Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

SKKN phạm thị hải yến 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.99 KB, 49 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Rèn kĩ năng viết bài văn tả cảnh cho học sinh lớp 5.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Tập làm văn
3. Tác giả:
Họ và tên

: Phạm Thị Hải Yến

Nữ

Ngày tháng/năm sinh: 30 – 7 - 1975
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng tiểu học.
Chức vụ

: Giáo viên - Tổ trưởng tổ chuyên môn 4- 5

Đơn vị công tác

: Trường tiểu học Đức Chính

Điện thoại

: 01663948728

4. Đồng tác giả: Không
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến : Trường Tiểu học Đức Chính
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu :
Lớp 5- Trường Tiểu học Đức Chính- huyện Cẩm Giàng- tỉnh Hải Dương
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
- Nhà trường tạo điều kiện tốt nhất cho việc dạy và học.
- Giáo viên phải có lòng yêu nghề, nhiệt tình, tâm huyết với công tác giảng dạy.


- Học sinh phải có ý thức ham học hỏi, tìm tòi, khám phá kiến thức.
- Phụ huynh học sinh quan tâm đến việc học tập của con em mình.
8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu:
Thời gian áp dụng vào thưc tế bắt đầu từ đầu năm học 2016 –
2017và hoàn thành vào cuối học kì I năm học 2017 – 2018.
TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Phạm Thị Hải Yến
XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD VÀ ĐT

1


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Là một giáo viên dạy nhiều năm ở lớp 5, tôi nhận thấy chất lượng giảng
dạy môn Tiếng Việt ở Tiểu học được phản ánh rõ nét nhất ở phân môn Tập
Làm Văn. Trong chương trình Tập làm văn lớp 5, văn tả cảnh chiếm một vị trí
hết sức quan trọng nhưng học sinh viết văn lại viết rất yếu: kĩ năng sử dụng từ,
lập câu, lập đoạn chưa tốt, các ý chưa gắn kết với nhau ; câu văn thiếu hình
ảnh, thiếu cảm xúc, chưa gắn với thực tế … chất lượng bài văn còn thấp so với
yêu cầu. .
Từ những hạn chế trên, tôi không khỏi băn khoăn, trăn trở : Làm thế nào
để tiết học Tập làm văn nhẹ nhàng mà hiệu quả? Làm thế nào để các em hoạt
động tích cực, chủ động trong giờ học Tập làm văn? Làm thế nào để các em có
kĩ năng viết được một bài văn tả cảnh hoàn chỉnh đạt được yêu cầu như mong
muốn? Đó cũng chính là lí do tôi chọn đề tài : “ Rèn kĩ năng viết bài văn tả

cảnh cho học sinh lớp 5”.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
2.1. Điều kiện áp dụng sáng kiến
- Ban giám hiệu quan tâm, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho việc dạy và học đặc
biệt là việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục .
- Đa số học sinh có ý thức ham học hỏi, ngoan, biết vâng lời, có ý thức tìm tòi.
- Học sinh sống ở vùng nông thôn gần gũi với thiên nhiên, đồng ruộng, cây tre,
bến nước, mái đình …
- Phụ huynh học sinh rất quan tâm đến việc học tập của con em mình.
- Bản thân là giáo viên nhiều năm liền giảng dạy lớp 5, yêu nghề, nhiệt tình,
tâm huyết với nghề mà mình đã chọn.
2.2. Thời gian áp dụng sáng kiến:
Việc nghiên cứu tìm ra một số biện pháp : ‘‘Rèn kĩ năng viết bài văn tả
cảnh cho học sinh lớp 5’’ được tiến hành từ đầu năm học 2016 – 2017 và hoàn
thành vào cuối học kì I năm học 2017 – 2018 .
2. 3. Đối tượng áp dụng sáng kiến:
2


- Học sinh lớp 5.
- Thể loại văn tả cảnh lớp 5, một số kinh nghiệm rèn viết văn tả cảnh.
3. Nội dung sáng kiến :
Trước khi thực hiện sáng kiến này, tôi đã tìm hiểu những vướng mắc của
giáo viên cũng như học sinh trong tiết Tập làm văn tả cảnh và đưa ra những
biện pháp, áp dụng vào lớp tôi trực tiếp giảng dạy cụ thể là:
- Cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả nói chung và tả cảnh nói
riêng.
- Hướng dẫn học sinh một số thủ pháp làm văn tả cảnh.
- Xây dựng một số bài tập bổ trợ rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ và các biện pháp
nghệ thuật tu từ.

- Cung cấp, khuyến khích học sinh tích lũy vốn từ ngữ khi học, đọc, viết các
bài văn, thơ về tả cảnh. Cung cấp vốn sống, vốn hiểu biết về cảnh.
Sau khi áp dụng những biện pháp trên vào việc giảng dạy tiết Tập làm văn
tả cảnh, tôi nhận thấy rằng : Học sinh tập trung hơn vào bài học, kĩ năng viết
văn tả cảnh của học sinh được nâng cao lên rõ rệt. Bài văn của học sinh xác
định đúng yêu cầu nội dung của đề bài, bố cục chặt chẽ, trình tự miêu tả hợp lí
hơn không còn tình trạng bài dạng liệt kê, câu ý đoạn không phù hợp .
Giờ học tập làm văn diễn ra nhẹ nhàng, thoải mái đối với các em . Không khí
lớp học luôn luôn sôi nổi, chất lượng giờ học đảm bảo. Chất lượng môn Tiếng
Việt của lớp được nâng lên rõ rệt.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
Tôi khẳng định rằng việc tôi áp dụng những biện pháp dạy học nêu trên vào
giảng dạy đã mang lại những kết quả đáng mừng cho giáo viên và học sinh lớp
tôi chủ nhiệm. Tôi luôn hi vọng với giải pháp nhỏ này không những được áp
dụng ở lớp tôi mà còn được nhiều anh, chị đồng nghiệp tham khảo. Tôi rất
mong nhận được những lời góp ý của các cấp lãnh đạo và bạn bè đồng nghiệp

3


để giải pháp ngày càng được hoàn thiện hơn .

MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
1.1. Cơ sở lý luận
Trong chương trình tiểu học, cùng với môn toán môn Tiếng Việt chiếm khá
nhiều thời gian so với các môn học khác. Môn Tiếng việt có nhiệm vụ hình
thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng việt để học tập và
giao tiếp trong các môi trường của lứa tuổi.Thông qua việc dạy học Tiếng việt,
góp phần rèn luyện tư duy, cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về

xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước
ngoài. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong
sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Môn Tiếng việt gồm nhiều phân môn khác nhau như tập đọc, luyện từ và
câu, kể chuyện, tập viết, chính tả, tập làm văn. Song khó hơn cả đối với người
dạy cũng như đối với người học là phân môn Tập làm văn.
Tập làm văn là một phân môn rất quan trọng trong chương trình dạy học tiểu
học, nó không chỉ giúp học sinh hình thành các kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết mà
còn rèn cho học sinh khả năng giao tiếp, quan sát, phân tích tổng hợp và đặc
biệt còn hình thành cho học sinh những phẩm chất tốt đẹp của con người mới
hiện đại và năng động. Dạy tập làm văn là dạy học sinh cách nhìn nhận cuộc
sống xung quanh trong thực tế vốn có của nó với cảm xúc thực của các em.
Đồng thời cũng dạycác em cách ghi lại sự nhìn nhận ấy qua các văn bản- còn

4


gọi là đoạn văn, bài văn một cách chính xác về đối tượng, về ngữ pháp Tiếng
Việt.
Tập làm văn lớp 5 gồm nhiều nội dung, một trong những nội dung chính của
chương trình tập làm văn 5 là văn miêu tả. Tả cảnh là một kiểu bài khó vì học
sinh không có khả năng quan sát tinh tế, mặt khác có những cảnh học sinh chỉ
có thể gặp một lần khi đi du lịch hay xem trên truyền hình, không cảm nhận
được vẻ đẹp của cảnh hay những thay đổi của cảnh, không biết dựa vào cảm
xúc của mình để làm cảnh đó trở nên đẹp hơn, sinh động hơn, gần gũi hơn.
Làm thế nào để cho học sinh làm văn hay và có hiệu quả thì lại là một vấn đề
rất khó khăn, cần phải suy nghĩ và dày công nghiên cứu của những người làm
công tác giáo dục.
1.2. Cơ sở thực tiễn:

Là một giáo viên đã trải qua nhiều năm giảng dạy chương trình lớp 4, 5 tôi
nhận thấy thể loại văn tả cảnh trong phân môn Tập làm văn ở lớp 5 là thể loại
văn dùng lời nói có hình ảnh và cảm xúc làm cho người nghe, người đọc hình
dung một cách rõ nét, cụ thể về người, vật, cảnh vật, sự việc như nó vốn có
trong đời sống. Một bài văn miêu tả hay không những phải thể hiện rõ nét,
chính xác, sinh động đối tượng miêu tả mà còn thể hiện được trí tưởng tượng,
cảm xúc và đánh giá của người viết đối với đối tượng được miêu tả. Thực tế
giảng dạy tập làm văn phần tả cảnh, bản thân người giáo viên là người hướng
dẫn đôi khi cũng cảm thấy lúng túng, bí từ và không biết phải hướng dẫn thế
nào để học sinh có thể viết được bài văn hay, có hình ảnh có cảm xúc. Một số
tài liệu như sách giáo khoa, sách giáo viên, sách thiết kế thì hướng dẫn chung
chung, còn một số sách khác như văn mẫu lại chỉ có các bài văn đã viết sẵn và
thực tế mẫu nhưng không phải là chuẩn mực, có chăng chỉ là đôi chỗ có câu, ý
hay,… mà lại không có một sự hướng dẫn cụ thể nào để định hướng cho giáo
viên cũng như học sinh.
Là một giáo viên tiểu học tôi luôn trăn trở suy nghĩ để làm thế nào cho học
sinh thích làm văn, viết văn chân thật, có cảm xúc và sinh động. Trong năm học
2016 – 2017 tôi đã dạy và tìm hiểu khá kĩ về mảng Tập làm văn, đặc biệt là văn
5


tả cảnh lớp 5. Tôi đã áp dụng một số phương pháp và thấy có những kết quả
đáng mừng. Kinh nghiệm này được áp dụng và đã mang lại hiệu quả nhất định
trong dạy Tập làm văn. Năm học 2017- 2018, tôi mạnh dạn đề xuất một vài
biện pháp nhỏ “ Rèn kĩ năng viết bài văn tả cảnh cho học sinh lớp 5”, để
nghiên cứu với hi vọng giúp phần nâng cao trình độ của bản thân và nâng cao
chất lượng dạy - học văn tả cảnh lớp 5 nói riêng và nâng cao chất lượng dạy
học nói chung. Qua đây, tôi mong muốn nhận được nhiều ý kiến trao đổi của
đồng nghiệp để đề tài thực sự có giá trị trong quá trình dạy học.
2. Cơ sở lý luận liên quan đến dạy học văn tả cảnh

Văn tả cảnh là loại văn dùng lời với những hình ảnh, cảm xúc làm cho
người đọc, người nghe có thể hình dung được rõ nét và cụ thể về một cảnh vật
nào đó xung quanh ta.
Như vậy văn tả cảnh có thể xem là một văn bản nghệ thuật có sử dụng ngôn
ngữ văn chương để miêu tả sự vật hiện tượng một cách cụ thể sinh động. Bất kì
hiện tượng nào trong thực tế đời sống cũng có thể miêu tả được, tuy nhiên bằng
những cảm xúc khác nhau của mỗi người, mỗi hiện tượng lại được lại được
miêu tả với cách thể hiện riêng qua việc quan sát, sử dụng từ ngữ và cách diễn
đạt khác nhau.
Đối tượng của bài văn tả cảnh là những cảnh vật quen thuộc xung quanh ta
như dòng sông, cánh đồng, hàng cây...Khi viết bài văn tả cảnh cần đặc biệt tập
trung vào những nét tiêu biểu của cảnh vật đó. Để bài văn được sinh động và
hấp dẫn hơn với người đọc ta có thể lồng vào đó việc tả người, tả vật với những
cung bậc cảm xúc khác nhau.
Ngôn ngữ trong văn miêu tả cần chính xác, cụ thể, giàu hình ảnh và có nét
riêng biệt. Chính vì thể để có bài văn hay đòi hỏi người viết phải có hiểu biết về
phương pháp làm văn, phải biết dùng từ ngữ, biết vận dụng linh hoạt các biện
pháp nghệ thuật tu từ được học.
3. Thực trạng của vấn đề
3.1. Sách giáo khoa.

6


Hiện nay theo phân phối chương trình trong sách giáo khoa có 19 tiết tả
cảnh, trong đó có 13 tiết lý thuyết kết hợp thực hành, còn lại là kiểm tra và trả
bài.
Nội dung tả cảnh tập trung vào các cảnh: Một buổi trong ngày, một hiện tượng
thiên nhiên, trường học, cảnh sông nước. Với các nội dung trên, yêu cầu viết lại
chủ yếu là đoạn văn. Do đó, với mỗi cảnh học sinh ít được viết hoàn thiện một

bài văn hoàn chỉnh ngay trên lớp để thầy cô và bạn bè trực tiếp góp ý.
3.2. Người học (về phía học sinh)
- Học sinh chưa biết bộc lộ cảm xúc và sử dụng các biện pháp nghệ thuật khi tả
cảnh khiến bài viết thiếu hình ảnh, khô khan,… Học sinh chưa có hứng thú viết
văn đặc biệt là văn miêu tả.
- Học sinh không có thói quen sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa khi viết
văn
- Khi làm văn, học sinh miêu tả hời hợt, chung chung, vốn từ còn nghèo nàn,
bài văn trở thành một bảng liệt kê các đối tượng miêu tả, không làm nổi bật
được cảnh đang tả.
- Bài văn học sinh làm thường vay mượn ý tình của người khác, các em thường
sao chép những bài văn mẫu thành bài văn của mình không kể đầu bài quy định
như thế nào. Với cách làm ấy các em không cần biết đối tượng cần miêu tả gì,
không chú ý tới đặc điểm nổi bật tạo nên nét riêng của cảnh, cũng như không
có cảm xúc về nó.
- Học sinh chưa có ý thức quan sát đối tượng miêu tả và ghi chép những điều
quan sát được một cách cụ thể và chi tiết chính vì vậy mà các em còn lơ mơ về
đối tượng miêu tả nên tả còn nhiều chi tiết khập khiễng, lủng củng không gắn
kết với nhau.
- Học sinh tiểu học vốn sống, vốn kiến thức và những rung cảm trước cái đẹp
còn hạn chế nên chưa thổi được vào cảnh cái hồn để cảnh miêu tả trở nên sinh
động, ấn tượng hơn.
- Học sinh chưa có phương pháp làm văn cụ thể, việc tiếp thu kiến thức làm
văn đến vận dụng kiến thức đó chưa chủ động và linh hoạt.
7


- Kĩ năng vận dụng các từ ngữ gợi hình, gợi tả và các biện pháp nghệ thuật tu
từ còn lúng túng.
3.3 Người dạy( về phía giáo viên)

- Giáo viên chỉ có một con đường duy nhất là hình thành các hiểu biết về lí
thuyết, thể loại văn, kĩ năng làm văn... Đó là qua phân tích các bài văn mẫu với
lý thuyết khô khan, khó hiểu.
- Giáo viên chưa chủ động, sáng tạo trong dạy học, chưa gây hứng thú cho học
sinh khi học văn, chưa có những câu văn chân thực, gần gũi,… Đặc biệt, khi
học sinh đưa ra một câu văn dùng từ chưa chuẩn hay thiếu hình ảnh, chưa hợp
lí, … chưa chỉnh sửa kịp thời và không làm bật được cái hạn chế và thay thế
ngay câu văn có nghĩa, đúng ngữ pháp, giàu hình ảnh để học sinh có thể ‘‘mê’’
thì chưa thể thổi hồn, làm cầu nối nâng tình yêu văn học cho các em.
- Một số giáo viên còn mắc bệnh thành tích trong dạy học. Để đối phó với việc
học sinh làm kém và đảm bảo “chất lượng” khi kiểm tra, thi cử... nhiều cô giáo,
thầy giáo cho học sinh học thuộc (làm sẵn) một số bài văn mẫu để các em khi
gặp đầu bài tương tự cứ thế mà chép ra làm cho các em lệ thuộc vào bài mẫu,
không có sáng tạo trong làm bài.
- Ra đề bài chưa thích hợp với học sinh theo từng vùng miền, địa phương.
Khiến học sinh vô cùng lúng túng khi miêu tả.
Ví dụ: Đề bài yêu cầu tả cảnh biển lúc bình minh, thực tế học sinh chưa được
nhìn thấy hay được quan sát biển bao giờ.
- Giáo viên không thực hiện đúng các yêu cầu khi trả bài viết của học sinh,
không giúp các em nhận thấy được những lỗi sai của mình khi làm bài để có sự
chỉnh sửa rút kinh nghiệm cho bài làm sau. Đây không phải là vấn đề có thể
giải quyết được trong một tiết, một tuần, … mà là cả một quá trình dạy Tập
làm văn bởi dạng văn tả cảnh là sự kết hợp của nhiều thể loại văn các em đã
học và còn cần có cách nhìn, cách nghĩ, cách sáng tạo mới.
- Chính vì một số nguyên nhân trên, vào 2 tuần đầu của năm học 2017 -2018,
tôi đã khảo sát chất lượng làm văn của học sinh hai lớp 5 : lớp 5C (đối chứng)
và lớp 5D (thực nghiệm) để làm cơ sở kiểm chứng thực nghiệm sau này.
8



- Đề bài : Em hãy tả mét c¶nh thiªn nhiªn ®Ñp ë ®Þa ph¬ng.
- Kết quả thu được như sau :
Tổng

Điểm 9- 10

Điểm 7- 8

Điểm 5 - 6

Điểm dưới 5

số HS

SL

TL%

SL

TL%

SL

TL%

SL

5C


25

2

8

7

28

12

48

4

16

5D

25

2

8

6

24


12

48

5

20

Lớp

TL%

Từ kết quả trên tôi thấy chất lượng học sinh hai lớp là tương đương
bởi tỉ lệ học sinh đạt điểm 9 -10 , điểm 7 -8 , điểm 5- 6, điểm dưới 5 luôn
ngang nhau, tôi quyết định lựa chọn một số giải pháp để ứng dụng, thực
nghiệm mong muốn có kết quả tốt để cải tiến cách dạy, cách học cho cá nhân
và học sinh và có thể là giải pháp cho đồng nghiệp.
4. Các biện pháp thực hiện
Đứng trước thực trạng dạy và học như trên yêu cầu đặt ra cấp thiết là phải
đổi mới phương pháp dạy học để học sinh đến với phân môn Tập làm văn thể
loại miêu tả cảnh một cách say mê, hứng thú để từ đó có cảm xúc viết văn. Để
đạt được mục tiêu trên thì cần phải tiến hành giải quyết các vấn đề chính sau:
 Cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả nói chung và tả cảnh
nói riêng.
 Hướng dẫn học sinh một số thủ pháp làm văn tả cảnh.


Xây dựng một số bài tập bổ trợ rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ và các biện
pháp nghệ thuật tu từ.


 Cung cấp, khuyến khích học sinh tích lũy vốn từ ngữ khi học, đọc, viết các
bài văn, thơ về tả cảnh. Cung cấp vốn sống, vốn hiểu biết về cảnh.
Các vấn đề được nêu ở trên cần được giải quyết đồng thời, xen lẫn vào
nhau một cách nhịp nhàng và linh động thì hiệu quả sẽ cao hơn rất nhiều.
Từ kinh nghiệm dạy học của mình, tôi xin đưa ra một số biện pháp để giải
quyết các vấn đề được nêu ở trên giúp học sinh làm tốt bài văn tả cảnh như sau:
9


4.1. Cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả nói chung và tả
cảnh nói riêng.
Việc cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả nói chung và tả
cảnh nói riêng giúp học sinh có con đường đi đến bài văn đúng hướng, không
bị sai lệch về cả nội dung và hình thức.
- Học sinh cần nắm được 4 yêu cầu khi làm văn miêu tả:
+ Cụ thể hóa sự vật ( tả cái gì?)
Ví dụ : Tả cánh đồng thì tập trung tả cánh đồng, không miên man tả sâu cảnh
xóm làng nằm bên cạnh cánh đồng, hay cảnh trời mây vào thời điểm đó cho dù
các sự vật đó cũng có liên quan.
+ Cá thể hóa sự vật (tả như thế nào?) : Tả cảnh nào thì người đọc
hình dung cảnh đó chứ không bị lẫn lộn với cảnh khác.
Ví dụ : Tả cảnh cánh đồng thì phải tả chủ yếu những yếu tố liên quan không
thể tách rời như: Lúa, ngô, rau màu, thửa ruộng, bờ mương, đàn trâu, con người
lao động, ..
+ Mục đích hóa sự vật (tả với mục đích gì ?)
Ví dụ : Tả cánh đồng với mục đích đó là tả lại một cảnh đẹp rất đáng tự hào
của người dân quê hương, ích lợi mà cánh đồng mang lại….
+ Cảm xúc hóa sự vật (tả với tư tưởng, tình cảm, thái độ ra sao?)
Ví dụ : Tả cánh đồng với niềm tự hào, với sự ngưỡng mộ về một vẻ đẹp nên
thơ...

- Cung cấp cho học sinh các bước làm văn miêu tả.
+ Bước 1: Tìm hiểu đề
+ Bước 2: Quan sát tìm ý
+ Bước 3: Sắp xếp ý (lập dàn ý)
+ Bước 4: Viết bài hoàn chỉnh
+ Bước 5: Kiểm tra lại bài.
Hiện nay Sách giáo khoa không còn những tiết riêng cho Tìm hiểu đề, quan
sát tìm ý nhưng qua mỗi đề văn giáo viên phải hướng dẫn học sinh làm theo các
bước kể trên.
10


Để rèn cho học sinh thói quen làm tuần tự theo các bước kể trên khi làm văn
thì mỗi bước làm giáo viên cũng phải hướng dẫn học sinh một cách tỉ mỉ về
phương pháp cũng như cách suy nghĩ, cách thực hiện bài làm.
Cụ thể:
* Bước 1: Tìm hiểu đề
- Tác dụng: Giúp học sinh xác định được yêu cầu đề bài, tránh làm lạc đề. Nói
cách khác tìm hiểu đề để định hướng học sinh nắm được mình đang làm bài
văn thuộc thể loại gì, tả cái gì, đối tượng đó có những yêu cầu, giới hạn đến
đâu...
- Cách thực hiện: Hướng dẫn học sinh làm những công việc sau:
+ Đọc kĩ đề.
+ Phân tích đề.
Phân tích đề bằng cách:
- Gạch 1 gạch dưới các từ xác định thể loại bài văn.
- Gạch 2 gạch dưới từ xác định đối tượng miêu tả.
Ví dụ: Đề bài: Hãy miêu tả vẻ đẹp của một dòng sông mà em yêu thích (ấn
tượng).
Học sinh tìm hiểu và phân tích đề bài qua việc trả lời các câu hỏi:

?/ Hãy xác định thể loại làm văn?
?/ Đối tượng miêu tả là gì?
?/ Mấy cảnh? Cảnh đó được miêu tả vào thời gian nào ?
Thể loại

Đối tượng
miêu tả

Miêu tả

Dòng sông

Giới hạn miêu tả
Không gian
Mở

Thời gian
B ất kì

Đặc điểm
ấn tượng,yêu thích

Sau khi trả lời đúng các câu hỏi trên, học sinh thực hành gạch chân trực
tiếp trên đề bài.
Đề bài: Hãy miêu tả vẻ đẹp của một dòng sông mà em yêu thích (ấn
tượng).
* Bước 2: Bước quan sát và tìm ý
11



- Tầm quan trọng: Là bước quyết định thành công của bài văn, học sinh
muốn tả cảnh được chân thật, sống động phải có được sự quan sát trực tiếp đối
tượng miêu tả và phải có sự ghi chép tỉ mỉ, chi tiết những đặc điểm mình miêu
tả.
- Cách thực hiện: Giáo viên cần hướng dẫn học sinh quan sát trực tiếp đối
tượng miêu tả nhiều lần và bằng nhiều giác quan khác nhau như thị giác, thính
giác, vị giác, khứu giác, xúc giác... nhằm giúp các em nhận biết về cảnh đầy đủ
và chính xác hơn.
* Luyện kĩ năng quan sát:
Muốn quan sát có hiệu quả, quan sát phải có tính mục đích, người quan sát
phải có cách nghĩ, cách cảm của riêng mình. Quan sát để làm văn nhằm phản
ánh một đối tượng cụ thể, vừa chi tiết, vừa có tính khái quát. Qua chi tiết, người
đọc phải thấy được bản chất của sự việc. Vì vậy quan sát phải có lựa chọn. Nếu
yêu cầu các chi tiết cụ thể nhưng đó không phải là những chi tiết rời rạc, tản
mạn, mang tính chất liệt kê. Chi tiết không cần nhiều mà phải chọn lọc, lựa
chọn những điểm riêng biệt, nổi bật, gây ấn tượng,… Đó là những chi tiết lột tả
được cái thần của cảnh. Khi quan sát, cần sử dụng đồng thời nhiều giác quan và
điều quan trọng là phải quan sát bằng tấm lòng. Mục đích quan sát sẽ quy định
đối tượng và phương pháp quan sát. Để tả cảnh, cần xác định vị trí quan sát.
thời điểm quan sát, trình tự và nội dung quan sát. Quan sát phải luôn gắn với
việc tìm ý và tìm từ ngữ để diễn tả. Để giúp quan sát và tìm ý, với mỗi đề bài
cần có một hệ thống câu hỏi gợi ý nội dung quan sát và các ý cần xác lập.
Nếu học sinh không thực hiện tốt bước quan sát và tìm ý thì học sinh sẽ
không có chất liệu để làm văn từ đó học sinh sẽ không có hứng thú làm bài
hoặc sao chép bài văn từ những bài văn mẫu. Tuy nhiên, giáo viên cần hướng
dẫn học sinh cách ghi chép tỉ mỉ những điều mình quan sát tạo thành một cuốn
cẩm nang để khi miêu tả học sinh có sẵn tư liệu để làm bài.
Thông thường với đề bài nào tôi cũng yêu cầu các em ghi kết quả quan sát
theo các ý.
Mắt thấy


Tai nghe

Mũi ngửi

(Thị giác)


(Thính giác)


(Khứu giác)


Tay sờ
xúc giác) 12



(Chọn chi tiết nổi bật, nét riêng độc đáo, …có thể bỏ trống ô nếu không phù
hợp).
 Quan sát theo không gian (Vị trí)
Xa, gần, trên, dưới, trong, ngoài, trái, phải, phía trước, phía sau, …
 Hoặc quan sát theo thời gian (Thời điểm)
Sáng, trưa, chiều, tối, các mùa trong năm, thời tiết, ….
Lưu ý: Đây là bước tìm ý ban đầu, cái sườn chung nhưng không phải bài nào
cũng theo đủ các ý, các trình tự như trên mà kết hợp cho hài hòa để thể hiện
được những nét riêng mà không trùng lặp…
Ví dụ: Khi tả dòng sông quê hương, học sinh quan sát và hoàn thành sơ đồ tư
duy như sau: Từ những ghi chép quan sát trên thì chắc chắn các em sẽ làm

được những bài văn vô cùng sinh động và hấp dẫn. Tuy nhiên quan sát bằng
các giác quan chưa đủ mà giáo viên cũng cần phải hướng dẫn học sinh quan sát
theo trình tự không gian và thời gian.
Ví dụ: Cách quan sát dòng sông quê.
Xúc giác
( Tay cầm)
Nước mát rượi

Quá trình quan sát dòng sông quê
Thị giác
Khứu giác

Thính giác

( Mắt thấy)
- Sông rộng mênh

(Mũi ngửi)
-Mùi khen khét

( Tai nghe)
- Sóng vỗ rì rào

mông trải dài.

khói bếp của

- bãi ngô bên bờ

-Sông nhấp nhô…


những nhà ven

xào xạc

- Mặt trời , mặt

sông.

- Tiếng gõ lanh

trăng soi bóng

- Mùi tanh tanh

canh của bác

xuống nước

của thuyền no

thuyền chài

- Lũ trẻ bơi lội tung

bụng cá

- Tiếng hát của

tăng


ngư dân trong

- Mặt sông loang

đêm trên sông

loáng, lấp lánh
- Từ những ghi chép quan sát trên thì chắc chắn các em làm được những bài
văn tả cảnh vô cùng sinh động và hấp dẫn. Tuy nhiên quan sát bằng các giác

13


quan chưa đủ mà giáo viên cũng cần phải hướng dẫn học sinh quan sát theo
trình tự không gian và thời gian.
Ví dụ : Dòng sông được quan sát gắn theo trình tự thời gian (thân bài).
- Sông hiền hòa chảy, uốn lượn như dải lụa
Sáng:

- Sông rì rào ca hát
- Trên mặt sông thuyền chở người, chở hàng... đi lại như mắc cửi.
- Mặt trời chiều nhũng tia nắng chói chang làm dòng sông sáng

Trưa

rực lên.
- Nước cuồn cuộn xuôi dòng
- Dòng nước trong xanh soi bóng chị tre chải tóc...
- Mặt nước gợn sóng, những con sóng nhẹ nhàng xô vào hai bên


Chiều

bờ.
- Lũ trẻ tắm sông tha hồ lặn ngụp
- làn nước mát rượi ôm ấp, nô đùa cùng lũ trẻ
- Đoàn thuyền no bụng cá nối đuôi nhau cập bến...
- Trăng lên, ánh trăng tỏa xuống mặt sông

Tối

- Mặt sông như trải rộng mênh mông, bàng bạc một màu
- ánh sáng hai bên bờ tạo thành vệt sáng lung linh
- Tiếng gõ lanh canh của bác thuyền chài đánh cá trong đêm

- tiếng hát của ngư dân làm dòng sông thêm đẹp, thêm mơ mộng...
Nói tóm lại, giáo viên lưu ý cho học sinh khi quan sát một số điểm sau:
+ Khi quan sát học sinh phải nhìn ngắm cảnh trước mặt.
+ Học sinh phải quan sát nhiều lần, quan sát tỉ mỉ ở nhiều góc độ, nhiều khía
cạnh ở thời gian, địa điểm khác nhau.
+ Khi quan sát học sinh phải tìm ra những nét chính, trọng tâm của cảnh, sẵn
sàng bỏ đi những nét thừa không cần thiết (Cho nên học sinh không cần điền tất
cả các ô gợi ý trên).
+ Học sinh cần phải tìm được nét tiêu biểu, đặc sắc của cảnh. Phải bộc lộ cảm
xúc hứng thú say mê của mình trước đối tượng quan sát.
+ Học sinh phải tìm được những từ ngữ chính xác, những câu văn ngắn ngọn
để ghi lại những gì quan sát được.
14



* Bước 3. Sắp xếp ý và lập dàn ý
- Sau khi quan sát và tìm ý, trước khi lập dàn bài chi tiết, học sinh cần xác định
trình tự miêu tả để sắp xếp các ý một cách hợp lí. Trình tự miêu tả trong văn tả
cảnh có thể là trình tự không gian, có thể là trình tự thời gian tuỳ theo từng
cảnh để lựa chọn cho phù hợp.
Ví dụ: Với bài tả khu vườn vào buổi sáng, ta nên chọn trình tự không gian.
+ Trước cửa vườn  + Giữa vườn: 

+ Góc vườn bên trái:

+ Góc

vườn bên phải: + Cuối vườn:...
Tuy nhiên, ta vẫn có thể chọn trình tự thời gian:
+ Khoảng trời phía đông ửng hồng + Mặt trời bắt đầu nhô lên sau rặng tre.

+ Khi ánh nắng ban mai bắt đầu toả xuống... + Mặt trời lên cao.
Ví dụ: Với bài tả dòng sông chọn trình tự miêu tả là thời gian.
+ Sáng: + Trưa: + Chiều : + Tối:
Ta cũng có thể chọn trình tự không gian như:
+ Nhìn từ xa: + Trên mặt sông:  + Bờ bên trái: + Bờ bên phải:+
Bến sông:
 Lập dàn ý.
Do nội dung chương trình trong sách giáo khoa phân bố thì học sinh luyện
viết các đoạn văn tả cảnh rất nhiều. Những bài văn tả cảnh hoàn chỉnh chỉ yêu
cầu thực hiện trong các tiết kiểm tra. Chính vì thế, tôi đưa dàn ý chung cho một
bài văn tả cảnh, và cả dàn ý cho một đoạn văn tả cảnh để học sinh dựa vào đó
lựạ chọn cách viết cho phù hợp. Có khi tôi cho quan sát theo bảng, cũng có khi
cho học sinh quan sát và ghi theo sơ đồ tư duy.( nhóm - cá nhân)
CẤU TRÚC BÀI VIẾT VÀ CÁCH LÀM

1. Phần mở bài:
- Nội dung: Giới thiệu cảnh vật em sẽ tả.
- Cách viết: Tuỳ loại cảnh vật cụ thể của đề ra có thể giới thiệu bằng cách nêu
trực tiếp hay “dẫn dắt” thông qua lí do em được thấy cảnh vật đó.
2. Phần thân bài:
- Nội dung:

15


+ Tả bao quát cảnh vật về quy mô, cấu tạo, hình khối, kích thước, màu sắc, chất
liệu, số lượng,,,các yếu tố tham gia trong cảnh.
+ Tả chi tiết: Nêu những đặc điểm nổi bật, sự vận động, biến đổi, trạng thái của
các thành có mặt trong cảnh khi chúng tác động, phối hợ với nhau.
- Cách viết:
+ Mỗi yếu tố, thành phần trong cảnh chỉ cần tả những đặc điểm nổi bật bên
ngoài có liên quan đến cảnh.
+ tả các thành phần trong cảnh đều có sự phối hợp với nhau, tác động đến nhau
nhằm giải quyết yêu cầu trọng tâm do đề bài nêu ra.
+ Cần sử dụng những từ ngữ có hình ảnh, những từ tượng thanh, những cách
diễn đạt gợi cảm để cảnh hiện lên sống động, đẹp đẽ hơn
3. Phần kết thúc:
- Nội dung: Cảnh có quan hệ tác động hư thế nào tới em? Cảm nghĩ chung về
cảnh đó.
- Cách viết: Ngắn gọn nhưng thể hiện được những nhận thức, đánh giá của
em thông qua việc miêu tả ở trên, câu văn có âm điệu kết thúc.
Từ dàn ý chung đó các em sẽ lựa chọ cách mở bài, trình tự miêu tả hay
cách kết bài phù hợp cho bản thân.

+ Dàn ý chung cho y


êu cầu viết một

đoạn văn.
Mở đoạn
Thân đoạn
Kết đoạn

Giới thiệu cảnh sẽ tả
Tả chi tiết những đặc điểm nổi bật của cảnh
Nêu tình cảm, nhận xét đánh giá về cảnh.

16


*Sau khi có trong tay dàn ý chung cho cho bài văn, đoạn văn học sinh sẽ áp
dụng để lập dàn ý chi tiết. Dàn ý này cũng chính là cái sườn sát nhất cho học
sinh viết thành bài văn cụ thể.
Ví dụ:
Với bài văn tả dòng sông, ta có thể xây dựng 2 dàn ý chi tiết : Dàn ý lựa chọn
miêu tả theo trình tự không gian, dàn ý theo lựa chọn trình tự thời gian, có thể
chia nhóm để mỗi học sinh ghi một vài đặc điểm của cảnh theo buổi tại lớp và
về nhà tái hiện lại cùng với cách làm của cá nhân tạo thành một bài văn hoàn
chỉnh.
+ Dàn ý tả dòng sông theo trình tự thời gian(Phần thân bài), có thể như sau:
Sáng  trưa  chiều tối xuân hạ thu đông, …
+ Quan sát theo không gian (Vị trí)
Xa  gần  trên  dưới  trong  ngoài  bên trái  bên phải 
đằng sau đằng trước…
Lưu ý: Các em có thể ghép nội dung một số khoảng thời gian, không gian để

tạo thành một đoạn văn khi làm bài. Tuy nhiên, tùy vào nội dung và khả năng
mà các em có thể điều chỉnh thêm, bớt số đoạn cho phù hợp.
 Bước 4: Tạo bài văn
Đây là giai đoạn quan trọng nhất và cũng là khâu khó nhất, đòi hỏi học
sinh phải linh hoạt vận dụng nhiều kiến thức để làm. Học sinh phải biết:
+ Dùng từ, đặt câu, dựng đoạn
+ Vận dụng phong cách ngôn ngữ văn bản
+ Bám sát dàn bài để viết thành bài văn hoàn chỉnh.
Muốn học sinh làm tốt bước này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thực
hiện theo các yêu cầu sau:
a. Dùng từ.
- Dùng từ phải đảm bảo độ chính xác, đồng thời biểu hiện được tư tưởng, tình
cảm một cách rõ ràng.
- Phải tuân thủ các tiêu chuẩn chính tả
17


- Dùng từ gợi cảm, gợi tả: Thường là các từ đơn, từ ghép, từ láy, động từ
- Dùng từ giàu hình ảnh, âm thanh: Thường là các từ láy, từ tượng hình, từ
tượng thanh...
- Sử dụng từ gần nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng nghĩa, các biện pháp tu từ về từ
Ví dụ :
+ Dùng từ chính xác : Mặt trăng tròn toả ánh sáng xuống vạn vật.
+ Dựng từ có hình ảnh: Mặt trăng tròn vành vạnh toả ánh sáng vằng vặc
xuống vạn vật.
+ Dùng từ trái nghĩa : Vào mùa nước lũ, dòng sông không hiền hoà chút
nào.
+ Dùng cụm từ so sánh: Ánh trăng lồng qua kẽ lá như ngàn vạn con đom
đóm đang lập loè sáng.
b. Đặt câu.

+ Trong khi làm văn, học sinh phải viết câu văn đúng ngữ pháp nghĩa là bản
thân em đó phải xác định được đâu là chủ ngữ, đâu là vị ngữ, đâu là các vế
trong câu ghép.
+ Các em phải biết sử dụng các phép liên kết câu như: Phép lặp, phép thế,
phép nối, phép liên tưởng,..., biết sử dụng các biện pháp tu từ về câu(câu hỏi tu
từ, đảo ngữ, điệp ngữ, so sánh, nhân hoá...).
Ví dụ:
- Phép liên kết câu:
Mưa xuân lất phất bay. Cây cối thi nhau đâm chồi nảy lộc, đưa tay đón
những hạt mưa xuân. Với chúng, mưa xuân chính là liều thuốc tiên để sinh
tồn và phát triển.
- Phép lặp:
Dòng sông như dài lụa đào mềm mại. Nó cứ chảy mãi, chảy mãi để mang
phù sa màu mỡ cho đất đai.

- Biện pháp tu từ

( thường dùng)
18


- Bạn có biết cảnh đẹp mà người dân quê em rất đỗi tự

Câu hỏi tu từ

hào là cảnh gì không? Đó chính là dòng sông thái Bình
quanh năm đỏ nặng phù sa đấy!
- Mưa nhảy trên mái tôn, mưa ngã xuống mặt sân, mưa đâm

- Điệp ngữ:


ào vào bụi cây.
- Điệp câu:

- “ Đẹp quá! Đẹp quá! ” Thật không uổng phí một đêm thức

- Đảo ngữ

trắng ngắm cảnh trăng khuya.
- Phất phơ trên cành/ những nụ hoa xuân.

- So sánh

VN
CN
- Mặt trời như quả bóng tròn, đỏ hồng treo lơ lửng trên bầu

- Nhân hóa

trời
- Nàng Xuân xinh đẹp mang những sắc lộng lẫy khoác lên cỏ

cây, hoa lá.
* Học sinh phải phân biệt được câu văn kể với câu văn tả để khi viết sẽ sử
dụng các câu văn miêu tả tránh dùng câu kể khiến người đọc có cảm giác như
người viết đang kể lể dài dòng về cảnh
- Câu văn kể chỉ nêu một thông báo cho người đọc, người nghe.
- Câu văn tả là câu văn phối hợp nhiều yếu tố (Các kiểu câu, các loại câu, các
biện pháp tu từ về câu, các từ gợi tả, gợi cảm) để người đọc, người nghe có
thể cảm thấy được hình ảnh, màu sắc, âm thanh, cảm xúc ... của cảnh đó.


Ví dụ:
Câu văn kể
- Mặt trời toả nắng xuống mặt đất.

Câu văn tả
- Ông mặt trời vén màn mây trắng, toả
những tia nắng vàng óng như tơ xuống

mặt đất.
- Lúc nào sông cũng chảy để mang phù - Hết năm này đến năm khác, sông cứ cần
sa cho đất.

mẫn chảy mang phù sa bồi đắp cho đất
đai màu mỡ, cây cối xanh tốt.

c. Dựng đoạn
c1. Cách trình bày đoạn văn
19


Đoạn văn là phần văn bản nằm giữa hai chỗ xuống dòng và thường biểu đạt
một ý tương đối hoàn chỉnh. Khi làm bài thông thường học sinh chỉ để ý đến từ,
câu mà ít quan tâm đến đoạn văn.
- Cách trình bày một đoạn văn thường là diễn dịch, quy nạp, song hành, móc
xích, tổng phân hợp. Song đó không phải là phần lý thuyết giáo viên dạy cho
học sinh tiểu học mà nhiện vụ của giáo viên là giúp các em biết cách viết các
đoạn văn, biết trình bày các đoạn văn theo các cấu trúc trên

Ví dụ:

Diễn dịch

+ Câu mở đoạn nêu nhận xét đánh giá chung về đối tượng tả
trong đoạn, các câu còn lại tả chi tiết đối tượng đó.
+ Ví dụ: Ôi, bầu trời đêm mới đẹp làm sao! Mặt trăng tròn, to
như quả bóng vàng treo lơ lửng trên bầu trời mờ đục, cao thăm
thẳm. Những vì sao như ngàn vạn hạt kim cương lấp lánh tô điểm
cho chiếc áo đêm thêm lộng lẫy. Chúng mang đến vẻ đẹp bí ẩn
cho “thửa ruộng của vợ chồng lão nông ”…
+ Câu cuối đoạn nêu nhận xét, đánh giá về đối tượng được tả ở
trên. các câu còn lại tả chi tiết các đặc điểm của đối tượng.
+ Ví dụ: Mặt trăng tròn, to như quả bóng vàng treo lơ lửng trên

Quy nạp

bầu trời mờ đục, cao thăm thẳm. Những vì sao như ngàn vạn hạt
kim cương lấp lánh tô điểm cho chiếc áo đêm thêm lộng lẫy. ánh
trăng vàng đổ xuống mái nhà, lồng trong kẽ lá, chảy xuống
nhành cây, tràn ngập khắp con đường trắng xoá. Khoảng sân đầy
ắp trăng, cánh đồng trăng mênh mông. Dưới ánh trăng, dòng
sông lấp lánh như được dát bạc. Ôi, trăng đêm nay thật đẹp!
+ Tả luôn các đặc điểm của đối tượng tả, có thể mỗi đặc điểm
được tả bằng một hoặc hai câu.
+ Ví dụ: Nàng hồng xúng xính trong bộ áo đỏ thắm, nàng cúc
tưng bừng trong chiếc váy màu vàng rực rỡ…tất cả đang toả
20


hương thơm ngát. Cây cam mang trên mình những trái cam căng
Song hành


tròn, đỏ ối lúc lỉu trên cành. Mẹ con bác chuối vui vẻ dang cánh
tay to bản phần phật trong gió. Mấy hàng rau cải khiêm tốn nằm
sát mặt đất xoè những chiếc lá xanh non mơn mởn thi nhau vươn
lên đón nắng mai..
+ Câu đầu đoạn và câu cuối đoạn nêu nhận xét, đánh giá về
đối tượng tả. Các câu còn lại miêu tả chi tiết đặc điểm của
đối tượng.
+ Ví dụ : Dòng sông vào đêm trăng thật đẹp và nên thơ. Dưới
ánh trăng và lớp sương bàng bạc, dòng sông như được trải rộng

Tổng phân mênh mông. Mặt sông như được dát bạc. Ánh đèn hai bên tạo
hợp

thành những vệt sáng lấp loáng làm sông trở nên lung linh hơn.
Văng vẳng đâu đây tiếng lanh canh của thuyền đánh cá đêm,
tiếng hò của ngư dân. Lúc này, dòng sông bồng bềnh, huyền ảo
và đẹp như bức tranh thuỷ mặc.
Trong các mô hình cấu trúc một đoạn văn trên thì cấu trúc tổng- phân

-hợp là tiêu biểu nhất đối với học sinh tiểu học. Cấu trúc này tương ứng với cấu
trúc của cả bài văn.
- (Mở bài- thân bài- kết bài) và cấu trúc của đoạn văn (Câu mở đoạn- phần
trung tâm - câu kết đoạn). Mặt khác trong chương trình sách giáo khoa lớp 4,
lớp 5 có rất nhiều bài tập yêu cầu học sinh viết một đoạn văn.
- Khi viết một đoạn văn đứng độc lập thì chọn cấu trúc Tổng - phân- hợp là
hợp lí hơn cả.
c2. Liên kết đoạn văn.
Khi trình bày bài văn thành nhiều đoạn khác nhau, các em cần phải biết cách
liên kết đoạn văn. Liên kết đoạn văn có thể dùng từ ngữ, dùng câu:

+ Dùng từ để liên kết đoạn:
> Chỉ trình tự, bổ sung: Buổi sáng, buổi trưa, khi mùa xuân về, …trước hết,
cuối cùng, ngoài ra, thêm vào đó,...
> Chỉ ý nghĩa tổng kết, khái quát: Tóm lại, nói tóm lại, nhìn chung,...
21


> Chỉ ý đối lập, tương phản: Ngược lại, trái lại, nhưng, thế mà, tuy vậy,...
> Từ ngữ thay thế: Do đó, do vậy, vì thế, cho nên,...
+ Dùng câu:
> Dùng câu nối với phần trước của văn bản.
> Dùng câu nối với phần sau của văn bảm.
> Dùng câu nối phân trước và phần sau của văn bản.
c3. Quan hệ giữa đoạn văn với đoạn văn.
- Để tạo ra sự lôgic trong diễn đạt thì học sinh có thể dựa vào quan hệ không
gian, quan hệ thời gian, quan hệ đặc điểm (với dạng bài tả cảnh thì thường
dùng quan hệ (không gian, quan hệ thời gian)
Ví dụ : + Quan hệ không gian
Trước cửa vườn, nàng Hồng mang trên mình hạt sương long lanh đang
e lệ trong lá, cánh hoa đỏ thắm mịn màng, khum khum úp sát vào nhau. Nàng
Cúc cũng thay cho mình bộ váy vàng rực rỡ để chờ đón anh ong bước đến
chơi. Các nàng thi nhau tỏa hương thơm làm cả một không gian thơm mát.
Cuối vườn, mẹ con bác chuối lục đục gọi nhau dậy tập thể dục. Những
cánh tay bản giwo cao phần phật trong gió. Mấy đứa chuối con thấy chuối mẹ
tập vỗ tay reo vui làm chút sương cuối cùng rơi xuống đất.
+ Quan hệ thời gian
Buổi sáng, dòng sông như dải lụa đào vắt qua đồng bằngBắc bộ. Mặt sông
gợn lên những con sóng nhẹ. Bờ bên phải là bãi ngô xanh ngả đầu vào nhau rì
rầm trò chuyện. Bờ bên trái là bãi cát trắng trải dài mênh mông. Thuyền chở
người, chở than, thuyền đánh cá tấp nập qua lại như mắc cửi. Tiếng cười nói,

tiếng động cơ xe nhộn nhịp bế đò ngang.
Buổi trưa, khi mặt trời giận dữ ném những tia nắng chói chang xuống mặt
sông khoác chiếc áo dát vàng lấp lánh. Nước sông đỏ ngầu, sóng lao vào bờ
soàn soạt. Dòng sông hừng hực, hamwhowr chảy về xuôi.
- Ngoài ra quan hệ giữa các đoạn văn có thể là quan hệ giữa ý chính và ý diễn
giải, giữa ý cụ thể với ý tổng kết...
 Bước 5: Kiểm tra lại toàn bộ bài văn.
22


Kiểm tra lại toàn bộ bài văn là bước quan trọng nhưng thực tế đây là
bước mà nhiều giáo viên bỏ qua hoặc nếu có thực hiện thì chỉ lướt qua gọi là
có. Sau khi viết xong bài văn, sau khi nhận bài chấm của cô nhiều em không
biết mình viết không được ở chỗ nào, lỗi sai ở đâu, không hay ở đâu, có khi chỉ
nhìn xem mình được mấy điểm, hơn kém ai, ….
* Với học sinh. Đây là bước rất cần thiết, nó giúp người viết sửa chữa những
lỗi sai khi viết văn như: lỗi chính tả, cách dùng từ, đặt câu, tạo đoạn, dấu câu,
cách trình bày và đặc biệt là nhận biết được mình đã làm đúng yêu cầu đề bài
chưa và bổ sung nội dung còn thiếu.
* Cách làm: Bước kiểm tra này có thể tự học sinh kiểm tra sau khi viết xong
bài (ở nháp, ở dàn bài chi tiết hoặc bài hoàn chỉnh), khi nhận xét bài của bạn,
trong tiết trả bài. Giáo viên yêu cầu các em thực hiện nghiêm túc 3 bước:
+ Đọc đi đọc lại bài văn
+ Tìm lỗi sai hoặc chưa hay về dàn bài, dùng từ, đặt câu, dựng đoạn.
+ Sửa lại cho đúng, cho hay.
Các em có thể tự làm một mình hoặc cùng bạn kiểm tra để đặt ra câu hỏi và
tự trả lời như:
+ Mở bài, thân bài, kết bài đã đủ bố cục chưa?
+ Nên thêm hay bớt chỗ nào? thay thế từ nào cho phù hợp? Có lạc ý không?...
+ Bài văn, đoạn văn có đủ bố cục chưa?

+ Mình đã dùng nhiều từ láy, từ gợi tả chưa?
+ Những câu nào sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa?
+ Có lỗi chính tả không?
+ Câu có đủ thành phần chưa? Câu nào cần bổ sung trạng ngữ?
+ Cách trình bày đoạn đã phù hợp chưa?

* Với giáo viên: Đây là kết quả của việc giảng dạy nhiều ngày- bước hái quả,
nên chúng ta sẽ biết được ưu điểm, hạn chế trong cách dạy để điều chỉnh cho
phù hợp.

23


Tổ chức rút kinh nghiệm thực hiện tiết trả bài chính là thực hiện khâu cuối
cùng kiểm tra, đánh giá nhằm mục đích củng cố lại dạng bài, biết sửa lỗi, bổ
sung ý thiếu cho bài tới và nâng cao chất lượng viết văn.
* Cách làm: Thu bài, chấm, đọc ghi lại những lỗi cụ thể, ghi câu văn hay, ý
hay, đoạn văn giàu hình ảnh, dùng từ khéo léo … thống kê vào bài soạn tiết trả
bài, có khi đưa vào cuốn sổ tích lũy cho những năm sau.
+ Tìm cách sửa lỗi cho học sinh.
+ Cho học sinh đọc lại bài nếu cần, yêu cầu học sinh đó và các bạn tìm lỗi giúp
bạn sửa và xem ai có cách sửa hay nhất.
+ Giáo viên dùng câu hỏi gợi mở dẫn dắt để học sinh tự phát hiện ra lỗi sai và
sửa lỗi. Hướng dẫn chữa lỗi từ đơn giản đến phức tạp. Rèn cho học sinh có thói
quen kiểm tra trước khi viết hoặc viết rồi vẫn có chỗ sửa sai như vở chính tả.
Lỗi sai
Sửa lại


Cho học sinh đọc lại câu văn hay, ý hay, bài văn viết tốt để các bạn tham khảo

đồng thời để kích thích, khích lệ động viên các em theo đặc điểm tâm listaoj ấn
tượng tốt: (nhà văn triển vọng, nhà văn nhí, cây bút tài năng, …). Những học
sinh học chưa tốt thì cần quan tâm đặc biệt để các em có sự tiến bộ. Nếu tiến bộ
dù rất nhỏ cũng nên khen, khuyến khích động viên để các em tự tin, cố gắng và
không ngừng vươn lên.
Giáo viên nên kiên trì để hình thành thói quen cho học sinh thì chắc hẳn sẽ hạn
chế được những lỗi và giờ trả bài sẽ nhẹ nhàng hơn, hiệu quả hơn.
4.2. Hướng dẫn học sinh một số thủ pháp làm văn tả cảnh
4. 2.1 . Chọn đối tượng tả.
+ Thực tế, chương trình sách giáo khoa, một số đề thi, đề tự luyện văn tả
cảnh thường ra một số đề dạng mở. Tức là, học sinh có thể tuỳ chọn đối tượng
tả cụ thể trong chủ đề yêu cầu của đề bài. Tuy thế, nhiều em còn lúng túng
không biết lựa chọn tả cảnh gì. Đôi khi các em còn chọn những đối tượng cụ
thể mà không hề có cơ hội quan sát hoặc chỉ quan sát theo kiểu đã biết sơ qua.

24


+ Tác dụng : Việc lựa chọn đúng đối tượng sẽ giúp học sinh có được ngay
hứng thú ban đầu để chuẩn bị cho việc quan sát cảnh, tạo cơ sở cho việc hoàn
thành tốt bài văn, đoạn văn yêu cầu.
+ Hướng giải quyết :
> Bước1. Giáo viên cho học sinh xác định chính xác đối tượng chung trong đề
bài.
> Bước 2. Liệt kê ra một số đối tượng cụ thể thuộc yêu cầu của đề bài.
> Bước 3. Kiểm tra những hiểu biết của mình về các đối tượng cụ thể đó.
> Bước 4. Dự đoán những thuận lợi, khó khăn khi quan sát, sắp xếp ý, trình tự
tả, sử dụng ngôn từ khi miêu tả với các đối tượng được liệt kê.
> Bước 5. Dựa vào bước 3, bước 4, đối tượng nào nhiều ưu điểm hơn thì quyết
định chọn đối tượng đó.

4.2.2. Xây dựng mở bài trong bài văn tả cảnh
+ Thực tế: Trong chương trình dạy tập làm văn lớp 5 cũng có hướng dẫn học
sinh mở bài khi miêu tả cảnh như: Mở bài gián tiếp và trực tiếp. Tuy nhiên học
sinh mới hiểu phần lí thuyết mà chưa biết cách làm thế nào cho hay cho sinh
động và ở hai kiểu mở bài đó có những cách mở bài nào. Đây chính là nguyên
nhân khiến cho các em vô cùng lúng túng và mất nhiều thời gian để suy nghĩ
trong khi đã sẵn sàng viết phần thân bài.
+ Tác dụng: Mở bài là phần đầu tiên, vị trí của nó bao giờ cũng nằm ở phần
đầu bài, là phần trước nhất đến với người đọc, gây cho người đọc cảm giác, ấn
tượng về bài viết, tạo ra âm hưởng chung cho toàn bài.
- Phần này có vai trò và tầm quan trọng khá đặc biết vì một mở bài gọn gàng,
hấp dẫn sẽ tạo được hứng thú cho người đọc và báo hiệu một nội dung tốt.
+ Hướng giải quyết : Để học sinh làm tốt phần mở bài giáo viên cần cho học
sinh hiểu thế nào là mở bài trực tiếp, gián tiếp, ưu nhược điểm của từng loại.
a. Mở bài trực tiếp là giới thiệu ngay với người đọc cảnh mà mình sẽ miêu tả.
Ưu điểm: Cách trình bày nhanh gọn, tự nhiên, giản dị, dễ tiếp nhận và thích hợp
với bài viết ngắn.
Nhược điểm: Nếu mở bài không khéo sẽ gây cảm giác khô khan, ít hấp dẫn.
25


×