Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Hướng dẫn học sinh tiếp cận thể loại kí trong chương trình ngữ văn THPT theo hướng tích cực, chủ động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.86 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
Trang

1. MỞ ĐẦU……………….…………………….………………………....
1.1. Lí do chọn đề tài……………………….……………………...............
1.2. Mục địch nghiên cứu……….……………………………....................
1.3. Đối tượng nghiên cứu…...……………....……………….....................
1.4. Phương pháp nghiên cứu…...……………………………..…………..
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM…………………..….
2.1. Cơ sở lí luận………………………………………………….………..
2.2. Thực trạng vấn đề…………..……………………….…………………
2.3. Giải pháp thực hiện………………………………………….………...
Phần I: Một số yêu cầu khi hướng dẫn học sinh Đọc- hiểu các tác phẩm văn
học viết theo thể loại kí
1. Bám sát đặc trưng thể loại là con đường ngắn nhất giúp học sinh Đọc-hiểu
tác phẩm văn chương viết theo thể loại kí một cách tích cực, chủ động
2. Bám sát đặc điểm phong cách nghệ thuật tác giả
3. Rèn luyện phương pháp đọc văn cho học sinh

2
2
2
2
2
2
2
3
3
3
4
6



6
4. Trong quá trình dạy cần kết hợp sử dụng phương pháp và dụng cụ trực 7
quan
5. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa
8
6. Áp dụng phương pháp lấy học sinh làm trung tâm nhằm phát huy sự sáng 8
tạo, sự tích cực chủ động của học sinh trong việc lĩnh hội kiến thức ở giờ học
văn.
Phần II: Một số định hướng khi tiếp cận bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng 9
sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường
1. Định hướng khai thác bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng 9
Phủ Ngọc Tường
2. Giáo án minh hoạ
11
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ……………………..…………………….
18
3.1. Kết luận….………………………………………………………...
18
3.2. Kiến nghị……..……………………………………………………
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO….………………………………………………
21

1. MỞ ĐẦU

1


1.1. Lí do chọn đề tài

Cách đây hơn hai thập kỉ, bàn về dạy văn cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã
nói: “Chúng ta phải xem lại cách dạy văn trong nhà trường phổ thông của ta, không
nên dạy như cũ, bởi vì dạy như cũ thì không chỉ việc dạy văn không hay mà sự đào
tạo cũng không hay. Vì vậy, dứt khoát chúng ta phải có cách dạy khác”. Quả đúng
như vậy, dạy văn là sự giải mã một cách nghệ thuật những cái vô hình sau cái hữu
hình, cái im lặng sau cái âm thanh, cái thần thái của mỗi con chữ, cái đa nghĩa, cái
lấp lửng, cái không xác định... Có thể nói, dạy văn không chỉ đơn thuần là dạy kiến
thức mà còn là sự bồi dưỡng tâm hồn. Sau mỗi giờ học, giáo viên làm cho học sinh
rung động yêu đời, yêu cuộc sống và lớn lên thêm một chút trong nhận thức.
Nhưng thực tế hiện nay môn văn trong nhà trường đối với học sinh không lấy gì
làm hấp dẫn.. Khi các em không còn hứng thú với môn văn nên thầy cô cũng dễ bị
mất đi niềm say xưa truyền đạt kiến thức đến cho học sinh.
Từ những vấn đề nêu trên, thông qua thực tế giảng dạy của bản thân với
những khó khăn gặp phải khi trực tiếp đứng lớp hướng dẫn học sinh, cùng với sự
trao đổi kinh nghiệm của các đồng nghiệp, tôi xin giới thiệu đề tài sáng kiến kinh
nghiệm: Hướng dẫn học sinh tiếp cận thể loại kí trong chương trình Ngữ văn
THPT theo hướng tích cực, chủ động.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Khi lựa chọn đề tài này, trước tiên là giúp học sinh có hứng thú và dễ tiếp cận
hơn thể loại kí trong chương trình Ngữ văn THPT, sau là giúp các em dù học lực
trung bình và yếu có thể tiếp cận được một cách nhanh nhất, dễ hiểu nhất, từ đó tự
tin, tích cực học tập để đạt kết qủa cao trong các kỳ thi.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng để tôi nghiên cứu, xây dựng nên đề tài này chính là những đặc
trưng, đặc điểm của thể loại Kí trong chương trình Ngữ văn THPT.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài này, phương pháp mà tôi sử dụng là phương pháp đọc
hiểu tác phẩm văn chương dựa vào đặc trưng thể loại và bám sát đặc điểm phong
cách nghệ thuật của tác giả, kết hợp sử dụng phương pháp và dụng cụ trực quan.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2.1. Cơ sở lí luận
Trong quá trình dạy văn, mỗi thể loại có đặc trưng riêng và cách dạy, cách tiếp
cận khác nhau. Đối với các tác phẩm là truyện ngắn, tiểu thuyết và thơ thì việc
truyền đạt tương đối thuận lợi hơn bởi trong những thể loại này “chất văn” đã giúp
cho thầy cô làm tốt được công việc của mình. Đối với học sinh các em cũng hứng
thú và dễ tiếp cận hơn thông qua hệ thống nhân vật, cốt truyện, hình tượng
thơ...Nhưng riêng các tác phẩm văn học viết theo thể loại kí thì ngược lại, việc dạy
các tác phẩm văn chương theo các thể loại quen thuộc như: Thơ; Truyện ngắn; Tiểu
thuyết... đã khó thì việc dạy các tác phẩm văn chương theo thể kí lại càng khó hơn

2


bởi giảng dạy các tác phẩm văn chương theo thể kí đòi hỏi người giáo viên phải
bám chắc đặc trưng cơ bản của thể kí đó là tính xác thực. Nếu người giáo viên chỉ
bằng lòng với kiến thức có sẵn trong văn bản do tác giả cung cấp thì khó có thể
giảng hay và giờ học sẽ diễn ra rất khô khan, học sinh sẽ rất khó tiếp nhận được tác
phẩm bởi trong suốt một quá trình dài trước đó, học sinh chủ yếu được học các tác
phẩm văn xuôi thiên về tự sự. Dần dần, cảm xúc và nhận thức của các em đã quen
hướng theo cốt truyện, hệ thống nhân vật, tình tiết... đến khi cần cảm thụ một tác
phẩm văn xuôi giàu chất trữ tình, nghĩa là không còn những căn cứ quen thuộc để
bấu víu chắc chắn các em sẽ gặp lung túng và mất phương hướng. Và hậu quả là cả
người dạy lấn người học đều “ngán” những tác phẩm văn học viết theo thể kí. Vì
không thật sự hứng thú nên việc truyền đạt và tiếp nhận trên lớp học đối với những
tác phẩm thuộc thể loại kí khó lòng đạt được kết quả như mong muốn.
Với những thực tế đó đỏi hỏi giáo viên có những phương pháp nghiên cứu nhất
định để giúp học sinh hiểu rõ và vận dụng để làm một bài văn thuộc thể loại Kí đạt
kết quả cao nhất.
2.2. Thực trạng vấn đề
Trong những năm gần đây, tình hình học sinh ngại học văn nói chung và ngại

học các tác phẩm văn học viết theo thể loại kí nói riêng ngày càng trầm trọng. Thực
tế cho thấy, cứ đến các tiết học thuộc các tác phẩm viết theo thể loại kí các em
thường tỏ ra ngại học, uể oải và thường hay kêu ca. Sau khi học xong, một thời
gian kiểm tra lại thì kiến thức của các em rất mơ hồ. Từ thực trạng đó, là người
trong cuộc chúng ta không thể không đặt ra vấn đề về hiệu quả của việc dạy học
văn nói chung và dạy các tác phẩm văn học theo thể loại kí nói riêng. Cho đến nay
đã có những công trình nghiên cứu cơ bản cũng như phương pháp giảng dạy có liên
quan bàn về vấn đề này như: Giáo trình Lí luận văn học của Hà Minh Đức; Phương
pháp dạy học văn của Phan Trọng Luận....và một số bài viết trên các tạp chí khác.
Tuy nhiên, chất lượng dạy và học ở các tác phẩm văn học viết theo thể loại kí vẫn
chưa được cải thiện nhiều. Điều đó chứng tỏ những tìm tòi nghiên cứu đó vẫn chưa
đáp ứng yêu cầu hoặc chưa có tính khả thi. Vì vậy, hòa chung với việc đổi mới
phương pháp dạy và học đang diễn ra trong toàn ngành hiện nay nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học, từ thực tế giảng dạy của bản thân và trao đổi, rút kinh
nghiệm của đồng nghiệp, tôi mạnh dạn giới thiệu đề tài sáng kiến kinh nghiệm:
Hướng dẫn học sinh tiếp cận thể loại kí trong chương trình Ngữ văn THPT theo
hướng tích cực, chủ động.
2.3. Giải pháp thực hiện
Phần I: Một số yêu cầu khi hướng dẫn học sinh Đọc- hiểu các tác phẩm
văn học viết theo thể loại kí.
Có lẽ trong chúng ta không ai còn nghi ngờ về tầm quan trọng của việc
đổi mới phương pháp dạy học văn ở nhà trường phổ thông bởi thực tế cho thấy,
việc dạy văn lâu nay ở nhiều giáo viên hình như còn giang dở, chưa đi trọn đường

3


phải đi dù vẫn đủ năm bước lên lớp. Có người nói vui rằng “Dạy học chỉ cần hai
bước, đó là bước vào dạy cho thật tốt rồi bước ra”. Một câu nói vui nhưng cũng
đáng để nhiều người phải suy nghĩ. việc dạy văn trong nhà trường có lẽ vẫn là giúp

cho học sinh hiểu được nội dung của sáng tác văn chương từ đó nâng cao trình độ
nhận thức, bồi dưỡng tâm hồn cho các em. Việc để cho học sinh trực tiếp tiếp xúc
với cái đẹp, với nội dung phong phú của tác phẩm là quan trọng nhất, nhưng đa số
giáo viên lại không làm như vậy mà chỉ cho học sinh cảm thụ tác phẩm theo cảm
thụ của mình. Một số lại có xu hướng cung cấp kiến thức về văn chương hơn là
giảng cho học sinh thấy và say mê với cái hay, cái đẹp do tác phẩm mang lại bởi
hiệu quả của một giờ dạy không phải chỉ là khối lượng kiến thức mà còn ở phương
pháp phát huy năng lực của học sinh.
Theo nghiên cứu của một giáo sư giáo dục người Thụy Điển thì giáo viên Tự
nhiên tối thiểu nghiên cứu 17 tiết để dạy cho một tiết, còn giáo viên Xã hội thì tỉ lệ
là 29 tiết/1tiết. Nhưng ở Việt Nam hiện nay người ta tính được rằng, giáo viên xã
hội chỉ có 5tiết/1tiết, vậy tiết dạy có phong phú, sinh động được hay không? Cái sợ
nhất của người giáo viên là nói những điều học sinh biết ngang mình. Muốn dạy
văn hay phải có thủ thuật, nghĩa là phải biết kết hợp và dựa vào thành tựu của nhiều
môn học khác như: Triết học; Ngôn ngữ học; Lịch sử; Địa lí; Văn hóa....Muốn vậy,
người giáo viên phải không ngừng tìm tòi, học hỏi để nâng cao vốn hiểu biết và
năng lực chuyên môn của mình nhằm tìm ra phương pháp tối ưu, phù hợp với từng
thể loại và áp dụng nó vào thực tế giảng dạy của mình để đạt hiệu quả dạy và học
cao nhất.
1. Bám sát đặc trưng thể loại là con đường ngắn nhất giúp học sinh Đọc - hiểu
tác phẩm văn chương viết theo thể loại kí một cách tích cực, chủ động
Một trong những phương pháp đọc hiểu tác phẩm văn chương là bám sát đặc
trưng thể loại. Khi đọc hiểu các tác phẩm văn học viết theo thể loại Kí cũng không
nằm ngoại lệ. Vì vậy khi dạy các tác phẩm văn học viết theo thể loại kí giáo viên
cần tìm hiểu kiến thức chung về thể loại Kí để nắm vững đặc trưng thể loại này, nếu
cần phải phân biệt đặc điểm của thể loại này với những thể loại văn xuôi khác như:
Truyện, Kịch, Văn chính luận…để từ đó giúp học sinh nắm vững đặc trưng thể loại
khi tiếp cận tác phẩm.
Kí là một loại hình trung gian, nằm giữa báo chí và văn học dùng để ghi chép
về con người, sự vật, phong cảnh... Kí gồm nhiều thể, chủ yếu là văn xuôi tự sự

như bút kí, hồi kí, du kí, phóng sự, kí sự, nhật kí, tuỳ bút…Mỗi thể loại lại có đặc
điểm riêng.
Kí có đặc trưng riêng do nội dung và quan điểm thể loại của Kí quy định. Kí
có quan điểm thể loại là tôn trọng sự thật khách quan của đời sống. Nhà văn viết Kí
luôn đảm bảo cho tính xác thực của hiện tượng đời sống được phản ánh trong tác
phẩm. Sự việc và con người trong Kí phải xác thực hoàn toàn, có địa chỉ rõ ràng.
Đó là vì Kí dựng lại những sự thật đời sống cá biệt một cách sinh động, chứ không

4


xây dựng các hình tượng mang tính khái quát. Tính khái quát do tác giả Kí thể hiện
bằng suy tưởng.
Như vậy: để viết một bài Kí không khó, nhưng để có một bài Kí hay thì không
phải chuyện dễ. Và để khai thác một bài Kí đặc sắc lại càng khó hơn với người đọc,
nhất là đối với học sinh phổ thông.
Trong chương trình lớp 12 có hai bài kí thuộc thể loại Tuỳ bút và Bút kí, cho
nên để dạy có hiệu quả thì việc tìm hiểu khái niệm 2 thể loại trên cũng là rất cần
thiết.
Tuỳ bút tự do, phóng túng, tính chủ quan, chất trữ tình rất đậm, nhân vật chính
là cái Tôi của nhà văn. Cho nên sự hấp dẫn của tuỳ bút chủ yếu là ở sự hấp dẫn của
cái Tôi ấy. Vì vậy, khi đọc - hiểu bài văn thuộc thể loại này phải cảm nhận được sự
hấp dẫn của cái Tôi tác giả phong phú, uyên bác, sâu sắc, độc đáo, tài hoa và có
duyên đến mức nào? Tuỳ theo cái Tôi của tác giả mà Tuỳ bút có loại thiên về triết
lí, có loại thiên về thông tin khoa học (Văn hóa, lịch sử, địa lí, hay phong tục…) có
loại thiên về mô tả phong cảnh, cũng có loại thuần tuý trữ tình. Căn cứ vào đặc
điểm này, Giáo viên cũng cần định hướng cho Học sinh xác định bài tuỳ bút đang
tìm hiểu có chủ đề như thế nào? Đọc - hiểu tuỳ bút mà không cảm nhận được chất
trữ tình đậm đà của cái Tôi tác giả là chưa biết đọc tuỳ bút. Do đó, căn cứ vào đặc
điểm riêng của thể loại tuỳ bút, Giáo viên đã có thể định hướng được cách khai thác

thể Kí, phải hiểu được chất trữ tình, tính chủ quan, và cái Tôi của tác giả gửi gắm
trong bài Kí.
Bút kí là thể loại ghi lại những con người và sự việc mà nhà văn đã tìm hiểu
nghiên cứu cùng với những cảm nghĩ của mình nhằm thể hiện một tư tưởng nào đó.
Sức hấp dẫn và thuyết phục của Bút kí tuỳ thuộc vào tài năng, trình độ quan sát,
nghiên cứu khám phá, sự diễn đạt của tác giả đối với các sự kiện được đề cập đến
nhằm khám phá ra những khía cạnh “Có vấn đề”; những ý nghĩa mới mẻ, sâu sắc
trong các va chạm giữa tính cách và hoàn cảnh, cá nhân và môi trường. Nói cách
khác, giá trị hàng đầu của Bút kí là giá trị nhận thức. Bút kí có thể thiên về khái
quát các hiện tượng đời sống có vấn đề, hoặc thiên về chính luận. Xuất phát từ cách
hiểu chung nhất về Bút kí, người đọc Bút kí phải xác định được sự thật mà tác giả
ghi chép trong bài là gì? Tác giả có những nhận xét độc đáo, đặc sắc ra sao? Có
những cảm xúc chân thành, sâu sắc như thế nào? Nghĩa là phải hiểu cái Tôi tài hoa,
trữ tình, độc đáo của tác giả thể hiện qua bài Bút kí.
Tóm lại, phương pháp đọc hiểu tác phẩm văn chương dựa vào đặc trưng thể
loại là một cách thức không thể thiếu. Có thể coi phương pháp này là định hướng
cần thiết thứ nhất khi khai thác thể Kí. Giáo viên cần nắm vững kiến thức lí luận về
thể loại để xác định yêu cầu cần đạt khi tiếp cận một bài văn thuộc thể Kí. Mặt
khác, đặc trưng thể loại giúp giáo viên phân biệt sự khác nhau giữa các thể loại.
Bởi vì các loại hình nghệ thuật khác nhau đều có mục đích cần đạt khác nhau.
2. Bám sát đặc điểm phong cách nghệ thuật tác giả

5


Phương pháp thứ hai cũng vô cùng quan trọng và cần thiết khi tìm hiểu thể Kí,
đó là bám sát đặc điểm phong cách nghệ thuật của tác giả. Bởi vì, mỗi nhà văn đều
có phong cách sáng tạo nghệ thuật riêng, có cái Tôi chủ quan và cảm xúc trữ tình
riêng. Ví dụ như:
Với nhà văn Nguyễn Tuân, vẻ đẹp tài hoa và sự uyên bác luôn được khẳng

định trong các tác phẩm của ông. Trong những bài Tuỳ bút về miền Tây Tổ quốc,
Nguyễn Tuân đặc biệt chú ý khám phá, ngợi ca chất vàng mười của tâm hồn con
người trên cái nền phong cảnh tuyệt vời của Tây Bắc. Vì vậy, khi hướng dẫn học
sinh đọc hiểu trích đoạn tiêu biểu cho Tuỳ bút Nguyễn Tuân không thể không cảm
nhận được vẻ đẹp sự tài hoa và vốn hiểu biết uyên bác của nhà văn. Đặc biệt, phải
cảm nhận được: Chất vàng mười ấy được Nhà văn phát hiện và ngợi ca như thế
nào? Tuỳ bút của Nguyễn Tuân lại có sự kết hợp với yếu tố tự sự. Tác giả đã xây
dựng những nhân vật tài hoa nghệ sĩ hoặc là anh hùng trong chiến đấu hoặc là anh
hùng lao động trong thời kì đổi mới. Vì vậy, khi đọc – hiểu Tuỳ bút của Nguyễn
Tuân phải hiểu được dụng ý nghệ thuật của yếu tố tự sự ấy.
Với Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường thì nét đặc sắc trong sáng tác của ông là
ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén
với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về Triết học, Văn
hóa, Lịch sử, Địa lí… Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích,
mê đắm và tài hoa. Xuất phát từ việc nắm vững đặc điểm văn phong của Hoàng
Phủ Ngọc Tường, khi đọc - hiểu cụ thể bài Bút kí: “Ai đã đặt tên cho dòng sông”
Chúng ta cần lưu ý cảm nhận được vốn hiểu biết phong phú, chính xác, cảm xúc trữ
tình mê đắm và nghệ thuật biểu hiện vừa ngắn gọn, rõ ràng vừa hấp dẫn, thuyết
phục của tác giả.
Như vậy, đọc - hiểu thể Kí cần phải bám sát phong cách nghệ thuật của nhà
văn là cách định hướng thứ hai khi khai thác thể loại này. Chỉ căn cứ vào phong
cách nghệ thuật của tác giả mới khám phá được nét đặc sắc, độc đáo của cái Tôi tác
giả gửi gắm ở trong bài. Chính phong cách nghệ thuật độc đáo tạo nên sức hấp dẫn
trong quá trình sáng tạo của mỗi nhà văn.
3. Rèn luyện phương pháp đọc văn cho học sinh
Để đạt được mục tiêu giảng dạy, nhiệm vụ của môn Văn, cụ thể là của người
giáo viên văn học, ngoài việc cung cấp những tri thức cơ bản cần phải giúp học
sinh có được kỹ năng, năng lực và phương pháp tự học tốt nhất. Muốn vậy, trước
hết, cần hướng dẫn để học sinh nắm được phương pháp đọc hiểu và sử dụng nó một
cách hiệu quả trong quá trình học tập và nghiên cứu. Bởi vì đây là phương pháp mà

học sinh có thể sử dụng để học tập, nghiên cứu và làm việc trong suốt cuộc đời.
Đọc văn chương là quá trình thâm nhập và tháo gỡ mã của các kí hiệu văn
chương trong văn bản, là việc tìm hiểu ý nghĩa của tác phẩm thông qua các cấu trúc
của văn bản, là quá trình phát hiện và sáng tạo… Để làm đươc điều này, giáo viên
cần tạo cho học sinh một số thói quen sau khi đọc tác phẩm văn học:

6


Trong giờ giảng văn không chỉ có thầy đọc mà thầy phải có trách nhiệm tập
luyện cho học sinh thói quen đọc đúng, đọc diễn cảm văn bản bởi vì đọc chính là
khâu đầu tiên giúp học sinh cảm nhận tác phẩm văn chương bằng chính giọng đọc
của mình để cảm thụ đúng tác phẩm, cảm thụ cái hay của tác phẩm thông qua sự
ngân vang của nó trong cảm xúc. Đây là yếu tố quan trọng để học sinh đến được và
dần hiểu tác phẩm vản chương. Một giờ giảng văn mà cả thầy lẫn trò đều có giọng
đọc tốt sẽ truyền được cảm xúc của mình từ tác phẩm đến cho học sinh.
Rèn cho học sinh thói quen đọc tác phẩm cẩn thận, kỹ càng, đọc đúng đọc,
diễn cảm để tự cảm nhận tác phẩm, đồng thời với việc đọc có suy nghĩ là thói quen
gạch chân và ghi lại những đoạn hay của tác phẩm.
Thói quen ghi nhớ, suy ngẫm tác phẩm, những câu, đoạn mà mình tâm đắc
nhất.
Thói quen liên tưởng, liên hệ, tích hợp với những vấn đề, những tác phẩm
khác có liên quan đến những giá trị cơ bản trong tác phẩm đang học.
Thói quen lật đi lật lại vấn đề quan trọng khi cảm nhận phân tích tác phẩm.
Thói quen cảm nhận tác phẩm theo nhiều chiều, nhiều khía cạnh khi đọc tác
phẩm chứ không máy móc thụ động; phải tập trung suy nghĩ, phát hiện những điều
mới lạ ở tác phẩm khi đọc, khi cảm nhận nó thông qua sự dẫn dắt gợi ý của thầy cô,
có nghĩa là phải có sự cảm nhận của riêng mình.
Từ những vấn đề trên có thể thấy với môn Ngữ văn nói chung chứ không
riêng gì các tác phẩm văn học viết theo thể kí, việc dạy học sinh biết cách đọc, cách

phân tích và tiếp nhận một tác phẩm văn học là việc làm cần thiết và quan trọng.
Để làm được điều này cả thầy và trò cần có sự đầu tư rèn luyện để hình thành thói
quen.
4. Trong khi dạy cần kết hợp sử dụng phương pháp và dụng cụ trực quan
Không phải chỉ ở bậc tiểu học và THCS mới cần sử dụng phương pháp và
dụng cụ trực quan, học sinh THPT tuy sắp đến tuổi trưởng thành nhưng vẫn chưa
có nhiều kinh nghiệm, vốn sống thực tế, nhất là trong điều kiện đời sống xã hội
hiện nay. Vì thế, những dụng cụ trực quan rất có ích cho việc hình dung, tưởng
tượng, tái hiện không khí, bối cảnh và tạo rung cảm cho học sinh trong quá trình
phân tích tác phẩm. Đặc biệt đối với các tác phẩm văn học viết theo thể loại kí thì
yêu cầu này lại càng quan trọng.
Ví dụ như, khi dạy bài “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân có thể cho
các em xem các đoạn phim tư liệu về dòng sông, về thiên nhiên và con người Tây
Bắc... hay khi dạy bài “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường
cũng có thể cho các em xem phim tư liệu về dòng sông Hương và mảnh đất xứ
Huế, hoặc có thể sử dụng bản đồ du lịch thành phố Huế giúp người đọc có thể hiểu
một cách dễ dàng hơn cái hay, cái đẹp của tác phẩm thông qua những kiến thức
chính xác về mặt Địa lí, về dòng chảy của dòng sông Hương.

7


Tuy nhiên cần lưu ý, việc sử dụng dụng cụ trực quan không phải là việc làm
tùy tiện mà đòi hỏi người giáo viên một sự nhạy cảm và đầu tư cao.
5. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa
Các hình thức của hoạt động ngoại khóa và khả năng giáo dục của nó là điều
không ai phủ nhận. Do đó, cần có kế hoạch áp dụng hình thức này vào quá trình
dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường phổ thông, đặc biệt là khi dạy các
tác phẩm văn học viết theo thể loại kí. Thông qua hoạt động ngoại khóa văn học,
học sinh được phát triển cân đối về trí tuệ, đạo đức, thể dục và thẩm mỹ.

Với các tác phẩm kí, có thể tổ chức thuyết trình, đọc và giới thiệu các tác
phẩm ký khác của cùng một tác giả hoặc của một số tác giả khác cùng giai đoạn
văn học. Cũng có thể tổ chức cho học sinh làm báo tường, tham quan, xem phim tài
liệu, …
6. Áp dụng phương pháp lấy học sinh làm trung tâm nhằm phát huy sự tích
cực chủ động của học sinh trong việc lĩnh hội kiến thức ở giờ học văn.
Lâu nay trong quá trình dạy và học người giáo viên luôn đóng vai trung tâm,
chủ đạo. Khi lên lớp phần lớn thời gian của tiết học là người giáo viên thuyết trình
kiến thức còn học sinh ở vị trí thụ động ngồi nghe và ghi chép. Làm như vậy sẽ
không phát huy được tính tích cực, chủ động trong việc học, trong việc chiếm lĩnh
tri thức của học sinh. Trong quá trình dạy, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, chúng
ta nên trao cho học sinh cơ hội được phát huy hết được năng lực của mình, để tích
cực và chủ động hơn trong việc lĩnh hội tri thức bởi đó là tiền đề để sau này các em
có rời khỏi ghế nhà trường các em vẫn phát huy được khả năng tự học của mình.
Vậy làm thế nào để phát huy sự sáng tạo, sự tích cực, chủ động của học sinh trong
giờ học văn? Đó quả là một vấn đề mà bấy lâu nay nhiều đồng nghiệp đang trăn trở
đi tìm lời giải đáp. Qua những năm giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở trường THPT, tôi
thấy rằng để có được một giờ giảng văn trọn vẹn quả thật là khó bởi vì đó là cả một
nghệ thuật. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là chúng ta hoàn toàn không thể
có được những giờ dạy, bài giảng thành công. Đặc biệt là đối với các giờ học tác
phẩm viết theo thể loại kí mà lâu nay cả giáo viên và học sinh đều không mấy hứng
thú. Với những gì đã làm, đã học tập ở đồng nghiệp và tiếp xúc với các khoá học
sinh, tôi thấy rằng, chúng ta có thể giúp cho học sinh rèn luyện tư duy sáng tạo, tạo
nên sự tích cực chủ động khi tiếp xúc với tác phẩm văn chương nói chung và đối
với các tác phẩm văn học viết theo thể loại kí nói riêng qua một số vấn đề, một số
thao tác sau đây:
Trong giờ giảng văn đối với các tác phẩm văn học viết theo thể loại kí mà lâu
nay học sinh vốn cho là khô khan khó học, trước khi giảng giáo viên có thể dùng
lời kể hoặc lời dẫn kết hợp với một số hình ảnh, đoạn phim, bài hát, câu thơ minh
hoạ để tạo tâm thế thoải mái, giúp học sinh có điều kiện thâm nhập được vào tác

phẩm, vào bài dạy một cách hứng thú.

8


Ví dụ: Giảng bài “Ai đã dặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường,
ta có thể dẫn dắt học sinh bằng lời giới thiệu, lời dẫn về con sông Hương của Huế ở
vẻ đẹp tự nhiên, văn hoá, lịch sử; hoặc cho học sinh nghe đoạn nhạc “Dòng sông ai
đã đặt tên?” kết hợp một số hình ảnh về sông Hương, xứ Huế và hỏi cảm nhận của
học sinh về dòng Hương.
- Phải khơi gợi ở học sinh sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú từ những gì
đã có trong văn bản bằng hệ thống câu hỏi có khả năng tạo được tâm lí thoải mái
trong tư duy của các em khi tiếp cận tác phẩm ở các dạng câu hỏi từ khái quát đến
cụ thể, từ khẳng định đến gợi mở, định hướng.
Ví dụ: Khi tìm hiểu về vẻ đẹp của dòng sông Hương trong bài bút kí “Ai đã
dặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, giáo viên có thể đưa ra câu
hỏi gợi mở: Từ kiến thức thực tế, từ sự chuẩn bị bài ở nhà em hay nêu hiểu biết và
cảm nhận của mình về dòng song Hương?; hay ở đoạn kết giáo viên có thể sử dụng
phần huyền thoại lí giải về nguồn gốc tên của dòng sông để đặt câu hỏi: Em hãy kể
lại huyền thoại về cách lí giải nguồn gốc tên của dòng sông Hương?, để từ đó giúp
học sinh hiểu rõ hơn vẻ đẹp của sông Hương và ý nghĩa nhan đề tác phẩm.
Trong quá trình dạy, để phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong
tiếp cận tác phẩm, giáo viên nên rèn cho học sinh thói quen làm việc theo nhóm.
Khi phân tích tác phẩm, đặc biệt là những tác phẩm viết theo thể loại kí lau nay vôn
khó đối với học sinh, giáo viên nên nêu vấn đề và chia nhóm cho họpc sinh thảo
luận và trình bày ý kiến của nhóm, cho các nhóm khác nhận xét, bổ sung sau đó
giáo viên nhận xét tổng hợp vấn đề và chuẩn xác kiến thức.
Ví dụ: Khi tìm hiểu về vẻ đẹp của dòng sông Hương trong bài bút kí “Ai đã
dặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, giáo viên có thể chia nhóm
cho học sinh thảo luận vấn đề ở các khía cạnh như: Nhóm 1: Tìm hiểu vẻ đẹp của

sông Hương từ góc nhìn địa lí; nhóm 2: Tìm hiểu vẻ đẹp của sông Hương từ góc
nhìn lịch sử; nhóm 3: Tìm hiểu vẻ đẹp của sông Hương từ góc nhìn văn hoá….
Phương pháp “lấy học sinh làm trung tâm” thực chất là phương pháp đề cao,
chú trọng vai trò của học sinh trong quá trình dạy học.Cố thủ tướng Phạm Văn
Đồng từng nói: “Phương pháp này là cực kỳ quý báu bởi lẽ nó giúp cho người học
sau khi ra đời vẫn muốn và vẫn có thể tiếp tục tự học mãi.”. Vì vậy chúng ta cần có
cách nhìn nhận lại vai trò của cả người dạy lẫn người học trong giờ học văn để có
kết quả dạy và học tốt nhất.
Phần II: Một số định hướng khi tiếp cận bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng
sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
1. Một số định hướng khai thác bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông”
của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Căn cứ trên một số yêu cầu đã đưa ra về cách khai thác các tác phẩm văn học
viết theo thể loại kí, tôi xin đưa ra một số định hướng khi khai thác bài bút kí “Ai
đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong chương trình ngữ văn

9


12, tập 1. Cách định hướng này đã được tôi thử nghiệm trong quá trình trực tiếp
đứng lớp của mình và bước đầu đã đạt được hiệu quả. Song, chắc chắn vẫn còn
nhiều điều bất cập muốn trao đổi, rút kinh nghiệm với các đồng nghiệp.
Bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường thuộc
thể loại bút kí với đặc trưng là: Ghi chép những điều tai nghe mắt thấy và cảm xúc
của người viết trước các hiện tượng trong cuộc sống. Bài Bút kí của Hoàng phủ
Ngọc Tường là bài văn ghi chép về dòng sông Hương, vì vậy trước khi đọc - hiểu
chi tiết chúng ta đã có thể định hướng được mục đích khi khai thác bài Kí này đó
là: Thông tin chính xác về dòng sông và cảm xúc của tác giả đối với dòng sông quê
hương. Để tiếp tục có hướng khai thác cụ thể hơn nữa, chúng ta căn cứ vào đặc
điểm phong cách của nghệ thuật của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tác giả đã

ghi chép về dòng sông bằng nhiều kiến thức, bằng nhiều hiểu biết phong phú, bằng
cách cảm nhận rất tài hoa, tình cảm yêu mến, tự hào. Tất cả được nhà văn trình bày
mạch lạc, rõ ràng, dễ hiểu mà lôi cuốn hấp dẫn qua từng đoạn mang tính chất nghị
luận sắc bén. Trong quá trình đọc - hiểu chi tiết từng đoạn, Giáo viên lần lượt cho
học sinh hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của bài Bút kí với những định hướng cụ
thể ở trên.
Sau khi đọc và cảm nhận chung về bài Bút kí, giáo viên tổ chức cho học sinh
hình dung dòng chảy sông Hương từ thượng nguồn đến hạ lưu; các phương diện
mà tác giả ghi chép về Sông Hương: đó là Địa Lí, Lịch Sử, Thơ ca, Văn hóa… và
đây sẽ là các tiêu chí đọc - hiểu chi tiết từng đoạn, từng ý ở trong bài. Ví dụ Giáo
viên có thể đặt câu hỏi: Qua việc đọc tác phẩm ở nhà Anh (Chị) hình dung dòng
chảy Sông Hương qua đoạn ghi chép của tác giả như thế nào? Gợi ý thêm: Chảy từ
đâu đến đâu? Qua các địa danh nào? Đoạn nào được ghi chép chủ yếu?...
Trước hết, về phương diện Địa Lí, bài Bút kí cung cấp cho người đọc kiến
thức tự nhiên về dòng chảy Hương Giang chia làm 2 đoạn rõ ràng: Đoạn thượng
nguồn trong mối quan hệ với dãy Trường Sơn; Đoạn hạ lưu trong mối quan hệ với
kinh thành Huế.
Đối với đoạn chảy trong mối quan hệ với dãy Trường Sơn, tác giả không chỉ
ghi chép cho người đọc thấy cường độ dòng chảy, địa hình hiểm trở, hùng vĩ mà
nhà văn đã cảm nhận bằng tâm hồn say mê, bằng sự thấu hiểu dòng sông như một
sinh thể gần gũi, gắn bó.
Đối với đoạn chảy trong mối quan hệ với kinh thành Huế, để học sinh dễ hình
dung về phương diện Địa Lí, giáo viên có thể sưu tầm thêm bản đồ tự nhiên Việt
Nam; bản đồ du lịch thành phố Huế, trong đó có hình ảnh sông Hương. Tổ chức
cho học sinh nhận xét về dòng chảy, hướng chảy, các địa danh mà dòng sông đi
qua… Học sinh trình bày những hiểu biết, cảm nhận về sông Hương qua sách báo,
tư liệu. Sau đó tiến hành đọc - hiểu chi tiết từng đoạn một.
Như vậy, với sự kết hợp khai thác bài Bút kí từ định hướng phong cách nghệ
thuật và sử dụng bản đồ du lịch thành phố Huế người đọc đã có thể hiểu một cách


10


dễ dàng hơn cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Những kiến thức chính xác về mặt Địa
lí về dòng chảy sông Hương được người đọc tiếp nhận một cách thú vị qua hành
văn hướng nội, mê đắm, tài hoa và sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và
tính trữ tình của tác giả.
Một trong những đặc điểm của phong cách nghệ thuật Hoàng Phủ Ngọc
Tường là: kết hợp hài hoà giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều được tổng hợp
từ vốn kiến thức phong phú ở nhiều phương diện. Ở đoạn trên, người đọc đã thấy
một góc độ cảm nhận về con sông Hương, đó là phương diện Địa lí, ở đoạn tiếp
theo phong cách nghệ thuật của tác giả được thể hiện rõ cái nhìn về sông Hương ở
phương diện: Lịch Sử, Thơ ca.
Đoạn văn thể hiện sự hiểu biết sâu sắc của tác giả về sông Hương ở phương
diện Lịch sử được tác giả trình bày rõ ràng, ngắn gọn, có luận điểm: Hiển nhiên là
Sông Hương đã sống những thế kỉ vinh quang với nhiệm vụ lịch sử của nó, từ thuở
nó còn là một dòng sông biên thuỳ, xa xôi của đất nước các Vua Hùng. Những câu
văn tiếp theo nhằm làm rõ luận điểm: Sông Hương là dòng sông lịch sử. Trong cách
lập luận chặt chẽ của tác giả, người đọc vừa thấy được sự lôgic, thuyết phục vừa
thêm tự hào về dòng sông lịch sử của đất nước.
Ở đoạn văn làm sáng tỏ nội dung: Có một dòng thi ca về sông Hương cũng
vậy! Tác giả đã chứng tỏ tài năng nghị luận sắc bén của mình. Câu văn đứng ở đầu
đoạn nêu lên luận điểm, các câu văn sau nêu các dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu về
những tác giả, tác phẩm tiêu biểu đã lấy sông Hương làm nguồn cảm hứng sáng tác
(Tản Đà, Cao Bá Quát, Tố Hữu, bà Huyện Thanh Quan…). Để nắm vững cách thức
trình bày Bút kí của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, rõ ràng là người đọc phải hiểu
những đặc điểm về phong cách nghệ thuật của tác giả và lấy đó làm định hướng để
khai thác cụ thể. Cùng với nhiều phương pháp dạy học về kĩ năng đọc - hiểu khác
nữa người đọc mới có thể hiểu thấu đáo những bài kí vừa hay, vừa khó như bài: Ai
đã đặt lên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

2. Giáo án minh hoạ “AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG”
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG

A. Mục tiêu cần đạt: Giúp HS:
1. Về kiến thức
- Cảm nhận được vẻ đẹp, chất thơ từ cảnh sắc thiên nhiên của sông Hương từ bề
dày lịch sử, văn hóa của Huế và tâm hồn con người vùng đất cố đô.Hiểu được tình
yêu, niềm tự hào tha thiết, sâu lắng của tác giả dành cho dòng sông quê hương, cho
xứ Huế thân yêu và cũng là cho đất nước.
- Hiểu được những đặc sắc về phong cách nghệ thuật của HPNT.
- Nhận biết được đặc trưng thể loại bút kí và nghệ thuật viết bút kí trong bài.
2. Về kĩ năng

11


- Rèn luyện kĩ năng đọc hiểu tác phẩm văn học; kĩ năng phân tích, cảm nhận tác
phẩm kí; kĩ năng phát hiện và giải quyết vấn đề.
3.Về thái độ:
- Bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước
B/ Chuẩn bị:
* GV: - SGK, SGV, Giáo án, máy chiếu
- Tranh ảnh, tài liệu về sông Hương và tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường
* HS: SGK; đọc văn bản và soạn bài ở nhà
C/ Phương pháp
- Thuyết trình, đàm thoại
- Nêu vấn đề và hướng dẫn học sinh thảo luận
- Trình chiếu Powerpoint
D/ Tiến trình dạy học
1/ Ổn định tổ chức: Kiểm diện HS

2/ Bài cũ: - Nêu nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân?
3/ Bài mới: Giới thiệu: Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo khi viết về Huế có câu thơ rằng:
Sao thèm một điệu gì xưa lắm
Thèm đọc một đoạn văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
Có ai đó rót chiều vào chén ngọc
Huế dịu dàng xây bằng khói và sương.
Như thế đủ thấy sự gắn bó giữa Huế và nhà văn viết bút kí đầy thành công
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Chính sự hòa hợp, tương giao giữa cảnh sắc Huế, lịch sử
Huế, văn hóa Huế, con người Huế với một tâm hồn nhà văn dễ rung động, nhạy
cảm, tinh tế ấy đã viết nên bài bút kí đặc sắc : Ai đã đặt tên cho dòng sông. Tiết học
ngày hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về tác phẩm này.
HOẠT ĐỘNG CỦA GV & HS
NỘI DUNG CẦN ĐẠT
Hoạt động 1: Hướng dẫn học I. TÌM HIỂU CHUNG:
sinh tìm hiểu chung
1.Tác giả:
- GV yêu cầu học sinh đọc tiểu - Là một trong ngững nhà văn chuyên viết về
dẫn trong sgk và trình bày đôi bút kí.
nét về tác giả Hoàng Phủ Ngọc - Nét đặc sắc trong sáng tác của Hoàng Phủ
Tường.
Ngọc Tường là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
Hỏi: Ngoài những điều trong chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc
SGK em còn biết thêm gì về nhà bén với tư duy đa chiều được tổng hợp từ vốn
văn Hoàng Phủ Ngọc Tường để kiến thức phong phú về Triết học, Văn hoá,
từ đó đánh giá về vị trí của ông Lịch sử, Địa lí…tất cả đều được thể hiện qua
trong nền văn học việt nam hiện lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm, tài
đại?
hoa.
- Hs: suy nghĩ, thảo luận và trả - > Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tạo cho thể loại
lời câu hỏi

bút kí một phong cách riêng độc đáo, một diện

12


GV: Bổ sung, nhận xét và chuẩn mạo khó trộn lẫn và được Nguyên Ngọc đánh
xác kiến thức
giá là “một trong những nhà văn viết kí hay
nhất nước ta”.
* Các tác phẩm tiêu biểu: (SGK)
2.Tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông ?”:
Hỏi: Qua việc chuẩn bị và đọc 2.1 Đôi nét về bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng
tác phẩm ở nhà em hãy em hãy sông ?”:
cho biết bài bút kí “Ai đã đặt tên - Bài “Ai đặt tên cho dòng sông?” là một trong
cho dòng sông ?” thuộc thể loại nhựng bài bút ký đặc sắc của HPNT.
nào?
2.2 Đôi nét về bút kí.
Hỏi: Trình bày những hiểu biết - Ghi lại những con người thực và sự việc mà
của em về thể loại bút kí?
nhà văn đã tìm hiểu nghiên cứu cùng với cảm
nghĩ nhằm thể hiện tư tưởng nào đó
- Hs: suy nghĩ, thảo luận và trả -Khác với truyện ngắn, bút kí không hoặc ít sử
lời câu hỏi
dụng hư cấu vào phản ánh hiện thực
-GV: Bổ sung, nhận xét và chuẩn - Sức hấp dẫn và thuyết phục của nó phụ thuộc
xác kiến thức
vào tài năng, trình độ quan sát, khám phá mới
Hoạt động 2: Hướng dẫn học mẻ sâu sắc và cái Tôi độc đáo của tác giả.
sinh Đọc - Hiểu văn bản
II.ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN:

- GV: Hướng dẫn học sinh đọc 1. Đọc văn bản và chia bố cục
văn bản: Cần đọc một hơi liền
mạch toàn văn bản để có cảm
nhận ban đầu về bài bút kí, sau
đố đọc chậm, đọc kĩ từng đoạn - Đoạn trích có thể chia làm 3 phần:
để suy ngẫm và thưởng thức vẻ + phần 1: Từ đầu đến “một mặt hồ yên tĩnh”:
đẹp của sông Hương khi chảy Hành trình của sông Hương từ thượng nguồn
qua từng vùng khác nhau. Đặc chảy về thành phố Huế
biệt cần chú ý đến những hình + phần 2: Từ “Hình như trong khoẳnh khắc”
ảnh, chi tiết hàm chứa chất thơ đến “chung tình với quê hương xứ sở”: Sông
và huyền thoại kết thúc bài kí nói Hương và nền âm nhạc Huế qua cảm nhận của
lên sâu sắc ý nghĩa nhan đề tác nhà văn.
phẩm.
+ phần 3: Từ “Hiển nhiên là sông Hương” đến
- Gv: Hướng dẫn học sinh xác “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”: Sông Hương
đinh bố cục của văn bản
là một chứng nhân của lịch sử và là một dòng
* HS đọc đoạn trích trong SGK. sông thi ca.
Và chia bố cục dưới sự hướng 2. Đọc- hiểu chi tiết
dẫn của giáo viên
2.1 - Vẻ đẹp của sông Hương qua các góc
nhìn khác nhau:
GV: Chiếu Slide bản đồ du lịch a - Vẻ đẹp của sông Hương từ góc nhìn địa lí.
Huế để học sinh có cái nhìn tổng a.1- Sông Hương ở vùng thượng nguồn.

13


quát về hành trình của sông
Hương, sau đó cho học sinh xem

slide hình ảnh sông Hương ở
vùng thượng nguồn.
Hỏi: Em có cảm nhận gì về vẻ
đẹp của sông Hương ở vùng
thượng nguồn? Nhà văn đã miêu
tả vẻ đẹp ấy bằng những tên gọi
độc đáo nào? Tại sao sông
Hương lại được gọi bằng những
cái tên như thế?
GV: chia lớp thành 4 nhóm để
thảo luận
HS: suy nghĩ, thảo luận và cử đại
diện nhóm trình bày. Các nhóm
khac nhận xét bổ sung ý kiền
-GV: Bổ sung, nhận xét và chuẩn
xác kiến thức
+Chiếu slide hình ảnh cô gái Bôhê-miêng

=>GV tiểu kết
Hỏi: Trước khi trở thành người
tình dịu dàng và chung thủy của
cố đô, sông Hương đã trải qua
một cuộc hành trình gian truân
nhiều thử thách. Hành trình ấy
qua những đâu?
(Chiếu slide qua từng địa danh
học sinh kể)

- Được gọi bằng 3 cái tên :
* Sông Hương là “một bản trường ca của

rừng già”
-Cách gọi xuất phát từ khởi nguồn của s.Hương
đã gắn với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ
- Khác với vẻ đẹp trầm mặc, êm dịu, nhẹ
nhàng, thơ mộng của thành phố Huế, dòng sông
Hương ở chặng khởi nguồn tấu lên khúc ca
hùng tráng, dữ dội
+Rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn
+ Cuộn xoáy như cơn lôc vào đáy vực sâu
+ mãnh liệt qua những ghềnh thác
+ Có lúc dịu dàng say đắm giữa những rặng dài
của hoa đỗ quyên rừng
 Động từ, tính từ giàu ấn tượng kết hợp với
cấu trúc trùng điệp tạo nên âm hưởng hùng
tráng của con sông giữa rừng già.
* Sông Hương “như một cô gái Digan phóng
khoáng và man dại”
- Biện pháp nhân hóa: Những cô gái Bô- hêmiêng thường có vẻ đẹp tự nhiên hoang dại và
quyến rũ, yêu ca hát, nhảy múa...
-Cách ví von: Tạo ấn tượng mạnh mẽ về vẻ đẹp
hoang dại cá tính và lãng mạn của dòng
sôngLiên tưởng thú vị
* Sông Hương là “người mẹ phù sa của văn
hóa xứ sở”
- Nhìn sông Hương dưới góc nhìn văn hóa,
khẳng định vai trò của sông Hương đối với văn
hóa xứ sởvẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu
thăm của dòng sông.
 Sông Hương ở thượng nguồn toát lên sức
sống mãnh liệt, hoang dại, đầy cá tính.

a.2 - Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế
- Qua đồi cánh đồng Chiêm Hóa, Vọng Cảnh,
Tam Thai, Lựu Bảo…; qua bao lăng tẩm đền
đài và tới gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ
- Sông Hương được cảm nhận như là người con
gái mơ màng giữa cánh đồng Chiêm Hóa được

14


Hỏi: Sức sống mãnh liệt và vẻ
đẹp dịu dàng uyển chuyển của s.
Hương được miêu tả như thế
nào?
(Lưu ý những câu văn miêu tả
uyển chuyển đầy chất hội họa
HS: suy nghĩ, thảo luận và cử đại
diện nhóm trình bày. Các nhóm
khac nhận xét bổ sung ý kiền
Hỏi: Các biện pháp nghệ thuật
nào đã được tác giả sử dụng khi
miêu tả sông Hương ở ngoại vi
thành phố?

Hỏi: Sông Hương giữa lòng
thành phố Huế được miêu tả với
những góc nhìn nào?
-HS liệt kê các góc nhìn: Góc
nhìn hội họa, góc nhìn âm nhạc,
dưới con mắt tình nhân

Hỏi: Dưới góc nhìn âm nhạc,
dòng sông được ví với điều gì?
- Tại sao Hoàng Phủ Ngọc
Tường lại cảm nhận khi ở giữa
lòng thành phố sông Hương như
điệu hơn? Điều đó cho thấy tình
cảm của tác giả với xứ Huế và
dòng sông như thế nào?
GV: phân tích bổ sung:
Hỏi: Những hình ảnh nói lên
sông Hương như một người tình
dịu dàng và chung thủy?
- Hs: suy nghĩ, thảo luận và trả
lời câu hỏi
- GV chiếu hình ảnh sông Hương

người tình mong đợi đến đánh thức.
- Sau một giấc ngủ dài, người đẹp sông Hương
bộc lộ một sức sống, một khát vọng mãnh liệt
“Sông Hương đã chuyển vòng một cách liên
tục…đột ngột uốn mình theo những đường
cong thật mềm”
- Qua lăng tẩm kiêu hãnh âm u, sông Hương
mang vẻ đẹp “như triết lí, như cổ thi”
 Sông Hương ở ngoại vi thành phố cũng
mang vẻ đẹp đầy biến hóa: Từ lãng mạn sang
trầm mặc khi uốn mình quanh các lăng tẩm,
thành quách Huế.
- Nghệ thuật:
+ Động từ sống động: ngủ mơ màng, chuyển

dòng liên tục, vòng đột ngột,vẽ một hình cung
thật tròn, ôm lấy chân đồi, đi trong dư vang…
+ Hình ảnh so sánh: như cô gái đẹp ngủ mơ
màng, như tấm lụa, như triết lí, như cổ thi…
Bút pháp kể và tả nhuần nhuyễn tài hoa
a.3 - Sông Hương giữa lòng thành phố Huế
* Được miêu tả dưới các góc nhìn:
- Dưới con mắt hội họa: Sông Hương cùng
những chi lưu của nó tạo nên những đường nét
tinh tế làm nên vẻ đẹp cố đô…
-Từ góc nhìn âm nhac, tác giả cảm nhận: sông
Hương như một slow tình cảm riêng cho Huế.
 Đó là tình cảm của sông Hương với Huế hay
cũng là tình cảm của chính tác giả với thành
phố mộng mơ?!
- Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng có khám phá
thú vị về sông Hương khi phát hiện mối quan
hệ của sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế
“Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh
thành trên mặt nước của dòng sông này”
- Dưới cái nhìn đắm say của một trái tim đa
tình :Sông Hương- người tình dịu dàng và
chung thủy:
+ Giáp mặt thành phố ở Cồn Dã Viên (đoạn
trên) : Dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng
“vâng”không nói ra của tình yêu

15



trong thành phố Huế và tiểu kết

Hỏi: Sông Hương dưới góc nhìn
văn hoá được miêu tả như thế
nào?
- Hs: suy nghĩ, thảo luận và trả
lời câu hỏi
GV: chiếu video tư liệu về các
buổi nghe nhạc cổ Huế trên sông
Hương.

Hỏi: Những chi tiết nào cho thấy
tác giả miêu tả sông Hương gắn
với những sự kiện lịch sử?
- Hs: suy nghĩ, thảo luận và trả
lời câu hỏi

 Sông Hương đẹp trọn vẹn cả về hình dáng
bên ngoài tâm hồn thăm thẳm bên trong, được
tiếp cận từ không gian, thời gian và các góc
nhìn khác nhau. Đồng thời qua đó tác giả gủi
gắm tình yêu cuả mình dành cho xứ Huế mộng
mơ.
b - Vẻ đẹp của s.Hương từ góc nhìn văn hoá:
- Tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển
Huế: “Sông Hương đã trở thành một người tài
nữ đánh đàn lúc đêm khuya…Quả đúng vậy,
toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được hình
thành trên mặt nước của dòng sông này”.
+ Với ngòi bút tài hoa cộng với sự rung cảm

mạnh mẽ, HPNT nhớ tới Nguyễn Du; “Nguyễn
Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này
với một phiến trăng sầu.Và từ đó, những bản
đàn đã đi suốt đời Kiều”.
- Từ góc nhìn thi ca, sông Hương hiện lên với
vẻ đẹp đa dạng muôn màu: màu xanh, trắng
trong thơ Tản Đà; cái hung tráng như kiếm
dựng trời xanh trong thơ của Cao bá Quát; cảm
hứng nhân đạo, hồi sinh trong thơ của Tố
Hữu…
+ Sông Hương còn là nguồn cảm hứng bất tận
cho các thi sĩ xưa và nay.
 Bề dày văn hoá sông Hương đã tạo thành
một gương mặt xứ Huế, làm cho Huế khác với
mọi thành phố cổ khác.
b – Sông Hương – dòng sông của lịch sử, của
cuộc đời.
- Tên của dòng sông Hương được ghi trong
“Dư địa chí” của Nguyễn Trãi; “Nó được ghi là
linh giang”
- Dòng sông ấy là điểm tựa, bảo vệ biên cương
thời kì Đại Việt.
- Thế kỉ XVIII, nó vẻ vang soi bóng kinh thành
Phú Xuân, gắn liền với tên tuổi của người anh
hùng Nguyễn Huệ.
- Nó đọng lại đến bầm da, tím máu “nó sống
hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX”.

16



Hỏi: “Dòng sông ai đã đặt tên ?
Để người đi nhớ Huế không
quên?”
Kết thúc bài tác giả đã đưa ra
cách lí giải về con sông.
Em hãy kể lại huyền thoại về
cách lí giải nguốn gốc tên của
dòng sông Hương để từ đó hiểu
rõ hơn vẻ đẹp của S.Hương và ý
nghĩa nhan đề của tác phẩm?
( HS chuẩn bị kĩ trước ở nhà )
Hỏi: Qua bài bút kí“Ai đã đặt
tên cho dòng sông?” giúp em
cảm nhận được gì về tình cảm
của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối
với mảnh đất, con người Huế và
sự đặc sắc trong lối viết bút kí
của ông?
HS: suy nghĩ, thảo luận và cử đại
diện nhóm trình bày. Các nhóm
khac nhận xét bổ sung ý kiền

Hoạt động 3: Tổng kết
- GV gọi học sinh khái quát về
nội dung và nghệ thuật toàn bài
- GV chốt lại, chiếu slide tổng
kết

- Nó đi vào thời đại của Cách mạng tháng Tám

bằng những chiến công rung chuyển.
- Nó chứng kiến cuộc nổi dậy tổng tiến công tết
Mậu Thân 1968. Sông Hương đã gắn liền với
lịch sử của Huế, của dân tộc.
=> Sông Hương đã sống một thời kì hùng tráng
và cả bi tráng, là chứng tích cho những sự kiện
lịch sử trọng đại.
2.2 – Ý nghĩa nhan đề
=>Bài bút ký kết thúc bằng cách lí giải tên của
dòng sông; sông Hương, sông thơm. Cách lí
giải bằng một huyền thoại:
Người làng Thành Chung có nghề trồng rau
thơm. Ở đây kể lại rằng vì yêu quí con sông
xinh đẹp, nhân dân hai bờ sông đã nấu nước
của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn
nước thơm tho mãi mãi.Huyền thoại ấy đã trả
lời câu hỏi : ai đã đặt tên cho dòng sông?
2.3.Nét đẹp của văn phong HPNT trong bài
bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”:
+Tác giả đã soi bằng tâm hồn mình và tình yêu
quê hương xứ sở vào sông Hương khiến
S.Hương trở nên lung linh, đa dạng như đời
sống tâm hồn con người.
+ Sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú cộng
với sự uyên bác về các phương diện địa lí, lịch
sử, văn hóa, nghệ thuật đã tạo nên áng văn đặc
sắc này.
+Ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh, bộc lộ
cảm xúc, sử dụng nhiều biện pháp tu từ như so
sánh, ần dụ, nhân hóa.

+ Có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí
tuệ, chủ quan và khách quan. Chủ quan là sự
trải nghiệm của bản thân. Khách quan là đối
tượng miêu tả- dòng sông Hương.
III. Tổng kết:
1. Nội dung:
-Vẻ đẹp, chất thơ của cảnh sắc sông Hương,
của truyền thống văn hóa, của lịch sử và con
người đất cố đô

17


- HS nhớ lại kiến thức và nhắc -Tình yêu và niềm tự hào của tác giả dành cho
lại được những nét đặc sắc về quê hương đất nước
nội dung và nghệ thuật của bài
2. Nghệ thuật:
Nét đặc sắc tạo nên cái Tôi của Hoàng Phủ
Ngọc Tường qua bài kí:
+ Sự uyên bác
+Sự tinh tế tài hoa, tao nhã, hướng nội
+ Trí tưởng tượng phong phú, liên tưởng so
sánh độc đáo, bất ngờ…
E/ Củng cố và Dặn dò
+ Vẻ đẹp của sông Hương qua cảnh sắc thiên nhiên.
+ Vẻ đẹp của sông Hương dưới góc độ văn hóa.
+ Vẻ đẹp của sông Hương gắn liền với những sự kiện lịch sử.
+ Văn phong của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
- Về nhà đọc các tác phẩm kí khác của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Tuân
(Sông Đà), Trần Đăng ( Một lần tới thủ đô)....

- Chuẩn bị bài Ôn tập Văn học
Trên đây là thiết kế giáo án mà tôi đã chuẩn bị để sử dụng khi dạy bài bút kí
“Ai đã đặt tên cho dòng sông?”của Hoàng Phủ Ngọc Tường và đã đạt được những
kết quả như mong muốn. Tuy nhiên mức độ thành công của bài dạy còn phụ thuộc
vào nhiều yếu tố: Đối tượng, mục đích, phương pháp, các phương tiện hỗ trợ…
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Có thể nói, việc tổ chức giờ dạy các tác phẩm văn học thuộc thể loại kí theo
hướng phối hợp các biện pháp, các cách thức như trên là cách làm phù hợp với thực
tiện của quá trình đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ
thông hiện nay mà toàn ngành đang phát động. Cách làm này thực chất là biến
những gì thuộc về lí thuyết đơn giản, khô cứng, thành tư duy sáng tạo nhằm giúp
học sinh phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo trong khi tiếp nhận các tác phẩm
văn học nói chung và đối với các tác phẩm văn học viết theo thể loại kí nói riêng.
Năm học 2015 – 2016 ; 2016 – 2017; 2017 – 2018 khi dạy tác phẩm văn học viết
theo thể loại kí cho học sinh thuộc các khối lớp 11, 12 ở Trung tâm GDNN-GDTX
huyện Ngọc Lặc, tôi đã thực hiện cách làm này và bài dạy đã thu hút được sự chú ý
của học sinh. Có những em lâu nay vốn ngại học văn, đặc biệt là ngại đọc, ngại học
các tác phẩm thuộc thể loại kí đã cảm thấy hứng thú hơn với môn học. Sau khi thực
hiện bài dạy và tiến hành kiểm tra mức độ tiếp thu của học sinh ở các lớp tôi trực
tiếp giảng dạy đã cho thấy một kết quả tương đối mỹ mãn: 90% học sinh được
kiểm tra nắm vững bài học, có kiến thức tương đối vững vàng so với mục tiêu bài
học đề ra. Từ thực tế đó, tôi tin tưởng rằng cách làm này sẽ có hiệu quả ổn định và
phù hợp với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông

18


hiện nay. Mặc dù vậy, đây mới chỉ là những thể nghiệm của bản thân tôi nên chắc
chắn sẽ còn những sai sót, lung túng nhất định, rất mong được sự góp ý, rút kinh

nghiệm của đồng nghiệp.
3.2. Đề xuất, kiến nghị.
1. Về chương trình và sách giáo khoa
Tuy sách giáo khoa và chương trình môn Văn đã có nhiều cải tiến và hợp lý
hơn, nhưng so với sự thay đổi và phát triển của đất nước ta hiện nay thì vẫn còn
nhiều điều cần được xem xét, thay đổi.
Mặt khác, quan niệm về thể loại và định hướng tiếp cận tác phẩm kí trong
sách giáo khoa và sách giáo viên cũng chưa được trình bày một cách thật sáng rõ và
nhất quán. Điều bất cập này chắc chắn có ảnh hưởng không nhỏ, gây nên khó khăn
trước hết đối với người giáo viên khi chuẩn bị bài giảng.
2. Cần thay đổi cách quản lý, cách đánh giá năng lực giáo viên và có giải pháp
đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên
Việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên hiện nay ở các trường
THPT, Trung tâm GDTX thường được dựa vào kết quả thi cử của học sinh, hoặc
dựa vào một vài giờ thao giảng. Do đó, trong nhiều giờ giảng văn, giáo viên hay
giảng dạy theo hướng nhồi nhét, cung cấp kiến thức có sẵn mục đích là để học sinh
có thể làm được bài khi đi thi hoặc khi đăng ký thao giảng và kết quả là bài giảng,
tiết giảng đó được đánh giá tốt, nhưng giáo viên không còn thời gian dành cho
những bài khác.
Dạy học là một nghệ thuật. Người giáo viên khi đã chọn nghề dạy học là phải
có tâm yêu nghề , đặc biệt là mục tiêu hướng tới và là niềm hạnh phúc nhất trong
cuộc đời của người thầy là đào tạo bồi dưỡng được thật nhiều học trò giỏi. Đó là
tâm nguyện của tôi cũng như bao nhiêu đồng nghiệp khác. Tuy nhiên để có được
kết quả thành công tốt đẹp thì mỗi người giáo viên luôn tìm tòi, sáng tạo, trăn trở và
nổ lực không ngừng với nhiều cách thức và phương pháp tối ưu nhất theo mình để
giảng dạy, bồi dưỡng cho các em.
Phương pháp giảng dạy thì phong phú, kiến thức văn chương thì mênh mông
rộng lớn vô cùng. Vì vậy trong phạm vi của sáng kiến kinh nghiệm này người viết
chỉ khiêm tốn đưa ra một số yêu cầu khi hướng dẫn học sinh tiếp cận thể loại kí
trong chương trình Ngữ văn THPT theo hướng tích cực,chủ động. Đây là những

điều mà tôi suy tư, cọ xát và trải nghiệm qua thực tế giảng dạy của mình. Hy vọng
rằng những nội dung trongấýng kiến kinh nghiệm này sẽ là những thông tin để
được các đồng nghiệp trao đổi, thảo luận để rút ra được những kinh nghiệm thực
sự quý báu trong công tác giảng dạy bộ môn Ngữ văn nói chung và việc giảng dạy
các tác phẩm văn học thuộc thể loại kí nói riêng.
Do thời gian có hạn mà kiến thức và sự cảm nhận văn học thì vô cùng nên
chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Người viết rất mong
nhận được sự đóng góp của quý thầy cô, nhất là những thầy cô trong cùng bộ môn.

19


Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 21 tháng 04 năm
2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
NGƯỜI VIẾT

Lê Văn Tuyến

TÀI LIỆU THAM KHẢO

20


1. Sách Ngữ văn 12, tập1, Nxb. Giáo dục, H, 2009

2. Sách giáo viên Ngữ văn 12, tập1, Nxb. Giáo dục, H, 2009
3. Nguyễn Đăng Mạnh(biên soạn và giới thiệu) - Nguyễn Tuân toàn tập, tập1,
Nxb. Văn học
4. Nguyễn Văn Hạnh: lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ, Nxb. Giáo dục
5. Hà Minh Đức (Chủ biên), Giáo trình "Lý luận văn học" Nxb Giáo dục, Hà Nội
(TB 2005)
6. Phương Lựu (chủ biên), Giáo trình “ Tiếp nhận văn học”, NXBGD, H.2007
7. Nguyễn Đăng Mạnh, "Nhà văn, tư tưởng, phong cách" Nxb Giáo dục, H 1994
8. Nguyễn Đăng Mạnh, "Nhà văn Việt Nam - chân dung và phong cách" Nxb Văn
học, H. 2006
9. Chuyên đề Dạy - Học ngữ văn 12 : Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ
Ngọc Tường)
10. Một số bài báo cáo chuyên đề của các đồng nghiệp và một số tư liệu tham khảo
từ nguồn Internet.

21



×