Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Rèn luyện tư duy phản biện trong dạy học văn nghị luận xã hội cho học sinh giỏi văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.45 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT CHUYÊN LAM SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

RÈN LUYỆN TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC
VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CHO HỌC SINH GIỎI VĂN

Người thực hiện: Trương Thị Giang
Chức vụ: Tổ trưởng chun mơn
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn

THANH HỐ NĂM 2019

1


MỤC LỤC
Trang
PHẦN I: MỞ ĐẦU .......................................................................................2
1.Lí do chọn đề tài……………………………………………………………2
2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………...3
3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………………..4
4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………4
PHẦN II: NỘI DUNG …………………………………………………… .5
1. Cơ sở lí luận………………………………………………………………..5
1.1. Nghị luận xã hội…………………………………………………………..5
1.2. Phản biện và tư duy phản biên………………………………………….....6
1.3. Tư duy phản biện trong văn nghị luận xã hội……………………………..6
2.Thực trạng rèn luyện tư duy phản biện cho học sinh ……………………7


2.1. Thực trạng dạy…………………………………………………………….7
2.2. Thực trạng học…………………………………………………………….7
3. Một số biện pháp rèn luyện tư duy phản biện trong dạy - học văn nghị
luận xã hội cho học sinh giỏi Văn…………………………………………....8
3.1. Tạo khơng khí dân chủ cho giờ học……………………………………...8
3.2. Sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học kích thích tư duy phản biện.9
3.3. Đổi mới hình thức kiểm tra đánh giá, ra đề theo hướng phát huy năng lực
phản biện của học sinh………………………………………………………....14
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường. …………………………………………...16
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ……………………………….......17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

……………………………….…19

DANH MỤC SKKN ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH XẾP LOẠI …………………..20

2


PHẦN I: MỞ ĐẦU.
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Từ yêu cầu của nền giáo dục hiện đại
TS. Hồ Thiệu Hùng trong một bài trả lời phỏng vấn đã cho rằng: “ Đổi
mới giáo dục thì phải đổi mới hoạt động dạy và học, muốn đổi mới hoạt động dạy
và học mà khơng khuyến khích tư duy phản biện, khơng rèn luyện năng lực phản
biện khoa học cho học sinh thì mất hẳn một nội dung cơ bản của đổi mới”. Có thể
nói xu thế tất yếu của GD là đào tạo những con người có khả năng nhạy bén, linh
hoạt ứng biến và thuyết phục người khác bằng khả năng tư duy và lập luận của

mình. Điều đó có nghĩa phản biện là năng lực quan trọng của mỗi con người, phát
huy khả năng phản biện của học sinh là một yếu tố thúc đẩy sự tiến bộ trong giáo
dục. Đây là một trong những mục tiêu giáo dục quan trọng của những nền giáo
dục tiên tiến, dân chủ trên thế giới và cũng là một trong những đích đến của giáo
dục nước ta hiện nay. Trong quy định về tiêu chuẩn đánh giá trường trung học cơ
sở, trường trung học phổ thơng và trường phổ thơng có nhiều cấp học do bộ
trưởng GD-ĐT ban hành kèm theo thông tư số 13/2012/TT- BGDĐT, ngày
06/4/2012, chương II, điều 7, mục 2c có nói: “Hướng dẫn học sinh học tập tích
cực, chủ động, sáng tạo và biết phản biện ”. Như vậy, với mỗi học sinh “biết phản
biện” chính là một trong những năng lực quan trọng hàng đầu.
2.2. Đến vai trò của tư duy phản biện trong đời sống và trong bài văn nghị luận
xã hội.
Tư duy phản biện có vai trò to lớn trong đời sống xã hội: giúp con người
vượt ra khỏi cách suy nghĩ theo khuôn mẫu, thói quen có sẵn; hướng đến cái mới,
thốt ra khỏi những rào cản của định kiến; tìm hiểu, phát hiện những ý tưởng, giá
trị mới của vấn đề; tạo tâm thế sẵn sàng tiếp nhận cái mới, cái tiến bộ trong suy
nghĩ và hành động; có ý thức nhìn nhận mọi vấn đề dưới góc nhìn mới, đưa lại kết
quả mới, kích thích khả năng sáng tạo.Tư duy phản biện giúp con người suy nghĩ
một vấn đề theo nhiều hướng khác nhau với những cách giải quyết khác nhau;
khắc phục tình trạng nhìn nhận vấn đề một chiều, phiến diện, chủ quan, duy ý chí;
suy nghĩ để giải quyết vấn đề theo hướng xem xét kỹ ở mọi góc độ, khía cạnh, đưa
3


ra nhiều phương án khác nhau và lựa chọn phương án tối ưu với những lập luận có
cơ sở vững chắc; ý thức rõ ràng hơn trong việc lắng nghe và tôn trọng ý kiến
người khác khi tranh luận; sẵn sàng chấp nhận sự thật khách quan, lắng nghe ý
kiến khác với ý kiến của mình và cố gắng tìm hiểu bản chất của vấn đề trước khi
đưa ra kết luận; dám thừa nhận cái chưa đúng, sẵn sàng thừa nhận cái đúng của
người khác và vì vậy, dễ dàng thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với mọi người.

Do đặc trưng của văn nghị luận là trình bày những quan điểm, nhận xét
đánh giá của người viết về một vấn đề nhằm thuyết phục người nghe, người đọc
hiểu và tin vào những ý kiến đó nên người viết trước hết phải có một quan điểm,
thái độ rõ ràng, đúng đắn và tự tin thể hiện nó. Tư duy phản biện giúp cho học sinh
trước hết thể hiện được năng lực tư duy độc lập, cá tính độc đáo với những góc
nhìn riêng từ đó tạo nên sức hấp dẫn trong bài viết. Có năng lực phản biện tốt, bài
văn nghị luận sẽ tỏa ra sức hút từ trí tuệ, tâm hồn và cá tính của chính người viết.
Một bài văn nghị luận xã hội có tư duy phản biện đòi hỏi độ sắc của lập luận, độ
sâu của luận điểm và độ rộng của luận chứng.
Việc đổi mới kiểm tra đánh giá năng lực học sinh giỏi văn những năm gần
đây cũng đang hướng tới phát triển tư duy phản biện của học sinh.
Trong kì thi học sinh giỏi quốc gia năm 2011, câu hỏi nghị luận xã hội đã
yêu cầu học sinh viết bài văn bình luận ý kiến của Fu- ku- za-waYu- ki- chi: “ Mọi
người sinh ra đều bình đẳng, nếu có khác biệt là do học vấn”. Hướng dẫn chấm
yêu cầu học sinh phải nhận thấy vấn đề được đặt ra trong đề bài mang tính đối
thoại, vì vậy cần có cái nhìn đa chiều, mang tính phản biện, cụ thể hơn hướng dẫn
chấm đã yêu cầu bài làm của học sinh cần trình bày được ý : Khơng nên tuyệt đối
hóa vai trị học vấn trong việc tạo lập vị thế xã hội của mỗi con người.
Còn ở đề thi học sinh giỏi quốc gia năm 2015, đề thi yêu cầu học sinh viết
bài văn trình bày suy nghĩ về ý kiến: Nếu khơng sống bằng cái đầu của mình thì
có thể bạn phải sống bằng cái đầu của người khác. Với vấn đề này, ngồi việc thể
hiện sự đồng tình với ý kiến học sinh cần huy động tư duy phản biện để thấy rằng
sống bằng cái đầu của mình khơng đồng nghĩ với lối sống khép kín, vị kỉ, tự cao tự
đại, cũng như sống bằng cái đầu của người khác hoàn toàn khác với thái độ học
hỏi, tiếp thu tinh hoa của người khác để làm giùa cho mình.
4


Như vậy qua khảo sát chúng tôi thấy, đề thi học sinh giỏi văn ở câu nghị
luận xã hội luôn yêu cầu học sinh phải có tư duy phản biện để bàn luận giải quyết

vấn đề một cách thấu đáo và sắc sảo nhất. Đây là một trong những tiêu chí quan
trọng đánh giá bài làm của học sinh cũng như khẳng định năng lực của một học
sinh giỏi văn. Rèn luyện tư duy phản biện, học sinh sẽ có khả năng tìm hiểu vấn
đề từ nhiều góc độ khác nhau. Nó giúp các em tránh được tình trạng đồng thuận
dễ dãi, hời hợt xuôi chiều trong bài viết. Từ đó học sinh mới có thể giải quyết vấn
đề một cách thấu đáo và thuyết phục, sắc sảo và sáng tạo. Tư duy phản biện cũng
sẽ giúp học sinh biết trình bày lập luận một cách thuyết phục và rõ ràng, logic và
chặt chẽ.
Vì những lí do trên, chúng tơi cho rằng việc hình thành và rèn luyện cho
học sinh tư duy phản biện trong dạy học văn nghị luận xã hội cho học sinh giỏi
văn là hết sức thiết thực và quan trọng .
2. Mục đích của đề tài
Đây không phải là vấn đề bây giờ mới được bàn đến. Song hi vọng với cái
nhìn và phạm vi ứng dụng cụ thể cho bài văn nghị luận xã hội, sáng kiến kinh
nghiệm sẽ giúp giáo viên và học sinh nhận thức được vai trò quan trọng của tư
duy phản biện, biết bộc lộ tư duy phản biện trong bài văn nghị luận xã hội, từ đó
phát huy được năng lực phản biện của học sinh nhằm đáp ứng những đòi hỏi thiết
thực của giáo dục hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu:Đối tượng nghiên cứu là đề văn và học sinh giỏi văn
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Chúng tôi đã nghiên cứu những tài liệu
giáo dục học, tâm lí học, triết học, lí luận văn học, tập làm văn, báo chí... để tổng
hợp từ lí thuyết đến các ví dụ minh họa trong bài.
Phương pháp thực nghiệm: Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu, áp dụng thử
nghiệm và kiểm tra kết quả trực tiếp ở lớp 10,11,12 chun Văn của trường. Từ đó
chúng tơi đi đến kết luận và đề ra những giải pháp được đề cập trong sáng kiến
kinh nghiệm.

5



PHẦN II: NỘI DUNG
1.Cơ sở lí luận
1.1. Nghị luận xã hội
Đến nay, khái niệm văn nghị luận xã hội đã trở nên rất quen thuộc với chúng
ta. Dưới đây là một số nhận định có uy tín về văn nghị luận xã hội:
Theo Bảo Quyến: Văn nghị luận là văn nghị luận về một vấn đề xã hội, bao
gồm những vấn đề thân thuộc mọi quan hệ, hoạt động của con người trong mọi lĩnh
vực đồi sống, xã hội như chính trị, kinh tế, giáo dục, mơi trường, dân số... [10]
Theo giáo sư Đỗ Ngọc Thống: Văn nghị luận xã hội là thể văn hướng tới phân
tích, bàn bạc về các vấn đề liên quan đến các mỗi quan hệ của con người trong đời
sống xã hội. Mục đích cuối cùng của nó là tạo ra những tác động tích cực đến con
người và những mối liên hệ giữa con người với con người trong xã hội. [4,5]
Theo nhà giáo Hoàng Dân: Nghị luận xã hội là một kiểu bài dùng lí lẽ và thực
tế để giải quyết một vấn đề đặt ra trong xã hội, từ những vấn đề trong cuộc sống
hàng ngày ở cộng đồng lớn nhỏ đến những vấn đề chính trị rộng lớn, từ những vấn
đề luân lí đạo đức cá nhân đến những vấn đề có tầm quan trọng về triết lí nhân sinh.
Đó là những vấn đề chính trị - xã hội có liên quan đến mỗi cá nhân, nó khiến mọi
người phải suy nghĩ và có trách nhiệm tham gia giải quyết bằng một phương thức
nào đó (nói, viết, hành động) để góp phần duy trì sự tồn tại của cộng đồng. [5,5]
Tựu trung lại, văn nghị luận xã hội là loại văn bản trong đó người viết, người
nói sử dụng lí luận với các luận điểm, luận chứng... để trình bày những quan điểm,
nhận xét đánh giá của mình về một vấn đề xã hội nhằm thuyết phục người nghe,
người đọc hiểu và tin vào những ý kiến đó.
Hiện nay, tiêu chí phân loại dạng bài nghị luận xã hội dựa vào nội dung đang
được sử dụng nhiều nhất. Theo tiêu chí này, có thể chia nghị luận xã hội thành 3 dạng
chính:Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí;Nghị luận về một hiện tượng đời sống;
Nghị luận về một vấn đề xã hội rút ra từ một tác phẩm văn học
Ngoài ra, cịn có dạng đề nghị luận về hai mặt đối lập, dạng đề mở… Dù thuộc
dạng nào, bài văn nghị luận xã hội cũng cần người viết có tư duy phản biện để tăng

chất văn và chiều sâu cho bài viết.
6


1.2 Phản biện và tư duy phản biện
Phản biện là huy động vốn tri thức, kinh nghiệm và năng lực lập luận, biện bác
của mình để chỉ ra những điểm đúng/sai, hợp lí/bất hợp lí, khả thi/ bất khả thi....của
đối tượng vấn đề được đưa ra. Mục đích của phản biện nói chung là mang lại nhận
thức đúng đắn, sâu sắc về đối tượng và từ đó có giải pháp phù hợp, hiệu quả tác động
lên đối tượng
Tư duy phản biện là một quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích đánh giá
một thơng tin đã có theo cách nhìn khác cho vấn đề đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng
định lại tính chính xác của vấn đề.
1.3. Tư duy phản biện trong văn nghị luận xã hội
Đối với văn nghị luận xã hội, tư duy phản biện vừa là cách thức tư duy, vừa là
cách sàng lọc, tự vệ về tư tưởng của người cầm bút trước các vấn đề xã hội. Sở dĩ nói
như vậy là bởi, tư duy phản biện đòi hỏi người viết phải trải qua q trình phân tích,
chứng minh, kiểm chứng, tổng hợp... một cách khoa học, logic từ đó đi đến kết luận,
phán đốn. Kết quả của q trình tư duy đó có thể đi ngược lại với quan điểm của số
đơng, thậm chí đi ngược lại với những chuẩn mực của một vài thời đại, giai đoạn
nhất định về các vấn đề xã hội. Nếu người viết đủ bản lĩnh, tự tin và kiến thức để bảo
vệ quan niệm, niềm tin của mình thì đã tạo ra cả một sự đổi thay về tư duy, nhận thức
cộng đồng. Nếu người viết không thể thuyết phục được người đọc, người nghe thì
cũng nhận ra điểm phản biện chưa thỏa đáng của mình. Từ đó, tư duy phản biện giúp
ta vượt qua niềm tin cũ (khi nó lạc hậu, lỗi thời) và xác lập niềm tin mới cho đúng
đắn, hoàn thiện nhận thức của bản thân.
Trong văn nghị luận xã hội, vấn đề đặt ra có thể khơng mới, nhưng đặt dưới
các góc nhìn khác nhau, nhất là trong một thời đại bùng nổ thông tin, khi học sinh
được tiếp cận với nhiều nguồn tin, nhận thức sớm phát triển, thì những bài viết có
tính phản biện vẫn có thể đem đến một kiến giải mới. Đó là lí do vì sao, nhiều khi bài

làm của các em còn sáng tạo hơn đáp án. Chất văn của bài nghị luận xã hội được tạo
nên từ nhiều yếu tố mà một trong những yếu tố đó chính là chất trí tuệ và tâm hồn
của người viết. Đây cũng chính là một yếu tố mà học sinh giỏi văn cần phải đáp ứng
được để tạo nên chất riêng.
2. Thực trạng rèn luyện tư duy phản biện cho học sinh
7


2.1. Thực trạng dạy
Bên cạnh những thuận lợi, giáo viên cũng gặp khơng ít khó khăn trong q
trình rèn luyện tư duy phản biện cho cho học sinh giỏi bởi những vấn đề sau:
Lối học thụ động truyền thống đã ăn sâu vào cách dạy học ở các nhà trường
THPT dù chuyên hay không chuyên bởi môi trường học ở Việt Nam còn nặng về áp
đặt kiến thức. Biểu hiện là giáo viên vẫn truyền thụ kiến thức một chiều, phương
pháp dạy học chủ yếu vẫn là thuyết giảng, các phương pháp, kĩ thuật dạy học khác
như: nêu vấn đề, thảo luận nhóm, khăn trải bàn,... mới chỉ mang tính hình thức.
Tương tác giữa giáo viên và học sinh trong giờ học tương đối ít, hầu như vẫn là hình
thức thầy tác động một chiều đến trò là chủ yếu.
Phương thức kiểm tra đánh giá của Việt Nam vẫn nặng về tái hiện kiến thức,
khía cạnh thể hiện năng lực – đặc biệt là năng lực tư duy đã được chú ý nhưng chưa
cao. Hình thức thi này được áp dụng cho nhiều thì ki quan trọng như thi học kì, thi
học sinh giỏi tỉnh, học sinh giỏi khu vực... Vì vậy, nhiều học sinh thi quốc gia dễ bị
hẫng khi quay trở lại làm bài thi THPT quốc gia.
2.2. Thực trạng học
Học sinh giỏi Văn đều có nhận thức tốt, cũng năng động, sáng tạo, dễ dàng
tiếp thu và thích nghi với cái mới đặc biệt là những đổi thay trong phương pháp dạy
học. Các em cũng có điều kiện tiếp cận kiến thức, quan niệm mới. Người học văn
vốn nhạy cảm và cũng rất sắc sảo, có những bạn thể hiện cá tính rất rõ rệt. Tất cả đều
in dấu trong khả năng tư duy và cái tôi của người viết.
Bên cạnh những thuận lợi, thực tế cũng tồn tại khơng ít khó khăn trong q

trình mài sắc tư duy phản biện cho học sinh giỏi Văn. Chẳng hạn như lối học thụ
động, tiếp nhận kiến thức một chiều từ các cấp học dưới đã ăn sâu, thành thói quen
trong học tập của nhiều em, khiến học sinh lười, ngại tư duy, động não thực sự.
Chính vì thế, trước nhiều vấn đề mới hay phức tạp, các em chưa chủ động đặt và tự
giải quyết vấn đề.
Nhiều học sinh tư duy phản biện khá tốt nhưng còn e dè, chưa mạnh dạn thể
hiện do còn thiếu tự tin. Cũng có học sinh, tư duy phản biện trước các vấn đề xã hội
rất chính xác nhưng lại thể hiện trong bài làm thiếu thuyết phục. Đó là do tính cách
rụt rè hoặc kĩ năng phản biện của các em còn chưa tốt.
8


Với sáng kiến kinh nghiệm này, chúng tôi mong muốn đóng góp một số giải
pháp đã tích lũy được trong thực tế dạy học để tận dụng những thuận lợi trong quá
trình dạy – học cũng như khắc phục những tồn tại để giúp các em phát triển năng lực
tư duy nói chung và đặc biệt là tư duy phản biện nói riêng.
II. Một số biện pháp rèn luyện tư duy phản biện trong dạy - học văn nghị luận
xã hội cho học sinh giỏi Văn.
1. Tạo khơng khí dân chủ cho giờ học
Người thầy đóng vai trị rất quan trọng trong việc tạo khơng khí dân chủ trong
giờ học – tạo điều kiện cho học sinh phát triển tư duy phản biện và dám bày tỏ một
cách tự tin.
Một giờ học thật sự hiện đại phải có những đối thoại sơi nổi trong một khơng
khí thực sự dân chủ. Khoảng cách thầy – trò được rút ngắn, quan hệ thầy – trò trở
nên thân thiện hơn bao giờ hết. Trong một mơi trường học tập như thế, HS hồn tồn
có đầy đủ tự tin để đưa ra những phản biện để tranh luận với bạn bè, thầy cô về một
nội dung nào đó. Và các em sẽ coi đó như là những hoạt động học tập tích cực, sáng
tạo.
Bằng cách nào có thể tạo được khơng khí đối thoại, tự do dân chủ? Có nhiều
cách và tùy theo từng đối tượng HS khác nhau:

Thứ nhất, tạo khơng khí học tập, kích thích tính tị mị, khả năng khám phá của
học sinh. Theo Xơcrát, chân lý khơng có kiểu ăn sẵn mà chân lý và tri thức phải tìm
tịi, phát hiện. “Làm cho người ta muốn biết, tranh luận, đối thoại, chân lý sẽ xuất
hiện”… Lý thuyết về tiếp nhận tác phẩm văn chương cũng đã mở ra nhiều hướng
phát triển cho giờ học đối thoại.
Thứ hai, hướng vào “phản ứng” của HS và phân loại những ý kiến của các em.
Chú ý tập hợp thành hai hay nhiều luồng ý kiến đối lập nhau. Đây chính là cơ sở
tuyệt vời để tạo đối thoại.
Thứ ba, khéo léo gợi mở, định hướng để các em có cái nhìn so sánh. Nêu ra lí
lẽ và dẫn chứng cần thiết để bảo vệ ý kiến của mình. GV cần tỏ ra khách quan, công
tâm trong phán xét vấn đề; phải hướng tới tính tối ưu trong giải quyết đối thoại.
Thứ tư, khơng nên dùng những “đòn phủ đầu” đối với những ý kiến chưa phù
hợp. Hãy tỏ ra trân trọng và lắng nghe, hãy để cho các em trình bày trọn vẹn ý kiến

9


của mình. Điều đó giúp các em hiểu rằng, mình đang được học trong một giờ học đầy
ắp tính dân chủ.
Biện pháp này có thể vận dụng với tất cả các đối tượng HS. Với những HS có
sự đam mê văn chương thì biện pháp này càng phát huy hiệu quả cao.
Dưới đây là một ví dụ nhỏ, tơi đưa ra vấn đề nghị luận: Có ý kiến cho rằng
“Từ thiện là phải thực hiện trong bóng tối”. Em có đồng ý với ý kiến trên không? Tại
sao?

Khi phát vấn, có học sinh đồng ý, có học sinh khơng, tơi liền chia lớp thành 2 nhóm theo 2 luồng ý

kiến rồi để các em tự tiến hành tranh luận, phản biện với nhau.

“TỪ THIỆN LÀ PHẢI THỰC HIỆN TRONG BÓNG TỐI”

Nhóm 1
Nhóm 2
(Đồng ý với ý kiến trên)
(Khơng đồng ý với ý kiến trên)
- Từ thiện là hành vi giúp người nhưng
không phải tất cả hành động giúp
người nào cũng được gọi là từ thiện.
Từ thiện thường phải đi chung với bất
vụ lợi (làm khơng vì lợi ích riêng) và
thiện nguyện (tự nguyện làm vì điều
tốt), bởi vậy nên từ thiện nên diễn ra
âm thầm, lặng lẽ, mình làm, mình biết,
vậy thôi.

- Từ thiện là một việc tốt, đã là việc tốt thì
nên có sự lan tỏa trong cộng đồng, như nhạc
sĩ Trịnh Công Sơn từng viết: “Sống trong
đời sống cần có một tấm lịng... để gió cuốn
đi”, nếu việc thiện cũng được lan tỏa như
“gió cuốn đi” thì lịng tốt mới được nhân
rộng cho cả cộng đồng. Bởi vậy các hoạt
động từ thiện nên công khai để tạo ra những

- Nhưng có rất nhiều hoạt động từ hiệu ứng nhân văn, tích cực, mạnh mẽ.
thiện cơng khai đã bị làm cho biến
tướng, mất đi ý nghĩa nhân văn thực
sự của nó, khiến người làm từ thiện và
người nhận từ thiện đều bị soi mói,
phán xét, đặt điều. Như việc Bác sĩ
Nguyễn Ngọc Chung – Phó Giám đốc

Bệnh viện Vị Xun, Hà Giang, người
đã mang hịm qun góp ra chợ để xin
10


từ thiện để mổ cứu hai bé song sinh
dính liền nhau ở Hà Giang, có những ý
kiến cho rằng bác sĩ “làm màu”, nhân
cơ hội quảng cáo bản thân, điều đó
ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhân
cách và nghĩa cử của bác sĩ; Ca sĩ
Thủy Tiên mang một số tiền lớn đi
ủng hộ đồng bào miền Trung nhưng vì
một bức ảnh chụp có phần nhăn nhó
trong buổi từ thiện mà bị quy chụp là
cách làm từ thiện “ban ơn, bố thí”
khiến cơ khủng hoảng.

- Khơng thể chỉ vì một vài hiện tượng tiêu
cực của một bộ phận xã hội có nhận thức
không đầy đủ mà cho rằng hoạt động từ
thiện cứ nên âm thầm, lặng lẽ. Trước những
dư luận xấu như thế, hoạt động từ thiện càng
phải công khai, càng nên diễn ra trong “ánh
sáng” – được nhiều người biết đến để chứng
minh giá trị thật sự. Trước những dư luận
không tốt của xã hội, chúng tôi chọn đối đầu
và thay đổi nó chứ khơng khuất phục và
thay đổi mình vì nó.


2.2. Sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học kích thích tư duy phản biện
Giống như kiểu người kể chuyện “biết tuốt” trong các tác phẩm tự sự truyền
thống, nền giáo dục ở các nước phương Đông đề cao thậm chí tuyệt đối hóa vai trị
của người thầy. Thầy là người truyền thụ tri thức và nắm giữ chân lí. Và dù có sử
dụng các phương pháp gợi mở, đàm thoại hay nêu vấn đề ...thì cuối cùng giáo viên
vẫn là người đưa ra kết luận hoặc đảm bảo cung cấp một đáp án đúng. Đây là một
“trở lực” hạn chế sự phát triển của tư duy phản biện và tư duy sáng tạo.
Để khuyến khích tư duy phản biện ở người học, cùng với việc thiết kế câu hỏi
mở, khơng có đáp án duy nhất và câu trả lời cuối cùng; tư duy của người thầy cũng
cần phải thay đổi. Giáo dục phản biện phải thực hiện trong mơi trường lớp học dân
chủ và có sự tương tác nhiều chiều, ở đó cả người dạy và người học đều khơng có
đáp án chính xác cho nội dung được học và thảo luận. Thay vì hướng dẫn HS các kĩ
thuật làm bài NLXH, hãy đánh thức sự tò mị, cách tìm hiểu, cách đặt câu hỏi và
11


phản bác một cách logic, khoa học ở người học. Một số kĩ thuật và phương pháp dạy
học hiện đại sau có thể hữu ích đối với việc rèn tư duy phản biện trong bài NLXH:
Kĩ thuật công não (brainstorming) có thể được sử dụng hiệu quả trong việc tìm
kiếm ý tưởng và xác định chủ đề cho những bài NLXH mở, chỉ nêu đề tài nghị luận.
Kĩ thuật công não do Alex Osborn (Hoa Kỳ) sáng tạo ra, nó hoạt động bằng cách nêu
ra tất cả các ý tưởng xung quanh một vấn đề, để từ đó rút ra được những giải pháp
khả thi nhất. Nguyên tắc cơ bản của kỹ thuật động não – brainstorming là: tự do suy
nghĩ, tôn trọng mọi ý tưởng đưa ra, kết nối các ý tưởng và quan tâm đến ý tưởng mới.
Ví dụ: tìm ý tưởng cho bài viết “Học để làm gì?”; HS tham gia thảo luận có thể bắt
đầu bằng những câu trả lời thông thường: học để mở mang hiểu biết, trau dồi tri thức;
học để thi đỗ đại học, có bằng cấp, có vị thế xã hội; học để có cơng việc ổn định, đảm
bảo cuộc sống sau này; học để có thể kiếm được nhiều tiền hơn...Khi các ý tưởng
quen thuộc, cũ mòn đã được ghi nhận, HS bắt đầu tìm kiếm các ý tưởng mới: học để
làm người, học để vươn tới các giá trị chân – thiện – mĩ của đời sống, học để tìm

kiếm chính mình, học để khẳng định bản thân...Khi các ý tưởng nảy sinh nhiều hơn,
lạ hơn; HS phân tích, đánh giá, kết hợp các ý tưởng và lựa chọn chủ đề cho bài viết
của mình; chẳng hạn: học để tìm kiếm chính mình,...Tương tự, có thể áp dụng kĩ
thuật cơng não cho các kiểu đề: Về một kĩ năng sống mà anh/chị cho là quan trọng
với người trẻ hiện nay; Hãy viết về một hiện tượng xã hội anh/chị cảm thấy nhức
nhối; Thông điệp mà anh chị nhận được từ một câu chuyện/ bài thơ...
Mơ hình tranh biện Karl Popper có thể được sử dụng để giúp người học rèn
luyện cách thức xây dựng lập luận trong bài NLXH. Mô hình Karl Popper là mơ hình
tranh biện hay được sử dụng tại các cuộc thi đấu tranh biện quốc tế. Sau khi chủ đề
nghị luận được nêu, HS chia làm hai đội: ủng hộ hoặc phản đối bằng cách đối đáp
trực tiếp. Các thành viên trong đội sẽ đưa ra lập luận luận bảo vệ quan điểm của mình
và đặt câu hỏi phản biện đối phương. Tham gia tranh biện HS được làm quen và thực
hành phương pháp xây dựng luận điểm dựa trên cấu trúc C-R-E (claim – reasoning –
evidences), mỗi luận điểm bao gồm một khẳng định và những luận cứ, bằng chứng
thuyết phục đi kèm. Ví dụ: Với chủ đề tranh biện – “Việt Nam nên giữ hay xóa bỏ án
tử hình?”: nhóm phản đối án tử hình có thể lập luận theo hướng: quyền sống là quyền
thiêng liêng bất khả xâm phạm của con người/ án tử hình cần được xóa bỏ để xây
12


dựng một xã hội văn minh/ những sai lầm, tội ác cần được sám hối và sửa chữa;
nhóm ủng hộ án tử hình có thể lập luận theo hướng: án tử hình dành cho những tội ác
dã man, cần loại bỏ khỏi đời sống xã hội/ khi xã hội chưa thực sự phát triển đạt đến
trình độ văn minh, án tử hình vẫn cần duy trì để răn đe, ngăn chặn tội ác/ những
người bị kết án tử hình là những người tự chối quyền sống của bản thân...Tương tự,
có thể áp dụng mơ hình này để xây dựng lập luận cho các dạng đề yêu cầu người viết
nêu quan điểm đồng tình/phản đối như: Đứng một mình, nên hay không nên?/ Áo dài
cách tân, thảm họa hay sáng tạo?/ Bạn có tin vào cổ tích?...
Phương pháp “Sáu chiếc mũ tư duy” (Six thinking hats) có thể được sử dụng
để giúp người học giải quyết vấn đề một cách thuyết phục nhất. “Sáu chiếc mũ tư

duy” là một công cụ trợ giúp tư duy được Edward de Bono giới thiệu để mỗi người
quan tâm đánh giá sự việc từ nhiều góc nhìn khác nhau và đưa ra quyết định. Sử
dụng phương pháp này, HS sẽ hiểu rõ hơn mọi khía cạnh của vấn đề, nhận thức vấn
đề một cách toàn diện, sâu sắc. Nguyên tắc: mỗi màu sắc của chiếc mũ tương ứng với
một phương thức tư duy. Khi đội “Mũ trắng”, bạn sẽ đánh giá vấn đề một cách khách
quan, dựa trên những dữ kiện có sẵn. Khi đội “Mũ đỏ”, bạn sẽ đánh giá vấn đề dựa
trên trực giác và cảm xúc. Khi đội “Mũ đen”, bạn cần đánh giá vấn đề theo góc nhìn
tiêu cực, cẩn trọng và e dè. Khi đội “Mũ vàng”, bạn sẽ suy nghĩ một cách tích cực.
“Mũ xanh lá” đại diện cho lối tư duy tự do và cởi mở để tìm ra những giải pháp sáng
tạo để giải quyết vấn đề. “Mũ xanh dương” dành cho nhóm trưởng, người điều khiển
và kiểm sốt thảo luận. Ví dụ: Với chủ đề thảo luận “Sống trung thực bạn được gì?”:
HS mang mũ trắng sẽ có cái nhìn khách quan: bạn được tin cậy, q mến song cũng
bị thiệt thịi vì thiếu linh hoạt, uyển chuyển; HS mang mũ đen có cái nhìn tiêu cực:
người trung thực thường cứng nhắc và hay bị lợi dụng; HS mang mũ vàng thể hiện
cái nhìn tích cực: người trung thực là người có tư cách đạo đức, họ có sức lan tỏa và
ảnh hưởng lớn với cộng đồng; HS mang mũ đỏ có cái nhìn trực quan: người trung
thực ở đâu cũng được đánh giá cao; HS mang mũ xanh lá có cái nhìn cởi mở: sống
trung thực bạn ln được là mình; cuối cùng HS mang mũ xanh dương sẽ tổng hợp
để xây dựng hệ thống luận điểm cho câu hỏi. Phương pháp này có thể áp dụng trong
các cuộc thảo luận nhóm để xây dựng dàn ý chi tiết cho bài NLXH.
13


Tóm lại, khi xã hội coi trọng năng lực hơn bằng cấp, mạng internet trở thành
cầu nối cho nhiều nguồn dữ liệu, khi kiến thức thay đổi nhanh chóng thì giáo dục
theo hướng truyền đạt không thể đáp ứng được nhu cầu của người học.Việc áp dụng
các phương pháp, kĩ thuật dạy học hiện đại giúp người dạy và người học cùng khai
phá kiến thức, xây dựng nguồn dữ liệu riêng cho mình; từ đó mài sắc tư duy phản
biện làm tiền đề cho tư duy sáng tạo.
2.3.Đổi mới hình thức kiểm tra đánh giá, ra đề theo hướng phát huy năng lực

phản biện của học sinH
Việc đổi mới hình thức kiểm tra đánh giá theo định hướng phát huy năng lực
học sinh không phải là một vấn đề mới song ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh đến
cách ra đề trong kiểu bài nghị luận xã hội để giúp học sinh rèn tư duy phản biện.
Theo quan điểm của người viết, dạng đề thích hợp nhất để rèn luyện tư duy phản
biện cho học sinh trong bài văn nghị luận xã hội là dạng ĐỀ MỞ và dạng đề BÌNH
LUẬN HAI Ý KIÊN về một vấn đề đặt ra trong đời sống xã hội. Với dạng đề này,
giáo viên có thể đánh giá được tư duy của một học sinh giỏi văn, đánh giá được sự
sáng tạo, sâu sắc của học sinh bởi dạng bài này đòi hỏi học sinh phải nắm được vấn
đề nghị luận một cách thấu đáo, phải biết cách tự xây dựng luận điểm, thậm chí tự
phản biện để tìm ý, lập luận và trình bày vấn đề một cách thuyết phục
 Những đề văn theo dạng ĐỀ MỞ :
Đề 1: Viết một văn với chủ đề ÁP LỰC CUỘC SỐNG
Đề 2: Anh/chị có suy nghĩ gì về SỰ KHOAN DUNG trong cuộc sống
Đề 3: Chúng ta có cần đến NGHỆ THUẬT GÂY THIỆN CẢM? Hãy viết một bài văn
trình bày suy nghĩ của bản thân.
Đề 4: Suy nghĩ về những VẾT SẸO của con người trong cuộc sống
Đề 5: Vào đại học có phải là con đường tiến thân duy nhất của tuổi trẻ?
Đề 6: BIẾT LẮNG NGHE – Điều kì diệu của cuộc sống
Ở dạng đề này, muốn triển khai được bài viết, học sinh cần nắm chắc được
khái niệm và vấn đề nghị luận, cần có kiến thức sâu rộng về vấn đề, từ đó tự mình
xây dựng luận điểm, sử dụng kết hợp các thao tác lập luận để triển khai luận điểm.
Đây là dạng đề giúp phát huy khả năng sáng tạo và rèn tư duy phản biện cho học sinh
một cách hiệu quả nhất.
14


 Những đề văn theo dạng BÌNH LUẬN HAI Ý KIẾN:
Đề 1: Cha ơng ta “Khơng thầy …” cịn nhà bác học Đacuyn lại tâm sự: “Tất cả
những gì có giá trị 1 chút tôi đều thu nhận lấy bằng con đường tự học”.

Đề 2: M.Gorki có câu: “Sách mở rộng trước mắt tôi những chân trời mới”. Cha ông
ta lại đúc kết một kinh nghiệm: “Đi một ngày đàng, học một sang khơn”. Anh/chị có
suy nghĩ gì về vấn đề trên/
Đề 3: Khi nói về quê hương, Đỗ Trung Quân cho rằng: “Quê hương mỗi người chỉ
một /Như là chỉ một mẹ thơi”. Cịn Chế Lan Viên lại khẳng định “Tình u làm đất
lạ hóa q hương”. Từ quan niệm về quê hương của hai nhà thơ, anh chị hãy bày tỏ
quan niệm của mình.
Đề 4: Có ý kiến cho rằng “Sống là khơng chờ đợi”. Nhưng cũng có ý kiến khác
khuyên con người nên sống chậm. Suy nghĩ của anh (chị) về vấn đề trên?
Đề 5: Có người cho rằng hạnh phúc của đời người là được làm cánh chim đại bàng
bay qua biển lớn. Lại có người khuyên ta nên gom góp niềm vui bé nhỏ hàng ngày để
có hạnh phúc. Cịn bạn thì sao? Bạn quan niệm thế nào về hạnh phúc?
Đề 6: Có ý kiến cho rằng: Khoan dung với người là điều cần thiết trong cuộc sống
để chúng ta sống nhân văn hơn. Lại có ý kiến cho rằng: Điều quan trọng trong cuộc
sống là phải biết khoan dung với những lỗi lầm của chính mình. Anh/chị có suy nghĩ
gì về hai ý kiến trên
Đề 7: “Dân tộc nhỏ cần có con dao lớn
Samin đã nói như vậy vào năm 1841
Dân tộc nhỏ cần có bạn bè lớn
Abutalip đã nói như vậy vào năm 1941”
Năm 2017, anh /chị sẽ nói: Dân tộc nhỏ cần gì?
Đề 8: Bàn về vết sẹo của con người trong cuộc sống, có ý kiến cho rằng: “Vết sẹo là
biểu tượng của những nỗi đau mà con người đã từng trải qua”.
Lại có ý kiến cho rằng: “Vết sẹo là minh chứng cho sức mạnh, bản lĩnh vượt
lên những nỗi đau của con người”.
Anh/chị có suy nghĩ gì về hai ý kiến trên
Đề 9:
Dân gian Việt Nam có câu:
15



Khơng có mợ thì chợ vẫn đơng
Mợ đi lấy chồng thì chợ vẫn vui
Nhà thơ Nga Evtushenkơ lại cho rằng:
Chẳng có ai tẻ nhạt mãi trên đời
Mỗi số phận chứa một phần lịch sử
Mỗi số phận riêng, dù rất nhỏ
Chẳng hành tinh nào sánh nổi được đâu
Anh/Chị suy nghĩ như thế nào về những quan niệm trên?
Ở dạng đề này, người ra đề đã đặt trước hai luận điểm có tính chất tương phản
nhau để học sinh bàn luận. Bản thân cách ra đề này đã tác động đến tư duy phản biện
của người học khiến các em nhìn nhận vấn đề theo hai hướng phân lập. Học sinh cần
đưa ra được những lập luận, lí lẽ, dẫn chứng để làm sáng tỏ từng luận điểm, sau đó
có thể trình bày suy nghĩ của bản thân theo hướng dung hòa hai ý kiến hoặc tự đề
xuất ý kiến mới, quan điểm khác miễn sao đó phải là những suy luận logic, thuyết
phục.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân,
đồng nghiệp và nhà trường.
Chúng tôi đã áp dụng những biện pháp này vào thực tế giảng dạy ở cho cả ba
lớp 10Văn, 11Văn, 12 Văn và bồi dưỡng 2 đội tuyển sự thi học sinh giỏi cấp tỉnh và
cấp quốc gia. Chúng tơi nhận thấy, những giải pháp này đã hình thành và kích hoạt ở
học sinh năng lực phản biện, góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng
bài viết nghị luận xã hội của học sinh. Điều này được thể hiện rõ trong kết quả thi
HSG của học sinh Lam Sơn trong năm học qua : đội tuyển tỉnh đạt 1 nhất, 2 nhì, 2
khuyến khích ; đội tuyển quốc gia đạt 4 nhì ,3 khuyến khích
Điều quan trọng hơn, những giải pháp mà chúng tôi đã áp dụng đã góp phần
quan trọng vào việc đào tạo con người mới: tồn diện, năng động, sáng tạo, có năng
lực phản biện.
Những kết quả bước đầu từ những lần thực nghiệm và những trải nghiệm cho thấy
những biện pháp này có thể vận dụng được, có tính khả thi cao.


16


PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Trong phạm vi một báo cáo sáng kiến kinh nghiệm, chúng tơi đã trình bày
được quan điểm của mình về tư duy phản biện, phân tích được vai trị của tư duy
phản biện trong mọi lĩnh vực của đời sống; chỉ ra tầm quan trong của tư duy phản
biện trong việc dạy văn – học văn – viết văn. Báo cáo tập trung làm nổi bật ý nghĩa
của việc rèn luyện tư duy phản biện trong bài văn nghị luận, hình thành cho học sinh
những phương pháp để rèn tư duy phản biện trong từng kiểu bài nghị luận xã hội.
Với những nội dung đã trình bày, chúng tơi hi vọng sẽ đóng góp một cái nhìn, một
quan điểm, một phương pháp tích cực để giúp học sinh rèn luyện tư duy phản biện,
đồng thời cũng góp phần định hướng cho giáo viên đổi phương pháp giảng dạy, đổi
mới hình thức kiểm tra đánh giá với kiểu bài nghị luận xã hội đáp ứng yêu cầu đổi
mới chung của ngành giáo dục.
2. Chuyên đề cũng đã cung cấp hệ thống đề cùng định hướng xứ lí đề giúp học
sinh rèn tư duy phản biện trong bài văn nghị luận. Chúng tôi đã vận dụng lí thuyết về
các phương pháp rèn luyện tư duy phản biện trong từng kiểu bài nghị luận xã hội để
định hướng, giúp học sinh các kĩ năng triển khai bài viết, từ đó cung cấp cho đề tài hệ
thống các bài viết học sinh vận dụng tư duy phản biện một cách hiệu quả.
3. Xa hơn, chúng tôi mong muốn, tư duy phản biện sẽ trở thành một thói quen tư
duy của các em trong ở tất cả các bộ môn và các lĩnh vực trong cuộc sống, là hành
17


trang để các em bước vào đời một cách tự tin và bản lĩnh. Chúng tơi rất mong khi có
điều kiện sẽ hồn thiện đề tài ở quy mơ cao hơn, chất lượng hơn. Chúng tơi cũng có
một vài đề xuất như sau :
- Cần mở rộng phạm vi đề tài, hướng tới mục đích rèn tư duy phản biện cho

học sinh trong các giờ dạy văn – học văn và viết bài văn nghị luận nói chung (bao
gồm cả bài văn nghị luận văn học).
- Cần rèn tư duy phản biện cho học sinh trong tất cả các môn học để học sinh
phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo trong việc tiếp thu tri thức và nghiên cứu
khoa học.
- Cần hướng tới một dự án tăng cường phát triển tư duy phản biện cho thế hệ
trẻ Việt Nam trong tất cả các cấp học, bậc học. Có như vậy chúng ta mới đào tạo
được những con người năng động, tích cực, sáng tạo, làm chủ được KHKT, biết nắm
bắt cơ hội, tự tạo ra cơ hội, khẳng định được bản thân và góp phần phát triển xã hội,
xây dựng đất nước.
XÁC NHẬN CỦA THỦ

Thanh Hoá, ngày 20 tháng 5 năm 2019

TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết khơng sao chép nội dung của người
khác.
Người viết

Trương Thị Giang

18


IV. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê A (Chủ biên), Thực hành Làm văn lớp 12, NXB Giáo dục Việt Nam, 2009.
2. Hoàng Thị Mai, Phương pháp dạy học văn nghị luận ở trường phổ thông, NXB
Giáo dục Việt Nam, 2009.

3. Nguyễn Đăng Mạnh (Chủ biên), Muốn viết được bài văn hay, NXB Giáo dục,
2001.
4. Nhiều tác giả, Những bài làm văn nghị luận xã hội chọn lọc, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2010.
5. Đỗ Ngọc Thống (Chủ biên), Dạy và học nghị luận xã hội, NXB Giáo dục Việt
Nam, 2010.
6. Đỗ Kiên Trung, “Về vai trò của tư duy phản biện và những yêu cầu cho việc giảng
dạy ở Việt Nam”, Tạp chí Phát triển và hội nhập (5), 2012.
7. Bùi Thế Nhưng, Phát huy khả năng phản biện của học sinh THPT trong dạy học
Văn, Sáng kiến kinh nghiệm
8. Nguyễn Thành Thi, Cần rèn luyện năng lực phản biện trong học tập cho học sinh,
sinh viên, Tạp chí khoa học văn hóa và du lịch, số 13, tháng 9 năm 2013.
9. Nguyễn Thị Tuyết Mai, Vai trò của tư duy phản biện trong đời sống,
/>10. Dạy trẻ em tư duy, Dự án Việt Bỉ lược dịch, Hà Nội, 1999
11.Bồi dưỡng và phát triển tư duy phản biện cho học sinh trong q trình dạy học,
Tạp chí Giáo dục, số 311, 6/2013

19


DANH MỤC SKKN ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NGHÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH XẾP LOẠI
Họ và tên tác giả: Trương Thị Giang
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường THPT Chuyên Lam Sơn
Kết
TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh


quả

Năm học

giá xếp loại

đánh

đánh giá

giá xếp

xếp loại

loại
1.

2.

3.

4.

Rèn luyện kĩ năng làm việc nhóm cho Ngành GD
học sinh thơng qua dạy đọc hiểu văn

cấp tỉnh

bản văn học

Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh

Ngành GD

thông qua dạy đọc hiểu văn bản học

cấp tỉnh

lớp 12
Rèn luyện thao tác so sánh cho học

Ngành GD

sinh khi đọc hiểu văn bản văn học ở

cấp tỉnh

SGK lớp 11, tập 2
Một vài kinh nghiệm về cách ra đề Ngành GD

B

2006-2007

B

2007-2008

B


2009-2010

B

2013-2014

B

2015-2016

nghị luận xã hội theo hướng mở cho cấp tỉnh
5.

học sinh giỏi văn
Rèn luyện kĩ năng viết bài văn nghị

Ngành GD

luận về vấn đề xã hội đặt ra trong

cấp tỉnh

tác phẩm văn học .

20



×