Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Cách viết mở bài trong văn nghị luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.57 KB, 20 trang )

Më bµi trong v¨n nghÞ luËn

A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Trong mấy năm trở lại đây cùng với sự nghiệp đổi mới giáo dục
việc đổi cách giảng dạy ra đề thi ở môn ngữ văn cũng có thay đổi căn bản đặc
biệt ở phần làm văn. Chất lượng môn ngữ văn ở trường THPT hệ GDTX
thường thấp. Bởi tập làm văn là một phân môn khó- đặc trưng của phân môn
này là yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức đã được học ở phân môn văn và
tiếng việt vào việc làm văn. Mặt khác, ý thức học môn văn của học sinh chưa
cao. Không hiếm tình trạng giáo viên chỉ chú trọng đến giờ văn học, xem nhẹ
giờ làm văn, chỉ dạy qua loa, chiếu lệ.
Trong thực tiễn giảng dạy tôi thấy hiện nay nhiều học sinh rất ngại và
lười rèn luyện kỹ năng viết bài, thiếu kiến thức thực tế, nên khi làm bài văn
thường lúng túng và mắc nhiều lỗi. Điều này tất yếu dẫn đến kết quả các bài
làm văn điểm không đạt được như mong muốn. Để làm nên một bài văn nghị
luận xã hội thành công cần phải đạt được nhiều yêu cầu. Trong đó, mở bài vừa
đúng, vừa hay là yêu cầu đầu tiên và cũng có ý nghĩa nhất. Bởi vì, mở bài
không chỉ có một vị trí quan trọng trong cả bài viết mà còn là phần khó khăn
nhất của học sinh. Không phải ngẫu nhiên mà Macxim Gorki đã từng kết
luận: “ Khó hơn cả là phần mở đầu, cụ thể là câu đầu, cũng như trong âm
nhạc, nó chi phối giọng điệu của tác phẩm và người ta thường tìm nó rất
lâu”.
Biểu hiện rất rõ của học sinh trước một đề văn là thường tỏ ra lúng túng
ngay ở khâu tìm hiểu đề, xác định các yêu cầu, cho đến công đoạn vận dụng
kiến thức văn chương, lịch sử, xã hội… và năng lực tư duy ngôn ngữ để triển
khai, lập dàn ý. Đáng lưu ý hơn nữa là tình trạng mò mẫm trong công đoạn tạo
1


văn bản hoàn chỉnh. Nhiều bài viết của học sinh còn bộc lộ tình trạng làm bài
mà không hề có ý thức về việc vận dụng kiến thức mà môn làm văn đã cung


cấp, bỏ qua công đoạn phân tích, tìm hiểu đề, tìm ý và lập dàn ý, cứ đề ra thì
bắt tay vào viết: nghĩ sao viết vậy, lắp ghép câu chữ tùy tiện, quanh quẩn lặp
lại những điều đã viết, đến lúc không nghĩ ra được điều gì nữa thì kết thúc bài.
Các bài viết của học sinh thường gặp các lỗi như: lỗi viết sai chính tả, xuất
phát từ việc học sinh không hiểu nghĩa của từ, không ý thức khi viết;
Lỗi sử dụng từ không hợp phong cách: Nguyên nhân học sinh không nắm
phong cách ngôn ngữ nghị luận, chưa biết lựa chọn từ ngữ để diễn đạt phù
hợp.
Lỗi lặp từ, thừa từ: Đây là hiện tượng phổ biến ở bài viết của học sinh.
Nguyên nhân vốn từ ngữ của học sinh nghèo, học sinh chưa có ý thức lựa
chọn từ ngữ khi sử dụng.
Lỗi sử dụng từ không đúng nghĩa, sai chuẩn mực: Do học sinh không hiểu rõ
ý nghĩa của từ
Nhiều học sinh viết câu không đúng ngữ pháp, thiếu các thành phần chính,
thiếu vế trong một câu ghép, viết câu không rõ nghĩa:lỗi viết câu sai ngữ pháp,
viết thiếu cả thành phần chủ ngữ lẫn vị ngữ; lỗi viết thiếu thành phần chủ ngữ;
lỗi viết thiếu thành phần vị ngữ; lỗi viết thiếu một vế của câu ghép.
Ngoài ra, học sinh cũng mắc lỗi diễn đạt thiếu chặt chẽ, viết câu dài lê thê,
lủng củng, phát triển thành nhiều thành phần phụ, mở rộng thành phần trọng
tâm thông báo làm câu văn lan man, thiếu mạch lạc.
Các lỗi đó dẫn đến hậu quả là những bài văn lạc đề, lệch đề, không có
kết cấu, đoạn mạch rõ ràng, đầy những câu văn “bất thành cú”, từ ngữ thiếu
chính xác, sai chính tả.
Sau đây là trích một số đoạn của HS:
2


(1) “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.
Đây mùa thu tới, mùa thu tới,

Với áo mơ phai dệt lá vàng.”
Khổ thơ trên nói lên hình ảnh của một người con gái đã có chồng thì bây
giờ chồng qua đời cô cảm thấy cô đơn, cô lo nghĩ không biết số phận mình ra
sao, cuộc đời cô thật bất hạnh đã chịu sự đau thương tang tóc trước sự mất
mát to lớn đó không thể nào bù đắp được cho cô.
(2) Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng: giọt lệ như mưa, một nỗi buồn
vẫn mêng mông bao la, nỗi xa người yêu là thế. Mọi người chúng ta ai ai đều
có sự yêu thương vậy mà thực dân chủ nghĩa tư bản Phương tây nó không có
trái tim hay sao? Nó không có nước mắt hay sao.
Hiện nay có nhiều bài viết, sách mẫu, sách hướng dẫn về cách làm bài
văn nghị luận tuy nhiên không có một tài liệu nào tập trung tháo gỡ khó khăn
của học sinh khi viết mở bài. Với yêu cầu đặt ra của việc viết đoạn mở bài một
cách nhanh chóng, đảm bảo các yêu cầu chức năng của nó làm cho không ít
học sinh cảm thấy khó khăn.Học sinh khi viết mở bài văn nghị luận luôn
chiếm nhiều thời gian, mắc phải nhiều lỗi về diễn dạt và trình bày thậm chí có
em viết một bài văn nghị luận khi giáo viên chấm bài không biết đâu là phầm
mở bài, đâu là thân bài, không rõ ràng về bố cục của bài văn.
Đó là những bài văn cho thấy rõ kiến thức văn học và kĩ năng
làm văn của học sinh quá kém cỏi.
Làm thế nào để học sinh phổ thông có những bài văn nghị luận hành văn
trôi chảy, lôgic, mạch lạc? Đó là câu hỏi của rất nhiều giáo viên dạy bộ môn
văn. Vậy để điều đó trở thành hiện thực đòi hỏi người giáo viên phải tốn nhiều
công sức tìm phương pháp phù hợp.
3


Riêng đối với tôi, qua thực tế giảng dạy tôi đã rút ra được một số phương
pháp giúp học sinh làm tốt một bài văn nghị luận. Nhưng do điều kiện khách
quan, do yêu cầu một bài sáng kiến kinh nghiệm người viết chỉ chọn một vấn
đề của bài văn nghị luận: cách viết mở bài trong văn nghị luận.

Trong bài văn phần mở bài là phần phụ, không quan trọng, nhưng có thể
nói phần này lại là phần “hồn” của bài văn nghị luận. Đọc phần mở bài, giáo
viên có thể nhận biết trình độ, năng khiếu viết văn của học sinh, có thể đánh
giá năng lực học văn của học sinh.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.Cơ sở lý luận
Trong chương trình ngữ văn THCS học sinh đã nắm được khái niệm thế
nào là văn nghị luận cũng như các dạng bài nghị luận - Văn nghị luận là loại
văn được viết nhằm xác lập cho người nghe, người đọc một tư tưởng, quan
điểm nào đó. Văn nghị luận phải có luận điểm rõ ràng, có lí lẽ, dẫn chứng
thuyết phục. Những tư tưởng, quan điểm trong bài văn nghị luận phải hướng
tới giải quyết những vấn đề đặt ra trong cuộc sống, xã hội thì mới có ý nghĩa.
Tuy nhiên mục tiêu dạy học không chỉ giúp học sinh nắm được nội dung kiến
thức mà phải hình thành cho học sinh kỹ năng vận dụng vào thực tiễn với
những dạng bài tập cụ thể. Việc vận dụng đòi hỏi phù hợp với yêu cầu của
từng dạng đề, phù hợp với tính chất của từng kỳ thi. Nếu trong kỳ thi tốt
nghiệp chỉ yêu cầu học sinh với những kiến thức và kỹ năng cơ bản thì kỳ thi
Đại học, Cao đẳng đòi hỏi học sinh phải vận dụng thành thục những kỹ năng
đó để có thể viết được một bài văn nghị luận không chỉ đầy đủ luận điểm, dẫn
chứng, lí lẽ mà còn phải hay, hấp dẫn, lôi cuốn người đọc.
Trong giao tiếp, khi ta tiếp xúc với một văn bản, ngôn bản thì phần mở
đầu của văn bản, ngôn bản đó sẽ thu hút sự chú ý của ta, và phần kết thúc của
nó sẽ để lại ấn tượng cho ta về nội dung mà nó đề cập đến. Để góp phần quyết
4


định làm nên thành công của một chiến lược giao tiếp, chúng ta không thể
không chú trọng đến phần mở đầu và phần kết thúc của văn bản, ngôn bản. Do
vậy, dạy học Làm văn ở nhà trường phổ thông cũng cần quan tâm thích đáng
đến việc rèn kĩ năng mở bài, kết bài cho học sinh.

2. Cơ sở thực tiễn
Qua quá trình giảng dạy và theo dõi việc làm bài văn nghị luận của học
sinh một vấn đề dễ nhận thấy ở đối tượng học sinh trung bình - yếu là các em
rất chật vật, mất nhiều thời gian vào việc viết phần mở bài. Qua quá tình chấm
bài cũng nhận thấy phần mở bài của đối tượng học sinh này chưa đạt yêu cầu:
Hoặc còn thiếu ý, hoặc chưa nêu được vấn đề; dẫn dắt vấn đề một cách vòng
vo, rườm rà, vu vơ không liên quan đến vấn đề cần giải quyết mà đề bài yêu
cầu
Ở các cấp học từ cấp 2 đến lớp 12 kĩ năng mở bài kết bài nhưng còn nặng về
lý thuyết và không theo kịp sự phát triển của thực tiễn.
Hiện nay sách tham khảo rất nhiều, các loại sách bổ trợ kiến thức môn
Ngữ văn dạng những bài làm văn mẫu nhiều vô kể, học sinh – nhất là các
em định hướng theo học khối tự nhiên - cứ nghĩ chỉ cần mua về dựa vào đó
là viết được, khỏi phải nghĩ ngợi mất công. Các em cũng không quan tâm
đến hiệu quả của việc viết mở bài, kết bài, cứ viết cho đầy đủ thành phần
mà không biết có đáp ứng yêu cầu của đề bài hay không.
Điều đó vô hình chung đã dẫn đến tâm lí ỉ lại, dựa dẫm vào sách tham
khảo, tạo thói quen lười suy nghĩ cho các em. Hậu quả là nếu thầy cô giáo
ra đề với cách thức khác là không làm được bài hoặc làm lạc đề, cái sai đó
cũng bộc lộ rõ ngay trong phần mở bài, kết bài của các em.
Để đáp ứng yêu cầu của việc đổi mới dạy học môn Ngữ văn, để phù hợp
với tính thực hành của môn Làm văn nói chung và nâng cao kĩ năng mở bài,

5


kết bài trong văn nghị luận văn học nói riêng, người viết cho rằng cần phải rèn
kĩ năng mở bài, kết bài cho học sinh ở mỗi bài làm văn cụ thể.
3. Phạm vi nghiên cứu
Việc rèn kĩ năng mở bài, kết bài trong văn nghị luận là một quá trình

lâu dài, thường xuyên trong suốt quá trình các em học về kiểu bài này ở
trường GDTX. Tuy nhiên, do dung lượng đề tài có hạn, người viết chỉ:
+ Nghiên cứu các cách mở bài trong văn nghị luận.
+ Khảo sát thực tế việc viết mở bài cho kiểu bài nghị luận văn học của
HS lớp 12.
+ Thiết kế dạy học thực nghiệm rèn kĩ năng mở bài, trong văn nghị luận
văn học nhằm nâng cao kĩ năng đó cho HS.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện đề tài, người viết sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu hệ thống
- Phương pháp phân tích và mô tả
- Phương pháp đối chứng, so sánh
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Phương pháp khảo sát, đánh giá.
5. Cách viết mở bài trong văn nghị luận.
5.1.Nhiệm vụ, nguyên tắc mở bài
Theo sách Làm văn 12 (sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000, NXB Giáo
dục. H. 2005), nhiệm vụ của mở bài là giới thiệu vấn đề sẽ được bàn luận
trong bài văn, đồng thời khêu gợi, lôi cuốn sự chú ý của người đọc đối với
vấn đề đó.
6


Mở bài trong văn nghị luận phải tuân theo nguyên tắc sau:
a) Phần mở bài cần nêu đúng vấn đề đặt ra trong đề bài. Nếu đề bài yêu
cầu giải thích, chứng minh, phân tích hay bình luận một ý kiến thì phần
mở bài phải dẫn lại nguyên văn ý kiến ấy.
b) Phần mở bài chỉ được phép nêu những ý khái quát. Học sinh không
được lấn sang phần thân bài, giảng giải, minh họa hay nhận xét ý kiến

nêu trong đề bài.
5.2. Cách mở bài
-

a.Mở bài trực tiếp: Giới thiệu ngay vấn đề cần nghị luận.

* Ưu điểm của cách mở bài này là: đi thẳng ngay vào bài nên tránh được sự
lan man, xa đề hoặc lạc đề; dễ vận dụng đối với các học sinh có kỹ năng lập
luận yếu; tiết kiệm được thời gian suy nghĩ cho người viết.
*Nhược điểm của cách mở bài này là ít tạo được không khí lôi cuốn cho
người đọc.
b. Mở bài gián tiếp: Nêu ra những ý liên quan đến vấn đề cần nghị luận để
khêu gợi rồi mới bắt vào vấn đề ấy.
*Ưu điểm của cách mở bài này là dễ lôi cuốn, hấp dẫn người đọc, khoe được
vốn kiến thức của người viết, nhưng nhược điểm là hơi dài dòng, dễ dẫn tới
lan man xa đề nếu không làm chủ được kiến thức, mặt khác lại tốn thời gian
suy nghĩ và không phù hợp với các học sinh có kĩ năng lập luận yếu.
Mở bài gián tiếp có bốn kiểu:
Mở bài theo kiểu diễn dịch: nêu lên những ý khái quát hơn vấn đề đặt ra
trong đề bài rồi mới bắt vào vấn đề ấy.
Mở bài theo kiểu qui nạp: nêu lên những ý nhỏ hơn vấn đề đặt ra trong đề
bài rồi tổng hợp lại thành vấn đề cần nghị luận.

7


Mở bài theo kiểu tương liên: nêu lên một ý giống như ý trong đề bài rồi bắt
sang vấn đề cần nghị luận. Ý được nêu ra trước thường là tục ngữ, ca dao,
danh ngôn hoặc những chân lí phổ biến, những sự kiện nổi tiếng.
Mở bài kiểu đối lập: nêu lên một ý trái ngược với ý trong đề bài rồi lấy đó

làm cớ để chuyển sang vấn đề cần nghị luận.
Học sinh có thể kết hợp các cách trên thành kiểu mở bài hỗn hợp.
Các cách mở bài gián tiếp có tác dụng khêu gợi sự chú ý của người đọc,
nhưng người viết cần tránh viết dài dòng, vòng vo, làm loãng vấn đề cần nghị
luận.
Kết cấu của đoạn mở bài theo cách gián tiếp gồm 3 phần:
Mở đầu đoạn: Viết những câu dẫn dắt có liên quan gần gũi với vấn đề chính
cần nghị luận. Tuỳ nội dung vấn đề cần nghị luận mà người viết lựa chọn câu
dẫn dắt có thể là một câu thơ, một câu danh ngôn, hoặc một câu chuyện kể…
Phần giữa đoạn: Nêu luận đề (nếu cảm nhận, bình giảng thơ thì thường là nêu
ấn tượng bao trùm mang tư tưởng chủ đề mà bản thân cảm nhận được).
Phần kết đoạn : Nêu phương thức nghị luận và phạm vi tư liệu sẽ trình bày.
Như vậy, một mở bài hay cần tránh:
Dẫn dắt vòng vo quá xa mới gắn được vào việc nêu vấn đề.
Tránh dẫn ý không liên quan đến vấn đề cần nghị luận.
Tránh nêu vấn đề quá dài dòng, chi tiết, có gì nói hết, thân bài lặp lại những
điều đã nói ở mở bài.
Một mở bài hay cần phải:
- Ngắn gọn (khoảng 3 – 4 câu)
- Đầy đủ (phải nêu được vấn đề cần nghị luận, phạm vi tư liệu, thao tác
nghị luận chính)
- Độc đáo (gây được sự chú ý cho người đọc về vấn đề cần nghị luận,
cách nêu khác lạ, bất ngờ cho người đọc)
8


- Tự nhiên ( ngôn từ giản dị, mộc mạc, tránh sáo rỗng, tránh gượng ép
vì dễ gây cho người đọc cảm giác khó chịu về sự giả tạo, mơ hồ).
5.3 Một số ví dụ thực hành rèn kĩ năng viết mở bài và kết bài cho kiểu
bài NLVH trong chương trình Ngữ văn 12 qua các bài tập

Giáo viên cung cấp một số đoạn văn mở bài, kết bài cho những đề bài
cụ thể, yêu cầu học sinh nhận diện xem đoạn văn đó thuộc về kiểu mở bài, kết
bài nào đã học.
Bài tâp 1: Phân tích bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.
Mở bài: Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được viết vào thời gian Hàn Mặc Tử
phát hiện mình đã mắc bệnh phong và đang trị bệnh ở Qui Nhơn, cách ly với
gia đình và tuyệt giao với bạn bè. Ra đời trong hoàn cảnh đó, bài thơ là nỗi
niềm tâm sự đau đớn, thiết tha của nhà thơ với cuộc đời và con người.
Gợi ý: mở bài kiểu trực tiếp.
Bài tập 2: Bình luận về mối quan hệ giữa văn học nghệ thuật và hiện thực
cuộc sống. Chứng minh bằng một số tác phẩm văn học.
Mở bài 1:
Có ai đó đã ví sáng tạo nghệ thuật như việc thả diều. Con diều dù có
bay bổng bao nhiêu vẫn phải gắn với mặt đất bằng một sợi dây vững chắc. Ý
tưởng ấy gợi cho ta nhiều suy nghĩ sâu sắc về mối quan hệ giữa văn học và
hiện thực cuộc sống. Hãy đến với một số tác phẩm văn học lớn, chúng ta sẽ
thấy rõ mối quan hệ máu thịt này.
Mở bài 2:

9


Thần thoại Hi Lạp còn để lại một câu chuyện đầy cảm động về chàng
lực sĩ Ăngtê và đất mẹ. Thần Ăngtê sẽ bất khả chiến bại khi chân chàng gắn
chặt vào lòng đất mẹ Gaia. Có thể ví mối quan hệ giữa văn học và hiện thực
cuộc sống như quan hệ giữa Ăngtê và đất mẹ vậy. Chưa tin ư, bạn hãy thử
đến với những tác phẩm văn học lớn mà xem.
Mở bài 3:
Trong một lần tâm sự với văn nghệ sĩ, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng
đã nói: “ Nghệ thuật phải bắt nguồn từ đời sống, thoát ly đời sống, nghệ thuật

nhất định sẽ khô héo”. Văn học là một loại hình cơ bản của nghệ thuật. Lời
tâm sự trên đã trực tiếp khẳng định mối quan hệ giữa văn học và hiện thực
cuộc sống. Phân tích một số tác phẩm văn học lớn, chúng ta sẽ thấy rõ điều
đó.
Gợi ý: mở bài kiểu gián tiếp (mở bài 1 và 2: tương liên, mở bài 3: diễn
dịch)
Bài tập 3: Tình cảnh khốn khổ và khát vọng của những người dân nghèo ở
xóm ngụ cư trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.
Mở bài: “Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm hay của nhà văn Kim
Lân. Qua tác phẩm, nhà văn đã cho chúng ta thấy được tình cảnh khốn khổ
và khát vọng của những người dân nghèo ở xóm ngụ cư.
(Bài làm của học sinh)
Gợi ý: mở bài trực tiếp.
Kết bài: “Vợ nhặt” là tác phẩm thể hiện được tư tưởng nhân đạo của nhà
văn. Qua truyện ngắn này, Kim Lân muốn khẳng định dù ở trong tình
10


cảnh bi thảm đến đâu, dù cận kề cái chết, người dân vẫn khát khao hạnh
phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống, hi vọng vào tương lai,
vẫn muốn sống cho ra con người.
(Bài làm của học sinh)

Gợi ý: kết bài tóm lược.
Bài tập 4: Suy nghĩ về hình tượng sóng và khát vọng tình yêu trong bài
thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh.
Mở bài 1: Tình yêu đôi lứa là một tình cảm vô cùng cao đẹp mà bất kì
con người nào cũng luôn luôn khát khao có được. Nỗi khát khao mãnh liệt ấy
đã được các nhà thơ thể hiện rất hình tượng, rất bay bổng trong các tác phẩm
của mình. Nếu như nhà thơ Nga Puskin nói lên khát vọng yêu đương của mình

bằng ngọn lửa tình rực cháy thì nữ thi sĩ Xuân Quỳnh lại chọn sóng – một
hình tượng mang nhiều ý nghĩa để gửi gắm khát vọng tình yêu của người con
gái trẻ.
(Bài làm của học sinh)
Gợi ý: mở bài kiểu tương liên.
Mở bài 2:

Đã hôn rồi hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt
11


(“Biển” – Xuân Diệu)
Nếu như khát vọng tình yêu của Xuân Diệu mạnh mẽ, quyết liệt và đầy
nam tính thì Xuân Quỳnh lại vô cùng đằm thắm, dịu dàng và đậm chất nữ tính
trong việc bộc lộ khát vọng tình yêu. Người đọc có thể nhận ra điều đó qua
hình tượng sóng trong bài thơ cùng tên của chị.
(Bài làm của học sinh)
Gợi ý: mở bài kiểu tương liên.
Kết bài 1: Hình ảnh những con sóng qua trang thơ Xuân Quỳnh hiện
lên thật sinh động và đầy sức gợi. Nó còn là hình ảnh ẩn dụ mà Xuân Quỳnh
đã mượn để gửi gắm những xúc cảm yêu đương cháy bỏng thiết tha của người
con gái. Bài thơ khép lại mà hình tượng sóng biển – sóng lòng vẫn gợn đều
trong trái tim mỗi người đọc, để lại ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp tâm hồn người
phụ nữ đang yêu.
(Bài làm của học sinh)
Gợi ý: Kết bài tóm lược.
Kết bài 2: Với hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã giúp người đọc nhận

ra sức sống, vẻ đẹp tâm hồn của người con gái khi yêu. Người con gái đó
mạnh dạn bày tỏ tình yêu, khát vọng và những rung động của tái tim mình.
Đó là khát vọng tình yêu thật chung thuỷ và mãnh liệt. Giống như Trần Đăng
Suyền đã nhận định: “ Sóng của Xuân Quỳnh, đó là cuộc hành trình khởi đầu,
là sự bỏ qua cái chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến một tình yêu bao la rộng lớn.
Cuối cùng là khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn hoá thân
vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở”.
12


(Bi lm ca hc sinh)
5.4 Kt qu ng dng vo thc tin
T nhng kinh nghim trờn chỳng tụi ó ng dng vo vic son ging mụn
lm vn lp 12( SGK chng trỡnh chun) bi Rốn luyn k nng m bi,
kt bi trong vn ngh lun
Rèn luyện kĩ năng mở bài, kết bài
trong bài văn nghị luận
I- Mục tiêu bài học
1. Kiến Thức:
- Hiểu một cách đầy đủ về chức năng của mở bài và kết
bài trong bài văn nghị luận.
- Nắm vững hơn các kiểu mở bài và kết bài thông dụng
trong văn nghị luận.
2. Kĩ năng.
Có ý thức vận dụng một cách linh hoạt các kiểu mở bài và
kết bài trong khi viết văn nghị luận.
Biết nhận diện những lỗi thờng mắc trong khi viết mở
bài, kết bài và có ý thức tránh những lỗi này.
3. Thái độ: Có ý thức xây dựng bài.
II- Chuẩn bị của GV và HS.

Sách giáo khoa, giáo án, phiếu học tập.
C- Tiến trình lên lớp
Hoạt động của

T gian

thầy và trò
Hoạt động 1: Tổ

20p

Nội dung cần đạt
I. Viết phần mở bài
13


chức rèn luyện kĩ
năng

viết

phần

mở bài

1. Tìm hiểu cách mở bài

1. GV tổ chức cho

- Đề tài đợc trình bày: giá


HS tìm hiểu các

trị nghệ thuật của tình

cách mở bài cho đề

huống truyện trong Vợ nhặt

bài: Phân tích giá

của Kim Lân.

trị nghệ thuật của

- Cách mở bài thứ 3: mở bài

tình huống truyện

gián tiếp, dẫn dắt tự nhiên,

trong tác phẩm Vợ

tạo ra sự hấp dẫn, chú ý và

nhặt (Kim Lân)

phù hợp hơn cả với yêu cầu

HS đọc kĩ các mở


trình bày đề tài

bài (SGK) phát biểu
ý kiến
2. GV lần lợt cho HS
phân tích các cách

2. Phân tích cách mở
bài

mở bài (SGK):

- Đoán định đề tài:

a) Đoán định đề

+ MB1: quyền tự do, độc

tài đợc triển khai
trong văn bản.

lập của dân tộc Việt Nam
+ MB2: Nét đặc sắc của

b) Phân tích tính

t tởng, nghệ thuật bài thơ

tự nhiên, hấp dẫn


Tống biệt hành của Thâm

của các mở bài.

Tâm.
+ MB3:

Những khám phá

HS thảo luận nhóm,

độc đáo, sâu sắc của Nam

trình bày trớc lớp

Cao về đề tài ngời nông
dân trong tác phẩm Chí
14


Phèo.
- Cả 3 mở bài đều theo
cách gián tiếp, dẫn đắt tự
nhiên, tạo đợc ấn tợng, hấp
dẫn sự chú ý của ngời đọc hớng tới đề tài.
3. Yêu cầu phần mở bài

3. Từ hai bài tập
trên, HS cho biết


- Thông báo chính xác,

phần mở bài cần

ngắn gọn về đề tài

đáp ứng yêu cầu gì

-

Hớng

ngời

đọc

(ngời

trong quá trình tạo

nghe) vào đề tài một cách

lập văn bản?

tự nhiên, gợi sự hứng thú với

HS

làm


việc



vấn đề đợc trình bày trong

nhân, phát biểu trớc
lớp
Hoạt động 2: Tổ

văn bản.
20p

II. Viết phần kết bài

chức rèn luyện kĩ
năng

viết

phần

kết bài

1. Tìm hiểu các kết bài

1. GV tổ chức cho

- Đề tài: Suy nghĩ của anh


HS tìm hiểu các

(chị) về nhân vật ông lái

kết bài (SGK) cho

đò trong tuỳ bút Ngời lái đò

đề bài: Suy nghĩ

sông Đà (Nguyễn Tuân)

của anh (chị) về

- Cách kết bài 2 phùh ợp

nhân vật ông lái đò

hơn với yêu cầu trình bày

trong tuỳ bút Ngời

đề tài: Đánh giá khái quát về

lái

ý nghĩa của hình tợng nhân

đò


sông

(Nguyễn Tuân)

Đà

vật ông lái đò, đồng thời gợi
15


HS đọc kĩ các kết

suy nghĩ, liên tởng sâu sắc

bài (SGK) phát biểu

cho ngời đọc.

ý kiến
2. GV lần lợt cho HS

2. Phân tích các kết bài

phân tích các kết

- Kết bài 1: Tuyên bố độc

bài (SGK)


lập và khẳng định quyết

HS đọc kĩ, thảo

tâm của toàn dân tộc Việt

luận nhóm, cử đại

Nam đem tinh thần, lực lợng,

diện trình bày.

tính mạng và của cải để giữ
vững độc lập.
- Kết bài 2: ấn tợng đẹp
đẽ, không bao giờ phai nhào
về hình ảnh một phố huyện
nghèo trong câu chuyện Hai
đức trẻ của Thạch Lam.
- Cả hai kết bài đều tác
động mạnh mẽ đến nhận
thức và tình cảm của ngời

3. Từ hai bài tập trên

đọc.
3. Yêu cầu của phần kết

anh (chị) hãy cho


bài

biết phần kết bài

- Thông báo về sự kết thúc

cần đáp ứng yêu

của việc trình bày đề tài,

cầu gì trong quá

nêu đánh giá khái quát của

trình tạo lập văn

ngời viết về những khía

bản?

cạnh nổi bật nhất của vấn

HS

làm

việc




nhân, phát biểu tr-

đề.
- Gợi liên tởng rộng hơn,
16


íc líp

s©u s¾c h¬n.

Qua thực tế giảng dạy, với phương pháp như trên học sinh đã có một
bước tiến bộ rõ rệt. Những học sinh trung bình có khả năng viết văn tốt hơn,
những học sinh yếu viết được phần mở bài mạch lạc, sáng sủa.
Kết quả cụ thể của học kỳ II như sau:
-Kết quả khảo sát đầu năm:
+ Lớp 12A : 35% trên TB
-Kết quả học kỳ I:
+ Lớp 12A : 48% trên TB
-Kết quả học kỳ II:
+ Lớp 12A : 51% trên TB
C. KÕt thóc vÊn ®Ò.
Tóm lại, để học sinh viết tốt phần mở bài nói riêng và bài văn nghị luận nói
chung, không chỉ đòi hỏi phương pháp giảng dạy của người giáo viên, mà
năng khiếu, kỹ năng viết văn vốn có của học sinh là rất quan trọng.
Tuy nhiên, phương pháp khoa học, phù hợp của giáo viên sẽ góp phần
không nhỏ trong việc nâng cao kết quả học tập của học sinh, nhất là môn văn
– một môn vừa đòi hỏi tư duy nhiều, vừa đòi hỏi năng khiếu thiên bẩm của
người học. Vì vậy theo tôi đây là một phương pháp rất bổ ích giúp học sinh
yếu, trung bình rèn luyện được cách viết văn – viết tốt bài văn nghị luận.

Trên đây là một kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã áp dụng thành công trong
quá trình giảng dạy. Tôi hy vọng phương pháp nầy sẽ được phổ biến và áp
dụng thành công trong tương lai ở nhiều giáo viên khác. Tuy nhiên, đó chỉ là
mong muốn chủ quan của người viết. Giá trị đích thực của phương pháp nµy
là ở sự đánh giá, áp dụng vào thực tiễn của các bạn đồng nghiệp. Rất mong
nhận được những ý kiến đóng góp chân tình của quý đồng nghiệp.
17


Xin ch©n thµnh c¶m ¬n !
XÁC NHẬN CỦA

Th¹ch Thµnh ngày 02 tháng 05 năm

2019
Ngêi viÕt

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Hoàng Tuấn
Minh

MỤC LỤC
A.ĐẶT VẤN ĐỀ ……………………………….. Trang 1
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ………………………Trang 4
1.Cơ sở lý luận……………………………….. … Trang 4
2. Cơ sở thực tiễn………………………………..Trang 5
3. Phạm vi nghiên cứu………………………..…Trang 6
4. Phương pháp nghiên cứu. ……………………Trang 6
5. Cách viết mở bài trong văn nghị luận. ………Trang 7

18


C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ ………………………Trang 16
D. TƯ LIỆU THAM KHẢO……………………Trang 17

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ngữ văn 12 (tập 1 và 2) - Sách giáo khoa – Bộ Giáo dục và đào tạo – NXB
Giáo dục - H. 2008.
2. Ngữ văn 12 (tập 1 và 2) - Sách giáo viên – Bộ Giáo dục và đào tạo – NXB
Giáo dục - H. 2008.
3. Làm văn 12 (Sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000) – Bộ giáo dục và đào tạo –
NXB Giáo dục – H.2005.
4. Dạy tập làm văn: Rất cần nhìn lại – Lê Xuân Mậu - Báo GD TPHCM
online - Thứ Tư, 24 Tháng chín 2008. Nguồn: Internet.
5. Tập làm văn phổ thông trung học – Tạ Đức Hiền – NXB Giáo dục –
1998.
6. Mạng Internet.

20



×