Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

SKKN Tích hợp rèn luyện cho học sinh kỹ năng tư duy phản biện khi dạy học Toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.29 KB, 27 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Tên đề tài :
TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN
TRONG DẠY HỌC TOÁN
I. Phần mở đầu:
1. Lý do chọn đề tài.
Khi dạy học tôi thường chú ý tìm tòi và tích lũy cho bản thân một hệ thống lí luận
về dạy học Toán nói chung, dạy tư duy nói riêng.
Tư duy là cần thiết trong đời sống và trong dạy học Toán, do đó tôi chú trọng dạy
học sinh kĩ năng tư duy. Có nhiều kĩ năng tư duy cần rèn luyện trong dạy học Toán
như tư duy sáng tạo, tư duy trừu tượng, tư duy phản biện… Đề tài này trình bày về
kinh nghiệm “Tích hợp rèn luyện cho học sinh kỹ năng tư duy phản biện khi dạy học
Toán”.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
Trình bày về kinh nghiệm dạy học kĩ năng tư duy phản biện trong dạy học Toán ở
trường Trung học cơ sở.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh các lớp Trung học cơ sở và việc rèn luyện tư duy phản biện.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Học sinh trường Trung học cơ sở Trưng Vương từ năm học 1988 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu:
a) Phương pháp nghiên cứu lí luận:
- Tự bồi dưỡng, tìm tòi đọc các tài liệu liên quan đến các hoạt động dạy học, trong
đó có việc dạy kĩ năng tư duy phản biện.
- Tổng hợp hệ thống lí luận mà bản thân tâm đắc.
b) Phương pháp quan sát, điều tra:
- Quan sát, điều tra học sinh bằng cách trò chuyện với học sinh. Đặt những câu hỏi
thăm dò:
“Trong lớp ta đã có khi nào bạn bè nảy ra tranh luận về một bài toán chưa?”
“Bài giải nào, kiến thức nào trên lớp học xong rồi mà còn khiến em muốn tìm hiểu
thêm không?”


“Khi muốn tìm hiểu thêm về một bài toán, nghi ngờ về một lời giải em đã làm
gì?”…
“Khi muốn bảo vệ ý kiến của mình em đã làm gì?”
“Có khi nào em nghĩ rằng tranh luận cũng phải có phương pháp không?”
- Dự giờ học hỏi đồng nghiệp.
c) Phương pháp thực nghiệm sư phạm, so sánh rút kinh nghi ệm:
- Áp dụng tích hợp dạy tư duy phản biện vào thực tế công việc dạy học.
- Từ những thành công, thất bại của bản thân và của đồng nghiệp tôi rút kinh
nghiệm và ghi chép lại.
SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 1


- Tự bản thân tìm nguyên nhân và chọn ra giải pháp phù hợp, sau đó thử nghiệm,
so sánh để rút kinh nghiệm và cải tiến hơn.
II. Phần nội dung:
1. Cơ sở lý luận:
Cấu trúc phần cơ sở lí luận được viết theo sơ đồ 1:

A. Tìm hiểu về khái niệm tư duy phản biện:
Tư duy phản biện là một quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích và đánh giá
một thông tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm làm sáng tỏ và
khẳng định lại tính chính xác của vấn đề.
Tư duy phản biện không chỉ đơn thuần là sự tiếp nhận và duy trì thông tin thụ
động. Có thể tóm tắt là quá trình tư duy tìm lập luận phản bác lại kết quả của một quá
trình tư duy khác để xác định lại tính chính xác của thông tin.
Dựa vào những nghiên cứu gần đây, các nhà giáo dục đã hoàn toàn tin tưởng rằng
trường học nên tập trung hơn vào việc dạy học sinh tư duy phản biện. (Wikipedia –
bản cũ nhất được đăng từ 10/8/2006 do thành viên Chi-betty đóng góp)

B. Các yêu cầu của một quá trình phản biện trong dạy học:
Yêu cầu 1: Phản biện (Critical thinking) không đơn thuần chỉ là nêu những ý kiến
“phản biện” trái chiều như tên gọi. Người ta phải quan sát, nêu quan điểm, bảo vệ quan
điểm bằng cách sử dụng bằng chứng phù hợp, lập luận phân tích, phân loại, so sánh,
tổng hợp, đánh giá, ra những quyết định, cuối cùng chỉ ra kết quả của quá trình tư duy.
Có thể thông qua sơ đồ 2 (sưu tầm) để thấy những kĩ năng liên quan đến một quá
trình phản biện:

SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 2


Điều cần trước tiên là hiểu rõ nội dung thông tin về điều gì, liên quan đến những
vấn đề gì, lĩnh vực nào.
Tiếp theo, dựa trên những cơ sở khoa học và lôgic, đặt ra các câu hỏi như: tại sao
lại khẳng định là A mà không phải là B, trong khi B cũng có các khả năng như A. Nếu
là B thì khi đó sẽ có kết quả là B1, kết quả này có giống kết quả A1 của khả năng A
không. Nếu có giống thì sẽ rút ra kết luận như thế nào, và nếu không giống thì lý do là
ở đâu...
Yêu cầu 2: Một quá trình tư duy phản biện được coi là tốt khi đạt được những tiêu chí:
rõ ràng, chính xác, thống nhất, ngắn gọn, có những giải thích và lý do phù hợp.
Có tư duy phản biện mới chỉ là cơ sở thứ nhất để có phản biện. Còn phản biện đạt
hiệu quả thuyết phục đến đâu chủ yếu là nhờ vào kỹ năng phản biện (critical thinking
skills), trong đó trọng tâm là kỹ năng lập luận phản biện.
C. Các thao tác của một quá trình phản biện trong dạy học: Trong dạy học tôi
thường hướng cho học sinh thực hiện rèn luyện ba thao tác sau đây khi phản biện:
1. Quan sát sự việc và nêu ý kiến.
2. Bảo vệ ý kiến bằng cách sử dụng những bằng chứng phù hợp, tạo mối liên hệ
giữa các ý, phân tích, tổng hợp, phân loại, so sánh, đánh giá…

3. Chỉ ra kết quả của quá trình tư duy.
D. Một số lưu ý trong quá trình phản biện:
1. Những điều không nên hiểu nhầm:
a. Tư duy phản biện không nên nhầm lẫn với tranh cãi hay phê phán, phủ định người
khác. Mặc dù các kỹ năng của tư duy phản biện có thể được sử dụng trong việc phơi
bày những ngụy biện và lý luận sai.
Tư duy phản biện không phải là việc đưa ra một nhận định cảm quan yêu cầu người
khác chấp nhận, mà là việc đưa ra một nhận định kèm theo lí lẽ và dẫn chứng.

SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 3


Ví dụ: Một học sinh làm bài trên bảng xong, giáo viên hỏi cả lớp: “bạn vừa làm bài
này đúng hay sai?” Em khác trả lời: “bạn làm sai rồi! Em có cách khác”. Sau đó giáo
viên cho em thứ hai giải cách khác lên bảng, rồi sửa cách thứ hai và khẳng định cách
thứ hai đúng, không có biện pháp chỉ ra cho học sinh thứ nhất biết đã sai chỗ nào, vì
sao sai…
b. Tư duy phản biện không chắc đã dẫn đến một kết luận chính xác mới, khác với kết
luận đang được phản biện, có thể khi kết thúc quá trình phản biện thì một lần nữa
khẳng định được tính chính xác của kết luận đầu tiên. Thứ nhất là vì không phải ai
cũng có thể có toàn bộ thông tin chính xác khi nêu quan điểm phản biện. Thứ hai là vì
trong bước nêu quan điểm phản biện vẫn có yếu tố cảm quan chi phối, do đó ở các
bước tiếp theo như phân tích, dẫn chứng, đánh giá, so sánh,… cần phải tôn trọng tính
chính xác của suy luận logic, của các căn cứ, bởi vậy kết quả của tư duy phản biện
không mang cảm tính chủ quan.
Mục đích của tư duy phản biện không phải để chứng tỏ là mình luôn luôn đúng mà
là để tìm ra kiến thức đúng. Tư duy phản biện thúc đẩy những tranh luận tích cực giúp
người tham gia phản biện có thêm kiến thức, hiểu sâu sắc kiến thức đó.

Tư duy phản biện không chỉ nhằm đến việc đạt được sự hiểu biết, mà còn là việc
vận dụng kiến thức để tạo ra những thay đổi tích cực trong hoạt động thực tiễn.
c. Một người với trí nhớ tốt và hiểu biết nhiều không có nghĩa giỏi tư duy phản biện.
Tư duy phản biện phải được rèn luyện mới có, người có tư duy phản biện có thể suy
luận những hệ quả từ những gì mình biết, biết cách sử dụng thông tin để giải quyết vấn
đề và tìm kiếm thêm các nguồn thông tin liên quan hữu ích.
2. Những điều cần lưu ý:
a. Tư duy phản biện là thoát khỏi lối mòn suy nghĩ, có nhiều vấn đề mà khi nhắc đến
người ta đều hiển nhiên cho nó là đúng mà không cần suy nghĩ nhiều. Tư duy phản
biện giúp tập thói quen chủ động xem xét lại vấn đề mà người khác hay nhiều người
đã chấp nhận. Những người có tư duy phản biện luôn tò mò và tìm kiếm “cái gì” và
“tại sao” đằng sau mỗi vấn đề. Thoát khỏi lối mòn suy nghĩ tức là đã làm chủ được suy
nghĩ của chính mình.
b. Rất cần lưu ý, hoạt động tư duy luôn có sự tác động của cảm xúc, thành kiến cá
nhân có thể ngăn chặn sự thành công của việc tập trung, phân tích, đánh giá và truyền
đạt thông tin. Do đó phải luôn biết đề cao giá trị công bằng, tôn trọng bằng chứng và
lý lẽ, sự rõ ràng chính xác, biết xem xét các quan điểm khác nhau, và sẽ thay đổi quan
điểm khi sự suy luận cho thấy phải làm như vậy. Sử dụng các bằng chứng một cách am
hiểu, không thiên lệch, không mang cảm tính chủ quan, nhìn thấy và phân biệt được
nét khác biệt trong sự tương đồng, không bị lầm lẫn bởi các dấu hiệu bề ngoài.
Hoạt động tư duy của con người luôn có sự tác động của cảm xúc. Cảm xúc là động
lực thúc đẩy hoặc kìm hãm hoạt động của tư duy. Mức độ ảnh hưởng của cảm xúc đến
tư duy rất lớn, từ những cảm xúc đơn giản đến tình cảm phức tạp. Về bản chất, cảm
xúc phát sinh ngoài ý thức nhưng nó lại định hướng cho hành vi của con người. Phần
lớn các suy nghĩ của chúng ta đều bị ảnh hưởng rất lớn từ cảm xúc. Ví dụ như khi
chúng ta đang ở trong một tập thể có không khí cởi mở, tôn trọng và tin cậy lẫn nhau,
có sự hiểu biết thì mọi người dễ chấp nhận ý kiến trái chiều từ người khác và sẵn sàng
tranh luận tìm ra giải pháp tốt nhất. Trong tâm trạng hết sức thoải mái, ta rất dễ chấp
nhận những yêu cầu của người khác, hoặc ra một quyết định nào đó rất dễ dàng.


SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 4


Nhưng có khi cùng một ý kiến hay yêu cầu đó, lúc chúng ta đang ở trong một tình
huống khó khăn, không thoải mái hoặc vì một cảm xúc nào đó hoàn toàn cá nhân (khó
chịu, ghen tỵ, đố kỵ, không ưa người đối thoại…) cũng cản trở đến việc chấp nhận ý
kiến người khác và ra quyết định hợp lý. Cần lưu ý một số vấn đề liên quan đến cảm
xúc con người như sau:
- Không phải ai cũng dễ dàng chấp nhận sự phản biện của người khác.
- Giữ được cảm xúc cân bằng để những suy nghĩ đảm bảo tính khách quan.
- Chọn lựa cách thể hiện ra bên ngoài để đón nhận sự phản biện từ người khác và xem
xét vấn đề từ góc nhìn của người khác.
- Kỹ năng để phản biện ý kiến người khác và nghe người khác phản biện ý kiến của
bản thân.
Chúng ta có thể nhận thấy ngay những cuộc tranh luận khiến mối quan hệ giữa hai
bên trở nên căng thẳng, thậm chí xảy ra cãi vã, tức giận và vấn đề cần tranh luận
không được giải quyết, nghĩa là cần có những kĩ năng khác hỗ trợ khi phản biện.
Người phản biện thiếu kỹ năng giao tiếp sẽ làm vấn đề trở lên phức tạp hơn dẫn đến
tranh cãi, làm mất lòng người nhận sự phản biện.
Vì vậy chúng ta thấy có tư duy phản biện không chưa đủ mà cần có kỹ năng quản
lý cảm xúc và kỹ năng giao tiếp trong tranh luận sao cho sự phản biện có hiệu quả cao
nhất. Các kỹ năng này hỗ trợ quá trình tư duy phản biện, giúp cho các tranh luận tránh
được hiện tượng tranh cãi khi các bên tham gia mất bình tĩnh. Hai kỹ năng này sẽ giúp
mọi người phát huy tốt nhất tư duy phản biện, giúp mọi việc được giải quyết theo cách
tốt nhất có thể một cách rõ ràng và hợp lý.
c. Để yếu tố cảm xúc trong tranh luận tác động tích cực tới chiều hướng tư duy chủ
đạo của các bên tranh luận, cần rèn luyện khả năng tự kiềm chế tình cảm, khả năng tư
duy tích cực, tìm ra được nhiều giải pháp để giải quyết công việc.

d. Tránh tính thiên vị, vì tính thiên vị là một đặc tính có trong tiềm thức của con người
mà không phải ai cũng dễ dàng nhận ra.Thay vì hỏi: "Điều này mâu thuẫn với điều mà
tôi tin tưởng như thế nào?" hãy hỏi rằng: "Điều này có nghĩa là gì?". Trong những
bước đầu tiên của việc thu thập và đánh giá thông tin, đừng đưa ngay ra một kết luận
bởi việc làm này sẽ đưa ra định hướng mang tính cảm nhận thay vì định hướng mang
tính phán xét, ngăn chặn việc phát triển cảm nhận thành sự phán xét. Nên nhận thức rõ
về khả năng mắc phải sai lầm của bản thân bằng cách:
Chấp nhận rằng tất cả mọi người đều có thành kiến nằm trong tiềm thức, và vì thế
rất dễ tấn công những phán xét chống lại mình.
Từ tốn lắng nghe ý kiến của người khác trước khi đưa ra quan điểm của mình.
e. Sử dụng những câu hỏi sau có thể giúp tăng thời gian trao đổi thông tin và có thêm
lượng thông tin
- Khi dùng từ hỏi, nên hỏi: ý em là…?
- Tại sao em lại đưa ra được kết luận đó?
- Tại sao em cho rằng mình đúng?
- Điều gì sẽ xảy ra nếu điều đó là sai?
- Tại sao điều này lại quan trọng như thế?
- Điều gì khác có thể giải thích cho trường hợp này?”
*
Những lí thuyết trên đây được tổng hợp từ nhiều nguồn và là hệ thống lí luận tôi
chọn làm cơ sở để vận dụng cho đề tài này.

SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 5


2. Thực trạng:
a. Thuận lợi- khó khăn:
* Thuận lợi:

- Dạy bộ môn Toán có nhiều cơ hội để vận dụng việc rèn luyện cho học sinh kĩ năng tư
duy phản biện.
- Việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào trong dạy học phổ thông ngày càng được
quan tâm, giáo viên an tâm hơn không e ngại sợ bị đánh giá làm linh tinh, làm quá tải
học sinh.
- Các phương tiện hỗ trợ người giáo viên nghiên cứu và dạy học ngày càng phong phú.
* Khó khăn:
- Chưa có sách hay tài liệu viết riêng cho giáo viên trung học cơ sở về tư duy phản
biện.
- Những công việc quy định chung về thủ tục hồ sơ của giáo viên quá nhiều, chi phối
công sức thời gian, làm cho giáo viên không có thời gian đầu tư cho những ý tưởng,
kinh nghiệm riêng nhưng sát với thực tế, hữu ích cho học sinh.
- Số lượng học sinh/lớp ở THCS khá đông, thường là 40-45 em, đối tượng học sinh
trong một lớp có trình độ nhận thức phân hóa nhiều cấp độ.
b. Thành công- hạn chế:
* Thành công:
- Khích lệ học sinh mạnh dạn thể hiện suy nghĩ của bản thân trong học tập.
- Bước đầu rèn cho học sinh thói quen nhìn nhận một vấn đề nhiều góc độ khác nhau.
- Học cách biết lắng nghe ý kiến người khác, kể cả những ý kiến trái chiều và trình bày
ý kiến của bản thân một cách logic và có căn cứ.
- Thông qua rèn luyện kĩ năng tư duy phản biện học sinh rèn các kĩ năng khác và
ngược lại.
* Hạn chế:
- Tốn nhiều thời gian, công sức.
- Quan niệm về dạy “cháy giáo án” làm giáo viên e ngại.
c. Mặt mạnh- mặt yếu:
* Mặt mạnh: So với các môn khác bộ môn Toán có số tiết trên tuần nhiều hơn, một
tuần giáo viên bộ môn Toán được làm việc với học sinh 4 tiết.
* Mặt yếu: Giáo viên cần thời gian đầu tư vào nghiên cứu và sáng tạo, nhưng thời gian
của họ lại ngày càng bị chi phối bởi nhiều công việc mới chồng chéo.

d. Nguyên nhân, một số yếu tố tác động, một số thực trạng tác động đến đề tài:
* Nguyên nhân:
- Nguyên nhân thành công phần nhiều là phụ thuộc vào khả năng sư phạm, phương
pháp và thái độ làm việc của giáo viên đứng lớp và thái độ học tập của học sinh.
- Nguyên nhân hạn chế xuất phát từ một số quan niệm cũ chưa phù hợp.

SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 6


* Một số yếu tố tác động làm giáo viên e ngại độc lập nghiên cứu, thử nghiệm, sáng
tạo:
- Chuẩn mực để đánh giá kết quả quá trình dạy và học bị nhiễu bởi dư luận xã hội,
bị nhiễu bởi một số “tiêu chuẩn” khác. Phương tiện thông tin mạng Internet phát triển,
người không có hiểu biết nhất định về giáo dục cũng có thể phê phán, phán xét giáo
viên và hoạt động giáo dục. Một số đông người với nhiều mức hiểu biết khác nhau
cũng có thể dễ dàng theo cảm tính, cùng nhau phê phán giáo viên và hoạt động giáo
dục. Giáo viên ngày càng dễ dàng bị làm cho tổn thương tinh thần và hình ảnh người
thầy. Lực lượng có trách nhiệm và hiểu biết về giáo dục, hiểu biết về xã hội hầu như
chưa có thiết thực khách quan để bảo vệ danh dự người thầy.
- Quan niệm trong phụ huynh và học sinh: “học Tốt đồng nghĩa với học Giỏi, học Giỏi
đồng nghĩa với điểm phải 9-10 và Giỏi đều các môn” ngày càng gây áp lực, làm lệch
lạc hướng phấn đấu của học sinh và phụ huynh.
- Quan niệm về đánh giá Giáo viên giỏi, đề cao quá mức một số tiêu chí đánh giá như
là giáo viên có Học sinh giỏi, hoặc/và có Sản phẩm dự thi đạt giải, hoặc/và có Hồ sơ
đúng yêu cầu, hoặc/và đạt Tỉ lệ % điểm tổng kết, đồng thời một số đóng góp có giá trị
của giáo viên cho hoạt động giáo dục lại chưa được nhìn nhận như giáo dục học sinh
cá biệt, học sinh yếu kém, dìu dắt tập thể lớp ổn định ngoan ngoãn, học tốt,… tác động
không ít và đa chiều đến hướng phấn đấu của giáo viên.

- Từ đó một số giáo viên đầu tư “nuôi gà nòi” nên cố tìm và giành học sinh đầu vào có
năng lực để bồi dưỡng, dồn thời gian và tâm trí cho việc soạn một sản phẩm dự thi đạt
giải rồi cất, giành thời gian nghiên cứu hồ sơ của giáo viên trường bạn làm hồ sơ của
mình cho “tốt hơn”,… hiệu quả của những thành tích được ghi nhận không thể hiện
trên kết quả về chất của tất cả học sinh đang được giáo viên nhận nhiệm vụ dìu dắt
trên con đường học vấn, học hành.
3. Giải pháp, biện pháp:
a.
Mục tiêu của giải pháp, biện pháp: vận dụng lí thuyết nêu trên để tích
hợp giáo dục kĩ năng tư duy phản biện vào dạy học Toán ở trường THCS, nhằm
giúp học sinh phát huy khả năng của mỗi cá nhân để học toán tốt hơn, có thêm kĩ
năng sống.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
Phần này được viết theo sơ đồ 3 (trang kế tiếp):
1 Giải pháp về thời gian:
Chia khoảng thời gian học cấp trung học cơ sở thành 2 giai đoạn:
* Giai đoạn 1: Khi học sinh bắt đầu vào lớp 6, thường thì các em có rất nhiều bỡ ngỡ,
giai đoạn này có thể là một học kì hoặc cả năm học lớp 6, việc đầu tiên là cần tập cho
các em:
- Biết mạnh dạn nêu ý kiến nhận xét trước một tình huống trong học tập.
- Biết lắng nghe ý kiến của bạn và của thầy cô giáo.
- Tập cách trả lời câu hỏi của thầy cô hoặc của bạn và biết đưa ra một vài dẫn chứng có
cơ sở để minh họa cho câu trả lời của mình.
- Tập cách công nhận ý kiến của người khác.
- Bước đầu hiểu được thế nào là phản biện.

SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 7



* Giai đoạn 2: Ngoài những mục tiêu như giai đoạn 1, cần tập thêm cho các em thói
quen:
- Biết tự đặt câu hỏi: Tại sao lại như thế? Nếu thế này, thế kia thì sẽ xảy ra điều gì? …
- Tập tự xem xét lại vấn đề mà người khác hay nhiều người đã chấp nhận.
- Tập tự nêu một phán đoán của bản thân trước 1 tình huống, giải thích được vì sao lại
có phán đoán đó, tập trình bày đoạn lập luận dài hơn, có một số phân tích, suy luận, so
sánh, đánh giá có cơ sở để dẫn đến một kết luận đúng.
- Có ý thức (hơn giai đoạn 1) về việc rèn tư duy phản biện, chủ động tự nêu lên ý kiến
phản biện nếu phát hiện ra tình huống, bảo vệ được ý kiến, chỉ ra được kết quả tư duy.

2 Giải pháp về công việc:
Tạo tình huống phản biện, tổ chức phản biện phù hợp với từng lứa tuổi và
chương trình sách giáo khoa môn Toán Trung học cơ sở:
Phần này tôi trình bày một số ví dụ trong dạy học Đại số từ lớp 6 đến lớp 9, mỗi ví
dụ trình bày thành 3 ý:
- Phân tích lí do chọn tình huống.
- Các hoạt động cụ thể thực hiện dạy học Toán bằng việc đưa ra tình huống và tổ
chức phản biện.
- Kinh nghiệm rút ra từ tình huống.
Giáo viên cần chuẩn bị trước các tình huống phản biện hoặc có thể nhạy bén sử dụng
các tình huống phát sinh trong tiết dạy. Sau đây là một số ví dụ.
- Tình huống 1: Toán 6 - Bài tập 44-b và g trang 24-SGK tập 1:
Tìm các số tự nhiên x biết: b) 1428 : x = 14
g)
0:x=0
Phân tích lí do chọn tình huống 1: Hầu hết học sinh lớp 6 giải được bài b), thường
thì các em trình bày như sau:
Ta có 1428 : x = 14
Suy ra: x = 1428 : 14

Vậy: x = 102
SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 8


Về bài tập g) khi được yêu cầu giải, thường thì có em lúng túng, có em đưa ra lời
giải tương tự bài b) như sau: Ta có 0 : x = 0, suy ra x = 0 : 0 = 1. Vậy: x = 1. Có em
giải: “Vì 0 chia cho mọi số tự nhiên khác 0 đều bằng 0 nên x là mọi số tự nhiên khác
0”… Có thể chia một cách tương đối thành ba nhóm sau:
Nhóm thứ nhất: những em làm được bài b) mà lúng túng khi làm bài g) thường là
những em có nhận ra không thể làm phép tính x = 0 : 0, do đó chưa biết nên lí luận,
xử lí ra sao để có lời giải.
Nhóm thứ hai: những em giải bài g) như bài b), đó là một thể hiện kiến thức không
chắc, rập khuôn trong xử lí tình huống.
Nhóm thứ ba: là những em đưa ra lời giải thứ 2, hơn những em nhóm thứ nhất là
biết tìm ra một hướng xử lí nhờ việc đã “nhìn thấy và phân biệt được nét khác biệt
trong sự tương đồng, không bị lầm lẫn bởi các dấu hiệu bề ngoài”. Bài g) cũng là bài
toán tìm x đóng vai trò số chia, nhưng không áp dụng được quy tắc: “tìm số chia ta lấy
số bị chia chia cho thương”, tự biết tìm ra được giải pháp: “dùng kiến thức phù hợp để
giải bài toán”.
Vì vậy tôi sử dụng bài tập này để có một tình huống tích hợp dạy các em tư duy
phản biện xử lí tình huống gặp phải bằng cách nhìn bài toán dưới góc độ khác để tìm
lời giải, biện pháp tôi chọn là tổ chức một “cuộc phản biện” ở thời điểm như sau:
- Thực hiện trong mục 2 của bài Phép chia hết và phép chia có dư, sau khi dạy xong
khái niệm phép chia hết, nhắc lại xong quan hệ của các số trong phép chia hết (Xem
sách giáo viên trang 41, 42 xuất bản năm 2002) và trước khi làm ?2 của bài Phép trừ
và phép chia
- Các hoạt động lên lớp giải quyết tình huống 1 bằng tư duy phản biện:
Hoạt động của GV

Hoạt động của HS
Nội dung
Bước quan sát và tập trả
lời có dẫn chứng
Yêu cầu 1 học sinh lên
1 HS lên bảng trình bày bài Bài tập 44b, g) trang 24
bảng làm bài tập 44b) trang giải
SGK. Tìm các số tự nhiên
24 SGK.
x biết:
b) 1428 : x = 14
? Nêu nhận xét về bài làm Bạn làm đúng. (HS Giải:
của bạn.
thường trả lời ngắn gọn b) Ta có: 1428 : x = 14
? Vì sao em thấy đúng?
như vậy)
suy ra x = 1428 : 14 = 102
- HS cần nêu được: Em Vậy: x = 102
thấy bạn làm đúng vì:
.Vận dụng quy tắc đúng
(nêu quy tắc)
.Trình bày lời giải đúng,
.Tính toán và kết luận kết
quả đúng.
Bước học sinh quan sát để
chuẩn bị nêu ý kiến trong
Yêu cầu học sinh làm bài
phản biện,
44g) ra nháp, GV đi quan HS làm ra nháp, thao tác Bài tập 44g) trang 24
sát và thu khoảng 6 bản này nhằm để HS có thời SGK. Tìm các số tự nhiên

nháp để nhận xét
gian độc lập suy nghĩ.
x biết:
SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 9


g)
Giáo viên đưa ra bài tập
tình huống phản biện (xem
cột 3)

? Em hãy nêu nhận xét bài
giải của Bình
? Ai có ý kiến khác
? Ai đồng ý với ý kiến 1, (ý
kiến 2, ý kiến 3)

Giáo viên đặt câu hỏi riêng
giành cho từng ý kiến, tôi
sắp xếp theo thứ tự câu nên
hỏi trước hay sau
Giành cho Ý kiến 3:
? Nếu đây là lời giải đúng
thì có bước nào trong lời
giải mâu thuẫn với kiến
thức đã học trước đây
không?
Giành cho Ý kiến 2:

? Chỉ ra một đáp số khác
? Nêu cách lí luận để tìm ra
đáp số đó

Một số nhận xét của học
sinh, tôi sắp xếp thứ tự
theo mức độ phổ biến của
câu trả lời trong các năm
học mà tôi dạy:
- Ý kiến 1: Bình giải sai, vì
trong các bước lập luận có
bước thực hiện phép toán 0
: 0 = 1 là sai.
- Ý kiến 2: Bình chưa tìm
hết các đáp số.
- Ý kiến 3: Bình áp dụng
quy tắc đúng (tìm số chia
trong phép chia ta lấy số bị
chia chia cho thương), thử
lại với giá trị x tìm được
đúng. Vậy lời giải đúng.

0:x=0

Bài tập tình huống phản
biện: “Bạn Bình giải bài
44g như sau: Ta có 0 : x =
0, vì x là số chia, muốn tìm
số chia ta lấy số bị chia
chia cho thương, tức là:

x=0:0=1
Thử lại 0 : 1 = 0, thỏa
mãn.
Vậy x = 1 là giá trị cần
tìm”
Em hãy nêu nhận xét về
lời giải trên?
Đây là bước cho học sinh
nêu quan điểm, giáo viên
quan sát và lắng nghe,
phân loại chuẩn bị đặt câu
hỏi

Bước bảo vệ quan điểm:
Thường thì có HS trả lời
được câu này ngay. Kể cả
em đã có ý kiến 3 cũng có
thể thay đổi suy nghĩ và
thấy ra Bình giải sai ở chỗ
đặt phép chia cho 0, mâu
thuẫn với khái niệm phép
chia đã học
-Thường thì HS chỉ ra
được giá trị x cụ thể khác
thỏa bài toán.
-Còn việc chỉ ra cách lí

Học sinh học được cách
liên hệ vấn đề đang xét với
kiến thức đã học để đánh

giá, đưa ra nhận xét, kiểm
tra lời giải…
Học sinh học được cách
bảo vệ quan điểm phải có
minh chứng

SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 10


luận để tìm ra đáp số học
sinh thường nêu luôn
khẳng định sau: “Vì 0 chia
cho mọi số khác 0 đều
bằng 0, nên x là số tự nhiên
bất kì khác 0”, trong khi đó
sau bài này mới nên suy ra
khẳng định trên.
? Giành cho Ý kiến 1: Cả
HS so sánh và phân tích sự
hai bài b và g đều là bài
giống và khác của 2 đề
toán tìm số chia x của phép toán:
chia, khi biết số bị chia và - Giống nhau: bài toán tìm
thương, cũng cùng một
x là số chia của phép chia,
cách lí luận, nhưng tại sao biết số bị chia và thương
bài b) được kết quả là
- Khác nhau: ở bài b) số bị

đúng; kết quả bài g) lại
chia và thương khác 0.
chưa đúng
ở bài g) số bị chia và
thương đều bằng 0.
Do vậy áp dụng cách lập
luận của bài b) cho bài g)
bị “vướng” phải phép chia
cho 0 việc tìm x không
thực hiện được
? Dùng khái niệm phép
Thay cho việc giải bài toán Tập chuyển vấn đề để xem
chia hết, em hãy phát biểu “Tìm các số tự nhiên x xét tình huống dưới góc độ
đề toán g) một cách khác
biết: 0 : x = 0” ta giải bài khác một cách hợp lí
toán: “Tìm số tự nhiên x ≠
0, sao cho 0.x = 0
? Khi đó bài g) giải như thế
Đây là bước học sinh đưa
nào
ra quyết định và chỉ ra kết
Giáo viên chốt lại lời giải
quả của quá trình tư duy
(chiếu bài giải g và b hoặc 1 em lên bảng trình bày
phản biện
dùng phấn màu)
44g)
Ta có 0 : x = 0, vì x là số
chia nên x ≠ 0 (1)
Mặt khác: 0 : x = 0 khi 0.x

=0
Theo kiến thức về phép
nhân, ta có: 0.x = 0 khi x là
một số tự nhiên tùy ý (2)
Từ (1) và (2) suy ra x là
một số tự nhiên khác 0.
44b) Bài 44b ta đã ngầm
hiểu với x ≠ 0, ta có:
1428 : x = 14
suy ra x = 1428 : 14 = 102
SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 11


Sau bài này ta rút ra nhận
xét gì?

HS nhận xét

? Sau bài này em rút ra
được kinh nghiệm gì khi
giải toán

Có khi cần dùng kiến thức
đã học phát biểu đề toán
bằng cách khác mà không
thay đổi ý nghĩa của bài
toán sẽ tìm được cách giải
Phần này tôi không trình

bày trong khuôn khổ đề tài
này

thỏa mãn x ≠ 0 .
Vậy: x = 102
Nhận xét: 0 chia cho mọi
số tự nhiên khác 0 đều
bằng 0.

Tình huống trên thực hiện
xong
giáo viên cho học sinh vận
dụng làm ?2
Kinh nghiệm từ tình huống 1:
Nếu bài tập dễ nhận xét như bài 44b) ta có thể hỏi:“Lời giải này đúng hay sai? Vì
sao?” Hoặc: “Em hãy nêu nhận xét về lời giải của bạn?” đều được. Nhưng với việc
nhận xét bài hơi khó hơn, giữa hai câu hỏi trên thì câu thứ hai là câu hỏi “mở”, việc
thoải mái chọn cách nhận xét sẽ khuyến khích học sinh mạnh dạn nêu lên suy nghĩ mà
không e ngại vì sợ chọn đáp án sai. Một lợi ích nữa là học sinh phải động não hơn vì
phải tự chọn hướng suy nghĩ để đưa ra được nhận xét, câu trả lời không yêu cầu bó
hẹp một trong hai đáp án đúng hoặc sai, bên cạnh đó giáo viên sẽ thu thập được nhiều
thông tin từ học sinh hơn.
Việc tổ chức một cuộc phản biện chớp nhoáng từ tình huống soạn sẵn hay tình
huống bất ngờ có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào sự nhạy bén của giáo
viên trước các câu trả lời của học sinh, để đưa ra câu hỏi dẫn dắt phù hợp.
- Tình huống 2: Toán 6 - Bài tập 56-c/ trang 27-SGK tập 1:
Viết gọn tích sau 2.2.2.3.3 bằng cách dùng lũy thừa.
- Phân tích lí do chọn tình huống 2: Thông thường các em có lời giải: 2.2.2.3.3 =
23.32, sách giáo viên cũng đưa ra đáp án như vậy, ta chọn làm một tình huống tập cho
học sinh lớp 6 có tư duy phản biện, giúp tập thói quen chủ động xem xét lại vấn đề mà

người khác hay nhiều người đã chấp nhận, luôn tò mò và tìm kiếm “cái gì” và “tại sao”
đằng sau mỗi vấn đề. Thoát khỏi lối mòn suy nghĩ, làm chủ được suy nghĩ của chính
mình, dám nói lên quan điểm khác chiều của mình trước một tình huống cụ thể.
- Các hoạt động lên lớp giải quyết tình huống 2 bằng tư duy phản biện:
Hoạt động của GV
Hoạt động của HS
Nội dung
Yêu cầu 1 học sinh lên
Bước học sinh quan sát
bảng làm bài tập 56c/ trang Thường thì học sinh giải:
Bài tập 56c/ trang 273 2
27 SGK Toán tập 1.
2.2.2.3.3 = 2 .3
SGK Toán 6 tập 1: Viết
gọn tích sau 2.2.2.3.3
bằng cách dùng lũy thừa.
? Em có ý kiến gì về lời
Bước học sinh nêu quan
giải của bạn?
-Bạn làm gọn hơn đề ra, điểm
nhưng chưa gọn nhất.
? Có em nào có kết quả -Em gọn hơn vì dùng 3 chữ Bước học sinh bảo vệ
khác
số và 2 phép tính:
quan điểm bằng đánh giá,
SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 12



2.2.2.3.3 = (2.3).(2.3).2 = phân tích, nêu kết quả
62.2;
- Em gọn hơn vì dùng 2
chữ số và chỉ một phép lũy
thừa:
2.2.2.3.3 = 72
….
? Hãy bình chọn kết quả học sinh sẽ chọn kết quả 72
gọn nhất
? Em hãy viết gọn tích sau 10.10.10......10
1 44 2 4 43
10.10.10......10
1 44 2 4 43

9 thua so

= 10

9

bằng
cách
dùng lũy thừa.
? Sau bài tập này em rút ra với bài này tôi đã thu được
kinh nghiệm gì
rất nhiều phát biểu về kinh
Giáo viên khoan nhận xét nghiệm học sinh nghĩ ra.
kinh nghiệm nào là hay,
cho các em về nhà bàn cãi,
bữa sau chốt lại.

Kinh nghiệm từ tình huống 2:
- Sau mỗi bài toán cần khuyến khích học sinh nhận xét, giáo viên lắng nghe các em, có
những suy nghĩ trong học sinh mà giáo viên chưa biết hết, rõ ràng giáo viên không nên
bỏ qua cái lí của các học sinh. Mỗi quan điểm được đưa ra khác bạn bè, yêu cầu các
em đều có phân tích, so sánh, minh chứng và nêu kết quả của mình.
- Mỗi phát hiện của học sinh mà lại được giáo viên hướng dẫn tự bảo vệ ý kiến của
bản thân đã nêu sẽ khích lệ học sinh tích cực trong tư duy. Những ý kiến được giáo
viên hướng dẫn phản biện để tự thấy sai, giúp học sinh hình thành kĩ năng tự kiểm tra
đánh giá suy nghĩ của bản thân.
- Sau khi tổ chức xong một cuộc phản biện cần có lời khen ngắn gọn, khích lệ học sinh
nào cần khen. Khi thuận lợi nên cho các em biết các em đã hoàn thành một quá trình
phản biện: nêu ý kiến, bảo vệ ý kiến, chỉ ra kết quả.
- Cần kịp thời phát hiện tình huống phản biện để có hệ thống câu hỏi dẫn dắt các em tư
duy phản biện.
- Tình huống 3: Toán 7 - Bài tập 1/ trang 76-SGK tập 1:
a) Khi nào thì hai đại lượng y và x tỉ lệ thuận với nhau? Cho ví dụ?
b) Khi nào thì hai đại lượng y và x tỉ lệ nghịch với nhau? Cho ví dụ?
Phân tích lí do chọn tình huống 3: Cuối mỗi chương việc củng cố, hệ thống và
khắc sâu kiến thức trong chương luôn cần thiết, cách tổ chức tình huống phản biện để
khắc sâu một khái niệm cũng là một biện pháp hữu hiệu. Ngoài ý nghĩa chung vừa nêu
cho việc ôn tập, riêng khái niệm hai đại lượng tỉ lệ thuận (nghịch) thường bị học sinh
hiểu nhầm lẫn, để làm rõ hơn, khắc sâu hơn tôi thực hiện như sau: (từ tình huống 3 đến
tình huống 5 tôi không ghi tên các bước phản biện nữa)
9 thua so

SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 13



- Các hoạt động lên lớp giải quyết tình huống 3 bằng tư duy phản biện:
Hoạt động của GV
Hoạt động của HS
Nội dung
Giao bài tập về nhà từ
học sinh chuẩn bị bài ở
tiết trước trong đó có ôn nhà
tập trả lời câu hỏi lí
thuyết và làm bài tập
trang 76-77 SGK
HS1: ? Khi nào thì hai 1 em lên bảng trả lời
Hai đại lượng y và x tỉ lệ
đại lượng y và x tỉ lệ học sinh cho ví dụ
nghịch với nhau khi đại lượng
nghịch với nhau? Cho ví
y liên hệ với đại lượng x theo
dụ?
công thức xy = a, với a là hằng
số khác 0.
HS2: Viết các tính chất 1 Học sinh viết tính chất. Tính chất: (trang 58 SGK)
của hai đại lương tỉ lệ
nghịch.
Thường có hai trường Bạn An giải bài toán: “Cho
Sau đó làm bài tập sau: hợp xảy ra khi học sinh biết 12 công nhân hoàn thành
giáo viên chiếu nội dung nhận xét:
một lô hàng trong 10 ngày, hỏi
trên màn hình. (xem cột 1) Cuối chương học sinh 20 công nhân hoàn thành lô
3)
quên kiến thức hoặc hời hàng đó trong bao lâu?” như
Em hãy đưa ra nhận xét hợt sẽ nhận xét bạn làm sau:

cho bài giải của bạn?
đúng, vì:
Giả sử thời gian cần tìm là x
- Nói hai đại lượng tỉ lệ ngày. Vì số công nhân càng
nghịch là đúng.
tăng thì thời gian hoàn thành
- Vận dụng tính chất càng giảm suy ra số công
đúng.
nhân và thời gian là hai đại
- Tính kết quả và kết luận lượng tỉ lệ nghịch. Do đó ta
đúng.
có:
2) Trong lớp có học sinh
12.10 = 20x
10.12
phát hiện ra lời giải có
�x
chỗ lập luận chưa chính
20 = 6
xác.
Vậy 20 công nhân hoàn thành
lô hàng trong 6 ngày.
Em hãy đưa ra nhận xét về bài
giải của bạn?
Xử lí khi gặp trường hợp
Bài 16b trang 60-SGK : Hai
1:
đại lượng x và y có tỉ lệ
Nếu không có em nào
nghịch với nhau không, nếu:

phát hiện ra phần lập
x
2
3
4
5
6
luận chưa chính xác của
lời giải trên. Giáo viên HS tự lật sách vở xem lại y 30 20 15 12,5 10
đưa ra bài tập tiếp theo: bài cũ trong 1-2 phút để
Các em hãy xem lại bài hình dung vị trí kiến thức G:
tập 16b trang 60-SGK trong chương, sau đó Hai đại lượng x và y không tỉ
lệ nghịch với nhau, vì:
SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 14


trong 2 phút, từ đó có
suy nghĩ gì khác về lời
giải của bạn An? Giải
thích vì sao?

? Em hãy trình bày lại
cho đúng

? Tích hai giá trị tương
ứng của đại lượng thời
gian và số người làm
việc là đại lượng nào? Hệ

số tỉ lệ có giá trị bao
nhiêu?
? Cho một ví dụ về hai
đại lượng tỉ lệ nghịch, chỉ
rõ hệ số tỉ lệ của chúng là
đại lượng gì.
Giáo viên nhận xét câu
trả lời của học sinh
Xử lí nếu xảy ra trường
hợp 2:
? Em hãy đóng vai thầy
giáo (cô giáo) chỉ rõ cho
mọi người thấy lời giải
chưa chính xác?
Và giáo viên thông báo

giáo viên mới chiếu đề
bài lên bảng.
Học sinh phát biểu suy
nghĩ và giải thích.

5.12,5 ≠ 6.10, tích các giá trị x
và y tương ứng không bằng
một hằng số.
Trong bài 16b mặc dù giá trị x
càng tăng và giá trị y tương
ứng càng giảm, nhưng không
thỏa xy = a, hằng số a ≠ 0, cho
thấy hai đại lượng x và y
không tỉ lệ nghịch.

Từ đó ta thấy An lập luận: “…
Vì số công nhân càng tăng thì
thời gian hoàn thành càng
giảm suy ra số công nhân và
thời gian là hai đại lượng tỉ lệ
nghịch.” là chưa chính xác.
Trình bày lại cho đúng:
“Giả sử 20 công nhân làm
xong lô hàng đó trong x ngày.
Vì cùng hoàn thành 1 lô hàng,
nên số công nhân tăng bao
nhiêu lần thì thời gian hoàn
thành giảm bấy nhiêu lần suy
ra số công nhân và thời gian
hoàn thành lô hàng là hai đại
Tích giá trị tương ứng lượng tỉ lệ nghịch. Do đó ta
của đại lượng thời gian có:
và số người làm việc là
12.10 = 20x
10.12
tổng số ngày công để
�x
hoàn thành lô hàng.
20 = 6
Hệ số tỉ lệ là 120 (công Vậy 20 công nhân hoàn thành
thợ)
lô hàng trong 6 ngày.
(Hoặc 120 ngày công)
Học sinh cho ví dụ
Vận tốc v và thời gian t chạy

hết chặng đua S của vận động
viên đua xe tốc độ là hai đại
lượng tỉ lệ nghịch.
Hệ số tỉ lệ là độ dài chặng đua
S.
Vì: vt = S, S là hằng số khác 0
Học sinh làm được các bước
của 1 quá trình phản biện:
Cho 2 hoặc 3 em trình - Khẳng định lời giải chưa
bày.
chính xác chỗ nào (bước nêu ý
kiến)
- Nêu lên 1 phản ví dụ, từ đó
Cho các học sinh bình chứng tỏ được nội dung chưa

SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 15


cho học sinh: “chúng ta chọn.
chính xác trong bài toán.
sẽ chọn lời giảng hay
(bước bảo vệ ý kiến có dẫn
nhất”
chứng)
Sau khi học sinh bình
- Trình bày lại lời giải cho
chọn giáo viên nhận xét
đúng (bướcchỉ ra kết quả)

và chốt lại như tình
huống 1
? Nếu phải tự ôn về hai học sinh trình bày ý định
đại lượng tỉ lệ thuận em để tập cách tự học.
sẽ ôn như thế nào?
GV nhận xét, giao cho
học sinh tự ôn
Kinh nghiệm từ tình huống 3:
- Đôi khi tạo ra 1 tình huống và tổ chức một cuộc phản biện trong ôn tập chương giúp
cho học sinh hệ thống kiến thức về một chủ đề của chương dễ dàng hơn.
- Ngoài việc dạy kiến thức giáo viên đã cung cấp cho học sinh một phương pháp làm
việc, tập cho học sinh tự học bằng cách giao công việc tương tự “ôn về hai đại lượng tỉ
lệ thuận”
- Khi cả giáo viên và học sinh đều có được kĩ năng phản biện, cuộc phản biện sẽ thành
công hơn. Do đó lúc có cơ hội phù hợp nên thông báo cho học sinh, ví dụ như sau bài
này thông báo cho học sinh: “Thầy và trò chúng ta vừa hoàn thành một cuộc phản
biện về bài giải của bạn An”. Dựa trên cơ sở lí luận, có thể tùy bối cảnh và tinh thần
lớp học, giáo viên nên tích hợp dạy kĩ năng ứng xử hỗ trợ tư duy phản biện. Ví dụ có
thể hỏi học sinh: “Nếu là bạn An, sau khi nghe lời giải đúng, em sẽ cư xử thế nào?”
Hoặc: “Nếu sau khi nghe lời giải đúng, mà bạn An vẫn chưa chịu rằng An giải chưa
chính xác, em sẽ làm gì để An hiểu ra”…. Thường thì tiết học đến đây rất vui vẻ, thú
vị, học sinh rất thích thú tham gia ý kiến. Lưu ý rằng chỉ đặt tên nhân vật là An khi
không có học sinh của lớp tên An. Khi đó dần cho học sinh biết thêm thế nào là phản
biện, mục đích của tư duy phản biện, các thao tác phản biện, lợi ích của phản biện…
- Tình huống 4: Đại số 8 - Ôn tập về phương trình chứa dấu giá trị tuyệt đối,
trong tiết ôn tập chương IV.
- Phân tích lí do chọn tình huống 4: ngoài lí do tương tự tình huống 3 về tiết ôn tập,
kiến thức về phương trình chứa dấu giá trị tuyệt đối chiếm vị trí quan trọng trong việc
học Toán ở các lớp trên, tuy nhiên học sinh lại hay hiểu biết và xử lí các bài toán về
giá trị tuyệt đối lúng túng. Trong ôn tập chương IV – Đại số 8, giúp các em có cơ hội

củng cố, khắc sâu về phương trình chứa giá trị tuyệt đối dạng cơ bản của lớp 8:
A( x )  B ( x )

, tôi xây dựng tình huống và dùng cách tổ chức 1 cuộc phản biện.
- Các hoạt động lên lớp giải quyết tình huống 4 bằng tư duy phản biện:
Hoạt động của GV
Hoạt động của HS
Giao bài tập về nhà từ tiết
học sinh chuẩn bị bài ở
trước trong đó có ôn tập trả nhà
lời câu hỏi lí thuyết và bài
tập về nội dung phương
trình chứa giá trị tuyệt đối.

Nội dung
Lí thuyết:
Câu 1: Thế nào là giá trị
tuyệt đối của 1 số hữu tỉ
(xem SGK 7 tập 1- trang
13)
Câu 2: Nêu cách bỏ giá trị

SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 16


tuyệt đối của biểu thức
x , x �R


(xem SGK 8 tập
2 – trang 49)
Bài tập 45 trang 54 SGK
Gọi 3 học sinh lên bảng
1 em trả lời câu hỏi lí
thuyết
Gọi 2 em làm bài tập giải
phương trình sau:

1 học sinh lên bảng ghi
câu trả lời
2 học sinh lên bảng, mỗi
em 1 bài

x 5  3

HS 1: Bài 1
HS 2: Bài 2: (bài45b SGK)
x  5  3x

Giáo viên cho học sinh nhận xét bài của bạn:
x5  3


x 5  3 � �
x  5  3 �
Bài 1:

x  3 5  8



x  3  5  2 ; Vậy: S   2; 8 


x  5  3 x, neu x  5 �0

x  5  3x � �
5  x  3x, neu x  5  0 �

Bài
2:
� 5
� 5
x
, neu x �5
x
(loai)


2
2


�5 �
� 5
� 5
S

x


(
chon
)
x

,
neu
x

5
� �
� 4

�4

� � 4
Vậy:

Hoạt động của
GV
Gọi 2-4 em
? Em hãy đặt câu
hỏi về bài giải
của bạn để yêu
cầu bạn giải thích
(Nếu câu hỏi hợp
lí, cho học sinh
trả lời, câu hỏi
không hợp lí,
giáo viên chỉ ra

chỗ không hợp
lí).
Sau đó giáo viên
hỏi:
? Em đã dùng
kiến thức nào để
giải
Giáo viên cho
học sinh khác

Hoạt động của HS

� x  3 x  5, neu x �5

 x  3x  5, neu x  5 �


Nội dung
Tập cho học sinh tự đặt câu
hỏi:

mỗi em đặt câu hỏi cho mỗi bài

2 học sinh ban đầu trả lời câu
hỏi. Học sinh 1: Dùng tính chất
x �R ta luôn có x   x

Học sinh 2: Dùng định nghĩa
của giá trị tuyệt đối để bỏ dấu
giá trị tuyệt đối:


SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 17


nhận xét và chốt
lại lời giải (xem ở
trên vì cột 3 hẹp).
? Dùng cách giải
bài 1 để giải bài 2
có được không?
Vì sao?

� x, neu x �0
x �
 x, neu x  0


Dành cho các em khác trả lời
- Không dùng cách giải của bài
1 để giải bài 2 được.
Vì tìm x để khoảng cách từ
điểm x – 5 đến điểm 0 trên trục
số bằng 3, biết 3 là một số
dương, nên theo tính chất ta
khẳng định được có hai trường
hợp x-5=3 hoặc x-5=-3.
Còn tìm x để khoảng cách từ
điểm x – 5 đến điểm 0 trên trục

số bằng 3x, do chưa biết 3x là
một số dương hay âm, hay
bằng 0, nên không thể giải bài 2
y nguyên như bài 1.
? Dùng cách giải Dùng cách giải bài 2 để giải bài
x 5  3
Ta có:
bài 2 để giải bài 1 1 được.
� x  5  3, neu x  5 �0
có được không?
Vì vận dụng

( x  5)  3, neu x  5  0
� �
Vì sao?
� x, neu x �0
x �
 x, neu x  0


? Em hãy trình
bày lời giải
? Sau bài giải
phương trình
x 5  3

ta có:
x 5  3 �
� x  5  3, neu x  5 �0


( x  5)  3, neu x  5  0


em rút
ra kinh nghiệm gì

Dùng tính chất để giải bài

? Sau hai bài tập
này ta nên rút ra
kinh nghiệm gì
khi giải phương
trình chứa giá trị
tuyệt đối dạng

1) Nếu B(x) > 0 thì

A( x )  B ( x)

(Hoặc học sinh
không khá giỏi
thì giáo viên đưa
ra bài tập điền
vào chỗ trống
như cột 3)

�x  3  5, neu x �5

 x  3  5, neu x  5
� �

�x  8, neu x �5

 x  2, neu x  5
� �
x  8 (thoa )


x  2 (thoa)
� �
S   2; 8 

Vậy:
gọn hơn dùng định
nghĩa để xét các trường hợp.
Học sinh quan sát và trả lời (câu 1) Nếu B(x) > 0 thì
này có thể cho hoạt động nhóm)
......  B ( x)

x 5  3

A( x)  B ( x )

A( x )  B ( x ) � �
......  B ( x)

A( x )  B( x)

� A( x)  B ( x)

 A( x )  B ( x )

� �

2) Nếu B(x) = 0 thì

2) Nếu B(x) = 0 thì

3) Nếu B(x) < 0 thì

A( x)  B ( x )
� A( x )  0 � A( x)  0

3) Nếu B(x) < 0 thì
A( x)  B ( x) � �
x

4) Nếu giá trị của B(x) có thể

� A( x)  ....... � .......  0
A( x )  B ( x ) �
………

4) Nếu giá trị của B(x) có thể
âm hoặc không âm thì nên dùng
định nghĩa của giá trị tuyệt đối
tùy theo giá trị của A(x) để bỏ
dấu giá trị tuyệt đối. (Xem bài

SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 18



âm hoặc không âm thì nên dùng
định nghĩa của giá trị tuyệt đối
tùy theo giá trị của A(x) để bỏ
dấu giá trị tuyệt đối. (Xem bài
học lớp 8 trang 49 SGK). Ta có:

học lớp 8 trang 49 SGK). Ta có:
A( x)  B ( x)
� A( x)  B( x), neu A( x).......0

� � .......  B( x), neu A( x)  0

A( x)  B ( x)
� A( x)  B ( x), neu A( x) �0

 A( x)  B ( x), neu A( x)  0
� �

Giao Bài tập
1) Bài 67, 68 trang 48, Sách bài
luyện tập ở nhà
tập toán 8 tập 2
(xem cột 3)
2) Bạn giải Hòa giải bài 2 như
Bài 67, 68 không
sau, em hãy về nhà xem và nêu
bắt buộc làm hết. Học sinh trình bày vào vở bài
nhận xét:

? Giải xong em
tập
x  5  3x
Giải phương trình:
hãy tự đặt câu hỏi
(*)
tự phản biện để
Nếu 3x < 0 � x < 0 thì phương
kiểm tra sự đúng
trình (*) vô nghiệm.
đắn của bài em
Nếu 3x �0 � x �0 thì:
giải
x  5  3x
x  3x  5


? Em có tìm ra


x  5  3 x � �
x  3x  5
điều gì mới, rút ra
(*) � �
kinh nghiệm gì
2 x  5


mới sau bài tập
Từ bài giải của bạn Hòa học

� �4 x  5 �
này không
sinh cần nhận thấy có thể vận
� 5
? Nêu nhận xét
dụng linh hoạt để giải toán,
x
(khong thoa )

2
bài giải của bạn
không gò bó trong 2 cách giải

5

Hòa (xem cột 3)
ban đầu. Tuy nhiên cần nắm
x  (thoa )

4
về nhà làm theo
vững những kiến thức cơ bản để
nhóm 4 em.
chọn lời giải ngắn gọn cho từng
�5 �
S

� �
Khi dạy bài này
bài cụ thể.

�4
Vậy:
tôi thường hay
nói đùa: “Có
nhiều cách để đi
đến trường, nên
chọn đường tốt
ngắn nhất, đừng
chọn đường vòng
quanh ngã 6 vài
vòng rồi mới đến
trường nhé”
Kinh nghiệm từ tình huống 4:
- Khi giáo viên tổ chức tư duy phản biện tốt, sẽ thúc đẩy những tranh luận tích cực
giúp học sinh tham gia phản biện có thêm kiến thức, hiểu sâu sắc kiến thức đó tạo ra
những thay đổi tích cực trong giải toán và hoạt động thực tiễn.

SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 19


- Không phải luôn luôn giáo viên là người đặt câu hỏi, giáo viên nên chọn tình huống
thích hợp vừa sức để học sinh tự nêu câu hỏi phản biện, dần tập cho học sinh có thói
quen có tư duy phản biện.
- Tình huống 5: Đại số 9 - Ôn tập về căn bậc hai, trong tiết ôn tập chương I - Phân tích lí do chọn tình huống 5: Ngoài những lí do của tiết ôn tập như tình huống
3 và 4, khi học sinh đã qua giai đoạn 1, giáo viên cần giao cho học sinh chủ động trong
phản biện, tập xem xét lại vấn đề mà người khác hay nhiều người đã chấp nhận, tập
nêu một phán đoán của bản thân trước 1 tình huống, giải thích được vì sao lại có phán
đoán đó, tập trình bày đoạn lập luận dài hơn, có một số phân tích, suy luận, so sánh,

đánh giá có cơ sở để dẫn đến một kết luận đúng.
- Các hoạt động lên lớp giải quyết tình huống 5 bằng tư duy phản biện:
Hoạt động của GV
Hoạt động của HS
Nội dung
Bài tập về nhà giao từ tiết học sinh làm bài tập về
trước trong đó có bài 76 nhà
trang 41, SGK 9 tập 1 với
yêu cầu:
1) Làm bài 76
2) Tự đặt ra vấn đề để
phản biện sau khi làm bài
này.
Gọi học sinh sửa bài tập 76 1 em lên bảng
GV kiểm tra vở bài tập của Học sinh làm bài và trình
học sinh
bày về tự phản biện trong
Sửa bài 76 gọi học sinh lên vở bài tập
bảng làm 76a)
? Khi giải bài này em đã
dùng kiến thức nào trong 1 em lên bảng
chương
Gọi các em khác nhận xét Gọi khoảng 2 em nhận xét
GV chốt lại lời giải
Với a > b > 0, ta có: a2 > b2 � a2 – b2 > 0
�a  a 2  b 2 �
a
b

b

�
�:
�:
2
2
2
2
2
2


2
2
�a  a  b = a  b � a  b � a  a  b =
�a  a 2  b 2 �a  a 2  b 2
a
a
a 2  (a 2  b 2 )
�
.


2
2

b
a 2  b2 �
a 2  b2
b a 2  b2 =
� a b �

=


a

�
1
a 2  b2 � a 2  b2
Q
a

=
a
a b
2

2



a b

b
a  b2 =
2

= a b
Cũng vì a > b > 0 ta có a – b > 0; a + b > 0, nên:
2


2

( a  b) 2

Q=

( a  b) 2

( a  b)

(a  b)(a  b) = (a  b). (a  b) = (a  b) =

a b
ab

SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 20


Hoạt động của GV
? Về nhà em đã tự tò mò
thêm những gì trong bài
này
GV lắng nghe ý kiến học
sinh và nhận xét, khen
ngợi nếu cần
GV chỉ hỏi thêm cho HS
trả lời câu hỏi sau (nếu
chưa có HS nào đề cập):

? Điều kiện a > b > 0 có
phải là ĐKXĐ của Q
không? Vì sao? Học sinh
hoạt động nhóm 2 em,
GV chiếu đáp án (xem cột
3)

Hoạt động của HS

Nội dung
Kiểm tra việc tự phản biện

Gọi vài em trình bày kết
quả bài tập về nhà

Học sinh hoạt động nhóm Giáo viên đặt câu hỏi phản
2 em, nêu kết quả.
biện
Q xác định
Điều kiện a > b > 0 không
phải là ĐKXĐ của Q
Vì sau khi lập luận tìm
ĐKXĐ ta được ĐKXĐ:
�a  b

b �0



a 2  b2  0


b �0


2
2
� �a  a  b �0

a 2  b2

b �0


2
2
� �a � a  b

�a  b

b �0


a 2 �a 2  b 2
��
�a  b

b �0
��
�a  b


b �0


Vậy ĐKXĐ:
? Nếu yêu cầu rút gọn Q Trường hợp xét a < b < 0
Nếu a < b < 0 ta có
trong trường hợp a < b < Khác từ bước rút gọn biểu a – b < 0; a + b < 0, nên:
0 thì em sẽ dự kiến kết
a b
 (a  b)2
2
2
quả sẽ có gì khác trường
thức: a  b , vì a < b < Q = (a  b)(a  b) =
hợp 1, vì sao?
0 ta có a – b < 0; a + b <
GV cũng chuẩn bị trước
0, đưa thừa số vào dấu căn
( a  b) 2
a b
kết quả của trường hợp


và rút gọn đến kết quả
(
a

b
)(a


b)
này (xem cột 3), nếu học
=
= ab
cuối cùng sẽ khác.
sinh giải được, giáo viên
chiếu lời giải chốt lại.
Nếu học sinh không giải
được khuyến khích học
sinh về nhà tự tìm hiểu
sâu hơn, giáo viên không
nên giải ngay. Một số câu
SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 21


hỏi gợi ý học sinh suy
nghĩ:
? Còn trường hợp nào
khác hai trường hợp trên
thỏa ĐKXĐ
? Bài này rút gọn trong
ĐKXĐ lời giải gọn nhất
trình bày như thế nào
? Em có suy nghĩ gì khác
về bài này nữa không
(Bài tập b) cũng là một
tình huống rất giàu tình
tiết để phản biện, tôi dừng

ví dụ tại đây)
Kinh nghiệm từ tình huống 5:
- Ôn tập chương tích hợp dạy tư duy phản biện rất có hiệu quả, giảm căng thẳng vì số
lượng kiến thức lí thuyết của cả chương, giảm nhàm chán khi bài tập lặp lại khi ôn.
- Tư duy phản biện giúp cho học sinh có thêm kĩ năng để học toán. Qua việc theo đuổi
những bài toán mà giáo viên đưa ra có kết thúc “mở”, rèn được nhiều kĩ năng khác
trong quá trình phản biện như: kĩ năng lập luận, quan sát, phán đoán, thuyết trình,…;
rèn được một số đức tính như kiên trì, ham học, biết lắng nghe.
- Dạy học toán và dạy tư duy sẽ hạn chế thói quen suy nghĩ giải ra bài toán đúng là tốt
rồi, không cần suy nghĩ nhiều hơn, thời gian còn phải giành để nhồi nhét thật nhiều
dạng bài tập để thi cử, không bao giờ thắc mắc “Vì sao?” “Còn cái gì khác nữa?”. Khi
làm bài tập thì mong gặp dạng toán quen, sử dụng thuật toán đã học để giải toán mà
thôi. Thỉnh thoảng tôi thường nói đùa với học sinh: “Học toán như thế có nghĩa thành
thạo với thao tác lặp đi lặp lại như thợ giải toán để đạt điểm 10”
- Việc dạy cho học sinh tư duy phản biện kết hợp với các kĩ năng khác trong học toán
từ các lớp dưới là việc nên làm.
Trên đây là 5 tình huống để minh họa cho việc giáo viên tạo tình huống phản biện.
Mỗi tình huống có ý nghĩa riêng, mức độ khác nhau cho từng giai đoạn vận dụng tư
duy phản biện trong dạy học toán Trung học cơ sở.
3) Giải pháp về tâm lí:

Biện pháp khuyến khích: Một biện pháp hữu hiệu là khuyến khích học
sinh bằng cách giáo viên có những lời nhận xét hợp tình hợp lí, ngợi khen đúng lúc.
Để làm sáng tỏ hơn phương pháp khen ngợi và phê phán khi dạy học Toán, tôi tạm
dừng đề tài này một lát, để nói về khen ngợi và phê phán. Đề cập đến phương pháp
khen ngợi và phê phán học sinh, tôi đã đọc và viết trong Sáng kiến kinh nghiệm mấy
năm trước về công tác chủ nhiệm, nay tôi xin trích lại:
“Tôi nhận thấy rằng khen ngợi để trẻ đón nhận và gia tăng lòng tự trọng, cảm thấy
xứng đáng và được các bạn công nhận gồm có hai phần:
Thứ nhất là mô tả những gì trẻ đã làm được. Ví dụ: “Cô thấy em tập trung học

tập hơn trước và chữ viết có sạch hơn, bài làm đúng nhiều hơn”. Thay vì nói chung
SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 22


chung: “Em rất tiến bộ” . Hoặc ví dụ khác: “Hôm nay tổ Một quét lớp, không những
sạch bên ngoài mà các góc lớp rất sạch, chổi dựng gọn gàng, khăn giặt sạch sẽ”. Điều
này không những khuyến khích được tổ Một mà các tổ khác biết mình cần phải làm gì.
Phần này tác động đến nhận thức và tư duy của trẻ về công việc đã được khen ngợi.
Thứ hai là biểu lộ sự chân thành hài lòng về trẻ cho trẻ nhận thấy trên gương mặt
và trong âm điệu lời nói, thái độ của giáo viên. Phần này tác động lên tình cảm của trẻ.
Tôi nhận thấy trẻ em khi được khen như thế chúng rất cố gắng sau đó.
Để nói câu: “Giỏi lắm, tốt lắm” thì dễ hơn nhiều việc mô tả những gì trẻ đã làm
được, muốn mô tả được như vậy, giáo viên chúng ta phải theo dõi, quan sát các em.
Học sinh được khen ngợi theo cách này tôi thấy giúp ích cho các em rất nhiều, các em
biết được ưu điểm của các em tới đâu, các em biết cần phải làm gì mà còn tránh được
tự cao, tự mãn. Bất cứ lời khen nào cũng làm cho trẻ sung sướng, nhưng theo tôi nhận
thấy khen như thế sẽ tác động đến tâm lí và ý muốn làm tốt hơn những gì mà trẻ đã
được nhìn nhận, chỉ ra hướng phấn đấu cho những em khác trong lớp. Cũng cần lưu ý
rằng khen ngợi việc không đáng khen cũng làm tác động xấu đến tâm lí trẻ trong lớp
như trẻ khác thấy không phục.
Khi phê phán học sinh, bằng quan sát của mình tôi đã học được từ một đồng
nghiệp, thay vì tập trung vào sai lầm, tôi bắt đầu từ việc thừa nhận những gì em đã đạt
được, sau đó chỉ ra những điểm cần sửa sai. Ví dụ: “Ồ, cô thấy em đã quét lớp phía
ngoài thật là sạch sẽ, nhưng gầm bàn thì hãy còn bẩn”, như vậy làm cho câu phê phán
không bị tác động nặng nề vào tâm lí trẻ, bởi vì bên cạnh phải nghe điều còn thiếu sót
được chỉ ra, thì trẻ còn được nghe những điều trẻ đã được công nhận do thầy cô giáo
đã nhìn thấy. Giúp trẻ cảm nhận sự rạch ròi, chính xác trong lời phê phán, thuyết phục
trẻ tiếp thu và vui vẻ sửa chữa”.

Tôi xin trở lại việc khen ngợi trong dạy học Toán, những câu khen ngợi giúp học
sinh có niềm vui khi được công nhận, hoặc giải toả nỗi e ngại khi nói sai, các em có
thêm sự tin tưởng vào thầy cô giáo, sự tự tin khi tham gia ý kiến như:
“Ồ câu hỏi của em hay ở chỗ … !” (mô tả ngắn gọn chi tiết đặc sắc trẻ làm được)
“Cách nhận xét bài toán của em tốt lắm vì …. ”
“Cách chuyển bài toán của em để tìm lời giải tốt ở chỗ ….”
“ Lập luận và minh chứng của em phù hợp lắm vì đã làm sáng tỏ điều…”
Hoặc an ủi khích lệ khi cần thiết:
“Mạnh dạn nêu ý kiến là tốt, rất tiếc ý kiến này có chỗ chưa thuyết phục vì…”
“Em lập luận chưa chính xác ở chỗ…, tuy nhiên điều đó cũng giúp chúng ta rút ra
một kinh nghiệm để tránh sai lầm”

Biện pháp tạo sự thi đua: Tạo sự thi đua hợp lí sẽ giúp học sinh cố
gắng phấn đấu, cho các em có hy vọng được thay đổi tốt lên bằng nỗ lực của bản thân,
tạo không khí lớp học phát triển theo chiều hướng tích cực, tránh sự an phận. Nếu lời
khen ngợi hoặc an ủi khích lệ có tác dụng khuyến khích thì việc thưởng điểm sẽ thúc
đẩy sự cố gắng của học sinh với mong muốn đạt được kết quả cụ thể. Khả năng của
học sinh khác nhau, do đó cần đưa ra nhiều mức độ yêu cầu giải quyết tình huống khác
nhau, tạo điều kiện cho mọi đối tượng học sinh có cơ hội trả lời và đạt điểm. Từ đầu
năm học nên có quy định cụ thể cho học sinh cơ hội cải thiện điểm xấu nếu em đó
đang có điểm miệng thấp hoặc muốn cải thiện điểm cao hơn nữa.

SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 23


Ví dụ: giáo viên cho “gỡ điểm” điểm kiểm tra hệ số 1; hẹn hết tháng 11 chấm dứt
một đợt gỡ điểm cho một cột n nào đó để giáo viên vào điểm, nếu em tham gia được x
lần phát biểu đúng trong tháng em sẽ cải thiện điểm xấu đã có trước đây (hoặc tích lũy

thêm điểm cho 1 cột trong thời gian tới nếu cột n đã là 10 điểm) bằng cách +a điểm,…
với a và x là những con số giáo viên cho học sinh tham gia thảo luận thống nhất từ đầu
tháng 11 cùng nhau phấn đấu để đạt. Ngoài ra có thể trước những bài tập cụ thể, câu
hỏi cụ thể giáo viên thông báo: “Ai làm được bài này sẽ được 10 điểm” “… sẽ được
cộng a điểm vào cột n”. Để làm được như ví dụ này, giáo viên phải hết sức công tâm
thì mới thuyết phục, nhà trường phải có niềm tin vào giáo viên cho họ có thời gian
nhất định để cập nhật điểm.

Biện pháp chinh phục tình cảm: Khi học sinh thực sự yêu mến thầy cô
giáo, yêu mến ngôi trường, lớp học, bè bạn, thì việc dạy dỗ bảo ban của thầy cô giáo
với các em học sinh sẽ thuận lợi hơn rất nhiều. Do đó giáo dục nuôi dưỡng tình cảm
yêu mến thầy cô giáo cho học sinh là biện pháp không thể thiếu trong việc dạy học nói
chung. Giáo viên, gia đình học sinh, những người làm công tác có liên quan đến giáo
dục, bản thân các em học sinh, đều có trách nhiệm trong việc nuôi dưỡng tình cảm tích
cực của các em với ngôi nhà thứ hai là trường lớp, người cha hoặc người mẹ thứ hai là
thầy cô giáo. Riêng về giáo viên để chinh phục tình cảm học sinh cần làm những việc
sau:
Cho học sinh thấy tình cảm yêu thương từ thầy cô giáo qua việc: Lắng nghe ý kiến,
tôn trọng sự khác biệt giữa các cá nhân trong lớp nhưng vẫn giữ được kỉ luật lớp học;
công bằng trong việc cho các em cơ hội phấn đấu cũng như được quan tâm, đánh giá,
khen ngợi để trẻ cảm thấy sự xứng đáng, phê phán mà không làm tổn thương, trách
phạt nghiêm khắc nhưng không ghét bỏ.
Cho học sinh thấy từ thầy cô giáo là một người ham học hỏi, cư xử tế nhị; hiểu biết,
tận tụy, khoa học trong công việc dạy học.

Biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh tham gia phản biện:
Tạo không khí đối thoại thân thiện.
Đặt ra tình huống vừa sức học sinh.
Đặt câu hỏi mở (câu trả lời không gò bó một trong hai chọn lựa Đúng hoặc Sai )
Nhắc nhở ôn kiến thức cụ thể và cho bài tập về nhà không gò bó, áp lực.

Dạy bổ sung các kĩ năng cần thiết khác cho các em như: kĩ năng thuyết trình, kĩ
năng làm chủ cảm xúc; bằng cách tích hợp trong dạy học Toán, uốn nắn, chỉ bảo cho
các em cảm nhận và thực hành từ từ thông qua các hoạt động học tập.
c.
Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp:
- Các nội dung trình bày ở trên thực hiện được trong điều kiện hiện nay của các
trường trung học cơ sở.
- Về giáo viên: Giáo viên tự bồi dưỡng để hiểu biết về tư duy phản biện; có việc
làm tích cực để vận dụng lí thuyết về tư duy phản biện vào thực tế giảng dạy.
Giáo viên nên làm việc đều tay, giáo viên lớp 6 là người có vai trò quan trọng trong
việc truyền cảm hứng học tập trong những ngày tháng đầu tiên các em vào trung học
cơ sở, các giáo viên lớp 7, 8, 9 có vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển.
- Về học sinh: Biết nghe lời.
- Về các hỗ trợ bên ngoài: Tạo điều kiện cho giáo viên có thời gian hơn nữa,
giảm cho giáo viên những công việc mang tính hình thức. Các đối tượng có liên quan

SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 24


đến hoạt động giáo dục cần phối hợp chặt chẽ với giáo viên, tạo tâm thế tốt cho giáo
viên hơn nữa.
d.
Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:
Các giải pháp đã nêu trong đề tài cần được thực hiện phối hợp đồng thời, linh hoạt.
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
* Kết quả: Đề tài thực hiện đồng thời với nhiều hoạt động giáo dục khác, nếu lấy một
con số về tỉ lệ phần trăm tiến bộ của học sinh của một năm nào đó, lớp nào đó để báo
cáo ở đây là không chính xác, vì đó là kết quả của tổng hợp nhiều lí do. Do đó tôi nhận

xét về kết quả như sau: qua 28 năm giảng dạy và vận dụng nhiều phương pháp phối
hợp, trong đó có tích hợp dạy tư duy phản biện, tôi quan sát các thế hệ học sinh mà
bản thân tôi dìu dắt, cho đến nay họ đã trưởng thành. Tôi đã có một số lượng học sinh
đáng kể, có thể họ có các khả năng khác nhau, sở trường khác nhau, thành công khác
nhau, nhưng đa số họ có chung các ưu điểm:
- Mạnh dạn thể hiện suy nghĩ của bản thân, chủ động trong suy nghĩ, ham tìm hiểu.
- Có thói quen nhìn nhận một vấn đề nhiều góc độ khác nhau.
- Biết lắng nghe ý kiến người khác, kể cả những ý kiến trái chiều.
- Biết trình bày ý kiến của bản thân một cách logic và có căn cứ.
- Biết công nhận quan điểm đúng đắn của người khác.
- Thông qua rèn luyện kĩ năng tư duy phản biện họ được rèn các kĩ năng khác và
ngược lại.
III. Phần kết luận, kiến nghị:
* Kết luận: Sự thành công trong dạy học là kết quả học sinh phát huy được ưu
điểm của mỗi học sinh để tiến bộ, đạt được kết quả cao nhất mà mỗi em có thể làm.
Việc tích hợp dạy kĩ năng tư duy phản biện vào dạy học toán là một phương pháp dạy
học đem lại nhiều lợi ích cho cả thầy và trò.
*Kiến nghị: Nhà nước và Ngành giáo dục tạo điều kiện hơn nữa cho giáo viên.
Buôn Ma Thuột, Ngày 15 tháng 3 năm 2016
Người viết

ĐỖ THỊ XUÂN LAN

SKKN: TÍCH HỢP DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG DẠY HỌC TOÁN – GV: ĐỖ THỊ XUÂN LAN

Page 25


×