phát triển kinh tế thị trờng là một tất yếu kinh tế với nớc ta,
một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nớc ta thành
nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đ-
ờng đúng đắn để phát triển lực lợng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng
của đất nớc vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
6

2.2. Giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế thị trờng định hớng XHCN
ở Việt Nam
a. Thực hiện nhất quá chính sách kinh tế nhiều thành phần
Đại hội VI đã xem xét lại một cách căn bản vấn đề cải tạo XHCN và đa
ra quan điểm mới về nền kinh tế nhiều thành phần: "Đi đôi với việc phát triển
kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng cờng nguồn tích luỹ tập trung của Nhà
nớc và tranh thủ vốn nớc ngoài cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn
các thành phần kinh tế khác"
(1)
.
Quan điểm của Đảng về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần và xuất
phát từ thực trạng kinh tế nền kinh tế Việt Nam. Nó cho phép có nhiều hình
thức sản xuất kinh doanh theo qui mô thích hợp với từng khâu của quá trình tái
sản xuất và lu thông nhằm khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế.
Đảng coi đây là giải pháp có ý nghĩa chiến lợc để giải phóng sức sản xuất và
xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.
Đổi mới doanh nghiệp Nhà nớc
Là thành phần nắm giữ một khối lợng lớn tài sản cố định và vốn lu động,
với gần 3 triệu lao động tạo ra khoảng 35 - 40% tổng sản phẩm xã hội và đóng
góp trên 50% ngân sách Nhà nớc. Trong nhiều ngành công nghiệp, các xí
nghiệp quốc doanh chiếm khoảng từ 70 - 100% sản lợng. Tuy nhiên các xí
nghiệp quốc doanh gặp rất nhiều khó khăn, nhiều cơ sở kinh doanh yếu kém và
không có hiệu quả thua lỗ hoặc không có lãi. Vì vậy đổi mới các xí nghiệp quốc
doanh (sau này gọi là doanh nghiệp Nhà nớc) là một trong những nội dung quan
trọng trong quá trình đổi mới và đợc thực hiện từng bớc với các biện pháp:
+ Từng bớc mở rộng quyền tự chủ cho doanh nghiệp Nhà nớc đi đôi với
xoá bỏ chế độ Nhà nớc bao cấp tài chính, cung ứng và bao cấp giá vật t và định
giá đối với hầu hết các sản phẩm do DNNN sản xuất và tiêu thụ. Chế độ quốc
doanh cũng đợc bãi bỏ thay vào đó là chế độ thuế.
+ Sắp xếp lại DNNN theo hớng giải thể các doanh nghiệp hoạt động kém

hiệu quả, thua lỗ kéo dài, sát nhập các doanh nghiệp có liên quan với nhau về
công nghệ và thị trờng. Tổ chức lại công ty và các liên hiệp công nghiệp đợc
7

×